Tân Cổ Điệu Buồn Phương Nam Phi Nhung,
Văn hoá muôn đời vẫn nhớ thôi,
Dầu cho nơi góc biển chân trời.....
Luôn nhớ, luôn thương về nguồn cội !
Như ở quê mình đâu xa xôi......!?
Dầu cho nơi góc biển chân trời.....
Luôn nhớ, luôn thương về nguồn cội !
Như ở quê mình đâu xa xôi......!?
NM
TÌM HIỂU VỀ VĂN HÓA MIỀN TÂY
Theo lời yêu cầu của bạn hữu ở Âu châu và Bắc Mỹ, bài sưu tầm này phỏng ra từ nhiều tài liệu và được viết bằng 3 thứ tiếng hầu mong thế hệ con em chúng ta hiểu được phần nào văn hóa và nguồn gốc miền Tây của cha mẹ chúng…Người viết xin đặc biệt cám ơn các bạn hữu – Trần Thu Hương (Texas), Hùynh Ngọc Minh (Oregon), Cathy Phan (California), Nguyễn Thị Mỹ Hường (France), G.S Nguyễn Chí Thân (Sunderland University Thủ Đức) và Nguyễn Tuyết (Belgium) đã góp ý kiến và sửa chữa để cho bài viết được hòan chỉnh và chính xác hơn…
Phần 1 – Lịch sử và địa danh
Quê hương tôi có con sông dài xinh xắn,
Nước tuôn trên đồng ruộng vắng,
Lúa thơm cho đủ hai mùa,
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng đê mê…
Tình hoài hương - Phạm Duy
Lời phi lộ:
Từ thuở bé tôi đam mê mấy bản nhạc đầy ắp tình quê hương – làng tôi,
tình hoài hương, Việt Nam quê hương tôi, hương đất, v.v.v..... Những bài
hát ấy vẫn nằm mãi trong tiềm thức của tuổi thơ cho đến ngày nay...Tôi
có một hoài bão rằng là một ngày nào đó sẽ tìm hiểu về nguồn cội quê
hương xứ sở thân thương của mình… xứ miền Tây Nam bộ …
Quê hương là nơi mà mình sinh ra đời và lớn lên ở đó, sống hầu hết thời
kỳ thơ ấu với rất nhiều kỷ niệm. Ông cha ta thời xa xưa đều sống bằng
nghề nông và thường định cư ở một nơi, đời nọ sang đời kia. Vì vậy nên
khi nói đến quê hương là người ta liên tưởng đến một làng quê với luỹ
tre xanh, với đồng lúa vàng cò bay thẳng cánh...
Cho dù quê hương tôi còn nhiều điều chưa được tốt đẹp và hoàn hảo cho
lắm, đồng bào tôi vẫn còn nghèo khổ lắm nhưng nơi đó vẫn là nơi mà tôi
đã được dạy cho biết đó là quê hương tôi.
Quê
hương không phải là cái gì lớn lao hơn những gì còn mãi trong đời người
như tình yêu, nỗi nhớ. Quê hương vẫn là nơi mà chúng ta vẫn nhớ, vẫn
thương, vẫn mong muốn cho quê mình ngày càng khấm khá hơn, vẫn muốn trở
về sống trong tình làng nghĩa xóm tràn đầy yêu thương, vui vẻ…Không phải
đến bây giờ sau bao nhiêu năm sống xa quê hương, đất nước, con người
mới thấy nhớ về quê hương xưa cũ. Cho dù ngày nay những người bỏ xứ ra
đi đã có nhiều người làm nên sự nghiệp huy hoàng, nắm những vai trò cao
cấp trong xã hội mới. Thế nhưng lòng hoài hương vẫn theo đuổi trong tâm
tư trên bước đường lữ thứ.
Dải
đất hình chữ S mà Chế Lan Viên ví như "một con tàu xẻ sóng", đã chịu
đựng quá nhiều đau thương bất hạnh trong suốt hàng thế kỷ chiến tranh.
Dải đất hình chữ S kia đối với tôi là hình ảnh của một giọt nước mắt
chảy dài trong đêm tối, là bóng dáng co ro của mẹ Việt Nam đang ngóng
trông những đứa con còn mãi miệt mài mưu sinh nơi đất khách quê
người...xa tít bên kia bờ đại dương…
Tình
quê hương đã nằm trong máu huyết của mỗi chúng ta. Miền Tây là nơi đã
nuôi dưỡng và bao bọc chúng ta, nơi có những cánh đồng lúa vàng, thửa
ruộng xanh rì, là nơi có dòng sông tắm mát của tuổi thơ với những cành
cây nặng trĩu trái ngọt và bà con dòng họ làm ta mãi thổn thức mỗi khi
nhớ về…Trải qua lịch sử mấy ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam, chưa
bao giờ người dân Việt phải ra đi nhiều và tha hương lưu lạc khắp nơi
như vậy. Chúng ta tưởng đã vĩnh viễn cách xa, là ngàn trùng ly biệt.
Nhưng trong thực chất mỗi con người chúng ta vẫn còn cái tình đối với
quê hương và cái nghĩa đối với dân tộc. Tình nghĩa ấy đã giúp dân tộc
Việt tồn tại mãi đến ngày hôm nay.
Chúng
ta luôn hướng về quê hương với những kỷ niệm thời ấu thơ, từng sống
dưới những mái nhà tranh êm đềm bên cạnh luỹ tre xanh, nhớ về con đường
làng đến bờ kinh xanh sau làn khói lam chiều. Ngày xưa chúng ta ra đi
phải gạt đi những giọt nước mắt vì ngày về thì quá xa. Ngày nay trở lại
miền Tây sau bao nhiêu năm xa cách. Trên đường về làng xưa, qua những
phố xá đông người, những con đường xưa bị đổi tên xa lạ, nhiều ngôi nhà
mới cất nguy nga, tráng lệ bên cạnh những mái nhà tôn còn hoen ố màu của
rỉ sét thời gian, con đường xưa yên tĩnh bây giờ trở thành những khu
phố ‘’thương mại" buôn bán tấp nập, với đủ kiểu kinh doanh hè phố, với
những tương phản của cuộc sống, những náo nhiệt của tuổi trẻ và những
suy tư của người già….
Mời bạn hãy cùng chúng tôi đi ngược dòng thời gian để trở lại
chốn xưa, chia sẻ những bồi hồi xúc động khi thăm lại con đường xưa, xóm
cũ đầy ắp kỷ niệm ấu thơ...Và để tìm hiểu thêm về văn hóa miền Tây,
chúng ta thăm lại non sông cẩm tú ấy với Mỹ Tho Đại phố, qua bến Ninh
Kiều diễm lệ bên cạnh dòng sông Cần Thơ, về Bạc Liêu để nghe lại bài dân
ca dạ cổ hoài lang, đến Sóc Trăng để nghe lòng rộn rã hồi hộp khi dự lễ
đua ghe Ngo, về Cà Mau thăm lại rừng tràm rừng mắm...
Kính dâng lên hương hồn cha, người đã sớm hun đúc cho con cái một tấm
lòng luôn thiết tha với quê hương, để viết lên những huyền thoại vẻ vang
của dân miền Tây cũng như xứ sở Việt Nam …
----o0o---
Miền Tây và Văn hóa Óc Eo
Năm
1679, hai di thần nhà Minh là Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem
binh biển và gia quyến với 3000 người, hơn 50 chiến thuyền di tản về
phương nam đến gần kinh đô Thuận Hóa, với lòng mưu cầu phục Minh sau
này, đến để xin được chính quyền Việt Nam giúp đỡ. Chúa Nguyễn, Hiền
Vương, nghĩ nếu từ chối và đuổi đi, thì đám tàn quân nầy vì cùng đường
có thể đánh phá ta, nên tiếp đãi niềm nở, còn khoản đãi, phong chức và
cho phép vào phía nam khẩn hoang, lập nghiệp ở Biên Hòa, Cù Lao Phố, và
Định Tường – Mỹ Tho Đại phố với lời chỉ dẫn “đó là vùng đất mới của ta”
[1][2].
Điều
đáng chú ý là đòan chiến thuyền này được đưa vào Nam có người hướng dẫn
thần tình. Chứng tỏ thời chúa Nguyễn vùng đất vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long được nghiên cứu kỹ lưỡng tường tận.
Tướng
Trần Thắng Tài vâng lệnh Chúa Nguyễn dẫn một đoàn quân với chiến thuyền
đi về vùng Biên Hòa để khai phá và định cư lập nghiệp. Phần đất này là
căn cứ xuất phát của người Việt đầu tiên xâm nhập bằng đường lối hoà
bình vào lảnh thổ Miên. Dần dần người Việt đuổi dân Khmer về miền Tây
Nam phần. Người Miên phải bỏ làng mạc và ruộng đất, sống ẩn náu trong
các rừng rậm hoặc đầm lầy. Họ mở mang thương mãi và chỉ trong ít lâu
biến Cù Lao Phố thành một trung tâm thương mãi trù phú. Đến khi Tây Sơn
tiến đánh vào Nam, một phần dân cư ở đây di tản về Bến Nghé sanh sống.
Họ chuyên thu mua và bán nông phẩm từ phía Định Tường chở tới. Bến Nghé
sau này trở thành Chợ Lớn và hoạt động kinh tế vẫn còn nằm trong tay
người Hoa. Trong lúc đó, tướng Dương Ngạn Địch dẫn một đoàn quân kéo về
Định Tường định cư lập nghiệp. Cánh nầy chuyên về nông nghiệp. Họ lập ra
những nông trại, dần dần mở mang ra thành Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long
ngày nay. Vào thời đại nây nền kinh tế miền Nam bộ rất phồn thịnh. Vào
cuối thế kỹ 16 với sự thông thương buôn bán với những nước Tây phương
như Tây ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hòa Lan và Anh Quốc làm đất nước thêm
trù phú. Vào thời đại nầy đạo Thiên Chúa giáo cũng bắt đầu gia-nhập vào
đời sống tín ngưỡng của người Việt Nam.
Vào
thời gian ấy năm 1695, Mạc Cửu từ Thái Lan qua, đặt chân ở Hà Tiên, lập
ra thương cảng, một thời buôn bán phồn thịnh. Sau nhiều lần bị Xiêm La
(Thái Lan) và Chân Lạp (Cao Miên) uy hiếp, Mạc Cửu chấp nhận thuần phục
Nhà Nguyễn và được chúa Nguyễn phong chức quan, cai quản phần đất Hà
Tiên để về sau nầy nối liền với Rạch Giá [2].
Cũng
vào triều đại nhà Lê Chiêu Thống, đất Bắc ngự trị bởi chúa Trịnh trong
khi miền Nam là đất của Nhà Nguyễn, nên khi Gia Long (Nguyễn Ánh) tẩu
quốc, chạy vào Định Tường, Ba Giồng, được dân chúng miền Nam khắp nơi
niềm nở đón tiếp và phục vụ nhà vua tận tình. Trịnh Nguyễn phân tranh
cũng vào thời đại từ 1627 đến 1772.. Từ khi hoàn toàn chinh phục miền
Nam năm 1802, nhà Nguyễn chiêu mộ dân lập ấp đưa về miệt dưới như Ba
Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá. Trong chương trình lập ấp, tức tổ chức định cư
về mặt xã hội, chính quyền nhà Nguyễn kêu gọi những tù phạm nếu hưởng
ứng chương trình này họ sẽ được khoan hồng. Nhà Nguyễn theo đuổi mục
tiêu chiến lược là mở rộng bờ cõi về phía Nam, thiết lập và củng cố
chính quyền miền Nam, tổ chức phòng thủ chống ngoại xâm. Và lãnh thổ Nhà
Nguyễn từ đó chạy dài tận mũi Cà Mau….Theo sự suy diễn thì chúa Nguyễn
có công to lớn trong việc mở mang bờ cỏi và khai thác vùng đất màu mở và
trù phú bị bỏ hoang để trở thành miền Tây trù phú phồn thịnh hơn các
nơi khác trên toàn quốc.
Để
có một ý niệm khái quát, chúng ta không thể tách rời lịch sử của đất
miền Tây ra khỏi lịch sử của nước Phù Nam, của nước Chân Lạp và lịch sử
các nước chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ nói chung[2].
Cũng
theo người làm sử [1] thì thành cổ Óc-Eo là một thương cảng sầm uất
thời trung đại bị chìm dưới lòng đất, được nhà Khảo cổ tên Francois
Malleret tiến hành khai quật vào ngày 10 tháng 2 năm 1944 (xã Vọng Khê,
huyện Thoại Sơn cách thành-phố Long Xuyên 30Km về phía tây nam) đã làm
"sống lại" một nền văn hóa cổ, đã hình thành và phát triển trên châu thổ
sông Cửu Long từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Nhiều
công trình nghiên cứu khoa học dựa vào các kết quả khai quật khảo cổ đã
chứng minh văn hóa Óc Eo là sản phẩm vật chất của Vương quốc Phù Nam.
