Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa trái quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoa trái quê hương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Chim chuyền nhành ớt

MV Bỏ Quê

TIẾNG HÁT CHIM ĐA ĐA

 Cảnh quê
Chim chuyền nhành ớt rảnh rang,
Khắp nơi chim lại kéo đàn về đây...
Thương quê nhớ cảnh đắp xây,
Sông kia rày đã lên đồng mất tăm !
Tìm chi cảnh cũ xa xăm,
Hương đồng cỏ nội âm thầm nơi đây
NM
CHIM CHUYỀN NHÀNH ỚT
Mấy hôm nay ảnh hưởng áp thấp nhiệt đới, mưa hoài. Những cơn mưa rỉ rả bó chân bó cẳng, rầu thúi ruột. Cuối tuần không cà phê, cà pháo, không karaoke hát hò, ngồi chầu hẩu ở nhà, buồn tình tôi đeo bao tay, xách dao ra sau vườn mần cỏ. Gọi vườn cho oai chứ thực sự chỉ là một khoảnh đất ngang 8, dài chỉ hơn 30 mét, trồng mấy cây ăn trái, mấy cây bông, vài dây bầu, bí, mồng tơi, đậu rồng leo trên hàng rào… Như vậy cũng đã là quá cỡ so với cái thời ở tập thể trong căn phòng 4x4 mét, vuông vức không có cửa hậu, khoảng xanh cây lá chỉ có dây trầu bà thả tua dài tong teo trước hàng hiên. Hồi mới đi coi miếng đất nầy, tôi đã bị mê hoặc bởi cảnh vật chung quanh. Giữa trung tâm thành phố, hai đầu là đại lộ phố sá san sát, xe cộ ồn ào náo nhiệt lại có một con đường đất đỏ khá yên tĩnh với những khu vườn xanh cây trái, những hiên nhà vàng rực huỳnh anh, đỏ thắm tigôn, mướt xanh những rào dâm bụt… 
Lúc  mới dọn về, xung quanh ao vũng vườn tược người ta chưa phá, chưa lấp để xây nhà, chiều mưa, ếch nhái ễnh ương kêu quyềnh quang như ở quê. Chừng con lộ đá đỏ lên cấp thành đường nhựa, người ta đua nhau mua đất cất nhà, những mảng vườn xanh bị phá dần không gian yên tĩnh ngày càng thu hẹp. Ngay khoảng đất trống sau nhà tôi cũng nhiều người dòm dèm hỏi mua xây nhà trọ. Thành phố ngày càng phát triển, người từ các vùng quê nhập cư làm ăn sinh sống ngày càng nhiều, nhất là từ khi trường cao đẳng của tỉnh được nâng cấp thành đại học, khu ký túc xá cũ bị phá bỏ để xây giảng đường, phòng lab, sinh viên túa ra tìm chỗ trọ, nhu cầu thuê nhà ngày càng tăng. Vòng vòng khu tôi ở cũng đến cả chục dãy phòng trọ. Nguồn lợi từ việc cho thuê nhà cao và ổn định hơn huê lợi từ mận, dừa, mít, nhãn, hỏi sao người ta không đốn cây, triệt phá vườn.
Điển hình cho cảnh “sông kia rày đã lên đồng” là hàng xóm đối diện bên hông nhà tôi. Ngày tôi mới dọn về khu đất vuông vức bên ấy còn là vườn dừa với cái ao nuôi cá dập duềnh bèo. Ngôi nhà nhỏ nằm khiêm tốn một góc là nơi ấm áp ra vào của vợ chồng và hai đứa con. Cô gái lớn đã vào sư phạm mẫu giáo, còn cậu trai út đang học phổ thông. Ngoài huê lợi từ dừa, người cha quay kẹo bông gòn (thứ kẹo còn được con nít gọi trại đi là bóng gòn), rang bắp đẩy xe bán ở các trường mẫu giáo, tiểu học, ngày hai lượt sáng sớm trước khi học trò vào học và buổi chiều khi phụ huynh tới đón con về. Tôi hay ngó trộm lúc ông đẩy xe đi và về. Chiếc xe đạp lỉnh kỉnh với cái thùng sắt to tướng phía sau, đính những chiếc que treo lủng lẳng những bịt bóng gòn, bắp rang trắng đỏ hồng vàng… Ấn tượng nhất là cái bàn quay số làm tôi đôi lần phải đứng lại thèm thuồng được đặt bàn tay lên cái vòng quay dùng hết sức  xoay một cái rồi chờ đợi cây kim từ từ dừng lại đúng vị trí một con số nào đó. Tôi như sống lại niềm vui hồn nhiên thơ dại với những que cà rem ngắn dài tùy vào con số trúng thưởng. Trẻ con bây giờ tan học là có phụ huynh đứng đợi rước để chở đi học thêm đâu còn thời gian la cà mà quay số để được hồi hợp chờ trúng thưởng. Nên cái bàn quay của chú bóng gòn thường nằm im lìm. Bây giờ, con nít uống sữa Vinamilk, ăn bánh snack, hiếm hoi lắm mới vòi được ba mẹ mua cho bịt bắp rang, que bóng gòn. Vì thế nhiều hôm, từ cơ quan về muộn, tôi thấy chú với xe bóng gòn còn tha thẩn trong công viên. Có hôm trời mưa, tối mịt chú mới đẩy xe về nhà, mệt nhọc, ướt át . Cô con gái chạy ào ra mở cánh cổng tre ọp ẹp, còn cậu trai gầy nhom vòng ra sau đẩy phụ người cha chiếc xe cồng kềnh còn treo đầy những bịt bắp rang bóng gòn sũng ướt. Nhưng không đầy 5 phút sau, mâm cơm nghi ngút khói đã được dọn lên, chú Bóng gòn khô ráo tinh tươm quây quần bên vợ con trong buổi cơm xum hợp duy nhất trong ngày. Tôi hay đứng nép bên bờ rào um tùm, kiểng chân nhìn trộm qua bên đó. Đúng là cái cảnh “đầu tôm nấu với ruột bầu”! Sau đó khi thím Bóng gòn dọn dẹp bữa tối, trong căn phòng khách hẹp cậu con trai lau sạch cái bàn, ôm sách vở ra học bài. Cô chị gái mang giỏ len ngồi bên cửa sổ đan móc mớ đồ gia công, kiếm thêm thu nhập. Chú thím Bóng gòn sau một ngày bươn chải vì cuộc mưu sinh, ngã người thoải mái trên ghế bố xem tin tức, chương trình giải trí trên chiếc ti vi 14 in, thứ tài sản quý nhất trong nhà.
Những hình ảnh quen thuộc ấy giờ không còn nữa. Khoảng vườn xanh mát và cái ao đầy bông súng đã bị san lấp không còn mãi mai dấu tích. Một dãy nhà trọ san sát mọc lên, người ra kẻ vào tấp nập. Ngôi nhà cấp 4 ộp ẹp của chú thím Bóng đã được tôn tạo khang trang. Có thêm thu nhập từ khu nhà trọ, chú Bóng không phải quay bóng gòn, bắp rang bươn chải đi bán ở khắp các trường học nữa. Cái thùng quay để một góc bếp, buổi trưa yên ắng không còn nghe tiếng quay rào rào, mùi đường, mùi va ni, lá dứa, bắp rang thơm bát ngát. Chiếc xe đạp với cái thùng sắt phía sau xếp xó nơi hàng hiên. Trưa chiều, thím Bóng không còn ngồi vót nang tre, chẻ que, xâu những bịch bắp rang, bóng gòn đủ màu. Tôi thích cái cảnh vợ chồng con cái họ xúm xít, rộn rịp làm kẹo. Dù chỉ là những xâu bắp, xâu kẹo bóng, nhưng họ chuẩn bị rất công phu. Để có đủ màu xanh đỏ tím vàng bắt mắt, thím Bóng hái lá dứa, lá cẩm, đào nghệ, nạo gấc, những thứ rau củ có sẵn trong vườn nhà, trộn đường cho chú Bóng cho vô thùng quây thành bông. Cái thùng làm kẹo thô sơ hình tròn có trục xoay tạo sức nóng, giữa chiếc máy có một cái lỗ để bỏ đường vào. Từ những cục đường nhỏ có màu trắng, xanh, vàng, đỏ, chú Bóng cho vào trục giữa, và bật công tắc , những hôm cúp điện thì đạp chân vào chiếc bàn đạp bên dưới. Sức nóng tỏa ra làm cho đường tan chảy ra thành những sợi tơ mỏng, những sợi tơ trắng, xanh, đỏ kết lại thành những sợi tơ đường. Thím Bóng dùng cây que quay tròn cho lớp bông gòn ấy dính vào thành từng lớp và cho vào bao nilông. cột thun kín lại. Giá mỗi cây kẹo bông gòn công phu như vậy là 5 ngàn đồng. Coi như lấy công làm lời. Chịu khó cực một chút, mấy thứ này chủ yếu bán cho học trò, xài màu hóa chất, độc hại lắm. Thím Bóng giải thích với tôi, khi tôi thấy thím ngồi tỉ mẩn vò lá cẩm, lá dứa, mài nghệ. Tôi cảm phục cái tâm của chú thím, nghèo thì nghèo, nhưng không mưu lợi lộc bằng cách hại người khác, điều mà lắm kẻ giàu sang khác vẫn làm. Tôi hay mua ủng hộ chú thím những cây kẹo gòn vàng, xanh, tím, đỏ, như để chia sẻ điều tốt lành hiếm hoi còn sót lại trong cuộc sống vốn đầy rẩy lọc lừa.
