Quạt mo xưa,
Tim đâu luồng gió mát,
Của chiếc quạt mo xưa...
Những trưa hè nóng nực,
Ầu ơ nhịp võng đưa !
Trong hanh hao ngày nắng,
Con say giấc ngủ nồng...
Quạt luôn tay phe phẩy,
Mẹ nhớ ngày sang sông !
NM
Quạt mo một thời
Trưa nay, điện lại cúp. Má lom khom tìm một vật gì đó đại loại như một tờ
giấy cứng, một cuốn vở để quạt. Loay hoay mãi bà cũng tìm ra thứ để làm vơi bớt
cái nóng miền Trung đang gay gắt. Bà lẩm bẩm: "Những lúc như thế này lại
nhớ quê, nhớ cái quạt mo ngày xưa”.
Lời
than thở của má thoáng làm tôi giật mình. Cái dáng má gầy gầy dưới ngọn đèn dầu
cầm chiếc quạt mo ru thằng em ngủ trong mái nhà tranh ngày nào lại hiện về
trong ký ức tôi.
Ngày
mẹ tôi về làm dâu, nhà ông bà nội còn nghèo lắm. Cả gia đình mười mấy miệng ăn,
ông bà cho ba má ra ở riêng. Căn nhà tranh vách đất dựng tạm bên góc vườn nhà nội
hằng ngày rộn tiếng cười của chị em tôi. Ba đã quyết chí lập vườn, trồng cau, cải
thiện kinh tế cho gia đình. Được ba mẹ chăm nom, nuôi nấng từng ngày, khi tôi biết
chạy nhảy nô đùa, vườn cau nhà tôi đã lớn lắm rồi.
Đến
mùa cau trổ bông, mẹ lại lấy bẹ cau vừa rơi xuống, tỉ mỉ dùng dao cắt mo cau
thành cái quạt. Chỉ cần má huơ qua huơ lại vài vòng trên cái lưng trần là chị
em tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ.
Tôi
lớn lên cùng với những chùm hoa cau tinh khiết tỏa hương bên khung cửa, với những
buổi trưa hè, buổi tối cố nhích thật gần để tận hưởng làn gió mát từ chiếc quạt
mo trên đôi tay gầy gò của má. Đó là chưa kể những hôm tôi hay em bị cảm sốt,
má phải thức trắng đêm quạt để giảm bớt cơn sốt.
Không
biết từ bao giờ, chiếc quạt mo đã gắn liền với đời sống của nhiều người nơi
vùng nông thôn nghèo như quê tôi. Chiếc quạt bé nhỏ được làm từ mo cau nhặt
ngoài vườn, ấy vậy mà đã xua đi bao cơn nóng hừng hực của những luồng gió tây
nam len lỏi vào từng ngõ ngách, xua bớt cái mỏi mệt của một ngày làm việc nhọc
nhằn...
Tuổi
thơ tôi với những ngày cơ cực cũng qua đi. Tốt nghiệp đại học tôi quyết tâm lập
nghiệp nơi xứ người. Lâu lâu, tranh thủ những lúc rảnh rỗi tôi chở má về thăm
quê.
Diện
mạo quê tôi thay đổi từng ngày. Những con đường được bê tông hóa, những ngôi
nhà cao tầng mọc lên. Ngang qua lối cũ, vườn cau đã không còn. Từ ngày có điện,
cơm ăn hằng ngày được nấu bằng nồi cơm điện, tủ lạnh bảo quản thức ăn, máy giặt
để giặt quần áo, quạt cũng chạy bằng điện..., người ta không còn thói quen dùng
quạt mo nữa.
Quạt
mo đã không còn giá trị, thậm chí đa số trẻ con bây giờ không biết và không còn
nghe nhắc đến quạt mo. Phải chăng có những điều đã thật sự chỉ còn là kỷ niệm một
thời?