Qua những kết quả nghiên cứu, hình thái văn hóa Óc Eo - Phù Nam đã được
hình thành khá rõ nét, với một số đặc trưng tiêu biểu như: một số kỹ
thuật làm đầm lầy khá cao, thể hiện qua cách giải quyết đất thấp làm nơi
cư trú bằng cách cất và nâng cao nhà sàn bằng gỗ, việc thực hiện hệ
thống kênh đào tỏa rộng ở nhiều nơi trên đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long mà dấu vết còn quan sát được bởi nhà khảo cổ. Phần lớn những di
tích kiến trúc của Phù Nam là những đền thờ và mộ táng với một loại hình
kiến trúc gạch đá hỗn hợp có quy mô lớn bằng kỹ thuật xây nền và tường
gạch dày đặc, lối lắp ráp những phiến đá granit lớn, v.v.v…
Văn
hóa Óc Eo có những giao lưu văn hóa rộng lớn với những nền văn minh
thời cổ đại như với văn minh Đông Sơn (những hoa văn trang trí và những
hiện vật đồng kiểu tương tự như văn minh Đông Sơn); với Ấn Độ (những
tượng thờ thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo, đồ trang sức, con dấu, văn tự…);
với thế giới Địa Trung Hải và Trung Đông (huy chương La Mã, đồng tiền
bằng đồng, tượng đồng, hạt chuỗi La Mã...); và với Trung Hoa (mảnh gương
đồng, tượng phật nhỏ). Tỉnh Tiền Giang vào những thế kỷ đầu công nguyên
thuộc vương quốc Phù Nam và những vết tích của nền văn hóa này hiện vẫn
còn được lưu giữ ở bảo tàng viện vùng nầy.
Theo
những khám phá của các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt ở vùng đất
miền tây Nam Bộ khá lâu đời. Nếu căn cứ theo những di chỉ cư trú và di
cốt của con người ở Óc Eo, Ba Thê, Núi Nổi… thì từ cách đây từ
2,000-3,000 năm, con người đã có mặt ở vùng đất còn chứa nhiều nước mặn,
sình lầy, cây dại và dã thú này; đồng thời họ cũng để lại nhiều dấu ấn
văn hóa khá đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực nhất là ở
vùng tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của
nền văn minh ấy chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng
khởi lên khoảng vài trăm năm rồi bị chìm lấp trong lòng đất miền Tây,
với những hình ảnh hư ảo còn lại của một vương quốc Phù Nam trong sử
sách.
Công
cuộc mở đất phương Nam chỉ thật sự định hình từ những cuộc di dân lớn
của người Việt ở đầu TK 17. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành những cuộc
di dân theo cách qui mô từ vùng Ngũ Quảng trở vào - Quảng Nam, Quảng
Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Thừa Thiên), và Quảng Nghĩa(Quy Nhơn), kết
hợp với sự di dân lẻ tẻ sau thất bại của nhà Minh trước triều Mãn Thanh
(do Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài và Mạc Cửu cầm đầu), cùng với việc
di dân lẻ tẻ trước TK 15 của những lớp cư dân cổ Khmer đến từ nhiều vùng
trên đất nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông Hậu để tránh họa
diệt tộc của vua chúa Xiêm La, và sự di dân tự nhiên của người Chàm Hồi
giáo đến vùng Châu Đốc, kết hợp với quá trình chuyển cư tại chỗ của cộng
đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn hóa mang bản sắc
miền Tây Nam Bộ mới thật sự hình thành. Nhờ quá trình sinh sống gần gũi
giữa các cộng đồng dân tộc tạo nên những tiếp xúc văn hóa với nhiều đặc
trưng khác nhau, làm nên tính chất văn hóa, kinh tế của một vùng đất
miền Tây rộng lớn. Đây là một vùng văn hóa trẻ, phong phú, đa dân tộc,
đa tôn giáo và đa màu sắc. Song những đặc trưng văn hóa của các tộc
người anh em khác vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của nhiều vùng -
đặc biệt là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau.
Từ
giả thuyết trên chúng ta có thể suy diễn rằng tổ tiên của dân tộc miền
Tây là sự kết hợp của những tàn quân Tây Sơn lánh nạn để thoát vua Gia
Long đến từ vùng Ngũ Quảng và An Khê (Pleiku) cộng với sự di dân của nhà
Minh trước triều Mãn Thanh, sự di dân của người Khmer để tránh sự diệt
chủng của vua chúa Xiêm La và người Chàm hồi giáo. Dần dần họ trở thành
những nhà nông biết trồng trọt lúa gạo, biết dựng nhà, đóng thuyền,
luyện kim, dệt vãi, chế tạo đồng thao, vẽ tranh tạc tượng, suy nghĩ khoa
học và cũng có thể sáng tạo được chữ viết. Và cũng do sự tình cờ của
lịch sử hơn nghìn năm dài Bắc thuộc và hơn trăm năm lệ thuộc Pháp đã
đóng góp nhiều cho nền văn hóa miền Tây…
Để
tìm hiểu đặc trưng văn hóa miền Tây, tất nhiên phải quan sát tính cách
con người để xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và
hành động, tác động sâu sắc đến âm nhạc, văn học, cũng như kiến trúc,
những lễ hội và phong tục. Chúng ta thử tìm hiểu những nét đặc sắt của
nền văn hóa miền Tây như tết Nguyên Đán, tết Trung Thu, tết Thanh Minh,
tục thờ cúng và làm giỗ Ông Bà và tổ tiên, lễ cưới hỏi, lễ cúng trăng
với đua ghe Ngo Sóc Trăng, lễ Phật Đản và Vía Bà Châu Đốc, dân ca miền
Tây và Chợ nổi Cái Bè, Cái Răng, Ngã Bảy…
Chợ nổi Cái Bè/ Ngã Bảy/Cái Răng/Ngã Năm
Người dân miền Tây chủ yếu đi lại bằng kênh rạch nên tốt nhất chở ra
một đầu mối ở sông để mà bán, từ đó hình thành một cái chợ nổi. Nhưng
chợ nổi miền Tây rất sinh động, sinh động hơn cả chợ nổi ở Thái Lan, một
khu chợ nhân tạo, trong khi đó chợ nổi của ta hình thành từ tập quán
sinh sống với những sản vật phong phú miền Tây gồm các văn hóa nổi bật
như: trao đổi, giao tiếp, hò đối đáp, đờn ca tài tử, hát bội và sân khấu
cải lương... Trong văn hóa sông nước miền Nam bộ thì chợ nổi Ngã Bảy,
Cái Răng, Cái Bè và Ngã Năm có nét đặc thù riêng biệt. Theo sự nghiên
cứu thì những chợ nổi này đã hình thành hơn trăm năm nay.[4]
Đối
với những người mua bán ở chợ nổi, chiếc ghe dùng để chở hàng hóa cũng
là căn nhà di động. Mọi hoạt động mua bán, sinh hoạt của gia đình đều
diễn ra trên ghe. Khoảng không gian tuy hẹp nhưng cũng đủ gói ghém những
vật dụng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày.
Đến
chợ nổi, bạn sẽ chứng kiến cảnh mua bán rau quả, đặc sản địa phương
hàng hoá rất đa dạng, phong phú và có thể trao đổi hàng hoá nông sản của
miền Tây Nam bộ như: xoài, mận, cam, bưởi, vú sữa, ổi, hành, ớt... Rất
nhiều loại hàng quán khác mọc ven sông như phở, hủ tiếu, cà phê, quán
nhậu nổi ngay cả xăng dầu cũng có... Từ ngàn xưa, khi tiền tệ chưa xuất
hiện, việc trao đổi mua bán cuả người dân miền Tây sông nước qua hình
thức "hàng đổi hàng". Ngày nay, hình thức này đã không còn tồn tại. Vì
thế cư dân gần đây đã tái hiện lại phong tục này mà chính du khách là
người trao đổi với những chủ ghe bán loại trái cây, rau quả mà khách
thích. Nét đặc trưng trong cách thức mua bán ở chợ nổi là không phô
trương hàng hóa hoặc rao hàng như các chợ trên đất liền, mà từ lâu người
ta đã dùng tín hiệu. Sản phẩm miệt vườn được treo trên một cây sào cắm
trước mũi ghe gọi là “cây bẹo”. Người mua chỉ cần nhìn vào “cây bẹo” là
biết ngay ghe bán thứ gì.
Mỗi
chợ nổi miền Tây có một nét đặc trưng của từng địa phương. Ví dụ chợ
nổi Ngã Bảy ở đây mặt sông mênh mông rẽ về bảy ngã. Từ các ngã, thuyền
bè tấp nập tụ về đây. Chợ ở trên mặt đất có những thứ gì, thì chợ nổi
cũng đủ những mặt hàng mà người dân cần, từ cái kim sợi chỉ cho đến quần
áo, thức ăn, rượu thịt... còn các loại trái cây thì nhiều vô kể. Từ chợ
nổi, người ta sẽ được cập bến để lên chợ rắn. Cái tên chợ rắn Ngã Bảy
cũng đã rất quen thuộc với du khách quốc tế. Đến tham quan chợ rắn, bạn
sẽ được mời uống rượu rắn và được xem những màn biểu diễn múa rắn rất
mạo hiểm. Chợ Ngã Bảy quanh năm có rắn, rùa, chim, sóc, kỳ đà … phục vụ
du khách. Trong khi chợ nổi Cái Răng thu hút khá đông du khách
đến tham quan và tăng gấp bội vào những ngày giáp Tết nhờ ở gần trung
tâm thành phố. Đến chợ này bạn sẽ có dịp trò chuyện với các nhà vườn
xung quanh về những kinh nghiệm trong việc trồng cây trái ngon ngọt của
họ. Đôi khi khách còn được nhà vườn biếu những loại trái ngon, vật lạ
làm quà hoặc mua với giá rất rẻ. Sản phẩm chợ nổi Cái Răng để lại dấu ấn
trong văn minh thương mại sông nước. Chợ Nổi Cái Răng được xem như là
sản phẩm đặc thù của thành phố Cần Thơ cũng như sông nước đồng bằng.
Ngày
nay khi ta đến với vùng đất Miền Tây đi qua sông Tiền, Sông Hậu sẽ được
nghe nhắc đến những khu chợ nổi đặc trưng của Miền Tây như: chợ nổi Cái
Bè (Tiền Giang), chợ nổi Cái Răng, Phụng Hiệp ( Cần Thơ), chợ nổi Ngã
Năm (Sóc Trăng)…những khu chợ nổi này đã gắn bó với người dân và hơn nữa
trong xu thế phát triển và hội nhập của đất nước những khu chợ nổi này
đã trở thành một loại hình văn hoá du lịch hấp dẫn đới với du khách
trong nước và quốc tế. Ngày nay, dẫu đường bộ đã phát triển đến tận
những vùng nông thôn hẻo lánh của thành phố miền Tây, nhưng các chợ trên
sông vẫn tiếp tục tồn tại, tiếp tục họp tan theo con nước lớn ròng -
một nét văn hóa đặc sắc của người dân miền sông nước đồng bằng…
Dân ca (Vọng Cổ và Cải Lương) Nam Bộ
Bản
vọng cổ đã có sức sống mãnh liệt trong lòng công chúng, nó chiếm lĩnh
tình cảm tất cả các tầng lớp từ trí thức, đến những người bình dân
nhất... Chỉ có câu chữ nhạc trong khuôn khổ nhất định mà mỗi người đờn
nghe khác nhau về âm sắc, người ca nhiều hơi, kỹ thuật giọng điệu cũng
khác nhau, người viết lời khác nhau tạo hương sắc bản vọng cổ muôn màu
muôn sắc tuyệt vời.
Ai
là người sáng lập nhạc dân ca vọng cổ Nam bộ vẫn còn là đề tài để bàn.
Theo sử liệu [3] thì người miền Tây biết là năm 1919 bài Dạ Cổ Hoài
Lang được sáng tác bởi nhạc sĩ Cao Vân Lầu ra đời tại Bạc Liêu và cũng
là sự khởi đầu của nền vọng cổ và cải lương Nam bộ. Từ bản chất phóng
khoáng và nếp sống của dân miền Tây đã làm cho nền cải lương trở nên dân
dã. Mặt khác do lòng luôn thương nhớ cội nguồn nên các điệu cải lương
phản ảnh phần nào nỗi buồn trong bài ca và cũng được người mộ điệu ưa
thích. Bản vọng cổ và cải lương là giai điệu đời sống tình cảm của người
miền Tây. Cũng ở vùng miền Tây nầy, tới đâu ta cũng gặp cảnh sông nước
mênh mang, kênh rạch chằng chịt chia xẻ các miệt vườn, đem phù sa tắm
mát cho cây trái. Ở mảnh đất giàu hoa quả và trí dũng này, tới đâu ta
cũng gặp những điệu hò, điệu lý, tới đâu ta cũng gặp những cây cầu, từ
"cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi" tới "cầu ván đóng đinh", rồi cầu xi
măng, cầu sắt... Ở đó ta sẽ gặp những nhóm "đàn ca tài tử " được hình
thành từ một số người có khả năng đồng thời cũng say mê với những điệu
hò, điệu lý và vọng cổ Nam bộ. Nhóm này là những người nông dân suốt
ngày làm ruộng, làm vườn, nhưng đến những ngày có đám tiệc, đám giỗ,
hoặc đám cưới gã thì tập trung lại thành một nhóm, người thì đàn, kẻ thì
đánh phách, còn các cô gái thì hát những bài ca thể hiện tình yêu
thương đất nước và con người.