Từ ngày phá vườn, xây nhà trọ, cảnh nhà chú Bóng cũng thay đổi hẳn. Từ tiền đặt cọc thuê nhà, chú thím trả dần nợ nần, rồi dành dụm, sắm sanh đồ đạc tiện nghi. Nhà được cơi thêm căn gác, cậu con trai giờ có một không gian riêng, không phải dùng bàn ăn để học bài. Cô con gái tối tối không còn gò lưng đan len gia công nữa. Tôi mừng cho gia đình chú  thím nhưng vẫn thấy nhớ tiếc cái cảnh quây quần, tất bật mưu sinh bên nhà chú thím ngày nào.
Làn sóng nhà trọ đã xóa sổ những mảng vườn xanh ở xóm tôi. Ngó đi ngó lại, chỉ còn vuông đất nhà tôi, cái vuông đất khiêm tốn lọt thỏm giữa vạt vườn mênh mông ngày nào, là không phải rơi vào cảnh “đổi thay”. Không phải  tôi giàu có đến nỗi để từ chối cơ hội kiếm ra đồng tiền, nhưng tôi thà sống chật vật một chút còn hơn chịu mất đi khoảng không gian nhỏ nhoi yên tĩnh của mình. Cái khoảng không gian tôi thỏa thích ươm trồng đủ các loại bông, cây trái từng có trong sân vườn nhà ngoại xưa. Bông điệp vàng tươi, bông trang đỏ thắm, ngoại hay hái chưng bàn phật, bàn thông thiên, trâm ổi đủ màu, mai chiếu thủy, nguyệt quế, ngâu vàng thơm ngan ngát vuông sân, cây mãng cầu trái tròn chín vàng ươm màu nắng, nhãn lông từng chùm sai lặt lìa thân thiết của tuổi thơ…
Không biết có phải do những mảng vườn xanh đã dần mất đi, nên chim chóc đổ dồn về nhà tôi. Chúng làm tổ líu ríu trên ngọn khế, trên cành ngâu cành nhãn. Sáng sớm, cả khu vườn ngập tràn tiếng hót. Chúng sà xuống khoảng sân mỗi khi tôi rải thóc, rồi chuyền từ cành này sang nhánh nọ, rộn ràng khắp khu vườn. Chúng dạn dĩ nhảy nhót, nghịch ngợm trên luống rau cải, vạt cỏ chỗ tôi ngồi, nơi tôi đứng cắt bớt những dây leo rậm rạp trên hàng rào, tỉa bớt những dây cúc dại mọc tràn lan. Mùa mưa, mồng tơi, sâm, mướp hương,  đeo đầy trên hàng rào, ra lá, đơm  trái tưng bừng. Thím Bóng hay cắp rỗ qua xin về nấu canh. Tôi bảo thím cứ tự tiện  mà hái, mấy dây mồng tơi, dây mướp này tôi xin từ vườn nhà thím, cả cây ớt hiểm cao gần đầu người, trái sai lặt lìa kia nữa. Thím Bóng kể giống ớt chim ỉa này chú mang từ dưới quê lên, hồi còn khó khăn, chỉ cần một nồi cơm nóng, tô canh mồng tơi nấu bột ngọt, dĩa nước mắm dầm ớt hiểm cay xè, cả nhà quây quần chan húp ngon lành, giờ thịt cá ê hề mà sao không ngon miệng chút nào. Trong cái chép miệng và tiếng thở dài khe khẽ của thím, tôi nghe như có gì man mác, nuối tiếc.
Dạo này, nhà bên đó vắng hẳn tiếng nói cười. Từ khi cô con gái lấy chồng, cậu con út thi rớt đại học, xin đi xuất khẩu lao động, chỉ còn hai ông bà già. Vườn tượt không còn, quanh quẩn ra vô, hết ăn ngủ, rồi dán mắt vô màn hình ti vi, riết rồi cũng đâm chán. Rãnh rỗi, ông bà lê la qua khu nhà trọ, nhưng mấy đứa sinh viên đi học, làm thêm suốt ngày, tối về tất bật lo nấu nướng, giặt giũ, ăn uống, học bài, ở không đâu mà chuyện trò với chú thím. Thành ra hễ thấy tôi ló mặt ra sau vườn là chú thím mon men qua lấy cớ xin mớ rau, trái ớt. Sợ làm phiền, chú thím kêu đừng mở cổng sau, chỉ đứng ngoài bờ rào chuyện trò. Chú khen cây mãn cầu dai, cây nhãn lông tôi trồng mới đó mà đã lớn bộn, sắp ra trái chiến, rồi chỉ dẫn cách vô phân, tỉa bớt cành sao cho nó ra nhiều trái. Thím nói đám lá lốt, lá cẩm rậm rạp quá nên cắt bớt nhánh già rồi cặm lại cho nó ra cành nhánh mới, bụi rau thơm khoái đất ẩm, trồng nơi  càng đọng nước nó càng tươi tốt. Hôm rằm qua xin bông điệp, bông trang về cúng phật, gặp tôi bên bờ rào, thím than. Hồi đó nghèo khổ muốn đổi đời, thấy người ta kinh doanh nhà trọ có tiền thì ham, bắt chước, giờ không còn chút đất trồng rau trồng củ, lại thấy buồn. Hồi đó chộn rộn lo miếng ăn, chạy gạo từng bữa ngày giờ sao qua mau mà nó vui. Giờ nhàn rỗi, ngày chỉ lo hai bữa cơm, thấy thời gian sao mà dài thõng thượt. Rồi thím thở dài dõi mắt qua dãy nhà trọ, nơi từng có ao bông súng tím ngát, hàng dừa xanh mát tán rì rào…
Tôi đi công tác nửa tháng trở về, tháng bảy mưa dầm, vườn sau nhà cành nhánh sum xuê, dây leo, cỏ mọc um tùm. Hửng nắng, vừa xách dao ra dọn ít cỏ, đã thấy thím Bóng chạy qua. Hổm rày trông cô về, qua xin ít xả, dứa, nghệ, lá cách về trồng. Tôi nói cần xài gì chú thím cứ qua mà lấy, trồng làm gì. Thím hồ hỡi khoe. Vợ chồng con gái tui về đây ở rồi, cô. Con nhỏ vừa sinh con đầu lòng, ở Sài Gòn mần bao nhiêu đổ vô tiền thuê nhà hết nên vợ chồng tui kêu tụi nó về. Chồng nó vừa đi làm hồ, rãnh rỗi thì phụ vợ chồng tôi bán kẹo bóng. Nghề này tuy không kiếm nhiều tiền nhưng cũng đủ sống qua ngày, miễn là chịu thương chịu khó. Thằng rễ còn trẻ, có sức đi được nhiều trường ở ngoại ô, sẽ bán được nhiều. Vợ chồng tôi sẽ làm hàng đi bán lại. Trước mắt phải gầy lại mấy đám nghệ, đám dứa…, thằng rễ đã  mua mấy cái chậu, đổ đầy đất. Tôi nói trong khi chờ mấy thứ rau củ thu hoạch được chú thím cứ qua bên tối lấy về mà làm, trước đây tôi cũng xin giống từ bên vườn chú thím mà. Thím Bóng cám ơn tôi rối rít.
Qua rằm, trời đã ngơi mưa. Mùa Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau đã khép lại. Hửng nắng, tôi thấy chú Bóng mang chiếc xe đạp xếp xó bấy lâu ra cùng cậu con rễ lau chùi, thím Bóng lại ngồi vót nan ngoài hiên. Ngó qua bờ rào nhà chú thím, đã thấy mồng tơi thập thò đeo bám. Mấy chậu lá lốt lá cẩm cũng bén đất xòe cành nhánh. Mai này, khi cây lá đâm chồi nảy tượt, khoảng sân nhà chú thím, chim chóc sẽ lại quay về. Những trưa hè, tiếng máy quay rào rào lại vang lên với bát ngát mùi bắp rang, mùi đường ngào gấc, lá dứa…Lẫn trong âm thanh chộn rộn, tất bật của cuộc mưu sinh có tiếng khóc trẻ thơ cùng lời ru vỗ về: Ấu ơ, chim chuyền nhành ớt líu lo. Mãng sầu cô bạn ốm o gầy mòn… 
Thu Trang