PHAN THANH LY
Quạt mo
Ký ức ngày nhỏ của tôi luôn có hình
ảnh chiếc quạt mo của mẹ. Mẹ cầm chiếc quạt, huơ qua huơ lại, xua tan
cái nắng nóng, làm mát rượi tấm lưng trần, các con bình an chìm vào giấc
ngủ…
Trước sân nhà tôi có cây cau,
ngày nhỏ chị em tôi cứ đu dưới gốc tập trèo rồi ngã kềnh xuống đất. Cây
cau không cho bóng mát, trái cau trẻ nhỏ không ăn được, giá như trẻ con
cũng nhai trầu, chắc tôi đã có “thiện chí” hơn với cây cau. Tóm lại, mấy
chị em không vui vẻ gì chuyện nhà có cây cau trước cửa. Có lần chị Sáu
đem về cây si, chị xin mẹ trồng trước ngõ cho mát. Cau ốm nhách, không
có bóng mát để chơi - chị nhìn cây cau bĩu môi nói thế. Mẹ tôi không
chịu, mẹ bảo, đó là cây cau bà nội trồng. Bà nội không phải là người
nghiện trầu, chỉ có những ngày lễ Tết bà mới ăn trầu để vui với mấy
người bạn già. Bà trồng cau vì bà lí lẽ rằng: Không phải cứ thích cây gì
là trồng cây đấy được, phải nhớ “Trước cau sau chuối”. Cây có nhiều lá
đem trồng trước nhà sẽ cản trở gió lành. Trước nhà chỉ nên trồng cây
mảnh, dáng cao, lá sáng… như một hàng “danh dự” đẹp mắt.
Chị
em tôi lớn cùng cây cau trước ngõ, rồi tôi cũng dần hiểu những tiện ích
và vẻ đẹp của cây cau… Hoa cau đẹp, thánh thiện và linh thiêng. Hương
cau thoang thoảng, ngọt ngào… Hoa cau nở vào cuối xuân đầu hạ. Hoa cau
đặc biệt lắm, nó nở không có ngày tàn, nở mãi cho đến khi có quả. Những
ngày lễ Tết, mẹ bày hoa cau trên bàn thờ, hương thơm thanh cao, tôn
kính. Trong những ngày lễ truyền thống của người Việt ta không thể thiếu
cau khi “miếng trầu là đầu câu chuyện”, khi “tay mang trầu đầu đội lễ”
trong ngày cưới. Đám cưới lớn thì trong quả lễ đầy ắp buồng cau trăm
quả, đám cưới nhỏ, chuẩn bị đơn sơ thì cũng chẳng thể thiếu chùm cau với
lá trầu đặt vừa đĩa… Lá cau là bạn của những người nội trợ. Mẹ rửa sạch
lá, lau khô gói bánh tro, miếng bánh dẻo thơm mùi nếp, thơm thoang
thoảng mùi lá cau.
Mùa cau trổ bông, mẹ nhặt bẹ
cau mới rụng (cái nào bao bọc buồng cau thì gọi là mo cái, còn cái nào
trong không có buồng gọi là mo đực) làm quạt. Mo cái thanh mỏng, ruột
trắng phau làm quạt vừa nhẹ, vừa đẹp. Làm quạt mo cũng phải có “nghề”
chứ không phải có mo là có quạt đâu nhé. Tôi ngày nhỏ thấy bẹ cau rơi
thì lượm và bắt chước mẹ làm quạt mo nhưng rồi hí hoáy mãi vẫn không thể
“chế biến” ra cái quạt mo. Hèn chi cái quạt của thằng Bờm làm phú ông
thích thú đến vậy.
Mẹ bảo, khi mo cau còn tươi,
vừa mới lìa khỏi cây cau, đem cắt bỏ tàu lá và khéo léo gấp hai mép ở
một đầu sao cho dễ cầm còn đầu kia cắt cho đẹp để lùa gió (nhìn quạt mo
có hình tương tự chiếc lá bàng nhưng dẹt và dài hơn một chút). Sau khi
đã làm xong thì lấy đồ vật nặng để ép cho quạt phẳng. Chờ ít hôm quạt
khô là có thể phe phẩy vô tư. Ký ức ngày nhỏ của tôi luôn có hình ảnh
chiếc quạt mo của mẹ. Mẹ cầm chiếc quạt, huơ qua huơ lại, xua tan cái
nắng nóng, làm mát rượi tấm lưng trần, các con bình an chìm vào giấc
ngủ…
Ngày đó nghèo, cuộc sống đơn sơ nhưng ấm
áp. Đêm nào cũng vậy, sau khi chị em tôi làm xong bài mẹ trải chiếu ra
giữa sân, lấy chiếc quạt mo huơ phành phạch, chị em nằm ngoan ngoãn nghe
mẹ kể chuyện đời xửa đời xưa, nghe mẹ đọc ca dao… Khi chúng tôi thiêm
thiếp ngủ, mẹ sẽ ẵm từng đứa vào giường. Chị em tôi lớn lên cùng tiếng
ru hời của mẹ, cùng những lời hát cái cò cái vạc, cùng tiếng phành phạch
của chiếc quạt mo trên tay mẹ… Thời gian qua đi, con gái mẹ bây giờ
cũng đã làm mẹ…
Cuộc sống hiện đại, máy điều
hòa, quạt điện, quạt hơi nước đủ kiểu. Con tôi đi học, về nhà đọc “Thằng
Bờm có cái quạt mo…” rồi cười toe toét hỏi mẹ “ Quạt mo là gì hả mẹ?”.