Cải
lương và nhiều bài hát còn lưu truyền cho tới ngày nay đều xuất phát từ
miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, bởi vì miền này trù phú, người dân có đời
sống sung túc nên có thời giờ và điều kiện nghĩ đến những môn giải trí
tao nhã. Qua đó, chúng ta thấy cải lương ra đời từ miệt vườn, thâu thập
những cái hay, đổi mới cái cũ theo nhu cầu, hoàn cảnh địa phương…
Phần 2 – Phong tục và tập quán
Tục thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên và ngày giỗ
Thờ
ông bà là một bổn phận và nhiệm vụ trọng đặc thù của người miền Nam.
Trong quảng đại quần chúng xưa và nay, người ta thường nói "đạo thờ ông
bà" là tín ngưỡng sâu sắc, nhưng không là một tôn giáo, "đạo" nói ở đây
phải hiểu là đường lối do lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối
với cha mẹ, ông bà đã khuất. [5]
Khi
tôi hoàn tất bài viết này thì hoàn cảnh xã hội ở Việt Nam đã phức tạp
hơn trước những năm 1975 rất nhiều. Việc thờ cúng tổ tiên cũng đã phát
triển rộng và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của người dân
miền Tây. Các nghi thức này không những nhằm chuyển những thông điệp mà
còn để tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với những người đã khuất.
Dân
miền Tây tin rằng Ông bà có thể phù hộ con cháu họ là một trong những
lý do khiến mọi người coi trọng việc thờ cúng tổ tiên và việc làm giỗ.
Ngoài ra, vẫn còn có một lý do khác buộc chúng ta phải quan tâm đối với
những người đã mất, đó là quan niệm thuộc nền tảng đạo đức và đạo lý làm
người. Đạo làm con phải “uống nước nhớ nguồn”. Không ai tự nhiên được
sinh ra, không ai tự nhiên lớn lên, tất cả đều phải chịu ơn sinh thành,
dưỡng dục của cha mẹ và những người đi trước, “có tổ tiên mới có mình”.
Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao của tổ tiên chính là để thể hiện “đạo
lý làm người”, một đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam nói chung và người
miền Tây nói riêng.
Cách
thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên liên quan hệ chặt
chẽ với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Ví dụ, ngôi mộ mà gia đình tôi đã xây
dựng cho cha tôi chứng tỏ gia đình có hoàn cảnh kinh tế hơi khấm khá, và
mẹ tôi rất tự hào vì “mọi người cho rằng nó là ngôi mộ to và đẹp nhất
Phụng Hiệp”. Chính điều này nhiều khi cũng gây ra không ít những sự ganh
đua trong dòng họ. Vì thế, trong nghĩa trang ngày nay càng mọc lên
nhiều ngôi mộ rất lớn và đẹp. Tuy nhiên, giá trị thực sự của một ngôi mộ
chính là ở sự thành tâm của đạo làm con. Vẻ đẹp của ngôi mộ không chỉ
chứng tỏ sự thành công về mặt tài chính mà còn thể hiện sự tận tụy và
nhân tính của một gia đình có nền tảng đạo đức tốt đẹp. Cùng với việc
thờ cúng, sự quan tâm đến mồ mả cha ông chúng tôi càng làm nổi bật lên
nhân cách tốt đẹp của gia đình.
Theo
tục lệ người miền Tây, ngày giỗ là "chung thân chi tang" có nghĩa là
ngày tang trong suốt cả đời người. Mỗi năm vào đúng vào ngày người đã
mất là một lần giỗ, cho nên người miền Tây thường quan trọng ngày cúng
giỗ ông bà cha mẹ. Và cũng theo tục lệ này, bữa cúng phải có chén cơm
xới đầy cùng những thức ăn thông thường mà khi người còn sống vẫn thích.
Vì thế người miền Tây mới gọi tên cúng giỗ là "cúng cơm". Những khách
khứa cùng bà con thân thích, hợp mặt lại gợi lại những gì tốt đẹp của
người qua đời, trước khi ngồi vào bàn ăn giỗ phải làm lễ dâng cúng với
những lễ vật mình đem tới và chắp lạy trước bàn thờ . Trên bàn thờ đèn
nhang đã được thắp từ trước, khi các thức ăn được bày lên. Gia trưởng
trang phục chỉnh tề, xem xét kỹ các lễ vật có đầy đủ rồi mới bước vào
chiếc chiếu được trải trước bàn thờ, quỳ xuống, hai tay chắp lại vòng
ngang trán và vá bốn lạy. Một trong hai người chấp tay lạy thường là em
hay con cháu gia trưởng, đứng hai bên bàn thờ, thấp ba nén hương, đưa
cho gia trưởng vái một vái lui rồi trao lại đem cắm lên bát hương. Người
chấp lạy thứ hai mở nút bình rượu, rót rượu và nước lên ba chén để trên
đài, xong đâu vào đó rồi gia trưởng làm lễ khấn.
Nhìn
chung người miền Tây thực sự tự hào về việc thờ cúng tổ tiên, hay nói
khác hơn là việc này tạo cho họ cơ hội giao tiếp, phát triển mối quan hệ
họ hàng, chia sẻ vui buồn và hợp tác với nhau vì lợi ích của cả cộng
đồng.
Tôi
nhớ buổi tối “đám tang” của Cha tôi, ngày họ hàng nội ngoại hợp lại,
bên nội tôi đa số từ Phong Dinh về và dòng họ ngoại tôi đa phần ở Sóc
Trăng và Bạc Liêu, một bữa ăn chung ấm cúng, đã tạo cho họ ngoại nội có
điều kiện nói chuyện, trao đổi ý kiến để tạo thêm tình thân thiết họ
hàng.
Có
thể nói, tổ tiên ông bà và những người đã qua đời đóng một vai trò hết
sức ý nghĩa trong đời sống người dân miền Tây nói riêng hay Việt Nam nói
chung như hiện nay.
Tết Thanh Minh hay Lễ Tảo Mộ
"Thanh Minh trong tiết tháng Ba"
"Lễ là Tảo Mộ, hội là Đạp
Thanh"
Thăm
viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của văn hóa miền Tây, một
tục lệ trong “đạo thờ ông bà” của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành
truyền thống. Dù điều kiện khó khăn thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu
sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ở nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia
đình. Nhiều gia đình cho rằng mỗi dịp tảo mộ cũng là một dịp giãi bày
với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy đến trong năm với cả gia đình,
dòng họ.[6]
Ngày
Tết Thanh Minh được tính theo ngày Dương lịch hàng năm vào ngày 5 tháng
4 (nếu vào năm nhuần thì sẽ là ngày 4 tháng 4). Thanh Minh nghĩa là
thời tiết trở nên mát mẻ quang đãng, trong lành. Người ta đi thăm viếng,
vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu
bổ mộ phần những người quá cố trong gia đình, và cả những phần mộ của
các vị tổ tiên nhiều đời trước đó. Đôi khi họ cũng thắp nhang cho những
mộ phần vô chủ. Đồ cúng tế thường là một lễ mặn nhỏ gồm: nhang, đèn,
trầu cau, tiền vàng tiền bạc, rượu, thịt (chân giò, gà luột hay khoanh
giò) và hoa, quả. Dân miền Tây tin rằng ngôi mộ là ngôi nhà của người đã
mất, vì vậy sơn phết và chùi dọn mộ bên ngoài là dọn nhà cho người thân
đã mất của mình có chỗ ở an khang và tốt đẹp.
Tết Nguyên Đán
Đối
với người Tây phương, Noel là ngày lễ quan trọng nhất trong năm. Nhưng
đối với dân Việt, tết Nguyên Đán là ngày trọng đại nhất. [6]
Tết
đối với người miền Tây được ví như sự tổng hợp của Giáng Sinh, New Year
và St-Valentine của người phương Tây. Cái Tết bắt đầu cho năm mới, hy
vọng về mọi sự may mắn tốt lành của mùa xuân nảy lộc đâm chồi, đồng thời
cũng bỏ lại tất cả những rủi ro, đen đủi của năm cũ. Người miền Tây có
tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về xum họp dưới mái ấm gia đình và
để hàn huyên tâm sự sau một hay nhiều năm xa cách. Tuy là Tết cổ truyền
của dân tộc nhưng tuỳ theo mỗi vùng, mỗi miền của Việt Nam hoặc theo
những quan niệm về tôn giáo khác nhau nên có thể có nhiều hình thức,
nhiều phong tục tập quán địa phương khác nhau. Nhưng đều có chung một
điểm là có thể phân làm 3 khoảng thời gian, mỗi khoảng thời gian ứng với
những sự chuẩn bị, ứng với những lễ nghi hay ứng với những hình thức
thể hiện khác nhau, đó là: Tất Niên, Giao Thừa và Tân Niên.
Tết
là dịp cho dân ta tạ ơn trời đất đã ban phúc cho mỗi gia đình làm ăn
khắm khá hơn so với năm vừa qua. Nhiều người muốn được khấn váy trước
bàn thờ, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Cũng có người muốn thăm
lại nơi chôn nhau cắt rốn, thời niên thiếu với gia đình. Đối với những
người xuất thân từ nông thôn miền Tây, kỷ niệm thời niên thiếu có thể
gắn liền với sông nước, sân vườn.
"Về
quê ăn Tết" đã trở thành một thành ngữ quen thuộc gợi lên cuộc hành
hương về nơi cội nguồn. Dầu đi đâu về đâu, ngày nay mỗi lần Tết đến tôi
lại mang mang nhớ nhung cái "hồn" của chợ quê xưa. Tấm "hồn" đó là do sự
lắng đọng của quang cảnh chợ Tết của tỉnh tôi, dọc hai bên bờ sông có
hàng hoa đủ loại đua sắc, nào là mai vàng vạn thọ, hướng dương, thủy
tiên v v…
Hồ
nước ngọt Sóc Trăng có đủ loại các trò chơi cho trẻ em và đủ gian hàng
vui chơi giải trí, vẫn sống mãi trong tâm thức. Nhớ lại thuở bé, chúng
tôi Io lắng chờ dịp tết sớm đến để có cơ hội diện bộ đồ mới để đi thăm
và khoe với họ hàng ông bà ở Phong Dinh và khi về mang đầy ấp mấy bao
tiền lì xì…
Tết
cũng là dịp cho mọi người cám ơn nhau trong suốt một năm trời sinh hoạt
chia sẻ những vui buồn với nhau. Anh em đến chơi với nhau hay đoàn tụ
người phương xa, uống chén rượu, hoặc chén nước trà tàu, trà sen hoà với
vài ba hạt dưa, ăn vài miếng mứt, nếu xom tụ hơn thì thịt kho hột vịt
dưa hấu, tôm khô cũ kiệu nhâm nhi ngày tết.
Bạn
bè thăm hỏi lẫn nhau, mỗi người đưa một danh thiếp đỏ đề mấy chữ chúc
tặng nhân dịp năm mới. Tuy nhiên Tết cũng trở thành một nỗi lo âu và là
gánh nặng cho lớp người với điều kiện kinh tế chật hẹp.
Tết
Nguyên Đán là lễ tết đầu tiên của một năm. Tết được bắt đầu từ lúc giao
thừa. Theo chữ Hán, Nguyên có nghĩa là bắt đầu, Đán là buổi sớm maị Tết
Nguyên Đán tức là tết bắt đầu đầu năm, mở đầu cho mọi công ăn việc làm
với tất cả mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang. Năm hết Tết đến, những
sự may mắn mới đến, và bao nhiêu điều lo âu phiền toái của năm cũ đều
theo năm cũ mà đi hết.
Tết
Nguyên Đán đến là ngày xuân ấm áp cũng đến, mang lại hoa cỏ xanh tươi
khiến cho mỗi người chúng ta thấy nao nao tâm hồn như những trẻ thơ, mặc
dù sau một năm dài làm lụng vất vả có biết bao lo toan trong cụôc sống.
Người
miền Tây thích trưng bày hoa Mai, vạn thọ hay các loại hoa nẩy lộc mỗi
dịp Tết đến. Khác với miền Bắc, khí hậu có phần nào lạnh hơn, thích hợp
cho hoa Đào khoe sắc. Cứ mỗi dịp Xuân về bất cứ người miền Tây nào, nhắc
đến cây Mai là nhắc đến ngày tết cổ truyền dân tộc, nhắc đến bành tét
bánh chưng, cây nêu tràng pháo, bánh mứt tràn trề.