Cúng dường,
Con thành kính cúng dường bằng tâm Phật,
Quý gì hơn một quả ớt cay,
Dâng sư với tấm lòng ngay,
Hân hoan người nhận với đầy thiện tâm !
NM
Trái ớt cúng dường
Mỗi sáng Chủ Nhật, quý Sư ở tu viện Santi Forest Monastery thường chuẩn bị rời chùa, đi xuống phố hoặc vào làng khất thực. Gọi là “đi khất thực”, nhưng thực sự nên gọi là “đi gieo duyên” với quần chúng địa phương thì đúng hơn, cư dân nơi đây, họ là những người Úc thuần túy, Phật giáo đối với họ là một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, có thể họ chỉ nghe qua cái tên "Buddhism" mà không hề biết đó là gì?
Hình thức của một vị Sư Phật Giáo người Tây Phương, theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) với cái đầu cạo nhẵn, mình khoát tấm y màu vàng đất sét, đi chân trần, không giày dép gì cả, tay ôm một cái hộp tròn cở quả bí đỏ nhỏ có nắp đậy, họ im lặng đi hàng dọc, cách khoảng đều nhau, thanh thản từng bước chân trong chánh niệm. Khi đến một ngã rẽ, quý Sư chia làm hai toán, một toán đi vào khu cư dân, còn toán kia thì ra các dãy phố, quý Sư thường đứng lại ở các góc đường, hoặc trước cửa, cổng nhà các cư dân. Dân chúng nơi đây nhìn thấy quý Sư họ rất ngạc nhiên với nhiều thắc mắc:
- “Họ là những người nào vậy nhỉ? ” - “Họ đi đâu vậy? – và để làm gì? ”
Một vài người với phản ứng rất hợp lý là không tự tìm câu trả lời mà gọi điện thoại báo với cảnh sát, để đề phòng và cũng để nhờ cảnh sát đến tìm hiểu, hỏi xem “nhóm người kỳ lạ này là ai? Và họ muốn gì? “- Một số người khác thì muốn tự mình tìm hiểu, họ mở cửa ra chào theo bản tính thân thiện và lịch sự của người Úc – “Xin chào quý vị, chúng tôi có thể giúp gì cho quý vị đây? “
Những phản ứng này là một cơ hôi để quý Sư gieo chút duyên lành với người dân bản xứ, Quý Sư đã giải thích với cảnh sát và người dân địa phương:
- “Chúng tôi là những tu sĩ Phật Giáo, tu viện của chúng tôi mới được thành lập ở khu rừng gần đây, tên của tu viện chúng tôi là “Santi Forest Monastery", hôm nay chúng tôi đi khất thực, để mong được quý vị bố thí cho chúng tôi một ít thức ăn, truyền thống tu tập của chúng tôi là đi khất thực để độ nhật và ngỏ hầu được tiếp xúc, gieo duyên với quần chúng..
Với một tư thái trang nghiêm, gương mặt điềm tĩnh, thái độ an nhiên và với một chất liệu từ bi lan tỏa được biểu hiện trong ánh mắt, trong từng lời nói nhu hòa; Từng thắc mắc của cư dân, những câu hỏi của cảnh sát đã được quý Sư giải thích, và cũng từ đấy, hình ảnh của những nhà Sư Phật Giáo người Úc đi khất thực vào mỗi sáng chủ nhật ở Bundanoon (*) dần dần trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, họ chỉ cảm thấy không còn lo lắng nữa vì đã biết quý Sư là ai, ôm bình bát đứng trước nhà, trước shop của họ để làm gì, nhưng biết là biết vậy thôi, chứ ý niệm “cúng dường” vẫn là một điều gì còn quá xa lạ, quá bỡ ngỡ trong tập quán sinh hoạt của họ. Đó là chuyện cũng tự nhiên là như vậy thôi, về phần quý Sư thì vẫn cứ an nhiên tự tại, với lộ trình đi khất thực vào mỗi sáng Chủ Nhật hằng tuần.
Qua những tháng ngày mới đến đây để thành lập một lâm tu viện theo truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, với một nét văn hóa Phật giáo hoàn toàn xa lạ với cư dân địa phương, việc đi khất thực mỗi ngày là điều không thể thực hiện được, nhưng mỗi tuần một buổi sáng Chủ Nhật đi khất thực của quý Sư đã trở nên một sinh hoạt gần gủi thân quen, hình ảnh những nhà Sư, tay ôm bình bát, chậm rãi bước đều, và những nụ cười hiền hòa tỏa sáng, những lời giải thích ân cần…, dần dần, cư dân địa phương và những vùng phụ cận, đã bắt đầu hiểu được phần nào Phật giáo là gì! – Đức Phật là ai! … - Ngôi tu viện trong khu rừng yên vắng, bên cạnh những ngày Thiền tập của quý Sư nay đã có những buổi thuyết giảng về giáo Pháp Phật Đà và giảng dạy phương pháp thực hành Thiền tập cho mọi tầng lớp dân chúng quanh đây.
* * *
Chư Sư vừa đi khất thực trở về, nhóm cư sĩ chúng tôi phụ trách buổi ngọ trai hôm nay được quý Sư giao cho những chiếc bình bát, đem vào sớt bát để sửa soạn cho việc cúng dường buổi ăn trưa. Mở những chiếc bát của quý Sư vừa đi khất thực về, chúng tôi thật sự quá đỗi nghẹn ngào, có bát thì được một cái bánh Pie, có bát nhận được một trái Táo (apple), một chùm nho tươi một nhánh cần tây, và hầu hết mọi bát đều có nhận được chút ít cúng dường của cư dân thí chủ và… dĩ nhiên là không thể nào đủ dùng cho một buổi trưa, vì thế nhóm Phật Tử chúng tôi vẫn luân phiên đảm nhận việc nấu bếp, cúng dường buổi trưa cho quý Sư.
Đang lay hoay với những chiếc bình bát vừa được trút ra để ghi nhận những phẩm vật cúng dường của buổi khất thực hôm nay, bỗng Sư trụ trì tu viện bước xuống bếp, Sư nở một nụ cười rất đổi hân hoan:
- Oh, we get a lot today! ( Ồ, hôm nay chúng ta được nhiều nhỉ! )
Thưa vâng, chúng tôi hiểu, Sư nói “hôm nay khất thực được nhiều” là so với những ngày đầu mới đi khất thực ở đây, có hôm cả đoàn khất thực trở về chùa với những chiếc bình bát trống không, có bữa chỉ mỗi bình bát của sư trụ trì có được một trái chuối, vậy mà đi khất thực về, lúc nào quý Sư cũng đều rất vui, không phải nhận được thức ăn cúng dường nhiều hay ít, mà niềm vui của quý Sư là có cơ hội để giáo hóa quần chúng, hầu mong Phật pháp sẽ lần hồi được thấm đượm vào lòng, vào nếp sống của người dân quanh đây, và đi khất thực cũng là một trong những pháp tu mà quý sư phải chuyên tâm hành tập.
Sư hướng tia nhìn vào số phẩm vật rồi hỏi chúng tôi:
- Các anh có tìm thấy trong bát của tôi hôm nay có một trái ớt chín đỏ chứ nhỉ?
- Thưa Sư, dạ có!
Sư mỉm cười hài lòng và ân cần dặn chúng tôi:
- Các anh vui lòng cắt nhỏ quả ớt ấy vào chén xì dầu trong phần cúng dường hôm nay nhé! – nhớ đừng quên nghe! –quan trọng lắm đấy, vào lúc cầu nguyện cho buổi ngọ trai, tôi sẽ kể cho toàn thể đại chúng nghe về buổi khất thực hôm nay.
Trong lúc làm nghi thức dâng cúng thức ăn cho quý Sư, chúng tôi ghi nhận, Sư trụ trì đều nhắc chư Sư đừng quên chan một tí xì dầu ớt vào bình bát của mình, Sư còn nói rõ: - “nếu quý Sư không ăn được ớt thì cũng nên chan một tí vào, không có sao đâu, nhớ là mọi người phải chan tí xì dầu ớt vào bát mình nhé, tôi sẽ giải thích với quý vị trong nghi thức cầu nguyện khi thọ trai.”
* * *
Trước khi thọ trai, bao giờ cũng có đôi lời của Sư Trụ trì, tiếp theo là bài kinh hồi hướng công đức của thí chủ và sau đó là phần thọ trai.
Sư lên tiếng chậm rãi nói:
- “Hôm nay đi khất thực, tôi đã gặp được một bà lão đang ở trong mảnh vườn nhỏ nơi sân trước của nhà bà. Bà lão trông rất già yếu nhưng vẫn tự mình đi đứng được, khi gặp tôi, bà lão đã ân cần hỏi han với những câu hỏi thông thường mà những người khác trước đây vẫn hỏi, như là: – “Ông là ai, làm gì? – tôi có thể giúp gì cho ông? …”
Sau khi nghe tôi giới thiệu và giải thích về mình là một vị Sư Phật Giáo, đang đi khất thực để xin được bố thí thức ăn và mong được có cơ hội để tiếp xúc với quần chúng …
Bà lão với một gương mặt rất thuần hậu, hướng tia nhìn về tôi với đầy nét nhân từ và cất giọng run run nói với tôi rằng: - “Thật tiếc quá, nghe Sư giải thích, tôi rất muốn cúng dường một thứ gì đó có thể ăn được, nhưng hiện tại, tôi phải chờ đến trưa thì người ta mới đem giao thức ăn cho tôi, nên chẳng biết phải làm sao đây?”
Nghe vậy tôi trả lời với bà lão : - “Không sao cả, cám ơn bà đã có tấm lòng và ý tốt như vậy là tôi đã nhận được sự cúng dường của bà rồi, xin bà đừng bận tâm, chúng tôi sẽ có dịp trở lại đây trong những lần tới.”
Tôi chưa kịp ngỏ lời chào từ biệt bà, thì bà vội lên tiếng: - “hay là Sư có thể cho phép tôi cúng dường một ít tiền và Sư dùng nó để mua thức ăn cho Sư để dùng cho trưa nay được chứ?”
Tôi bèn giải thích thêm với bà : - “Giới khất sĩ chúng tôi đi khất thực, chỉ xin được nhận thức ăn mà thôi, trong giới luật, Đức Phật không cho phép tu sĩ chúng tôi được cầm giữ tiền.”
Nghe đến đây, bà lão vụt kêu lên: - Oh, my god! what can I do for you now? ( Trời ơi, vậy tôi có thể giúp gì được cho Sư bây giờ đây? )
Tôi lên tiếng trấn an bà lão : - “Không sao cả, bà có thể cúng dường cho tôi bất cứ một thứ gì có được trong vườn hiện giờ của bà là tốt rồi.”
Nghe thế, mắt bà lão chợt vụt sáng lên và nhanh nhẩu: - “Thật sao? Sư chờ tôi một tý nhé! “
Bà lão bước dăm bảy bước về phía góc vườn và quay lại tôi với một nụ cười chơn chất và với một trái ớt chín đỏ trên tay: - “Thưa Sư, đây là thứ duy nhất tôi có thể có được ngay bây giờ để cúng dường Sư, mong Sư hoan hỷ nhận cho.”
Kể đến đây, Sư nhắm mắt lại và lặng im trong thoáng chốc, như để mang trọn tấm lòng thành cúng dường của bà lão để chia sẻ cùng với tất cả mọi người đang nghe câu chuyện về “Trái Ớt Cúng Dường” của buổi khất thực sáng hôm nay.
Bằng một giọng trầm tĩnh sâu xa, Sư kể tiếp : - “Tôi vô cùng hoan hỷ, đón nhận tấm lòng cúng dường của bà lão với trái ớt chín đỏ của bà và nói lời cảm ơn, cùng mời bà im lặng để tôi đọc tụng chúc lành cho bà và gia đình một bài kinh ngắn bằng tiếng Pali, nghe bài Kinh xong, dầu bà không hiểu gì, nhưng tôi ghi nhận được sư rung động trong tâm thức của bà qua ngấn lệ tuôn tràn trên đôi gò má nhăn nheo, tôi đã nói với bà:
- “Trái ớt này vô cùng quý báu với tôi trong buổi khất thực hôm nay. Buổi ngọ trai trưa nay, đích thân tôi sẽ thay mặt bà, để mời toàn thể chư Tăng Ni cùng thọ nhận sự cúng dường của bà và cùng đọc kinh hồi hướng công đức cho bà, trái ớt chín đỏ của bà đặt vào bình bát cúng dường là một phẩm vật được dâng cúng với cả tấm lòng, nên sự cúng dường ấy thật vô cùng to lớn với ý nghĩa của nó.”
Quay về phía chư Tăng Ni, Sư tiếp : – “Thưa quý Tăng Ni và quý Phật tử, câu chuyện vừa kể để giải thích tại sao tôi ngỏ lời mời tất cả chư vị nên chan tý xì dầu ớt vào bát của mình là để thọ nhận sự cúng dường lớn lao của tấm lòng bà lão sáng nay. Kính mong chư Tăng Ni cùng đọc kinh cầu nguyện và hồi hướng công đức cúng dường đến toàn thể các thí chủ.”
Lời kinh tiếng Pali trầm hùng vang lên trong điện Phật của một ngôi tu viện Phật Giáo trong một khu rừng núi xa xôi yên vắng với các vị Sư người Tây Phương da trắng mắt xanh, như hòa quyện cùng với cảnh vật chung quanh, tiếng tụng kinh lan tỏa, rừng cây rung nhẹ tiếng xào xạt của những cành lá đong đưa, tất cả đã ngân lên một tấu khúc thương yêu của tấm lòng từ bi tỏa ngát cùng hương rừng gió núi, nhẹ lan trong tâm thức nguyện cầu.
Gia Hiếu