Tôi sững người, đưa mắt nhìn ra sân. Trước sân nhà tôi trồng đủ cây cảnh
nhưng không có cây cau mảnh khảnh… Những kỉ niệm tuổi thơ hối hả ùa về,
tôi thấy nhớ chiếc quạt mo mẹ thường bỏ trên đầu giường mà mỗi đêm trời
nóng bức, dù chập chờn thức ngủ vẫn đưa tay tìm được. Tôi như nghe
tiếng phành phạch của chiếc quạt trên tay mẹ…
Con gái xa quê, nhớ chiếc quạt mo, nhớ nhà, nhớ mẹ…
Nguyễn Thị Bích Nhàn(Xã Sơn Giang, Sông Hinh, Phú Yên)
Cơm nắm mo cau,
Dẻo thơm cơm nắm nóng,
Con ngồi nhớ tích xưa...
Thuở bé thơ con ngủ,
Giữa trưa hè võng đưa.
Tiếng mẹ ru êm ả,
Gió xào xạc vườn sau..
Hương mo cau thoang thoảng,
Giọng mẹ thêm ngọt ngào !!
Bao giờ trở lại vườn quê,
Cho con nguôi nhớ nẻo về vườn sau...
Ôi thương chiếc quạt mo cau,
Thương cơm nắm nóng năm nào mẹ ơi !!
NM
Cơm nắm mo cau
Đêm
mùa hạ êm đềm nơi quê ngoại. Lặng ngắm ánh trăng vằng vặc chiếu qua
khung cửa sổ mở rộng đón gió trời và tận hưởng hương hoa cau dịu ngọt
trước thềm nhà thoảng đến. Trong yên tĩnh của đêm, chợt nghe âm thanh
của một tàu cau già khô giòn rơi bộp trên nền đất, những kỷ niệm gắn
liền với chiếc mo cau lại ùa về.
Mảnh vườn trước nhà ngày xưa, hầu như
gia đình nào cũng trồng một hàng cau thẳng tắp. Cây cho bóng mát, quả để
ăn trầu và những tàu cau già rụng xuống cũng không hề bỏ phí. Những tàu
lá cau buộc chụm lại, cắm vào giữa một chiếc gậy tre làm thành chổi
quét sân, quét ngõ cho bà không phải cúi mỏi lưng. Mo cau ép phẳng, cắt
thành những chiếc quạt vừa bền vừa mát. Ngày hè, dòng nước mưa từ thân
cau được hứng bằng những tàu cau chảy vào bể dường như mát ngọt và thơm
hơn như được ướp hương hoa. Đối với đám trẻ con nông thôn, mấy ai chưa
từng một lần ngồi lên chiếc xe mo cau để chúng bạn kéo đi khắp sân và
cười giòn giã khi đứa bạn tuột tay làm ngã lăn ra đất. Sướng nhất là
được ăn cơm nắm mo cau, bởi món này ngày thường đâu phải cứ thích là có
ngay. Chỉ khi nhà có người đi đâu xa hoặc vào lúc mùa vụ, công việc nhà
nông bận rộn, cánh thợ cấy, thợ cày, thợ gặt tranh thủ làm, không kịp về
ăn cơm trưa thì các bà, các mẹ mới làm cơm nắm. Người quê vốn tiết
kiệm, bản tính lại chu đáo, hay lo xa, sợ người thân khi có việc đi đâu
lỡ độ đường phải cơm hàng cháo chợ nên có mo cơm nắm vừa lành dạ, vừa
yên tâm. Dạo ấy, các dì tôi đi học trường trung cấp Sư phạm cách nhà mấy
chục cây số, lần nào về quê lên trường cũng được bà ngoại đùm dúm cho
gói cơm nắm mo cau. Từ sáng tinh mơ, bà đã trở dậy, nhóm bếp nấu cơm.
Những chiếc mo cau trắng ngà được cắt vừa vặn với lượng cơm cần nắm.