Tôi
vẫn nhớ gia đình thường sửa soạn cho ngày tết bắt đầu từ tháng chạp
(tháng 12 âm lịch). Nhà nhà đều lo mua gạo nếp, mua đậu xanh để gần đến
ngày gói bánh tét. Bên cạnh đó, mẹ tôi đi chợ sắm sửa những vật dùng cho
ngày Tết. Mẹ tôi mua sẵn gà, bánh mứt, trái cây, hương để cúng và biếu
họ hàng gần xa.Trước tuần lễ tết chúng tôi thường lau chân đèn hay bộ lư
toàn bằng đồng óng ánh. Chúng tôi phải lau cho chúng bóng loáng như sự
sáng sũa cho cả năm mới đến. Trước đây mẹ tôi còn mua pháo tết nhưng
ngày nay lặng tiếng pháo cũng bớt đi phần nhộn nhịp vào những ngày tết.
Chúng tôi những học trò tha hương cầu thực thế nhưng nhân dịp tết cũng
cố gắng chuẩn bị món quà nhỏ biếu thầy cô. Bước vào bất cứ nhà miền Tây
nào trong thời điểm cuối năm cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn
bị Tết nhộn nhịp, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa,
chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về...
Không
những lo sửa soạn các vật dụng vào dịp tết mà người dân miền Tây còn lo
sắm một bộ quần áo Tết. Đặc biệt là các cô gái mới độ xuân thì, ngày
xuân là dịp các cô chưng diện để cho mọi người ngắm nhìn đặc biệt là các
cậu con trai mới vừa đôi mươi, đang tìm hồng nhan tri kỷ.
Tết Nguyên Đán được bắt đầu từ mùng một đến hết mùng bảy (lúc hạ nêu). Và cũng trong bảy ngày tết mọi
gia đình đều chưng bày những câu đối dán trên tường, và cũng dán trên
trái cây để cúng vái Ông bà tổ tiên bằng những mảnh giấy màu đỏ. Theo
tục lệ Trung Quốc màu đỏ tượng trưng quyền lực vô hình có thể xua đuổi
tà ma để con cháu năm mới làm ăn khấm khá và phát tài hơn. Chưng bày mâm
ngũ quả trên bàn thờ của gia đình trong những ngày Tết mang ý nghĩa giữ
gìn bản sắc văn hóa độc đáo của dân miền Tây. Chính vì vậy, người miền
Tây dù ở phương trời nào, đến ngày Tết cổ truyền vẫn không bỏ qua tục lệ
này, như một sự nhắc nhở, cho bản thân và cho con cháu, về cội nguồn
của mình…
Xông
nhà ngày Tết là một việc hết sức trọng đại vì thế hầu như nhà nào cũng
kiêng kị rất cẩn thận. Bởi nếu không những điều xấu sẽ vận vào bản thân
mà còn ảnh hưởng đến gia đình mình. Vì sợ “dông” nên phải chọn người
xông nhà không xung tuổi với chủ nhà.[11]
Người
miền Tây còn có thói quen chọn người có tên đẹp như Phúc, Lộc, Thọ,
Tài, Lợi…mời đến xông nhà để cả năm sẽ thuận lợi, may mắn. Người xông
nhà đầu năm phải là người có tài lộc, hiền hậu và có đức hạnh tốt. Người
ta thường chọn những người gia cảnh song toàn, con cháu đông đàn dài
lũ, làm ăn thịnh vượng, vì thế mới có lệ “hẹn trước”, mời đến xông nhà.
Nếu buổi sáng mồng một mà vẫn chưa có ai đến xông nhà thì gia đình sẽ cử
một người trong gia đình đi xông đất nhà người quen hay người thân
trước và như vậy khi trở về nhà mình, người ấy sẽ là người xông đất của
chính gia đình họ. Người miền Tây tin rằng chuyện xông nhà rất quan
trọng vì nó ảnh hưởng cho công việc làm ăn và tài lộc cho gia đình cho
cả một năm mới. Họ kiêng kị mọi chuyện có ảnh hưởng không tốt
đến gia đình trong năm mới như việc quét nhà, lau dọn nhà cửa, họ để vậy
trong ba ngày tết không được quét rác ra khỏi cửa nhà, nếu như vậy là
mang đi cả sự may mắn trong năm .….
Tết Trung Thu
Ở
phương Tây trẻ con hoá trang đủ kiểu háo hức dự lễ Halloween cùng bố mẹ
tháp tùng, đi từng nhà xin bánh kẹo trong khi đó con nít miền Tây náo
nhiệt chuẩn bị dự đại lễ Trung Thu.
Mỗi
năm đến rằm tháng tám âm lịch là Tết Trung Thu. Tết này dân ta thường
coi là tết của trẻ con, nhưng ngày trước có nhiều nhà cũng chi phí vào
các lễ này cũng nhiều.
Đồ
chơi của trẻ con trong Tết này là những chiếc lồng đèn làm bằng giấy
với những hình ảnh tượng trưng cho các con thú như: voi, ngựa, kỳ lân,
sư tử, rồng hươu, tôm cá, bươm bướm, bọ ngựa...hay những hình ảnh đèn
cù, đèn xẻ rãnh, đình chùa, ông nghè đất... [6]
Trẻ
con tối hôm Trung thu dắt díu nhau từng đàn từng lũ, rước đèn, rước sư
tử, trống đánh vang cả đường, tiếng reo hò, tiếng đùa rầm rĩ. Lại nơi nọ
trống quân, nơi kia hát trống quít. Tất cả những sinh hoạt này được gọi
là Trung Thu thưởng nguyệt. Nhớ thuở bé cả tuần trước đại lễ chúng tôi
lo chế biến lồng đèn bằng giấy vơi đủ kiểu tuỳ theo ý thích từng trẻ em
hay hàng xóm. Sự cạnh tranh chưng bày lồng đèn nhiều khi gây ra rối loạn
cho bà con xóm gần xóm xa. Con gái thì thi nhau làm tài khéo léo như
gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm, con cá coi
thật là đẹp.
Ngày
nay trẻ em miền Tây ở hải ngoại quên đi tết Trung Thu ngoại trừ những
cộng đồng to lớn. Các em hoà mình vào cộng đồng phương Tây và dự lễ
Halloween. Thực ra lễ này giống lễ Vu Lan nhiều hơn Trung Thu. Theo
người miền Tây thì lễ Vu Lan là dịp báo hiếu người đã mất và bố thí ma
quỹ để mong những linh hồn chưa siêu thoát để yên cho con cái sống sót
được nhiều sức khỏe và làm ăn khấm khá...
Lễ cưới và hỏi của người miền Tây
Ở
miền Tây ngày xưa tục tảo hôn (cưới xin) của dân ta có những điều không
phù hợp với thời đại văn minh. Vợ chồng cưới nhau quá sớm cho nên thế
hệ Ông cha ta thường có con cháu đầy nhà và nghĩ rằng có con cháu đầy
nhà là có phúc nên nhiều gia đình có con lúc mười bốn mười lăm tuổi, sự
phát triển trí lực chưa đầy đủ đã có vợ có chồng rồi. Nhiều khi con gái
miệng còn hôi sữa đã về làm dâu nhà người ta. Vì vậy khi sanh con ra
nhiều đứa trẻ còm cõi, khẳng khiu, khó nuôi, yếu ớt hoặc mang tật nguyền
làm cho giống nòi không mạnh mẽ. Hơn nữa, tuổi trẻ là lúc học hành, tìm
hiểu cuộc đời để có thể xây dựng mái ấm gia đình sau này vững mạnh,
nhưng lại lấy vợ gả chồng thì coi như cả tương lai chỉ còn trông vào con
cái thôi, trí tuệ không bao nhiêu.[6][7]
Ngày
nay xã hội miền Tây đã thay đổi nhiều, trai gái có lấy nhau cũng phải
chờ đến mười tám hai mươi mới lấỵ hay có thể trễ hơn. Bây giờ bậc cha
mẹ cũng thường để cho con cái tự ý lựa chọn theo tính ý của mình và sự
ép hôn đã giảm nhiều. Hai bên gia đình trai gái cũng không còn xem
chuyện giàu nghèo là điều quan trọng trong chuyện cưới xin vì đó là sự
thuận tình hai bên trai gái mà thôi. Có như vậy thì chính cô dâu và chú
rể sau này cũng dễ hòa nhập với hai bên gia đình không phải buồn rầu
nhiều vì lễ giáo độc đoán.
Trước
khi tổ chức lễ cưới thì hai bên nhà trai và nhà gái đều phải không có
tang chế hay vừa mãn tang. Lễ Cưới thì nhà trai viết thư hay cử người
đại diện hỏi xem nhà gái muốn những lễ vật nào. Người ta gọi là tục
Thách cưới. Nhà gái muốn những vật gì thì phúc đáp hay yêu cầu cho nhà
trai. Nhà trai nếu có thể đáp ứng được thì mới chọn ngày lành tháng tốt,
đính ước ngày cưới với nhà gái.
Khi
rước dâu phải chọn giờ lành tháng tốt. Trong đám cưới có một ông già
hiền lành hay ngày nay tiến bộ hơn là chàng trai trẻ ăn nói lưu lóat cầm
một khai rượu với bao lì xì nhỏ màu đỏ đi trước hay gọi là chủ hôn, rồi
đến các người dẫn lễ, người bưng mâm trầu cau, người khiêng heo mà ngày
nay tiến bộ hơn người ta nhờ các anh chàng trai tráng đẹp trai trong
vùng hay bạn bè người thân... Chú rể thì khăn áo lịch sự đi cùng với chủ
hôn. Khi đến nhà gái, dâng bày đồ lễ, người chủ hôn nhà trai hay người
đại diện nhà gái khấn lễ với tổ tiên rồi thì chú rể vào lễ bái. Hương
án được bày ra sân, trên hương án có gà, xôi, giầu (trầu), rượu, tế tơ
hồng xong rồi hai vợ chồng mới cưới được vào lạỵ Sau thủ tục xin phép
nhạc gia và nhạc phụ, chú rể sẽ chuẩn bị rước dâu.
Khi
đưa dâu thì nhà gái cũng như chủ hôn, chú rể cô dâu, bà con họ hàng nhà
gái cùng đi sau. Đến nhà trai rồi thì bà mai dẫn cô dâu vào nhà chú rể
lạy tổ tiên rồi đến cha mẹ chồng. Nếu chú rể còn ông bà thì cũng phải
lạy ông bà bên chồng. Ông bà cha mẹ chồng thường thì mỗi người chúc mừng
cho cô dâu chú rể bằng ít tiền tùy hỉ.
Sau
tiệc đãi ăn uống xong thì họ hàng luôn có phần mang về do nhà trai
tặng, thường thì xôi rượu thịt, bánh, trái cây, giò chả, v.v.v…
Quê
hương miền Tây với những sông rạch chằng chịt, người dân thường di
chuyển chủ yếu bằng đường sông. Có nhiều nơi mỗi ngày chỉ có một chuyến
đò đưa rước để người dân có thể đi chợ và mua bán trao đổi hàng hóa với
nhau. Chính vì lý do đó mà những đám cưới ở vùng quê miền Tây thường tổ
chức vào buổi tối. Người Việt Nam thường đãi đám cưới riêng biệt giữa
nhà trai và nhà gái. Từ sáng sớm, các cô gái, chàng trai đã tụ tập lại
để giúp đở cho nhà gái . Người giết heo, kẻ mổ gà vịt, người khác xắt
rau, cải để nấu nướng. Không khí của một đám cưới vùng quê thật vui vẻ.
Đây cũng là dịp để nam thanh nữ tú gặp nhau và từ đó nảy sinh những mối
tình thật đẹp. Sau buổi trưa, cổ bàn đã xong xuôi tiệc bắt đầu từ trưa
cho đến chiều. Buổi tối là lúc họ hàng nhà gái tụ tập lại để cô gái lạy
tạ ông bà, cha mẹ, bà con để xuất giá theo chồng. Bên nhà trai thường
rước dâu về vào buổi tối để sáng sớm hôm sau là đãi tiệc bên họ nhà
trai.
Ở
thành thị việc thách cưới ngày xưa thường nhiều hơn ở vùng quê và cũng
không có lễ cưới vào ban đêm. Đám cưới thường vào ban ngày và sau đó đón
cô dâu về nhà liền. Trong khi cưới và khi đón dâu, hai ông bà cầm hai
cái lư hương ngồi trong xe che lọng xanh đi trước, rồi các người theo
phụ mỗi người đội mâm cau trùm vải đỏ. Trong mỗi mâm có rượu, hoa quả
trái cây. Ngày xưa thì đi bộ, sau đó đi xe kéo, hay xe song mã. Ngày nay
cuộc sống có khá giả hơn thì mướn xe Mercedes-Benz để đưa đón dâu. Cô
dâu chú rể chỉ tổ chức tiệc cưới cho bạn bè hay đồng nghiệp vào ban đêm
hay vào cuối tuần cho thuận tiện những người tham dự ngày hôm sau phải
đi làm việc. Tối hôm cưới, người chồng lấy trầu cau mà nhà trai được nhà
gái trả lễ cho vợ chồng, trao một nửa cho vợ, rót một chén rượu, mỗi
người uống một nửa và lễ này được gọi là lễ hợp cẩn.
Sau
lể cưới được ba hôm, đến hôm thứ tư thì hai vợ chồng làm lễ xôi chè đem
về bên nhà vợ lạy tổ tiên, lễ còn được gọi là tứ hỉ.