 Ớt cay hay ớt ngọt
Đã đến lúc ta nói lên tất cả,
Tấm tình riêng cùng với mối tình chung...
Xin cùng nhau kết nối tiếng tơ đồng,
Ớt cay đó nhưng cũng là ớt ngọt !!
NM

Ớt ngọt

Sau một hồi hỏi thăm và đi lòng vòng cuối cùng tôi cũng tìm được nhà của Chi, một ngôi nhà nhỏ nằm cuối con hẻm. Ðứng trước cánh cổng tre cũ xiêu vẹo, tôi phóng tầm mắt nhìn vào bên trong cái sân đất nhỏ.
Còn chưa kịp lên tiếng gọi, tôi đã nhìn thấy từ trong nhà một người phụ nữ tuổi ngoài 30 bước ra với một chậu áo quần sơ sinh trên tay. Người phụ nữ đó có dáng người nhỏ nhắn, mái tóc đen dài buộc gọn lại phía sau. Chỉ nhìn qua tôi cũng đoán ra đó chính là người tôi cần gặp - Lệ Chi, người đã chen vào cuộc sống của vợ chồng tôi. Chậu quần áo kia chắc hẳn là kết quả của cuộc tình vụng trộm. Cứ nghĩ đến đó tôi đã muốn nổi điên, thậm chí ngay lúc này tôi chỉ muốn giật đổ cổng bước vào túm lấy cổ của cô ta. Phải cố gắng lắm tôi mới nén được cơn giận dữ đang sôi sục trong người. Tôi lặng yên quan sát cô ta làm việc:
- A...a...
Tôi chợt kêu lên khe khẽ khi thấy cô ta dùng đôi tay quờ quạng phía bên ngoài cái chậu để tìm chiếc áo nhỏ bị rơi ra. Chẳng lẽ cô ta... không nhìn thấy gì? Không thể nào tin được, nhưng tôi cũng hơi đắn đo và nghi ngờ khi đứng ở đây khá lâu mà cô ta lại không phát hiện ra. Cơn ghen tuông lúc nãy tự dưng biến hết, thay vào đó là sự tò mò tột độ. Tôi muốn khám phá và lột bỏ cái mặt nạ cô ta đang đeo, muốn xem cô ta hơn tôi ở điểm nào mà chồng tôi lại chết mê chết mệt đến vậy. Ði đi lại lại một lúc để nghĩ cách tiếp cận cô ta cuối cùng tôi cũng tìm ra. Tôi cất tiếng gọi cổng:
- Cô Lệ Chi ơi!
- Ai vậy?
- Tôi là Lan bạn của anh Tuấn đây.
- Vậy hả? Chị cứ đẩy cổng mà vào.
Tôi đẩy cái cánh cổng mà lẽ ra nó phải được cho vào nhóm lò từ lâu, tiến vào sân lúc này tôi mới nhìn rõ mặt Chi, một khuôn mặt khá ưa nhìn. Thảo nào chồng tôi lại không mê cho được. Nhưng tôi chợt khự lại khi nhìn vào đôi mắt ấy, một đôi mắt như bình thường, nhưng khi nhìn kỹ tôi mới cảm nhận thấy nó có chút gì đó ngây dại...
- Chị vào nhà ngồi chơi.
Tôi bước theo Chi. Nhìn cách đi thì khó ai có thể nói rằng cô ta không nhìn thấy. Cô ta đi như một người bình thường, không hề có dấu hiệu lạc bước. Tôi chợt nhận thấy cô ta không phải là một con người đơn giản. Trong căn nhà nhỏ đồ đạc không có gì mới mẻ, tất cả đều là những vật dụng cũ kỹ. Tôi đưa mắt nhìn lên chiếc giường tre, ở đó đang đặt một đứa trẻ. Trông thấy đứa bé, máu trong người tôi lại nóng lên. Nó chính là con của cô ta với chồng tôi. Tôi muốn thực hiện luôn ý đồ đã ấp ủ từ trước, nhưng đúng lúc đó cô ta lại bước tới đưa tôi cốc nước:
- Chị uống nước cho đỡ khát.
Không thể định vị được chỗ khách đang ngồi, Chi đưa tôi cốc nước mà chìa ra tận cửa. Bỗng dưng tôi thấy tội.
- Cô và cháu dạo này khỏe chứ?
- Cảm ơn chị! Tôi với cháu vẫn khỏe.
- Nhà không có ai sao, cô?
- Có, mẹ tôi vừa đi thăm đồng rồi.
- Vậy hả, anh Tuấn nhờ tôi đến đây hỏi thăm hai mẹ con cô đó.
 Bất chợt cô ta thở dài, khuôn mặt thoáng chút buồn:
- Nhờ chị chuyển lời cảm ơn của tôi tới anh ấy và chị cũng nói luôn giúp tôi là: Anh ấy không phải quan tâm tới mẹ con chúng tôi đâu, chúng tôi tự lo liệu được.
      Quá ngỡ ngàng, tôi càng tò mò:
- Cô biết tại sao Tuấn lại nhờ tôi đến đây chứ?
- Tôi biết vì tôi đã không cho anh ấy tới nên anh ấy đã nhờ chị.
Cô ta đã cấm Tuấn tới đây, tại sao lại như vậy? Chẳng phải cô ta là tình nhân của chồng tôi hay sao? Thật không thể ngờ được...
- Chị thấy kỳ lạ phải không? Chị biết không, người khiếm thị như tôi tuy đôi mắt không nhìn thấy gì nhưng thính giác lại rất tốt, tôi vừa nghe thấy chị thở dài.
Lúc này tôi thấy cô ta như một dấu hỏi chấm bí ẩn cần được khám phá. Tôi không hiểu tại sao mình lại tò mò quá đỗi như vậy, đây không phải mục đích chính của tôi. Nhưng tôi lại không thể không tìm hiểu về kẻ thù của mình được. Tôi thấy cô ta rất lạ khi tự nhiên khuôn mặt buồn một cách khó hiểu.
- Chắc anh ấy không cho chị biết mọi chuyện, đúng không?
Cô ta hỏi tôi nhưng tôi lại không biết phải trả lời như thế nào. Chi tiếp tục một nụ cười buồn:
- Chị thấy tôi trơ trẽn quá phải không? Tôi không nhìn thấy gì mà lại đi cướp chồng người khác.
- Sao cô lại nói như vậy?
- Khi tôi biết anh ấy đã có vợ thì mọi chuyện đã quá muộn rồi. Tôi lúc đó đã mang bầu. Hối hận vô cùng nhưng tôi không trách Tuấn mà chỉ trách bản thân mình. Chính tôi đã làm mọi chuyện rối beng, tôi tưởng mình đã có thể tìm được người yêu thương thực sự, nào ngờ lại là gánh nặng cho người khác.
Tại sao Chi lại nói lên nỗi lòng của mình cho một người xa lạ như tôi? Tôi càng muốn biết đầu đuôi câu chuyện này như thế nào? Chưa kịp hỏi, Chi lại lên tiếng:
- Chị đang thắc mắc tại sao tôi lại kể cho chị nghe mọi chuyện? Chính tôi cũng không biết tại sao mình lại làm như vậy. Tôi chỉ cảm thấy chị rất gần, rất thân thuộc nên tin tưởng chị.
Nghe cô ta nói vậy, chẳng hiểu sao lòng tôi như chùng xuống. 
- Tôi và anh ấy quen nhau rất tình cờ. Ban đầu tôi tưởng anh ấy chưa lập gia đình. Nhưng sau này khi biết mọi chuyện tôi thấy mình thật tồi tệ. Tôi không hy vọng gì nhiều ở Tuấn, mặc dù anh ấy rất tốt. Khi tôi mang bầu và sinh cháu, Tuấn đã chu cấp và lo lắng cho tôi nhưng tôi không hề nhận một sự trợ giúp nào. Tôi cự tuyệt tất cả bởi không muốn mình là nguyên nhân khiến gia đình anh ấy tan nát...
Thì ra Chi cũng là một nạn nhân trong câu chuyện tình cảm này mà thôi, cô ta đã dằn vặt và oán trách mình rất nhiều. Nhưng tại sao cô ta làm như vậy? Tôi không thể tin những gì cô ta nói khi cô ta và chồng tôi qua lại với nhau một thời gian mà lại không biết chồng tôi có vợ. Cả hai người thật sự làm tôi không thể chịu đựng nổi và tôi như muốn hóa điên lên. Cô ta có con còn tôi thì sao? Một người đàn bà đã không làm tròn bổn phận của mình. Tôi và chồng chung sống với nhau đã lâu mà không hề có một đứa con an ủi. Bây giờ tôi thấy mình không thể kiểm soát nổi ý nghĩ của mình, tất cả cứ quay cuồng. Cô ta không cố ý mà chỉ là vô tình, chẳng lẽ một người tinh tường như tôi lại đi so đo với một người khiếm thị hay sao?
- Tôi biết dù rằng vợ anh ấy có cao thượng đến đâu thì cũng không thể chấp nhận chồng mình có tình nhân. Chính vì vậy tôi chấp nhận nuôi con một mình mặc dù anh ấy có khuyên ngăn. Tôi thấy có lỗi với chị ấy vô cùng khi đã vô tình làm hạnh phúc gia đình họ vơi bớt. Biết nuôi con một mình là không dễ nhưng tôi còn có mẹ giúp đỡ nên phần nào cũng an tâm hơn.
Cô ta biết nghĩ đó chứ! Nhưng khi nghĩ được như vậy cũng đã muộn rồi, có thể cứu vớt được gì nữa đâu? Rồi Chi lại kể cho tôi nghe về quá khứ của mình. Ðó là một quá khứ buồn. Cô ta không nhìn thấy do một căn bệnh hiểm nghèo từ lúc mới 10 tuổi. Ban đầu cô ta tự ti và tách biệt cuộc sống của mình, không giao tiếp với mọi người. Nhưng nhờ có bạn bè và người thân giúp đỡ, cô ta đã vượt qua được tất cả. Cô ta học cách làm quen với bóng tối, sống một cuộc sống chỉ có màn đêm. Cô ta học cách đi đứng làm việc rất vất vả nhưng cuối cùng cũng thành công. Bây giờ cô ta có thể làm được mọi việc như người sáng mắt... Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất khi cô ta nói có thể chống gậy và đi ngoài đường mà không cần ai dìu dắt, cô ta có thể biết chỗ nào là ngã ba, ngã tư và có thể tránh xe cộ?  ’’Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay’’, cô ta không còn đôi mắt nhưng ông trời vẫn thương và ban cho cô ta thính giác nhạy bén. Tôi thật không ngờ cô ta lại có thể làm những việc mà từ trước tới giờ tôi chỉ thấy người sáng mắt làm. Bỗng dưng tôi thấy thương Chi, thương cả đứa nhỏ lớn lên mà không có bố quan tâm chăm sóc... Tôi thấy mủi lòng thương cảm...
 Tôi trở về nhà với mớ tâm trạng hỗn độn. Tôi biết chọn lựa một trong hai không phải dễ dàng. Tôi không biết mình phải làm thế nào nữa... Sau hôm ở nhà Chi, tôi đến thăm mẹ con cô ấy nhiều hơn. Tôi thật sự không thể nhẫn tâm nhìn cô ta chăm con một mình, lỗi ở chồng tôi chứ không phải ở Chi. Tôi bỗng thấy yêu đứa bé đến lạ kỳ. Một bé trai kháu khỉnh và giống Tuấn. Tôi cũng thấy hạnh phúc khi được ẵm trẻ con. Một cảm giác khó tả. Ðương nhiên tôi vẫn không cho Chi biết tôi chính là Ngân, vợ của Tuấn. Cô ấy cũng quen với tôi rất nhanh và tôi thấy lòng mình thật ấm. Tôi sẽ không cho cô ấy biết sự thật nếu như hôm đó không nhìn thấy Chi cho bé ăn. Khi đứa trẻ đói cứ ngớp miệng ra ăn nhưng Chi thì đưa thìa ra ngoài, nhiều thìa còn vào cả mũi khiến đứa bé sặc sụa, khóc thét. Thấy cảnh đó mà lòng tôi nhói đau. Tôi không thể để mẹ con họ như vậy. Tôi chạy đến bế lấy đứa nhỏ và cho nó ăn. Mắt tôi rớm lệ. Tôi sẽ nói ra hết mọi chuyện, tôi muốn cùng chồng tôi và Chi chăm sóc đứa nhỏ. Tôi sẽ coi cháu như con của mình. Tôi biết làm như vậy rất khó. ’’Ớt nào mà ớt chẳng cay ’’, nhưng tôi sẽ cố gắng vun trồng một hạnh phúc mới. Tôi muốn cây ớt mình trồng sẽ cho ra quả ngọt. Một trái ớt mang cái tên của cuộc sống, một trái ớt mang hạnh phúc niềm vui, một trái ớt mang tới niềm tin hòa thuận...
Tôi nghĩ đã đến lúc mình phải nói ra tất cả.
Phạm thị Huyền