Trong lúc chờ cơm chín, bà rang chảo muối vừng, ngồi giã kỳ cạch. Cơm
vừa chín tới, mở vung nồi tỏa hương thơm nức, bà nhanh tay xới vào mo
cau, cuộn hai đầu lại rồi dùng sức vò và nén chặt cho đến khi những hạt
cơm quyện với nhau thành khối hình trụ, chắc nịch như chiếc giò thì lấy
dây chuối buộc bên ngoài cẩn thận. Các dì tôi đi cả chặng đường dài, khi
giở mo cơm nắm ra vẫn còn dẻo thơm, ấm nóng. Chỉ việc lấy dao cắt từng
khoanh mỏng, chấm với muối vừng là ấm bụng lên lớp.
Bây giờ, trên phố cũng có hàng cơm nắm
muối vừng, bán cho những người mang theo những chuyến hành hương lễ
Phật. Nhớ món quê một thuở, thỉnh thoảng ghé vào mua nắm cơm về ăn,
nhưng không còn thấy ngon như trước. Có lẽ là do cuộc sống không còn
thiếu thốn và cơm nắm thiếu hương vị dân dã của chiếc mo cau bọc ngoài,
thiếu bàn tay tảo tần, tình cảm yêu thương của bà, của mẹ./.
Lam Hồng
Gió mát từ quạt mo cau
Từ lúc
bà nội hay làm những chiếc quạt mo cau như thế thì gia đình tôi cũng
tiết kiệm được một khoản tiền không nhỏ cho việc mua quạt giấy, quạt
nan ở chợ. Quạt mo cau không chỉ nhẹ, cũng tạo được nhiều gió mát cho
người quạt, mà còn rất bền
Ngày tôi
còn nhỏ thì đâu đã có điện cũng như những cái quạt máy chạy vù vù và
mang tới làn gió mát mẻ như ngày nay, mà cuộc sống sinh hoạt của hết
thảy người nông dân trong mùa hè oi nồng và nóng bức vẫn chỉ quẩn quanh
bên những chiếc quạt đan nan, quạt giấy và quạt mo cau mà thôi. Những
loại quạt mộc mạc bình dị ấy xuất hiện trong bất cứ nhà ai và nó làm xua
tan bớt đi cái nóng hầm hập trong bữa cơm, trong lúc nghỉ ngơi, cũng
như trong giấc ngủ ban trưa, buổi đêm. Mỗi thành viên trong các gia đình
thường có một chiếc quạt, bởi không có quạt thì sẽ không thể chịu nổi
cái nóng của mùa hè có những khi lên tới gần 40 độ.
Nhà tôi có
3 anh chị em, cộng cả bố mẹ với ông bà nội là 7 thành viên, vì thế mà
trong nhà ít nhất cũng phải có 7 chiếc quạt các loại. Khi đi chợ phiên
bên làng lúc đầu mùa hè bao giờ mẹ cũng không quên mua mấy chiếc quạt
giấy và quạt đan nan về để phân phát cho mỗi người trong nhà một cái.
Những chiếc quạt giấy, quạt đan nan to bản, nhẹ và quạt mang lại nhiều
gió nhưng lại rất nhanh hỏng, nhanh rách. Có khi chỉ được dăm bữa, nửa
tháng là đã hỏng, đã rách rồi và mẹ lại phải mua loạt quạt mới. Thấy
việc mua quạt liên tục gây tốn tiền như vậy nên bà nội tôi đã nói mẹ
không phải mua quạt nữa, mà bà nhặt những cái mo cau tách bẹ từ trên cây
cau xuống để cắt làm quạt cho bền. Nhà tôi có hàng cau gần chục cây
trồng ở phía trước sân để lấy quả phục vụ cho việc cúng giỗ, tết nhất,
hay dùng khi nhà có tiệc tùng, vì thế mà mo cau rất nhiều. Hầu như tháng
nào các cây cau cũng thay một vài tàu lá và khi tàu lá vừa rụng xuống,
cái bẹ còn trắng nõn là bà tôi đã vội mang dao sắc ra cắt làm quạt. Chỉ
cần một loáng là nội đã cắt, làm được một chiếc quạt mo cau có hình bầu
dục.
Quạt mo
cau to hay nhỏ là tùy vào chiều rộng của cái bẹ tàu lá. Quạt mo nội
thường cắt xén gọn gàng dài cỡ, 30- 35cm, và rộng ngang khoảng 20-25cm.