Phần 3 - Lễ hội của địa phương
Lễ Cúng Trăng Ooc-Om Bok và Đua Ghe Ngo
Lễ
Ooc-Om Bok , tiếng Khmer có tên khác là lễ Cúng Trăng (vì tổ chức vào
đúng đêm hôm trăng rằm và bắt đầu từ khi trăng lên) của người Khmer Nam
Bộ sống ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh
và Kiên Giang. [8]
Xuất
phát từ một tín ngưỡng dân gian cho rằng mặt trăng là thần bảo vệ mùa
màng, người Khmer hằng năm cứ đến ngày rằm tháng 12 theo Phật lịch,
tương ứng tháng 10 âm lịch, tổ chức lễ Ooc-Om Bok để tỏ lòng biết ơn vị
thần đã làm cho mùa màng tốt tươi, mang lại lương thực dồi dào cho con
người. Đặc điểm của nghi lễ này là sự có mặt của những em nhỏ, được
người ta lấy những hạt cốm dẹt đút vào miệng để “lấy khước”.
Vào
lúc này, thời tiết bắt đầu khô ráo, gió chướng thổi nhẹ, lúa ngoài đồng
bắt đầu chín lốm đốm. Đặc biệt đối với tuổi trẻ, vào những ngày này
trai gái thường rủ nhau đi chơi, ngắm trăng, tâm sự và tỏ tình. Để chuẩn
bị cho đêm lễ cúng Trăng người ta đào lỗ trước sân nhà, hay sân chùa
(nơi dự định cúng lễ) để chôn hai cây trụ tre, cây tầm vông, bên trên có
một cây xà ngang dài độ 3 mét, giống như một cổng chào có trang trí hoa
lá. Dưới cổng có kê một chiếc bàn phủ vải đẹp, bên trên để một lọ hoa,
nhang, đèn và các thứ cúng gồm có trái cây như chuối, bưởi, cam, thơm
cùng các loại củ có chất bột như khoai lang, khoai mì, khoai môn và bánh
kẹo, đặc biệt là món cốm dẹt được chế biến từ những bông nếp vừa chín
đầu mùa lấy từ ngoài đồng về. Mọi người từ già đến trẻ đều mặc đẹp, dọn
dẹp trang hoàng nhà cửa để đón trăng.
Buổi
tối, khi ông trăng rằm to như chiếc đĩa màu vàng đỏ và vừa nhô lên khỏi
ngọn cây thì dân chúng đã tề tựu đông đủ tại nơi khuôn viên chùa, hay ở
nơi sân nhà, hoặc nhiều nhà cùng tập hợp nhau lại tại một địa điểm rộng
rãi, thuận lợi nhất để chuẩn bị lễ cúng. Bà con đến dự lễ được mời ngồi
trên những chiếc chiếu hay tấm đệm trải sẵn trên đất, hai tay cung kính
chắp lại để ra trước mặt hướng về phía mặt trăng đang lên. Một cụ già
làm chủ lễ đứng ra đọc lời khấn, nói lên lòng biết ơn của con người đối
với thần, xin thần tiếp nhận những lễ vật và cầu mong trong những ngày
tháng tới, thần Trăng sẽ đem lại cho mọi nhà, mọi người những niềm vui
mới: sức khoẻ, thời tiết tốt đẹp, mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu,
cuộc sống thái bình, no ấm…Theo quan niệm của người Khmer, tục thả đèn
nước nhằm xua tan bóng tối, sự ô uế và buồn bã, giống như lễ tống ôn,
tống dịch của người Việt, để chỉ còn lại sự bình yên, niềm vui và tình
đoàn kết xóm làng.
Riêng
ở Sóc Trăng song song với lễ Cúng Trăng dân địa phương còn tổ chức cuộc
đua ghe ngo với sự tham dự của nhiều đội đua ghe đến từ những sóc, thôn
hay tỉnh lân cận. Trước khi ghe Ngo được làm lễ “xuống nước”, các vận
động viên phải tập bơi trên những “giàn cây” được ráp trong các con
mương rộng. Giai đoạn này chủ yếu là để tập thể lực và rèn nhịp bơi theo
hiệu lệnh của đội trưởng. Trước khi đua khoảng một tuần, các vị sư mới
làm lễ xin “Niếc” cho phép hạ thủy để đội đua tập bơi thực sự trên sông
nước. Khi đua, các ghe còn “so kè” đường nước. Điều “tối kỵ” trong trước
khi đua là không để ghe của đối thủ đụng mũi vào lườn ghe mình vì sợ
đối phương “ếm bùa” làm ghe có thể gãy đôi khi đua. Theo thông lệ xưa,
khi hai ghe đang đua nhưng nếu ghe kia vì bơi thua nên cố ý đụng làm cả
hai chiếc bị chìm thì coi như xử huề.
Trong
lúc đua ghe ngo, việc cầm giữ lái để chiếc ghe đi đúng hướng kết hợp
nhịp bơi của những mái dầm phải thật nhịp nhàng là yếu tố quyết định đến
tốc độ của ghe. Tốc độ của ghe đua khi về đích có thể đạt đến trên
30km/h nên nếu cầm lái yếu rất dễ làm ghe bị lật úp, đặc biệt là ở những
khúc quanh. Kỹ thuật đóng ghe cũng là một bí quyết chỉ có các nghệ nhân
biết, đặc biệt là nghệ thuật “dằn cây cần câu” ở giữa lườn ghe ngo.
Ngoài việc giữ cho chiếc ghe Ngo (vốn là chỉ một thân gỗ độc mộc) được
chắc chắn, chịu đựng được nhịp nhún và lực của các tay bơi, chiếc cần
câu còn phải có được độ dẻo nhất định sao cho với mỗi nhịp nhún của các
tay dầm thì mũi ghe cũng “cất mũi” rướn tới. Để được ngồi ở mũi ghe,
ngoài kinh nghiệm về bơi đua, người ngồi mũi còn phải là “mạnh thường
quân” trong bổn Sóc, phải là người đã có nhiều đóng góp về tài vật cho
đội ghe như góp gạo, mổ heo, bồi dưỡng đường, sữa để “o bế gà” của Sóc
mình.
Tuyến
đường dài khoảng 5km dọc hai bờ sông Maspéro chật kín người và xe,
tiếng hò reo của những cổ động viên làm náo nhiệt cả dòng “sông Trăng”
thơ mộng. Không chen kịp chân đến khu vực khán đài, nhiều người đã leo
lên mái nhà, ngọn cây và lội xuống sông xem đua ghe ngo. Suốt đêm ngày
lễ hàng ngàn người Khmer ở các tỉnh miền Tây không ngủ mà tiếp tục kéo
về Thi xã để cùng nhau... đi bộ giữa dòng người chật ních tất cả tuyến
đường chính của Thị xã để xem hội diễn nghệ thuật quần chúng và trình
diễn trang phục dân tộc thiểu số tỉnh Sóc Trăng.
Lễ Phật Đản và Vía Bà Châu Đốc
Chúng
ta chỉ nghe kể và biết đến quang cảnh tưng bừng vào dịp lễ Phật đản nào
là chư Thiên rải hoa, có nhạc trời trổi vang lừng, có nước trời tuôn
xuống tắm gội và Ngài đi bảy bước trên hoa sen… song chúng ta không để ý
nên chẳng hiểu thấu được nhiệm vụ, trọng trách, sứ mệnh gian nan cực
cùng của Phật khi Ngài sinh vào đất nước Ấn đầy dẫy thần quyền, áp bức
và bất công này.[9]
Người
viết không có ý định bàn về tôn giáo chỉ muốn biên sơ qua về quan niệm
Phật học và ảnh hưởng của đạo Phật trong đời sống hàng ngày của dân miền
Tây mà thôi.
Theo
trí nhớ người viết thì người dân miền Tây hằng năm đi dự 2 đại lễ,
ngoài Tết Nguyên Đán – lễ Phật Đản và Vía Bà Châu Đốc. Lễ hội Phật đản ở
nước ta được tổ chức quy mô hoành tráng mang tính lễ hội của dân tộc,
vì thực ra ngay từ thời kỳ đầu Phật giáo mới du nhập, Đại lễ Phật đản đã
được cộng đồng Phật giáo bấy giờ tôn vinh. Cơ sở để thực thi tổ chức lễ
Phật đản đã được định hình từ một nền Phật giáo quyền năng trước đó,
xuất phát ở trung tâm Phật giáo với các hình thái sinh hoạt tín ngưỡng,
học thuật phát triển. Hình ảnh rước Phật Tứ Pháp trong ngày Lễ Phật đản
để cho dân chúng mọi nơi được dịp chiêm ngưỡng lễ bái cầu nguyện là điều
tất nhiên. Trong ý nghĩa, ngôi chùa không chỉ là trung tâm văn hóa,
giáo dục, học thuật của Phật giáo mà còn là nơi quy tụ, kết nối sự yêu
thương, tinh thần đại đoàn kết cả dân tộc được thể hiện trên mọi lĩnh
vực. Do đó, lễ hội của Phật giáo là quy luật tất yếu. Một mặt nó đáp ứng
và giúp cho mọi người khi nhìn thấy sự tôn vinh hình ảnh Đức Phật đản
sinh mà phát nguyện tự tìm thấy Đức Phật của mình trong chính bản thân
mình, mặt khác từ đây sẽ kết nối liên thông giữa mọi tầng lớp trong xã
hội, hãy đến với nhau bằng tinh thần từ bi, trí tuệ, vô ngã, vị tha theo
thông điệp “Dù ai buôn bán ở đâu, tháng tư ngày tám rủ nhau hội chùa”…
Theo
tín ngưỡng miền Tây thì hàng năm vào ngày 25 tháng tư âm lịch dân ta nô
nức đến dự lễ Bà Chúa Xứ Châu Đốc. Đây cũng được xem là bắt đầu của
cuộc hành hương về Núi Sam để vía Bà…Nhớ lúc còn bé chúng tôi rất nôn
nóng đêm trước khi khởi hành với hàng vạn Phật tử khắp nơi đổ xô về núi
Sam Châu Đốc để hành hương. Trên xa lộ hàng hàng lớp lớp xe cộ nối đuôi
nhau trông cảnh rất nhộn nhịp không khác gì ngày tết vì mọi người cùng
có một chí hướng duy nhất là đi hành hương vía Bà Chúa Xứ Châu Đốc.[10]
Theo
thiết nghĩ điều quan trọng nhất trong tất cả tôn giáo vẫn là “niềm
tin”. Có thể là niềm tin ở đấng Tối cao, Thượng đế, Đức Phật hay hơn nữa
là sự tự tin ở chính bản thân mình. Để có niềm tự tin thì ta phải
thành công nơi chính mình, phải thấy được cái hay cái đẹp trong lòng
mình. Để khắc phục được “niềm tin” ta phải sống sâu sắc trong từng giây
phút của đời sống, phải biết sử dụng nó một cách lợi ích cho mình và cho
người khác. Ta phải tập buông bỏ lòng tự hào và ích kỷ để sẵn sàng hòa
nhập mình vào tất cả. Nếu ta có đời sống nội tâm vững vàng như vậy, thì
có đặt câu hỏi về niềm tin hay không cũng không còn là vấn đề quan trọng
nữa. Cho nên đức tin có hiểu biết luôn dẫn đầu trong mọi thành công…
Thay lời kết:
Nếu như mỗi người trong chúng ta đều tự thấy con đường của chính mình
cùng với lịch sử dân tộc đang trải qua…càng ngày càng xa rời cội nguồn
thì nhất định sẽ có một ngày đó chúng ta sẽ nhớ lại nơi “chôn nhau cắt
rốn” của mình hoặc sẽ nhớ lại từ “quê cha đất tổ” ngược dần đến mảnh đất
miền Tây nơi đó có “Cha ông Ta” đã bỏ công gầy dựng và khai sáng nền
văn minh của cả một dân tộc như dân tộc Trung Quốc có Hoàng Đế là đại
diện, Nhật Bản có Thái Dương Thần Nữ là thủy tổ, còn dân tộc Việt Nam là
con Rồng cháu Tiên…
Là
một người con xuất thân từ xứ xở miền Tây, trong tôi lúc nào cũng có
lòng tự hào của dân tộc miền Tây yêu dấu, với những hoài niệm thời thơ
ấu không thể nào xóa bỏ được dấu vết của quê hương trong tiềm thức. Sống
giữa cộng đồng với nhiều chủng tộc khác nhau, chúng ta rất hảnh diện là
người Việt Nam, và giữa những người Việt với nhau, chúng ta tự hào là
một đứa con miền Tây.