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Tình cuối mùa hoa Ô Môi


Để ghi nhớ chuyến đi về Châu Đốc mùa Ô Môi có trái không hoa
Hình ảnh có liên quan

Ký Ức Miền Tây-Mùa Hoa Ô Môi

Ký ức miền quê | Nhớ mùa ô môi

Bông Ô Môi

Vòng hoa ô môi,
Anh se kết vòng ô môi đỏ thắm,
Ngỡ hoa đào xứ lạnh của mộng mơ...
Hoa miền tây chân chất vẻ ngây thơ,
Khoe sắc thắm như má hồng thiếu nữ !

Dấu trong tay cánh ô môi hé nở,
Giữ trong tim tình vừa gặp chóng phai....
Tình còn đây, rồi mai thoắt chia tay,
Ô môi đỏ có nhạt nhoà sắc thắm.?!

Mai em đi rặng ô môi buồn lắm ?!
Tuổi xuân tàn sắc hoa đỏ chẳng phai !
Vòng hoa ô môi, chút hẹn ước trúc mai...
Anh luôn nhớ  mơ một ngày đoàn tụ !!
NM

Tình cuối mùa hoa ô môi

Thả mái dầm khuấy nước, Thanh bơi xuồng dọc mé sông, lướt lên giề lục bình bập bềnh trôi, qua bờ cỏ lau bạc trắng bông, nhanh nhảu rẽ vào đầu kinh Ba Thước. Thanh nhìn lên, nắng chiều ngập ngụa tràn vào mắt, nheo nheo. Ngày sắp tàn đi, trời thâu sáng lại. Anh cuối xuống tát nước, thả xuồng trôi xuôi, rề rà nghĩ ngợi. Chợt anh dỏng tai nghe. Một giọng thân thuộc. Một điệu tràn da diết. Bìm bịp kêu. Tiếng gọi cho nước lớn căng đầy, tiếng réo cho thủy triều dâng cao vọng vang đâu đó bên lùm sậy xanh um ngút. Thanh lao chao nhớ đến hai câu hò chèo ghe mà anh từng đọc được trong sách, ở một lần rất xa. Rồi nổi hứng, anh thả giọng mình trãi trầm lên mặt nước:
“Bìm bịp kêu nước lớn em ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”
“Thằng nhỏ! Hát hò gì mà buồn! Thất tình hả bây?”. Thanh ngó lên bờ, trổ giọng trêu đùa rổn rảng, dì Sáu đang ngồi gở cá mắc lưới nở một nụ cười móm mém, nắng chiều xuyên qua vòm cây, đậu lên vai, rớt lên mái tóc bạc màu những đốm hoa trời. Anh đáp ngập ngừng:
“Hò chơi thôi mà dì!”. Và Thanh lặng im thả dầm, bơi đi, nghe nắng đọng rớt hình trên mặt nước lao xao.
* * *
Thanh đứng bên góc cù lao, thả mắt lên màu xanh nhạt bên kia bờ sông Hậu, thấy con nước đứng, thấy giề lục bình ngủ lặng. Sau lưng anh những vạt nắng rụi dần rụi dần. Thời gian kéo qua tầm mắt tiếc nuối một màn sương. Và thêm một màn sương. Phết xam xám mờ. Ngày và đêm đang giao mùa, quyến luyến níu kéo, bịn rịn giả từ. Và trời nhả một cơn gió, thổi nhè nhẹ, lượn vòng vòng, quấn quấn trên những cành cây, kéo rớt vài tàn bông ô môi, thả mềm lững trước mặt anh. Thanh bắt lấy một hoa, xòe ra trong bàn tay, hai màu đỏ hồng sáng hắt ra từ ánh mắt.
“Trời ơi! hoa anh đào”.
Nghe tiếng reo. Thanh quay lại nhìn. Một cô gái lạ không biết từ đâu đến, ngước mắt tròn xoe, ngạc nhiên đắm chìm trong màu hoa ô môi trỗ.
“Anh gì ơi?”. Nghe tiếng gọi mình, Thanh bước đến. Trong màu xám trời, anh nhận ra đôi mắt sáng chao đổ người nhìn đậu long lanh trên khuôn mặt tròn tròn, mái tóc đen dài thả trôi xuống hai vai phất phơ một mùi hương đài cát. Chắc là gái thị thành, thanh ngẫm nghĩ và tự nhiên cảm thấy bối rối. Anh muốn nói tui tên Thanh, em muốn hỏi điều gì nhưng ngượng ngùng đã rịt môi anh khép lại. Anh đứng thinh lặng kề gốc cây già cũ mà ngập ngừng.
Thấy người đằng trước lặng im. Cô gái bước tới vài bước, đến gần anh, sát lại anh, nhẹ nhàng nhìn lên khuôn mặt còn đọng đo đỏ màu nắng ẩn trong ánh sáng mờ chiều và hỏi:
“Anh gì ơi! Đây là cây gì mà hoa đẹp quá?”.
Dùng dằng dứt bỏ bối rối, Thanh trả lời gọn lỏn như mảnh ruộng khô thiếu nước, nắng hắt hiu: “Cây ô môi”.
“Vậy a! nó giống hoa đào quá! Em còn tưởng ở miền Tây mà có hoa đào nữa đó”. Nói rồi cô gái cười giòn giòn như bào chữa cho sự ngây thơ của mình. Xong, cô bước dần, đi về cuối dãy cù lao, hai tay dang ra như cánh chuồn chuồn bay, mũi hít một hơi thở dài như muốn cất một mùi hoa tụ lại trong trời chiều.
Thanh vẫn đứng chỗ gốc cây, mắt dõi nhìn theo cánh chuồn chuồn xanh nhạt xòe cánh, ướp mình vào mùi hương ô môi. Gió từ ngoài sông Hậu thổi vào, vuốt lên mái tóc, chạm vào làn da, mát rượi, kéo bay đi những nhạt nhẽo đời thôn dã. Thanh nghe thấy có chút gì tươi mới vừa rổn rản kéo đến, nhảy nhót trên tâm trạng cũ. Anh nhìn những nhánh cây cong cong, thấy màu hoa đỏ hồng, thấy đẹp đẽ rợp bông, dù trong màu xám trời, dù sau tầm mắt có màn sương bám đọng. Rồi cánh chuồn chuồn nhạt xanh vòng quay lại, đậu trước mặt anh một nụ cười:
“À! em quên giới thiệu với anh, em tên Đào. Còn anh tên gì?”
“Anh tên Thanh. Ở gần đây”. Bối rối kéo bàn tay anh vuốt tóc anh, hoan hỉ mở đôi môi mở nụ cười.
“Nhà em ở Sài Gòn. Em xuống chơi nhà ngoại. Chỗ bà Tư bánh dừa, chắc anh biết mà?”.
Nhà bà Tư, chỗ ngôi nhà lặng lẽ nằm sau hàng dâm bụt đỏ bông, dưới hàng cau um đùm trái, kế bên mảnh vườn nhỏ có những dây trầu quấn tròn, ôm cọc gổ dựng đứng, lá xòe ra xanh mướt. Thanh nhớ, vì nhiều lần đi học qua ngôi nhà đó, luôn thấy chùm bánh dừa vàng màu lá treo trước cửa, dăm lần cầm nó trên tay, mở ra, mùi nếp thơm, vị chuối ngọt lịm tràn lên đầu lưỡi. Anh rành rọt nói mình biết trong giọng điệu muốn thân thiết hơn với Đào, thèm gần gũi chút nữa với gia đình bà Tư.
“Chiều mai anh có ở đây không? Em muốn anh giới thiệu thêm cho em về chỗ này”.