Phía đầu quạt bao giờ nội cũng “thiết kế” nhỏ nhơn, và có chỗ tay cầm
nhô lên to bằng bàn tay để khi cầm vào đó quạt sẽ không bị mỏi tay. Còn
phía dưới của quạt nội xén to dần trở xuống để làm sao đấy khi quạt nó
đón được nhiều gió hơn. Khi cắt xén và định xong hình hài của chiếc quạt
mo cau là công đoạn rửa nước cho sạch sẽ, cũng như mang quạt ra phơi
nắng cho khô để chống nấm mốc. Công việc này tôi thường giúp bà nội, bởi
nó đơn giản, dễ chứ không khó như cắt xén tạo hình quạt mo. Quạt mo sau
khi đã rửa sạch, phơi khô dưới nắng khoảng 3-5 ngày là mang vào dung
được. Trước khi dung còn có một công đoạn cuối cùng mất thêm chút ít
thời gian, đó là mang ép dưới vật nặng khoảng vài, ba tiếng đồng hồ cho
quạt phẳng phiu ra, bởi khi phơi nắng quạt mo cau thường bị co cong tròn
lại.
Từ lúc bà
nội hay làm những chiếc quạt mo cau như thế thì gia đình tôi cũng tiết
kiệm được một khoản tiền không nhỏ cho việc mua quạt giấy, quạt nan ở
chợ. Quạt mo cau không chỉ nhẹ, cũng tạo được nhiều gió mát cho người
quạt, mà còn rất bền, thậm chí là siêu bền nếu như nó được “gia cố” thêm
đường vải viền khâu bao xung quanh lề ngoài của quạt, cùng đoạn que nẹp
làm khung xương theo chiều dài của chiếc quạt. Thường chỉ có mùa Đông
giá lạnh nhà tôi mới không sử dụng tới quạt, còn suốt cả 3 mùa với gần
chục tháng ròng rã như vậy, quạt mo “hoạt động” hết công suất vậy mà có
khi phải tới vài năm mà quạt còn không suy suyển làm sao.
May ra là
do sử dụng lâu quá, màu quạt xỉn đi, muốn thay những chiếc quạt mo mới
nên nội mới làm các chiếc khác mà thôi. Khi nội làm quạt mới, mấy anh
chị em chúng tôi hay tranh những chiếc quạt mới, và vứt bỏ những chiếc
quạt cũ. Nội thấy tiếc nên hay mang giặt lại những chiếc quạt mo cũ,
phơi khô rồi mang cho những nhà hàng xóm không có trồng cau để họ quạt,
bởi có dung thêm lâu nữa quạt vẫn còn chưa thể hỏng được. Nhà có 7 người
nhưng bao giờ nộ cũng tính làm tới hơn chục chiếc quạt mo cau bởi phòng
khi nhà có khách khứa, hay những hôm có cỗ bàn nhiều người tới thì còn
có cái mà quạt. Khi tôi còn ở tuổi mẫu giáo, mỗi lần tàu bẹ cau rơi
xuống tôi vẫn thường tranh “hàng” với nội, bởi bọn nhỏ trong xóm vẫn
thường rủ tôi chơi trò ngồi kéo mo cau quanh sân, quanh ngõ. Vì nhà
nhiều cau, lắm tàu bẹ lá nên nội thường cười tươi nhường tôi ngay, bởi
bà có thể làm quạt lúc nào cũng được mà…
Ai sinh ra
và lớn lên ở làng quê Việt mà chẳng có những kỷ niệm đầy ăm ắp về những
chiếc quạt mo cau tạo gió mát xua đi cái oi nồng nóng bức trong đêm hè.
Tôi cũng không phải là ngoại lệ, bởi những cái gì đã trở thành kỷ niệm
dù đẹp hay xấu, dù chóng vánh hay dài lâu thì sẽ khó lòng mà quên được.