Chúng
ta đã gắn bó với quê hương từ dòng máu, từ làn da và sẽ mãi mãi ấp ủ
một quê hương mang theo như một người con xa xứ, như một kẻ ly hương
không bao giờ quên câu ca dao, tiếng mẹ ru con vừa da diết, thiết tha
vừa ẩn chứa nỗi nhớ niềm thương về một chốn quê xa, những giọng hò trên
sông và sáu câu vọng cổ của xứ sở Miền Tây…
Khi
chúng ta sống trên đất khách và hòa nhập với nền văn hóa tây phương
chúng ta đã hiểu rất nhiều và ta thường ví như “ăn cơm tàu ở nhà tây và
sống với nhiều tiện nghi kiểu Mỹ”. Rốt cuộc rồi “ta về ta tắm ao ta dù
trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Câu ca dao bất hủ nầy không muốn biện hộ
rằng xứ sở quê hương miền Tây chúng ta là nhất và cũng không có nghĩa là
quê hương ta có đời sống khá hơn tiện nghi ở hải ngoại, ngược lại miền
Tây chúng ta vẫn còn nghèo lắm, xứ sở thân yêu chúng ta vẫn còn rất
nhiều thiếu thốn về mặt vật chất cho nên chúng ta luôn có một hoài bảo
là muốn thấy dân miền Tây càng ngày càng có nếp sống khấm khá hơn... Đây
là trách nhiệm của tất cả chúng ta nên giữ gìn, quảng bá và phát huy
nền văn hóa miền Tây một cách hiệu quả, bảo tồn bản sắc văn hóa Nam Bộ
nói chung và Miền Tây nói riêng.
Khép
lại câu chuyện về ký ức xa xứ của một Việt kiều ở cái tuổi ngủ tuần
muốn tìm hiểu về nguồn cội miền Tây thân yêu một thuở, dội vào những âm
thanh náo nhiệt của những tiếng bong bong từ chiếc ghe ngo, những bài ca
vọng cổ từng vang bóng một thời và những âm hưởng của cuộc sống êm đềm ở
miền Tây. Tôi vẫn nghĩ rằng một khi văn hóa của một dân tộc mãi mãi mất
đi thì người dân sẽ không còn nguồn cội, tuổi trẻ thế hệ kế tiếp sẽ hỏi
rằng nền văn hóa chúng ta từ đâu có và sẽ đi về đâu...
Nguyễn Hồng Phúc
Muôn màu muôn vẻ mắm miền Tây Nam Bộ
Nhà
văn Đoàn Giỏi đã từng viết: "Nam Bộ ai mà không biết ăn mắm. Từ những
thị tứ đông đúc, đến các nơi hẻo lánh xa xôi, bất cứ chợ lớn, chợ nhỏ
nào cũng đều có bán mắm"...
Hiếm có món ăn nào đặc trưng và mang đậm nét miền Tây Nam Bộ như món mắm và đã là dân miền Tây thì không ai không biết ăn mắm. Mắm từ bao đời nay đã trở thành một món ăn không thể thiếu của những con người sông nước, miệt vườn bởi cái vị lạ lẫm của nó mà không nơi nào có thể có được.
Cứ mỗi mùa nước nổi là cá lại theo nhau về, nhiều đến nổi "ăn không hết" nên phải ủ lại làm mắm để dành ăn từ từ. Hoặc đi bất cứ chợ nà cũng có thễ dễ dàng tìm thấy mắm được bày bán khắp nơi, vô tình đã tạo thành một nét rất riêng của miền Tây. Muôn màu muôn vẻ với rất nhiều loại mắm : mắm cá lóc, mắm thái, mắm cá linh, mắm ruột...
Hãy cùng khám phá nét độc đáo của loại đặc sản mang đậm hồn quê Việt nam:
Hiếm có món ăn nào đặc trưng và mang đậm nét miền Tây Nam Bộ như món mắm và đã là dân miền Tây thì không ai không biết ăn mắm. Mắm từ bao đời nay đã trở thành một món ăn không thể thiếu của những con người sông nước, miệt vườn bởi cái vị lạ lẫm của nó mà không nơi nào có thể có được.
Cứ mỗi mùa nước nổi là cá lại theo nhau về, nhiều đến nổi "ăn không hết" nên phải ủ lại làm mắm để dành ăn từ từ. Hoặc đi bất cứ chợ nà cũng có thễ dễ dàng tìm thấy mắm được bày bán khắp nơi, vô tình đã tạo thành một nét rất riêng của miền Tây. Muôn màu muôn vẻ với rất nhiều loại mắm : mắm cá lóc, mắm thái, mắm cá linh, mắm ruột...
Hãy cùng khám phá nét độc đáo của loại đặc sản mang đậm hồn quê Việt nam:
Mắm cá lóc
Mắm
cá lóc là một món ngon đặc trưng của miền Tây Nam Bộ, nhưng nói đến
ngon nhất thì chỉ có mắm cá lóc ở Châu Đốc, An Giang. "Nam Bộ ai mà
không biết ăn mắm. Từ những thị tứ đông đúc, đến các nơi hẻo lánh xa
xôi, bất cứ chợ lớn, chợ nhỏ nào cũng đều có bán mắm. Mà mắm lóc trứ
danh lừng lẫy từ xưa nổi tiếng khắp Nam Kỳ lục tỉnh là mắm Châu Đốc-Long
Xuyên."
Chính nhà văn Đoàn Giỏi trong những năm xa cách quê hương miền Tây để tập kết ra Bắc, nhớ da diết món mắm cá lóc trứ danh Nam Bộ nên đã ký thác qua tác phẩm Đất rừng phương Nam nghe mà phát thèm.
Nhưng để có được món mắm cá lóc ngon thì phải trải qua một quá trình đòi hỏi sự công phu, khéo léo và tỉ mỉ của người làm. Cá cho vào nước muối ngâm khoảng 1 giờ thì vớt ra, để ráo. Sau đó, cho vào hũ để ủ theo công thức cứ 1 lớp cá thì 1 lớp muối.
Dùng vặt nặng, nén chặt cá để bảo đảm cá phải có đủ độ nén cần thiết và ủ trong 2 tháng. Sau 2 tháng thì lấy cá ra để cho ráo nước rồi đem trộn đều với thính rồi lại cho ủ tiếp cùng nước muối trong 1,5 tháng nữa mới có thể dùng được.
Chính nhà văn Đoàn Giỏi trong những năm xa cách quê hương miền Tây để tập kết ra Bắc, nhớ da diết món mắm cá lóc trứ danh Nam Bộ nên đã ký thác qua tác phẩm Đất rừng phương Nam nghe mà phát thèm.
Nhưng để có được món mắm cá lóc ngon thì phải trải qua một quá trình đòi hỏi sự công phu, khéo léo và tỉ mỉ của người làm. Cá cho vào nước muối ngâm khoảng 1 giờ thì vớt ra, để ráo. Sau đó, cho vào hũ để ủ theo công thức cứ 1 lớp cá thì 1 lớp muối.
Dùng vặt nặng, nén chặt cá để bảo đảm cá phải có đủ độ nén cần thiết và ủ trong 2 tháng. Sau 2 tháng thì lấy cá ra để cho ráo nước rồi đem trộn đều với thính rồi lại cho ủ tiếp cùng nước muối trong 1,5 tháng nữa mới có thể dùng được.
Mắm
này khi ăn người ta thường đem chưng với thịt băm và trứng hoặc cũng có
thể đem lên kho với nước dừa cho dậy lên mùi thơm nức mũi, ăn kèm với
rau sống thì ngon không cưỡng lại được. Chính vì thế mà người dân Nam Bộ
mới phát ghiền cái món dân dã hồn quê này.
Mắm cá lóc kho nước dừa
Mắm cá linh
Cá
linh làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau thì dùng vỉ tre để gài
chặt xuống. Sau 1 tháng, vớt cá ra đem trộn thính vào rồi cho lại vào hũ
gài chặt lại. Để qua một tháng nữa thì lại vớt ra cho đường vào, trộn
đều rồi mang ủ thêm. Khoảng 1 tháng tiếp theo là có thể dùng được. Công
phu là thế, cầu kì là thế, nhưng người dân nơi đây không vì thế mà bỏ
qua món ngon độc đáo này.
Mắm cá linh được bán nhiều trong chợ
Mắm
cá linh có thể ăn được với bún hay cơm, hoặc cũng có thể làm lẩu mắm
với cá, tôm, thịt ba rọi và cà tím. Tùy vào khẩu vị của từng vùng mà
cách chế biến thành thức ăn có thể khác nhau, nhưng hương vị của món mắm
cá linh thì vẫn giữ lại được nét đặc trưng khó mà lẫn được với các loại
mắm khác.
Mắm thái
Mắm
thái được chế biến khá cầu kì và phức tạp và nhất định là phải dùng
loại cá lóc to, thịt nhiều. Cá được đem đi ngâm muối sau khi đã thái
thành phi lê. Trung bình phải mất khoảng 6 tháng đến 1 năm thì mắm mới
có thể ngon được.
Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu nhẹ, thịt ửng hồng, không cứng quá cũng không được mềm nhũn quá. Mắm sau khi đã ủ đủ thời gian cần thiết thì mang ra đem chao lại với đường, và đường phải là đường thốt nốt thắng cho đến khi có chỉ rồi thêm gia vị. Đó cũng là lúc màu sắc, hương vị đạt được đến độ ngon của con mắm. Sau đó, đem con mắm thái thành sợi, trộn với thính hạt nhuyễn, có thêm cả đu đủ xanh đem bào thành sợi mỏng, muối cho mặn để khoảng 10 ngày sau cho hết mùi, xả sạch thì đem trộn chung với mắm theo tỷ lệ 50/50.
Chỉ cần nghe cách làm món mắm này thôi cũng đủ để hiểu phải công phu như thế nào mới có thể cho ra lò được món mắm vừa thơm ngon. Cái ngon nằm ở sự hài hòa giữa vị mặn và vị ngọt, kết hợp với cả cái giòn của đu đủ cũng khiến cho người ta ăn thử một lần là nhớ mãi không quên
Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu nhẹ, thịt ửng hồng, không cứng quá cũng không được mềm nhũn quá. Mắm sau khi đã ủ đủ thời gian cần thiết thì mang ra đem chao lại với đường, và đường phải là đường thốt nốt thắng cho đến khi có chỉ rồi thêm gia vị. Đó cũng là lúc màu sắc, hương vị đạt được đến độ ngon của con mắm. Sau đó, đem con mắm thái thành sợi, trộn với thính hạt nhuyễn, có thêm cả đu đủ xanh đem bào thành sợi mỏng, muối cho mặn để khoảng 10 ngày sau cho hết mùi, xả sạch thì đem trộn chung với mắm theo tỷ lệ 50/50.
Chỉ cần nghe cách làm món mắm này thôi cũng đủ để hiểu phải công phu như thế nào mới có thể cho ra lò được món mắm vừa thơm ngon. Cái ngon nằm ở sự hài hòa giữa vị mặn và vị ngọt, kết hợp với cả cái giòn của đu đủ cũng khiến cho người ta ăn thử một lần là nhớ mãi không quên
Mắm thái ăn với bún và thịt luộc
Đa
số những người sành ăn mắm đều nhất quyết chọn mắm thái là loại mắm dễ
ăn nhất vì mùi vị của nó dễ chịu hơn những loại mắm khác và hương vị thì
vô cùng độc đáo. Người ta hay ăn mắm thái với thịt luộc, rau sống và
nước mắm chua ngọt hoặc cũng có thể cuốn tất cả lại với bánh trán
Mắm ruột
Đây
là loại mắm được làm từ ruột cá lóc. Muốn làm được món mắm này thì phải
chọn loại cá to, có trứng mang sắc vàng ươm, sau đó làm sạch phần bao
tử cá và ruột non. Nước muối dùng để ngâm loại mắm này cũng cần phải
được pha chế cầu kì vì ruột cá khi ngâm phải đảm bảo được độ thấm mặn
tận bên trong thì mắm mới không bị hư. Sau khi ngâm khoảng 2-3
ngày thì vớt ruột cá để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi lại
cho vào hũ ém chặt, sau đó chế nước mắm lên trên mặt. Ủ trong khoảng 1
tháng thì đem mắm ra chao lại với đường thốt nốt và sau đó lại ủ lại.
Mất đến 4 tháng thì hủ mắm mới có thể thật sự ngon và có vị thơm đậm đà
Làm mắm ruột phải qua nhiều công đoạn
Khi
ăn, hay ăn kèm với xà lách, húng cay, khế, chuối chát, và thịt ba rọi
luộc thái mỏng, cuốn tất cả lại với bánh tráng Và để món ăn thêm phần
đậm đà người ta thường chấm với nước mắm chua chua, ngọt ngọt
Mắm ruột có mùi vị rất đặc trưng và lạ miệng
Theo afamily
Theo afamily
ẨM THỰC LỤC TÌNH MIỀN TÂY
Bài
viết là một sưu tầm được phỏng ra từ nhiều tài liệu và viết bởi 1 nhóm
bạn hữu – Hùynh Ngọc Minh (Portland) và Trần Thu Hương (Fort Worth) và
Nguyễn Tuyết (Brussels). Đây không phải là cẫm nang để nấu nướng
(recipe) mà là một lời giới thiệu về những món ăn ngon của mỗi 6 tỉnh
nằm trên quốc lộ 1A miền Tây Nam bộ.