Thanh gật đầu bằng lòng. Cô gái tươi cười, từ giả anh, đạp xe ra về và không quên ngoái lại xòe bàn tay thon dài vẫy vẫy. Thanh đứng, anh nhìn theo mái tóc buông một vệt thẳm dài kéo ngang hàng bưởi trắng bông, anh ngó mãi cho đến khi hai vòng xe quay tròn rẽ vào đoạn đường cong và mất hút trong màn đêm vừa thả xuống, nghe tiếng, chạm vào lòng nao nao.
* * *
Đêm nay hôm rằm. Trời tối, trăng lên. Trăng trườn nhấp nhô sau dãy sậy đầy bông, gió lùa đến kéo những chiếc chổi trời phất phơ lau quét mấy vần mây ám cho đến khi nó tan ra bằng sợi chỉ. Ánh sáng tràn xuống. Phủ lên cánh đồng cỏ lau trỗ bông màu trắng muốt, dịu êm. Đọng trên mặt sông dãy màu ánh sáng gấp khúc, hiền lành.
Đào ngồi trên ghế, dưới gốc cây ô môi già, mặt hướng ra ngoài sông Hậu, nhìn con nước vắng lặng, ngó bầu trời đêm lồng lộng một màu xanh, thấy thấp thoáng trong cung trăng tròn đọng mờ hình một chàng trai cày cuốc, cần cù. Thanh ngồi kế bên. Anh lặng im vì say một mùi hương thành thị. Anh rưng rức nghe lửa yêu thương âm ỷ cháy trong người. Thanh khẻ nhìn sang mái tóc đen dài và thầm ước có một bông ô môi nào rơi xuống, vương lại. Và anh nhẹ nhàng nhặt lên, xòe ra trước đôi mắt long lanh thân thiết mềm mại của Đào. Nàng sẽ ngã người thon mềm sang, đầu gác lên vai anh, anh vòng tay ôm lấy bờ eo nàng, hai mái đầu chụm lại nhìn về hướng trăng lên, ấm nồng trong vùng sương lạnh. Nhưng Thanh đợi mãi đợi mãi mà không có cơn gió nào ụp đến, ập vào, trăng thì đã lên cao trong tiếng chim cúm núm gọi tình khao khao.
“Anh Thanh! Tiếng chim gì hót mà buồn quá?”. Đào quay sang nhìn Thanh và hỏi.
“Tiếng cúm núm kêu”.
“Kêu gì mà kêu tha thiết quá?”. Đào đứng dậy, đi sát về phía bờ sông như muốn tìm nơi con chim cúm núm cô đơn vừa cất tiếng dài hơi gọi bạn. Thanh giải thích:
“Chim trống gọi chim mái mừ!”.
Đào trở lại, hơi cuối đầu xuống, nhìn vào mắt Thanh và nói:
“À, thì ra gọi người tình! Mà anh Thanh có người yêu chưa mà biết rõ vậy?”.
“Ờ…thì…chưa…chưa…”. Hơi bối rối nhưng anh cũng cố trấn tỉnh để trả lời. Ánh mắt lấp lánh. Ngoài trời màn sương đêm lờ lững giăng giăng trước trăng, thả mình lên lá, đọng lại, đu đưa đu đưa. Đào nhìn thấy làn sương trắng mờ mờ khói, tỏa lặng lờ trên cánh đồng cỏ lau, dưới ánh trăng mềm lãng đãng. Đẹp quá đi! Nàng níu vội bàn tay Thanh, kéo anh chạy băng đến đồng cỏ lau trỗ đầy bông, nhuộm trắng mờ dưới trăng sương. Ngượng ngùng kịp bay đi. Thanh nắm chặt bàn tay Đào, một dòng yêu hòa vào một dòng thương, hai bóng người dưới trăng, hai cánh bướm bay lướt trên vầng mây trắng mềm. Khi mệt nhoài níu nặng đôi chân, Đào kéo Thanh dừng lại giữa bốn bề cỏ lau, trăng sáng trên cao, gió thổi ngoài đồng. Thanh nghe hơi thở nồng nồng mùi hương thị thành vuốt vuốt lên da mặt, nghe bầu ngực nóng tròn chạm chạm vào người, hơi nóng chảy tràn lên giác quan, một phản xạ bản năng, anh vòng tay qua, nghe áo Đào ướt sương, nghe tóc Đào mềm dưới trăng, nghe đôi môi chạm nhau dào dạt.
* * *
Đêm nay trăng rằm đã mòn đi vì nhớ mong. Bốn hôm liền Đào không quay lại rặng ô môi già. Thanh muốn đi tìm nhưng ngại ngần không biết viện ra lý do nào đã lôi kéo mình đến vì anh không có can đảm nói thật. Buồn phiền mom mem trong đôi mắt, lên khuôn mặt, vào nụ cười. Nắng chiều rời rã. Thanh ra ngồi dưới gốc ô môi, gãy đàn, buông tiếng hát chơi vơi: “Bông ô môi, gió cuốn rụng đầy trên sông. Nhìn mây trời mênh mông, kẻ ly hương nay đã quay về. Sao trong dạ não nề? Hồi chuông buồn từ xa vắng đưa…”
“Anh hát bài gì mà buồn quá đi?”. Thanh nhìn lên thấy nụ cười quen, anh đứng dậy giải thích:
“À, bài Bông ô môi. Chuyện nói về hai người yêu nhau vì chiến tranh mà không đến được với nhau”.
“Anh ngồi xuống hát lại cho em nghe đi!”. Đào kéo Thanh ngồi xuống. Tiếng đàn giọng hát lại rãi từng âm từng nốt lên mặt sông chiều đọng bóng bông ô môi xòe cánh rớt. Hôm nay gió lớn về. Từng dãy bông sậy chới với xác xơ. Đồng cỏ lau rối beng mệt lả. Bài hát đã hết từ lâu. Đào ngã đầu vào vai Thanh. Lặng im kéo dài. Trong hơi thở khô khan, anh biết, tối nay chín giờ, Đào sẽ theo chuyến tàu Hoàng Hôn đi Cần Thơ và theo xe về lại Sài Gòn. Rồi biền biệt. Rồi thăm thẳm. Anh man mát lo lắng. Bịn rịn chập chờn. Gần đó, xa đây. Kỷ niệm này, tình yêu kia. Nó sẽ làm anh run bần bật vì nhớ, vì đau, vì mòn mỏi.
“Em tặng anh cái này”. Đào đặt vào tay anh tờ giấy. Thanh mở ra, một hình vẽ, hai người đứng cạnh nhau, chắc là Thanh và Đào, trên đầu đội hai vòng hoa ô môi kết lại.
“Em mơ một ngày cưới của chính mình với vòng hoa ô môi trên đầu”. Đào khép hờ mắt, chấp tay, đi vòng quanh gốc ô môi già và cầu nguyện cho mơ ước của mình.
“Để anh làm tặng em một vòng hoa”. Nói rồi Thanh trèo lên cây. Anh chọn những cành có bông đẹp nhất, bẻ xuống. Anh kết lại. Một vòng tròn đầy những cánh đỏ hồng, những nụ tròn chớm chớm.
Thanh run run đặt vòng hoa đỏ lên mái tóc mịn đen, một màu đỏ hồng sáng lên giữa bầu trời mờ trăng. Mấy ngọn tóc tơ phất lên bám vào mặt anh. Hai bàn tay xiết chặt rơm rớm.
Ngoài sông Hậu, tiếng kèn báo hiệu cho khách tàu sắp đến xích lại càng gần càng gần. Một ngọn đèn dầu đỏ vừa thắp, kéo treo lững lơ dưới bến sông, ra dấu có người đang đón tàu.
Trăng vừa nhô lên khỏi lùm sậy. Một quầng mây đen chắn ngan. Buồn bã trời.
- NGUYỄN VĂN HIẾN -