Giờ đây sống ở thành phố với đủ đầy những kiểu quạt điện hiện đại, thậm
chí cả máy lạnh nhưng thi thoảng tôi vẫn hay hoài niệm nhớ về cái thời
quạt mo nghèo khó, vất vả nhưng mà đẹp và đáng nhớ…
Nguyễn thị Loan
TIẾNG NẮNG
(Bài nầy để tặng Ngọc Tú Mai )
Rắc… rắc… rắc…
Ngoại than, hồi đó nhà
tranh vách đất không sao, giờ bị “giam” trong nhà tường mới mấy tháng sao giống
mẹ con Quách Hải Thọ sống trong lò gạch mấy chục năm quá. Rồi ngoại xin cậu Út cho ngoại cái chòi lá ở ngoài
vườn trầu, vừa mát mẻ vừa dễ đi vệ sinh và nhất là để ngoại được gần gũi mấy
nọc trầu thương mến. “Sao mà được, má biểu chuyện cho thiên hạ cười con không
hà! Ai có nghĩ má ở chòi cho mát, họ sẽ cho con là giàu có rồi búng rãy mẹ già,
tiếng oan kêu mấy ông trời cho thấu?”. “Mình có hay không thì trời biết, đất
biết chứ ăn nhằm gì tiếng đời hả con? Mày mà không cho má ra vườn trầu ở mà cứ
“giam” trong nhà tường hoài thì coi như tao là thây ma chưa chôn đó!”
Cuối cùng thì ngọai
cũng toại nguyện. Một chiếc giường tre với mùng mền sạch sẽ. Một cái bàn nước
kiêm bàn ăn trầu, ăn cơm và cũng là bàn… uống thuốc. Căn chòi nhỏ như phòng
trọ, ngòai vườn trầu nhưng thông với của sổ phòng cậu mợ Út, “Để tối khuya còn
dòm ngó được má”, cậu bảo, mợ dẩu môi cao cả thước. Vách lá, nền đất nhưng cậu
nhất quyết lợp tôn vì “Mái lá nửa đêm nửa hôm có con rắn con rít nào đó rớt
xuống thì má làm sao?”. Ngọai đành nhượng bộ. Nhà mái tôn, la-phông bằng mút
xốp, cũng không đến nỗi là nóng nực.
Rắc… rắc... rắc…
Ngoại ngoài tám mươi,
đôi mắt đục lờ nhìn trân trân lên nóc nhà giọng khàn khàn:
- Na ơi… bé Na… ơi…
mưa rồi kìa con, đi che mấy nọc trầu mới trồng giùm nội…
- Nắng chang chang
muốn bể đầu chứ mưa gì hả nội?
- Vậy à? Sao nội nghe
rắc rắc như ông trời vừa nhểu hột?
- Nắng quá, mái thiếc
giãn ra nó kêu vậy đó nội ơi!
- Ừ! Thôi nội ngủ chút
à!
Mợ Út không ưa mấy nọc
trầu chằng chịt bên hông nhà. Vừa mất công tưới hao điện, tốn thời gian, vừa
phải hái trầu… cho hàng xóm. Và nhất là muỗi cũng nhiều, muỗi từ những thứ lá ủ
làm mát gốc trầu. Còn mấy cây cau nữa chứ, bán buôn gì, chỉ tổ cầu có người xin
để cho, ấy là chưa kể trái già, trái non, bẹ rụng bất kể lúc nào. “Rầm” một
phát, đang thiu thiu ngủ xem như là giật mình cái tựt. Mợ thỏ thẻ cậu bỏ vườn
trầu đi, chỗ đất đó trồng một khoảng hoa thì coi như đẹp nhà mát phố. Cậu trợn
mắt “Đốn vườn trầu hôm trước để hôm sau chôn bà già hả? Cứ để đó, tốn cơm tốn
gạo gì, chờ má chết rồi bà muốn làm gì cũng được!”. “Biết chừng nào má chết?”.
Mợ làu bàu. “Bà nói cái gì, đừng nói có luật phòng chống bao lực gia đình rồi
tôi không dám dzộng bà vì câu đó nghen!”. Mắt cậu long lên.
Ông trời thiệt lạ. Hễ
mưa là thối đất thối cát, mưa mịt mờ mắt mũi, mưa ẩm ương áo quần, mưa như sợ
rằng ngày mai ngày kia ổng sẽ hết nước để mưa vậy đó. Còn nắng cũng nắng thiệt
kỳ. Nắng như đổ sao lên mắt, như tấm gương không lồ bị nghiền vụn ra rồi rải
đều xuống mặt đường, cứ chói chang đến quờ quạng cả tay chân. Nắng bắt người ta
không nhúc nhích cũng phải thoát mồ hôi, nắng làm người ta choáng vì mất quá
nhiều muối trong cơ thể. Ngọai kêu:
- Vợ thằng Út ơi… mẹ
con bé Na à… cái quạt mo cau con giằn dưới bếp ngay chưa, cho má xin má quạt
chút…
- Con để cây quạt máy
cho má rồi mà, má ấn nút là xong!