Dưới
triều Minh Mạng Nam Kỳ Lục Tỉnh bao gồm 3 tỉnh miền Đông: Gia Định,
Biên Hòa, Định Tường và 3 tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Sau đổi thành 13 tỉnh và 1 thành phố. Nhưng danh từ Lục Tỉnh vẫn được
lưu truyền…
Người
ta nói rằng nét đặc trưng của miền Bắc là những triều đại, miền Trung
là những dãy núi non hùng vỉ, bờ biển trải dài cát trắng mịn thì miền
Tây Nam bộ là sông nước kênh rạch chằng chịch. Phần lớn diện tích ở miền
Tây Nam bộ là sông ngòi đan xen và những cánh đồng xanh rì cò bay thẳng
cánh. Hằng năm lớp phù sa từ thượng nguồn theo dòng chãy của các con
sông lớn mang về bồi đắp làm đất đai phì nhiêu cánh đồng thửa ruộng, cây
trái tươi tốt.
Để
đơn giản hóa bài viết và trong tinh thần đề xướng và nêu cao nền ẩm
thực của miền Tây, bài viết được dùng Lục Tỉnh theo định nghĩa của dân gian trước năm 75.
Lục tỉnh nằm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long phía nam Việt Nam rộng 8,000km2
với hơn 8 triệu dân gồm 6 tỉnh – Mỹ Tho, Vỉnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng,
Bạc Liêu và Cà Mau. Hơn 400km bờ biển, khỏang 14,000km sông ngòi, hàng
ngàn km kinh đào với vài chục cù lao xanh bồng bềnh trên sông nước cùng
chín cửa sông (Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu, Định
An, Trần Đề và Bát Sắc) như chín miệng rồng tạo thuận lợi cho các tàu bè
và du thuyền đi sâu vào kênh rạch…
Những
chợ nổi như Ngã Bảy Phụng Hiệp, Cái Răng, Phong Điền, Cái Bè và Ngả
Năm…hình thành cả trăm năm qua là sự tiến bộ của văn minh sông nước trời
Nam. Một khoảng không gian sống động bởi những đoàn ghe tàu chất đầy
sản vật miệt vườn tụ về một điểm với người mua kẻ bán đều đi lại bằng
thuyền giữa khoảng trời nước bao la. Một bức tranh sinh họat thôn quê
Nam bộ thật đặc trưng và cả một nền văn hóa ghe xuồng phong phú với
xuồng ba lá, ghe bầu, v.v.v.
Nét
văn hóa dễ nhận ở người dân của vùng đất Lục Tỉnh này là bản tính đôn
hậu, phóng khóang, trọng đạo nghĩa, thân thiện hiếu khách “Tứ Hải giai
huynh đệ”. Miền tây cũng là vùng đất đa dạng sinh thái, sản vật giàu có,
nơi giao tụ văn hóa của 3 dân tộc Việt, Khmer và Hoa. Cư dân nơi đây
không sống khép kín trong lũy tre làng như miền Băc lạnh lẽo. Ngược lại
họ ở trong những túp nhà tranh không khóa cửa, tập trung theo trục giao
thông như đường cái, ven sông rạch và mở toang ra bên ngoài. Người Lục
Tỉnh ở miệt vườn hay miệt ruộng tuy có khác nhau về phong thái xã hội
nhưng phần lớn họ đều nặng lòng ái quốc như nhau. Họ ăn mặc đơn giản,
ngắn gọn nên chiếc áo bà ba rất thích hợp với mọi người và mọi lứa tuổi.
Từ đó, tính tình người miền Tây, nhất là miền Lục Tỉnh, tỏ ra thật thà,
bộc trực, không thích suy nghĩ, nói năng quanh co, bợ đỡ, xảo
trá...Trong quan hệ giao tiếp, họ luôn luôn nhiệt tình với lối xóm, bạn
bè với câu thành ngữ gối đầu “bà con xa không bằng láng giềng gần”.
Trong
nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi dân tộc,
mỗi miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và phong phú.
Người nông dân Lục Tỉnh lao động có tính cần cù và dũng cảm. Thế hệ sau
tiếp nối thế hệ trước sống bảo vệ lẩn nhau để phòng chống thú dữ trên
rừng để tăng gia sản xuất. Và trong tinh thần tồn tại, phát triển giống
nòi và bảo vệ sản xuất, tất yếu các gia đình nông dân trong họ tộc, xóm
làng liên kết lại và hợp tác lao động phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông
rạch, làm đường giao thông. Tuy cuộc sống vô cùng cơ cực ngày ngày lao
động trên đồng ruộng, đêm đêm nam nữ quây quần giã gạo, rồi ca hát hoặc
hò đối đáp dưới ánh trăng, tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa
tình.
Ông
cha ta trước đây là những người nông dân có mặt ở vùng đất Lục Tỉnh
miền Tây này hơn 300 năm. Họ cũng là những nông dân đến từ nhiều vùng ở
miền Trung, miền Bắc. Tuy buổi đầu lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ
trăm đắng ngàn cay bởi rừng thiêng nước độc, thú dữ, người nông dân
thiếu cả công cụ, phương tiện lao động... nhưng họ vẫn kiên cường tranh
đấu làm việc trên mảnh đất trù phú thân yêu của họ.
Là
một người con sinh trưởng ở miền Tây với bà con xa gần cư ngụ rãi rác ở
khắp mọi miền như cồn Rạch Vộp chóang ngợp với trái cây qua quả xanh
tươi nặng trĩu như mận, ổi, chôm chôm, xoài, v.v.v. Ngã Bảy Phụng Hiệp,
tôi ghi đậm trong lòng những dòng kinh đào chảy về bảy ngã chan hòa nước
ngọt với những gian thuyền bồng bềnh trên sông mà cũng là ngôi nhà yêu
quý của cư dân nơi đây. Không sao quên được hương vị nem Cái Răng và món
cháo lòng Cái Tắc. Tôi lại nhớ những ngày tháng mà mỗi lần nhìn thấy
những luống cải non khi có dịp đi thăm họ hàng thân thuộc ở Phong Dinh,
những giồng rau muống vừa mới trồng, những con lươn đựng đầy trong mấy
thùng phuy lút nhút là lòng tôi không khỏi xót xa cho một đoạn đời niên
thiếu đã qua.
Nhiều
năm tháng đã qua đi với biết bao nhiêu đổi thay, thăng trầm của cuộc
sống. Riêng tôi vẫn nơi đây với trái tim tôi nhớ về một góc trời quê
hương nơi có những mái nhà tranh với khói lam chiều, có những bờ đê,
khóm trúc, với những giòng sông lặng lờ, uốn lượn quanh những lũy tre
làng, nơi có những tấm lòng rộng mở của các bà mẹ già, và có những nụ
cười thật tươi của những trẻ em thơ ngây.
Trên
con đường ra đi khai phá miền đất hoang sơ, màu mỡ phương Nam, Ông cha
ta đã mang theo những kiến thức kinh nghiệm vốn được un đúc trong cuộc
sống mấy ngàn năm trên đất Bắc. Những kinh nghiệm đốt rẫy, phá rừng,
trồng cây, đánh cá... trong đó có cả một vốn kinh nghiệm quí báu rất
thiết thực trong cuộc sống hàng ngày: Chọn lựa và chế biến thức ăn để
sinh tồn.
Nói
về món ăn Lục Tỉnh đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra từ hương vị ngọt ngào
riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch dâng tràn mùa
lũ, khí trời lồng lộng gío biển Tây Nam. Đó chính là nguyên liệu đầu
tiên cho ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành đất lành chim đậu,
mưa thuận gió hòa, ngày càng trù phú và phồn thịnh.
Có
người ví ẩm thực Lục Tỉnh miền Tây như cô gái thôn quê không cần trang
điểm mà vẫn đẹp mặn mà. Người ta ví cá kho tiêu như “cá rô là chúa của
cá đồng”, nước mắm là tinh túy của đại dương, rắc chút tiêu là lấy hương
của đồi núi… Miền Tây có những món ăn mộc mạc như cá lóc nướng trui,
bún nước lèo, mắm kho, chuột đồng rôti lá cách, ếch xào ống tre, bánh
cống Xoài Cà Nã, hủ tiếu Mỹ Tho, lẩu mắm rau đắng, lươn um, tôm lụi Bạc
Liêu, lẩu cá basa, lẩu cá kèo, lẩu lươn, v.v.v….
Hủ Tiếu Mỹ Tho
Theo
một giả thuyết, sợi mì từ Trung Hoa theo chân Marco Polo về châu Âu
biến thành món mì Spaghetti nổi tiếng khắp thế giới. Hủ tíu kém danh hơn
mì nhưng dù mềm hay dai cũng được làm bằng bột gạo, một thứ thực phẩm
đặc chế của văn minh của cây lúa miền Tây. Cho dù sợi hủ tíu vị Tàu,
Việt hay Nam Vang, từ bản chất đã trở thành một thứ thực phẩm đặc thù
Việt Nam.
Nổi
tiếng nhất miền Tây Nam bộ, hủ tiếu Mỹ Tho nhờ sợi bánh làm bằng gạo Gò
Cát (Mỹ Phong). Sợi bánh khi trụng sơ có độ khô dai vừa phải, ngấm mỡ
hành phi của nước lèo trở nên trong bóng, mát mắt. Hủ tíu nấu theo cách
Mỹ Tho từ xưa đã nổi tiếng ngon, những cọng hủ tíu dai tự nó tạo ra khẩu
vị không nhầm lẫn, nước lèo cũng ít dùng bột ngọt, thường kèm vị ngọt
của nước mắm nhỉ cũng phong phú gia vị nhưng ít mỡ béo, có khi ăn kèm
với cần tây, cải xà lách, rau tần ô, tôm, thịt nạt, tim, gan, phèo, phổi
heo cùng miếng chả tép chiên giòn. Hủ tiếu Mỹ Tho ngon còn nhờ nước lèo
hầm thật lâu với xương ống, khô mực nướng cùng một số nguyên liệu, gia
vị đặc biệt gia truyền, hớt bọt liền tay nên nước lèo trong văn vắt tỏa
mùi thơm một cách tuyệt vời. Người ta không thể nào quên được mùi thơm
của nước lèo mỗi khi người làm bếp mở nấp nồi. Ngày nay để tân tiến hóa
hủ tiếu Mỹ tho, bát hủ tiếu được cho thêm tôm, vài cái trứng cút và vài
miếng thịt heo quay cho tăng phần hấp dẫn của tô bún.
Vĩnh Long với Lẩu lươn
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về
Cần
Thơ được mệnh danh là Tây Đô cũng là trung tâm văn hóa của miền Tây với
nhiều đặc trưng văn hóa độc đáo của cư dân nông nghiệp vùng Nam bộ. Cần
Thơ còn được nổi tiếng với bến Ninh Kiều, nhà cổ vườn Lan, vườn cò Bằng
Lăng, v.v.v…Vườn cò Bằng Lăng thuộc quận Thốt Nốt cách Cần Thơ 45km.
Vườn rộng hơn 2 ha có trên 20 lòai chim, 10 giống cò với số lượng đông
hàng chục ngàn con sinh sống trong vườn. Đến vườn du khách sẽ tận mắt
chứng kiến cảnh từng đàn cò trắng dập dìu bay về tổ vào những lúc hòang
hôn xuống…
Nhà
cổ Vườn Lan được xây dựng theo phong cách độc đáo, dung hòa văn hóa
Đông – Tây vào những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 (1870). Nền nhà
cổ cao ốp đá hộc, lối đi hai bên, có bao lơn án ngữ với nhiều cửa lá
sách ở mặt tiền, vòm mái có nhiều hoa văn với các chi tiết điêu khắc rất
tinh xảo nơi đầu kèo, cột, cùng với liễn đối, chạm trổ tứ linh (long,
lân, qui, phụng) sơn son thếp vàng. Nội thất còn nhiều cổ vật quý. Nhà
cổ Vườn Lan là một trong những dấu vết của quá khứ tồn tại đã gần một
thế kỷ rưỡi, gợi nhớ thuở cha ông ta đi khai mở đất phương Nam. Trong
sân vườn có một cây xương rồng cao gần 8m, gọi là “Kim lăng trụ” nổi bật
và gây ấn tượng... Ngoài ra Cần Thơ có những món ăn ngon như nem Cái
Răng, mì đầu heo, bánh xèo, cháo sò huyết và bánh tét lá cẩm,
v.v.v...
Một
trong những món ăn được ưa chuộng ở miền Nam là bánh xèo. Nguyên liệu
chính để làm món bánh này là bột gạo pha với nước cốt dừa, bột nghệ cùng
nhiều thứ gia vị khác.
Người
miền Tây không gọi là “làm bánh xèo” mà phải gọi là “đổ bánh xèo”. Múc
một chén bột đổ vào cái chảo gang nóng bừng, nghe xèo một tiếng, rồi
tiếp tục cho nhân bánh vào gồm: tôm, thịt ba rọi, giá sống và củ sắn
sống và có thể để thêm một ít thịt vịt xiêm thái nhỏ sợi. Bột để làm
bánh xèo là bột gạo pha với nước cốt dừa, nghệ củ cho có màu vàng tươi
và một ít hành thái nhỏ. Bánh xèo thường được ăn kèm với rau cải xanh,
xà lách cùng với các lọai rau thơm và có thể dùng với lá xòai non thì
rất là ngon miệng. Đặc biệt nước chấm phải được pha chế đúng kỹ thuật
mới làm tăng hương vị của món ăn nầy. Nước chấm phải chọn loại nước mắm
thơm đậm, ớt tỏi giã nhuyễn trộn với đường cát trắng, bột ngọt vắt thêm
lát chanh, dầm với dưa chua củ cải thành món nước chấm vừa cay ngọt vừa
thơm nồng. Món bánh xèo cũng phải ăn bằng tay, có dân dã như vậy mới
thưởng thức trọn vẹn hương vị độc đáo của món bánh xèo: chua, cay, thơm
ngọt, nồng thắm mà mượt mà.