Bên Rặng Ô Môi - Tấn Tài

Ô môi ráng chiều !
Ô môi hồng thắm ráng chiều,
Điểm tô hoang dã yêu kiều thanh tân...
Chiều thu hoa rụng ... Bâng khuâng !!
Người đi góp nhặt lòng rưng rưng buồn !
Hoa nhường cho trái sầu tuôn,
Chờ mùa Xuân đến hết buồn Thu Đông !
Ô môi lại nở ngoài song,
Sắc hồng tô thắm má hồng dáng xưa ...
Dẫu không phận đẹp duyên ưa,
Ô môi còn đó, tình thơ ấm lòng !! 
NM
 

                                 Chiều ô môi
 Cũng không còn nhớ hôm đó là ngày tháng mấy. Tôi là trẻ con, nhớ cái gì đó chỉ thoáng qua.
Không cần biết ngày tháng, chỉ biết nó buồn vui, đẹp xấu rồi quên đến lúc mẹ dọn giường cho tôi ngủ. Sáng mai ra lại bắt đầu những trò từ hôm qua mà không hề hay biết. Cảm thức của con người, tôi nhận những điều mới toanh. Chỉ riêng chiều ô môi là tôi nhớ, vì màu hồng tím của nó đến ngộp thở khi sắc nắng về chiều.
Vườn nhà tôi có đến hai cây ô môi, một cây trồng ở chính cửa, còn cây kia lệch về phía hướng Tây. Cũng không hiểu sao lại có lối trồng cây đó. Mẹ bảo mẹ quẳng hạt ra vườn còn ba bảo ba trồng nên nó mọc. Sao cũng được, với tôi là vậy. Tôi thấy cây mọc cao và chị trèo lên đó chụp ảnh. Ba bảo đẹp, mẹ cầm chổi đót hờ chị xuống. Con gái mà chụp ảnh nơi cây lớn lại còn xõa tóc, quỷ nó ám cho... tôi cười hùi hụi, con trông chị như nữ chúa rừng xanh, xinh tươi và hoang dại! Có đàn ông ám chị không thôi.
Rồi câu nói đùa của tôi cụt đuôi mắc vào cuộc đời chị. Chị yêu một gã trai rừng bây giờ có tám đứa con. Chị sống hoang hoải giữa một miền rừng xanh thăm thẳm. Tôi ít khi lên đó vì một quãng đường xa. Lần gần đây nhất đến chỗ chị, chàng trai rừng bỏ đi rồi. Chị chặc lưỡi, đắng kiểu vỏ ô môi nơi khu vườn ngày cũ. Nhưng vỏ ô môi làm thuốc được, còn cái việc chàng trai rừng bỏ đi khiến chị hiểu ra bao cơ sự. Trong thế giới những lo toan của cả đàn ông và đàn bà, chị lặng lẽ nuôi con. Như bông ô môi lặng lẽ rơi đến thì kết trái.
Và tôi là người nhặt xác bông ô môi...
Lúc đưa chị vào bệnh viện, tôi mới thấy chị khóc dữ. Nước mắt chảy tràn ra cả một chiếc ghế xe. Hôm đó là mùng một Tết, chị nằm lặng im bên bếp lửa hồng. Chị ngoái đầu chào tôi rồi úp mặt khóc, rồi nói sau này lo cho mấy đứa cháu giùm. Tôi hiểu đây là lời nói của con người sắp ly biệt, vội hỏi chị đã uống thuốc gì rồi. Chị nói chị sắp chết.
Còn nhớ lúc đó mấy đứa cháu mà chị nhờ tôi trông nom đến 14, 15 tuổi hết rồi; có đứa hơn hai mươi tuổi. Chúng ngồi xem ti-vi rồi rúc rích cười, có lúc lại nổi đóa lên vì có đứa chuyển sang kênh khác. Chúng bảo với tôi mẹ uống thuốc lúc sáng sớm, uống nhiều. Tôi nghe đắng, nó lộn lên tận mắt và chảy xuống bờ môi. Đầu mùa xuân lá ô môi đã bắt đầu xanh thẫm, đó là lúc người ta lấy lá ô môi làm thuốc một cách tốt nhất. Mùa xuân bắt đầu cho một cuộc sống mới, tôi khóc cùng chị khi xe chạy trên một khoảng đường dài. Và chị mường tượng ra sự sống là vốn quý khi ở quanh mình còn những yêu thương.
Chị ra viện nhưng không trở về rừng. Tôi đón chị ở lại nơi khu vườn xưa yêu dấu. Chiều chiều, chị ra gốc ô môi ngồi nhìn mấy đứa con tôi chơi trò nhặt lá xếp mái nhà. Thằng nhỏ hỏi thằng lớn nhà để làm gì, chị ngồi xa xa nghĩ. Chị chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, chị cứ sống và nuôi con rồi không còn thời gian để nghĩ. Ừ, nhà để làm gì nhỉ? Rồi chị lặng nghe thằng cháu lớn nói. Nhà để che nắng, che mưa. Đây, bên này em, bên này anh, bên này là ba mẹ ôm nhau nữa... đó là tình yêu! Chị mím môi, giọt nước mắt rơi trên chiếc lá ô môi đủ để cho lòng nghe mình đang khóc. Chị bảo với tôi chị nhớ nhà, nhớ con. Lời đó như muốn xin tôi cho chị trở về nhà. Tôi chưa nói gì thì từ chỗ sân mẹ vừa nhặt lá vàng vừa nói, ở đó thêm mấy bữa nữa cho khỏi hẳn lên...
Những ngày xuân cuối cùng không ở lại, cây ô môi bây giờ đang trút lá giữa cái nắng hanh hao. Trên cành ô môi giờ đây bắt đầu lộ rõ những chùm quả đen lúng liếng từ mùa năm trước. Những bông hoa bé xinh bắt đầu quẩy lên từ cành và một sớm mai chị đứng ngẩn ngơ nhìn sắc hồng tím nở rộ trên cây. Chị cười xinh như một bông ô môi đã qua bao ngày ấp ủ. Chị bảo chị muốn chụp ảnh ở cây ô môi này.
Cây ô môi bây giờ lớn quá vòng tay người, chị không thể trèo lên cây để chụp ảnh nên mới đứng ở gốc cây. Tôi đưa máy ảnh chụp cái roạc và tấm ảnh được in ra. Dù đứng ở gốc cây nhưng chị vẫn là nữ chúa rừng xanh. Chị xinh tươi và hoang dại! Nghe câu đó chị cười mà lòng tôi nghe ấm lạ.
- Cậu nói, trước chị đẹp lắm chớ. Trước chị có chụp một bức ảnh ở cây ô môi chính cửa nhà mình. Lúc đó cây còn nhỏ nên chị trèo lên được...
- Và mẹ lấy chổi hờ chị xuống sợ ma ám phải không?
Tôi đưa bức ảnh ngày đó ra, chị cầm hai tấm ảnh so vào nhau rồi mắt như ngấn lệ. Với tôi, lúc nào chị cũng là nữ chúa rừng xanh.
Hoàng Hải Lâm

Trên Bến Ô Môi - Tam Ca 3A

Bến Ô Môi 
Bến nước xưa hoa ô môi nở rộ,
Đưa người đi và lại đón trở về....
Ôi nhớ sao màu hoa đỏ sông quê ! 
Giờ sông cũ ô môi đâu còn nữa ?!...  
NM
Bến Ô Môi