- Má… sợ tốn điện… của
con.
- Ối trời, vậy thì má
phải sợ tốn nhiều thứ lắm đó. Cái quạt con giằn chưa ngay.
- Vậy à?
- Mà sao má cứ hay làm
khổ mình vậy không biết. Thời nào thứ ấy, bây giờ mà xài quạt mo cau mắc cười
lắm má ơi! Không khéo người ta lại cho rằng con nhím với má nữa là…
- Ai nói gì nói, mình
không có thì thôi, bận tâm làm gì hả con? Tại bây hổng biết chứ hồi thằng Út
còn ẵm ngửa nó thích ngủ bằng quạt mo cau lắm. Suốt đêm suốt ngày má quạt muốn
rụng tay vậy đó. Vậy mà nó lớn nhanh, cùi cụi như củ khoai củ từ chứ có quạt
máy quạt móc gì đâu!
- Trời ơi… chuyện xưa
nửa thế kỷ rồi mà má còn nhớ chi cho khổ con khổ cháu? Mợ Út dài giọng vẻ khổ
sở.
Tiếng rắc… rắc… vẫn
không ngừng hát trên mái tôn. Người ta “Trồng hường bẻ lá che hường, nắng che
mưa đậy cho hường tốt tươi”, còn ngọai thì “Trồng trầu bẻ lá che trầu” dù chẳng
biết trầu tốt tươi để làm gì, mỗi ngày ngọai chỉ ăn vài lá chứ mấy. Chắc là
ngọai ghiền màu xanh ngọc mát của lá trầu? Bé Na mười lăm tuổi, cái tuổi vẫn
còn ham chơi ham ăn lắm, không biết mấy phen rồi cậu Út thủ thỉ với con gái
rằng con ráng thay ba chăm sóc mấy nọc trầu cho nội, ba đi làm suốt ngày ở
ngoài mệt lắm rồi. Mẹ con không ưa chuyện trầu cau nên đừng nhờ vả làm bả bực.
Nhưng Na cứ quên hoài. Ngọai réo:
- Bé Na ơi… con đi
thắt sỏi ở đâu rồi? Nắng quá, về che mấy nọc trầu cho nội đi… nắng quá con ơi…
người ta còn chịu hổng thấu lấy chi là trầu?
- Nội này… con không
có thắt sỏi, con lớn rồi. Con đang xếp hạc giấy.
- Hạc giấy là cái gì,
có hơn mấy nọc trầu của nội không?
- Dà… để con che liền.
Nhưng mà nội ơi, nội chăm trầu chi dữ vậy, mai mốt nội chết rồi cũng bỏ thôi
hà! Bé Na nói một hơi rồi chợt bụm lấy miệng. Cậu Út không cho nó nói từ “chết”
với bà, vậy mà nó…
- Ai chết mà hổng bỏ
hả con? Tại… trầu làm bạn với nội từ hồi nội bằng con vậy đó nên không bỏ được.
- ???
- Mười lăm tuổi má của
nội đã bắt nội tập ăn trầu- Giọng bà trầm như tiếng chuông chiều- ăn trầu để
được chắc răng, con gái mười lăm tuổi hồi đó đã lớn, đã biết quán xuyến gia
đình và sắp sửa gả chồng được rồi chứ không phải tối ngày lêu
lổng như con bây giờ đâu… Đất nước giặc giã khắp nơi, ăn trầu để bôi khắp mặt
mày, mình mẩy, áo quần mình cho dở bẩn ra, càng dơ càng tốt. Đó cũng là cách
giữ mình khỏi rơi vào tay bọn ác ôn… Trầu cau không chỉ để ăn cho vui mà còn
thể hiện tình cảm xóm làng với nhau. Hôm nay nhà này hết trầu, ngày kia nhà nọ
cau chưa tới lứa… thì sang đổi cho nhau để ai cũng có mà dùng. Tàu cau khô để
bó chổi, bán thì ít, tặng nhau để thắt chặt tình láng giềng là chủ yếu. Cây cau
già làm cột làm kèo, một căn nhà trong xóm bị sập, mươi cây cau của làng giềng
gom lại, vậy là ngôi nhà lại đứng lên. Mo cau để ủ cơm ra đồng, mùi thơm còn
quyện mãi đến mấy ngày sau… mo cau để làm gàu tát nước, làm quạt mát trưa hè…
hồi đó không ai bị viêm mũi viêm họng vì quạt máy, tòan là quạt mo cau thôi con
à… Ba của mày cũng lớn lên từ gió quạt mo cau…
Giọng ngọai tôi dừng
hẳn từ lâu mà nước mắt bé Na còn chưa ngưng đọng. Chả là nó và mẹ đã dối bà,
chiếc mo cau bà “nhờ” làm quạt đã bị nó băm nhuyễn theo lệnh của mẹ. Bởi
mẹ nó không biết cắt quạt mo cau, nó thì ớn sẽ bị “rụng tay” vì cầm quạt hầu
bà. Phi tang đi, quạt máy đó, bật “cốc” là xong.
Gió nào không là gió!
Mấy ngày nay nắng
nhiều và gay gắt quá. Bà lại bệnh, chứng viêm phế quản hành hạ tuổi già. Mợ Út
cằn nhằn, tại má nằm ngoài gió, nay thốc hướng này, mai thốc hướng kia, biết
đường đâu mà che mà chắn. Phải má chịu nằm trong nhà, phòng máy lạnh bật 25 độ
đều đều, thánh cũng không bệnh được (?). Mấy nọc trầu không ai tưới, màu xanh
ngọc mát mắt giòn kháu đã biến mất, thay vào đó sắc úa dai dẳng của nắng nung.
Mẹ tôi tức tốc về với
ngọai vì e rằng bà không qua khỏi. Giọng mợ Út léo nhéo trong điện thọai:
- Chị về, về ngay đi,
từ đó tới đây nửa ngày xe chứ mấy! Hôm rằm em đi chùa cầu an cho má, thầy nói má như thế là đại thọ rồi, không
khéo sẽ không qua khỏi con trăng này.
Mẹ tôi ghé sát mặt
xuống giường ngọai, hai khuôn mặt héo xèo không nói được lời nào. Rồi mẹ quay
ra hỏi mợ Út:
- Mấy cái quạt mo cau
má nhờ mợ giằn ở đâu rồi?
- Em… em…
- Ở đâu? Giọng mẹ chợt
giận dữ.
- Em… bỏ rồi chị Hai!
Vì em… không biết cắt sao cho thành cái quạt!
- Trời ơi… Má tui mà
chết! Tui “thưa” mợ ở tù cho mợ coi!
- Sao… sao… em lại… ở
tù hả chị Hai? Giọng mợ Út bất chợt lo sợ.
- Bà già viêm phế quản mợ không biết sao mà bắt quạt máy suốt ngày đêm? Thằng
Út đâu, leo lên giựt mất tàu cau xuống coi!
Nhanh như chớp, hai
chiếc mo cau đã được đem xuống, bàn tay như múa của mẹ tôi chưa đầy mười phút
đã biến chúng thành hai chiếc quạt của Bờm.
- Làm cách nào nhanh
nhất để nó thẳng ra! Mẹ tôi ra lệnh và trao hai chiếc quạt về phía mợ.
Nắng vẫn rơi tanh tách
trên mái tôn như không hề biết ruột gan mẹ tôi đang nóng như hơ lửa. Mợ Út mang
quạt ra, hơi còng queo một chút nhưng mợ bảo chắc mẹ tôi rất mong và mợ đã lấy
bàn ủi điện mà ủi mo cau đấy!
Mẹ tôi dưới chân, cậu
Út trên đầu, hai chiếc quạt khe khẽ đưa gió đến.
Đôi mắt già nua đục lờ
từ từ mở ra. Cậu Út reo như trẻ con:
- Má, má tỉnh rồi chị
Hai ơi!
- Má, con đây, má khỏe
không?
- Khỏe… con gái…
- Má ráng tịnh dưỡng
nghe má…
- Cái quạt mo… vợ
thằng Út… ngay rồi à? Ngọai chỉ tay về phía mợ
- Dạ…- mợ nhỏ giọng
hối lỗi
- Thôi… má nghỉ…
Nắng vẫn rơi rắc… rắc…
trên mái thiếc. Từng milimet tôn giãn ra để khi mưa về là co lại còn con tim
của mẹ và cậu tôi mãi mãi ướt nhòe vì cánh tay ngọai đã thỏng xuống xa rời cõi
trần gian.
Nắng hồn nhiên hay
nắng vô tình chỉ có con người là là hữu ý...
Đào Phạm Thuỳ Trang (Tây Ninh)