Dọc triền sông là rặng lá dừa nước ngút ngàn. Thỉnh thoảng lại gặp một khoảng trống, đó là bến nước của từng nhà. Ở mỗi bến nước đều có một cái rạp lợp lá de ra mé nước làm nơi đậu xuồng. Mọi cuộc ra đi và trở về của con người ở đây đều được bắt đầu và được chờ đợi từ một bến sông.
Nhưng có một bến nước không thuộc về một nhà nào cả. Khắp vùng gọi bến này là bến Ô Môi. Nhà tôi ở trên hay dưới bến Ô Môi bao nhiêu bến. Đó là cách người dân xứ này chỉ cho một người lạ tìm đến nhà mình.
Tôi lớn lên mà không phải thắc mắc gì về tên gọi của bến sông này, vì ngay bên con đập có cây ô môi to lớn, gốc cỡ hai vòng tay ôm của người lớn. Cây ô môi đã đứng đây tự bao giờ? Những người già nhất vùng cũng không biết được. Họ chỉ biết khi mình lớn lên là đã thấy nó đứng đó, cũng to lớn không khác mấy bây giờ.
Ô môi là một loại cây hoang còn sót lại sau khi con người đến đây khẩn hoang, vỡ đất làm ruộng, lập nên xóm làng. Thân ô môi đen đủi, cành cong queo, lá li ti như lá me mà quanh năm trông cứ còi cọc xơ xác.
Gốc, cành lại thường bị một loài sâu đục thân khoét những lỗ tròn cỡ ngón tay cái, từ trong những lỗ ấy đùn ra những lọn mùn cây nâu xám như phân bò có kèm đám bọt trắng, bọn nhỏ chúng tôi vẫn gọi là cứt sâu.
Quanh gốc cây lúc nào cũng rơi vãi đầy cứt sâu. Thế rồi một ngày nào đó bất chợt của tháng năm, ô môi bỗng bừng thức một mùa bông rực rỡ đến kỳ lạ, cơ hồ chỉ trong một đêm toàn bộ cái bộ chà xương khô cằn của vòm cây đồng loạt ra bông.
Tôi chưa thấy có một loài cây nào có cách trổ bông hết mình như ô môi. Bông ô môi đỏ thắm, chỉ lớn chừng gấp đôi bông khế, nhưng dày đặc, oằn trĩu cả thân cành. Đứng từ xa trông, vòm cây như một ngọn đuốc lớn. Và năm nào cũng thế, khi chợt thấy vòm bông đỏ rực từ bến Ô Môi, tôi thường chạy ngay về nhìn lên cây ô môi góc vườn nhà mình, thấy nó cũng đã trĩu bông từ lúc nào không rõ.
Phải gần một năm sau khi ra hoa, trái ô môi mới khô (không thấy ai gọi là ô môi chín). Đó là khi những cành cây lủng lẳng treo đầy những chiếc gậy đen lớn cỡ cổ tay trẻ con, dài đến năm, sáu tấc, lộp cộp khua vào nhau trong mỗi cơn gió. Phải nói trái ô môi khô cực kỳ hấp dẫn với bọn trẻ con chúng tôi. Cây ô môi ở bến Ô Môi là của chung trẻ con cả xóm.
Nhưng không phải đứa trẻ nào cũng bạo gan dám trèo hái ô môi. Người lớn vì sợ đám trẻ leo hái sơ ý té gãy tay chân nên nói với chúng tôi là sâu ô môi cắn chết người. Cây ô môi to lớn này thân lại có nhiều chỗ rỗng, ban đêm từ đó thường phát ra tiếng tắc kè kêu rờn rợn và cả tiếng huýt gió của rắn lục.
Thế nên, khi đến mùa ô môi khô, chỉ có vài đứa trẻ bạo dạn nhất xóm nghiễm nhiên trở thành chủ cơ hữu của nó, đứng ra ban phát niềm vui cho cả đám trẻ nhút nhát. Dùng dao đẽo dài theo hai bên thân trái ô môi khô sẽ làm lộ ra những vách ngăn xếp đều tăm tắp, trên mỗi ngăn ấy là một lớp mật nâu sánh tráng đều, khi nhai những cái vách ngăn cứng hơn cả bánh tráng chưa nướng ấy, chúng cho một vị ngọt hăng hắc và làm tím đen môi miệng.
Nhưng hấp dẫn hơn cả việc ăn là ở mỗi ngăn trong trái lại chứa một hột ô môi vàng óng ánh, hình quả xoài, lớn cỡ cái nút áo. Có thể lấy lòng một đứa bạn gái bằng cách cho chúng những hạt ô môi ấy để chúng làm "tài sản" mà chơi trò đánh búng. Trong mùa ô môi khô, trong túi áo của những đứa con gái lúc nào cũng lao xao tiếng reo khe khẽ của những hạt ô môi.
Tôi lớn lên, do chiến tranh, sớm xa quê, sớm lỡ dở chuyện học hành, không có được một cánh phượng khô ép trong sổ lưu bút. Nhưng bất chợt trước một tháng năm, trước một mùa hoa phượng, lại bừng thức trong tôi vòm trời rực đỏ từ bến Ô Môi quê nhà.
Lại hiện lên trong tôi những gương mặt bạn bè ngày thơ bé, nhất là thằng Quắn và thằng Thám, hai đứa trai bạo dạn nhất xóm, năm nào cũng là người phân phát ô môi, cả hai cùng đi bộ đội từ tuổi mười lăm và sau chiến tranh thì không về nữa. Lại nhớ những buổi chiều ngồi chờ đò từ chợ về nơi bến Ô Môi, để được mừng má về cùng những ổ bánh mì...
Năm trước tôi về quê, sững sờ trước bến Ô Môi khi không còn cây ô môi cổ thụ. Thì ra khi triển khai chương trình "ngọt hóa" vùng này, để "nắn dòng" cho con kinh được thẳng thớm, người ta đã đốn bỏ cây ô môi. Chắc rồi dài lâu cái địa danh bến Ô Môi vẫn còn. Nhưng những đứa trẻ quê của những thế hệ sau sẽ không khỏi băn khoăn vì sao nơi này lại có tên là bến Ô Môi?
(Bình Chánh, Tết Nhâm Ngọ)
NGUYỄN TRỌNG TÍN

Hoa Ô Môi Thương Nhớ

Mùa Hoa Ô Môi
Hoa Ô Môi
Hoa ô môi dịu dàng tươi sắc thắm,
Luôn nhớ hoài dẫu xa cách quê hương
Nhớ hoa như nhớ người thương,  
Vấn vương nuối tiếc đêm trường ngẩn ngơ  !!
NM
Hình ảnh có liên quan

Nhớ Mùa Hoa Ô Môi 

Vào những ngày tháng hai, tháng ba âm lịch, đi dọc theo những con đường làng Nam bộ, mọi người sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước những chùm hoa ô môi tươi thắm, sắc hồng rực rỡ, mơn man, yểu điệu như một thiếu nữ trăng tròn. Cứ mỗi lần nhìn hoa ô môi nở rộ, những ký ức tuổi thơ trong tôi như bừng sống dậy. Ôi đẹp biết bao! Có ai đó đã từng ví hoa ô môi là “hoa đào phương Nam” là sắc hoa Nam bộ, thật không ngoa chút nào! Hoa ô môi đẹp lắm, đẹp một cách quyến rũ lạ lùng, nhất là lúc vừa nắng lên, những chùm hoa khoe sắc lung linh, óng mượt như tơ. Các bạn hãy nhìn đi, hãy chiêm ngưỡng những cánh hoa hồng thắm, e ấp, tròn đầy để mà gợi nhớ gợi thương. Hoa ô môi nở kéo dài cả tháng. Những cánh hoa nở xong rồi lìa cành nhuộm đỏ các bờ kinh, bờ rạch, góc sân, góc đình. Sau hoa là mùa kết trái, mãi cho tới năm sau cây mới hiến dâng cho đời những trái ô môi dài, thon thả và đầy thi vị.
Thuở còn đi học, tôi rất thích hoa ô môi. Tuy là loài hoa dân dã, không kiêu sa đài các như trà mi, đỗ quyên, không lộng lẫy ngất ngây như phượng vĩ nhưng màu sắc lại dịu dàng, e ấp giống như một thôn nữ đằm thắm, thủy chung, ai nhìn cũng thấy say mê. Vào những ngày nắng đẹp, ong bướm vờn quanh, hoa rơi vãi đầy sân, ngập tràn mé rạch càng làm tăng thêm vẻ kiều diễm cho một vùng quê yên ả thanh bình. Hoa ô môi tuy mộc mạc, chân quê nhưng nó cũng có những cung bậc tình cảm riêng. Gặp con nước lớn, hoa theo dòng nước lững lờ trôi, miên man không bờ bến, khiến ai đó vừa nhìn thấy đã chạnh lòng nhớ câu “Ra đường nhặt cánh hoa rơi. Hai tay ôm lấy cũ người mới ta” rồi nhẹ nhàng hứng lấy một vài chiếc hoa nâng niu như tiếc nuối cho những cánh hoa tàn.
Trái ô môi dài, đen nhánh, cứng cáp nhưng khi róc hết lớp vỏ ngoài, chừa lại hai sóng lươn rồi gỡ ra từng miếng tròn tròn như đồng xu cho vào miệng nhai từ từ, một mùi hăng hăng, thắm vào cổ họng nghe ngòn ngọt, bùi bùi, thơm thơm kín đáo không giống với bất cứ một loại hương vị nào. Những buổi trưa trời hanh nắng, nhìn những trái ô môi cong cong treo lủng lẳng trên cành, nghiêng nghiêng, đong đưa theo chiều gió, ai mà chẳng nôn nao nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của một thời thơ ấu. Còn gì thú vị bằng mùa ô môi chín cũng là lúc mùa hoa đang nở rộ. Sau khi tan học bọn trẻ xúm xít bên nhau nô đùa dưới bóng cây, đứa hốt hoa rơi tung lên trời làm xác pháo, đứa trèo lên cây bẻ trái mang xuống, róc ăn, miệng tươi cười nhí nhảnh. Ăn xong, nhiều đứa lấy hột rửa sạch mang ra chơi đánh búng, đánh đũa, hoặc chơi cò cò một cách hồn nhiên thỏa thích.
Ô môi, ngoài ăn tươi, có người còn dùng ngâm rượu. Rượu thuốc ô môi có màu đỏ tươi, có thể trị được nhức mỏi, đau khớp hoặc ăn uống không tiêu. Lúc tôi còn nhỏ, ngoại tôi hay dùng lá ô môi đâm nhuyễn lấy nước để trị bệnh ngoài da. Ngoài ra, hột ô môi đem ngâm với nước sôi cho nở ra rồi nấu chung với đường, đậu xanh sẽ trở thành một món chè hấp dẫn, hương vị vừa thơm, vừa bùi. Món chè tuy đơn sơ, đạm bạc mà sao thật thấm đậm tình quê! Bây giờ muốn tìm lại chút dư vị của chè ô môi không dễ gì.
Thời gian như nước chảy qua cầu. Đã qua hơn bao mùa mùa ô môi rồi mà sao tôi vẫn nhớ vẫn thương loài cây gần gũi và thân quen này. Cây ô môi đầu làng nay không còn nữa nhưng trong lòng tôi  bao giờ cũng đầy ắp những kỷ niệm vui buồn của một thời cắp sách. Đó là những ngày nắng ấm hay mưa rơi lất phất, gió vẫn rì rào làm cho hoa rụng đầy sân. Thỉnh thoảng, từ trên không một vài cánh hoa lìa cành, nhẹ nhàng buông xuống bám vào những mái tóc ngây thơ, bạn bè cứ tha hồ tung hứng từng cánh hoa, vui chơi thoải mái. Mỗi lần về quê gặp lại ô môi đang nở hoa, lòng tôi ngây ngất như được sống lại với bao kỷ niệm của một thời. Tôi tha thiết ngắm nhìn, chụp ảnh và nâng niu từng cánh hoa, sợ rằng nay mai loài hoa dân dã mang nặng hồn quê này lùi về quá khứ xa xăm, tất cả sẽ trở thành hoài niệm.
Giờ đây, vẫn bóng dáng làng quê năm xưa, màu hoa ô môi đoan trang, hồng thắm vẫn còn đó, nhưng bạn bè thì mỗi người đi mỗi ngã khiến lòng tôi cảm thấy nao nao buồn. Không biết có ai còn nhớ cây ô môi quê mình nữa hay không? Tôi thì nhớ mãi không nguôi. Cho dù làng quê ngày càng vắng bóng cây ô môi, mùa hoa ô môi không còn rực rỡ như xưa, nhưng tim tôi vẫn giữ mãi màu hoa dung dị ấy như một kỷ vật không thể phai mờ. 
Hoài Phương
Kết quả hình ảnh cho hoa ô môi