Bánh
xèo là món ăn rất gần gũi, đượm tính dân tộc. Món bánh này đã được gìn
giữ bao đời nay trên mảnh đất miền Nam. Chiều nay lại mưa và rất nhớ.
Nghe đâu như ắp đầy hết cả không gian nơi này là những tiếng "xèo xèo";
hương vị đậm đà của những cặp bánh, bếp than ấm nồng… Và nhớ cả đôi mắt
nhiều háo hức của một ai đó, xa xưa.
Cháo
sò huyết được chế biến để tăng bổ dưỡng, chữa bệnh nên người Cần Thơ
chế biến và thêm đậu xanh với thịt heo. Sò sau khi rửa sạch sẽ không
được luộc bằng nước sôi mà dùng dao tách đôi vỏ lấy ruột sò ra để đảm
bảo độ dinh dưỡng cao. Thịt nạt heo sau khi được băm nhuyễn cùng ruột sò
được phi qua với hành tím trong mỡ vừa chín tới, nêm gia vị mắm muối,
bột ngọt, tiêu cho vừa ăn. Gạo cũng được vo sạch, để ráo nước. Đổ gạo
vào chảo mỡ nóng đã khử tỏi, rang cho bột gạo se lại, ngả màu vàng là
được. Nêm vào gạo rang chút bột ngọt và muối. Xong bắc nước đun sôi, đổ
đậu và gạo rang vào nấu khừ. Khi ăn cho hổn hợp thịt heo, sò huyết vào
cháo, thêm hành lá thái nhỏ, nêm vừa ăn, tùy theo khẩu vị từng người.
Khi múc cháo ra bát, rắc thêm tiêu và để lên trên vài cọng ngò. Món cháo
sò huyết thật tuyệt vời khi vừa ăn vừa thổi mới thây vị ngon hấp dẫn
của nó và sẽ làm ta quên hết ưu phiền mệt mỏi sau một ngày lao động mệt
nhọc...
Nói
về bánh tét lá cẩm Cần Thơ có một hương vị riêng rất là đặc biệt. Phải
là lọai nếp thơm và dẻo ngâm với lá cẩm để có màu tím tự nhiên. Sao đó,
cho nếp này xào với nước cốt dừa trước khi gói. Công thức thì không khó
nhưng làm được một cái bánh ngon đòi hỏi với nhiều kinh nghiệm. Bánh
được nấu từ 4 đến 5 tiếng đồng hồ là chín. Khi cắt bánh, vành ngòai ánh
lên một màu tím mượt mà của nếp, kế đến là màu vàng của đậu, màu trắng
của mở, màu đỏ của chuối, màu nâu của thịt và màu đỏ của tròng đỏ trứng
vịt muối, bên trong là thịt, tròng đỏ hột vịt muối, mỡ và đậu tỏa mùi
thơm của bánh.
Can
Thơ là xứ sở quê hương của cha tôi và quê nội thân yêu cho nên mỗi khi
đến dịp tết và ngày giổ lớn, chúng tôi phải đi thăm họ hàng xa gần ở
Phụng hiệp, Cái Răng và Cái Tắc. Bà con chúng tôi thường đãi giòng họ
đến thăm bằng cách cắt bánh tét lá cẩm bày ra đĩa là một “bãng màu”
trông thật hấp dẫn nào là xanh đỏ tím vàng và nâu và rất là khiêu gợi và
mời mọc. Bánh tét lá cẩm có thể để đến khoảng 10 ngày nên du khách có
thể mua ở bến Ninh Kiều và mang về làm quà biếu người thân.
Bún Nước lèo Sóc Trăng
Sóc
trăng là một trong những tỉnh giàu có ở phía tây nam của Việt Nam, nơi
tụ hợp của 3 cộng đồng Việt, Hoa và Khmer đã sống với nhau thân thiện
trong nhiều năm. Người dân Sóc trăng cũng thường cần cù, chịu khó và;
trong thực tế, cả hai Vương Hồng Sển, một học giả nổi tiếng, và Tiến sĩ
Lương Định Của, một nhà nông học, sinh ra tại Sóc trăng.
Sự
chung sống của các đân tộc Kinh-Hoa và Khmer và sự trào lưu với thương
hồ người Ấn đã mang đến Sóc Trăng nhiều ẩm thực có nét độc đáo riêng với
những món ngon như cơm càri, cháo giò heo, bún nước lèo… Một đặc diểm
khác của ẩm thực Sóc Trăng là quán thường không có tên, nhưng ai cũng
biết tên người chủ quán và dễ tìm vì đường phố ở Sóc Trăng quá ngắn. Đến
Sóc Trăng bạn không thể bỏ qua món bún nước lèo. Ngòai những món ăn
trên Sóc Trăng còn món bò nướng ngói Mỹ Xuyên. Bên cạnh những nền văn
hóa và xã hội, Sóc trăng cũng được phân biệt bởi các món ăn đặc biệt của
nó, và món ăn nhẹ như, bánh đậu Vũng Thơm, bánh tôm Nhu Gia, lạp xưởng
Phú Tâm, “bánh cống” Đại Tâm, v.v.v…
Bánh
cống thì ở đâu cũng có nhưng cách chế biến và hương vị khác nhau. Để có
được cái bánh cống vừa giòn, vừa xốp, vừa thơm phụ thuộc vào bí quyết
pha bột trước khi đổ vào khuôn. Người ta phải ngâm gạo và đặc biệt là
phải pha trộn một tỉ lệ nhất định với đậu nành suốt một đêm, trước khi
chiên bánh người ta mới xây bột, lọc lại và chiên bánh, từ dó bánh cống
được chiên rất xốp và dòn. Khâu này mới quan trọng quyết định cái hương
vị bánh cống Sóc Trăng, nên không ai dạy cho nhau mà chỉ truyền lại cho
con cái. Nên có lần về Sóc Trăng xin mời bạn nhớ thưởng thức bánh cống
Sóc Trăng để giữ 1 ấn tượng sâu sắc về miền đất Xoài Cà Nã này.
Phần
kế của bài viết này bao trùm một giới thiệu ngắn gọn về cái gọi là Bún
Nước Lèo hay còn được gọi là “bún mắm” là món ăn phổ biến nhất của Sóc
trăng. Các thành phần chính của bún nứớc lèo chủ yếu dựa trên mắm cá.
Lúc
nguyên thủy, bún nước lèo là một món ăn của người Khmer được nấu với
mắm, nhưng người Việt đã chế biến lại để trở thành một món ăn đặc sắc
phản ảnh nền văn hóa ẩm thực từng vùng. Người Trà Vinh làm nước lèo bằng
cách dùng nước mắm nấu loãng ra, lược và sử dụng tất cả nên có màu đục
của mắm nguyên chất, và đôi khi bỏ cả nghệ (turmeric) cho có màu vàng
vàng trong khi người Bạc Liêu thì thêm cả tép và bì trong tô bún đượm
màu nổi bật quê hương của miền cuối Việt.
Riêng
ở Sóc Trăng bún nước lèo là một món ăn đặc trưng của người Việt qua
nhiều quá trình chế biến công phu để chúng ta có được một món ăn tổng
hợp cả vị thơm nồng của mắm nhưng đã được bổ sung thêm vị thơm của ngải
bún và củ xả. Ai đã từng ăn bún nước lèo do chính người Sóc Trăng nấu
mới thấy hết vị ngon và công phu của người chế biến.
Đầu
tiên mắm sặc được nấu trong nồi nước (nước vừa đủ để làm tan hoàn toàn
mắm), sau đó lược qua một lần, để nước lóng lại đến khi trong và lớp cặn
mắm lắng xuống đáy nồi. Đồng thời nấu một nồi nước súp (thông thường
người dân Sóc trăng dùng nước dừa tươi để nấu) gồm có xương heo và cá
lóc lớn vào để luộc. Khi cá vừa chín tới vớt tất cả và cẩn thận bỏ tất
cả xương ra, đây là quá trình rất công phu của người nội trợ (vì nếu
đang ăn ngon lành mà bạn phát hiện ra một ít xương cá thì tô bún đã giảm
phần hấp dẫn rồi đấy).
Sau
đó chỉ lọc nước mắm lược ra thế nào để chỉ lấy lớp nước trong thôi mới
là khéo. Dùng ngải bún (khachai) đâm bỏ vào một bọc vải cột lại và thêm
vài cộng xả (lemongrass) cùng đập và cột thành bó nấu chung, chính hai
mùi vị này đã làm giãm đi mùi nồng nàn của mắm.Trong suốt thời gian nấu
phải thường xuyên hớt bọt để nồi nước súp được trong vắt. Sau khi nêm
nếm ta có được một nồi nước lèo gồm hổn hợp vị mặn của mắm, vị ngọt của
xương súp và nước dừa tươi, thêm vào vị nồng nồng và hương vị đặc biệt
của ngải bún với xả ta có được nồi nước lèo đặc trưng Sóc trăng với màu
cánh gián nhạt trong trẻo.
Món
bún nước lèo được dùng với rau bắp chuối thái mỏng, giá, hẹ và rau thơm
sẽ làm cho hương vị tô bún trở nên tuyệt vời. Có một số người không
thích dùng ớt xay mà phải ăn với ớt hiểm, gắp rau với bún đồng thời húp
nước lèo vào miệng, ta sẽ được thưởng thức đủ mùi vị chua bùi, ngòn ngọt
cộng thêm cái cay của ớt. Ăn bún nước lèo phải nóng, cay mới ngon, lạ
miệng.
Bún
nước lèo Sóc trăng là cả một tổng hợp ngọt mặn hương đất tình người.
Những cọng bún trắng ngà vừa mềm lẫn vào màu xanh của hẹ, rau thơm đồng
thời nổi bật là những miếng thịt trắng nâu của cá lóc điểm thêm vài lát
thịt quay xắt nhỏ, cộng thêm với chút vị chát chát của bắp chuối, cái vị
ngọt ngào của những cọng giá trắng ngần làm cho người ăn thấy có cả một
vùng trời quê hương trong đấy. Lại càng ngon hơn khi vừa ăn vừa hít hà
vị cay của ớt, một chút vị chua chua của chanh cộng với mùi nồng nồng
của ngải bún và xả.Tất cả vị giác, thị giác và khứu giác cùng hoạt
động. Đồng thời cũng là sự pha trộn của hai dân tộc Khmer và người Việt
làm cho món ăn có một nét đặc trưng riêng của quê hương Sóc trăng
thương nhớ. Ai đi xa cũng đều phải nhớ. Chẳng thế mà nhiều người khi đã
phải lìa xa chốn chôn nhau cắt rốn vẫn mơ có ngày được ngồi trên chõng
tre húp xì xụp tô bún nước lèo, dân dã mà đậm mùi vị quê hương. Nếu bạn
đã có một lần ăn được một tô bún nước lèo của thị xã này thì chắc bạn sẽ
phải nhớ mãi hương vị tuyệt vời đó và sẽ nhớ mãi về vùng đất Sóc trăng
này.
“Bún
nước lèo” gần đây đã được trao giải thưởng xuất sắc nhất tại Lễ hội
Thực phẩm Du lịch Mekong, là một trong những loại thực phẩm tiêu biểu
của Sóc Trăng đồng thời cũng tiêu biểu cho sự hỗn hợp của người Việt,
người Hoa, và Khmer..
Bạc Liêu – xứ sở của nền cải lương Cao Văn Lầu
Bạc
Liêu nổi tiếng là đất ăn chơi với nhiều giai thọai về “Công tử Bạc
Liêu”. Cố nhạc sỹ Cao Văn Lầu đã làm sáng danh địa phương với bài vọng
cổ “Dạ cổ hòai lang” bất hủ. Ngòai ra Bạc Liêu còn có nhiều danh lam
thắng cảnh cùng vởi di tích lịch sử đã từng vang bóng một thời và món ăn
tuyệt vời như bún bò cay, gỏi cuốn và bún gỏi và. Những món ăn này đã
trở thành một nét văn hóa ẩm thực đặc thù của người miền Tây. Tuy bún bò
cay mang vị cay đặc trưng của miền Trung nhưng đây là món ăn dân dã của
vùng Lục Tỉnh nói chung và của Bạc Liêu nói riêng. Nguyên liệu làm món
bún này cũng đơn giãn chỉ là thịt bò nấu với satế thành nước lèo rồi ăn
với cọng bún trắng. Nhưng nó mang hương vị đặc biệt nhờ được chế biến từ
một công thức riêng.
Tô
bún được trang trí với vài cục thịt nằm trên lớp bún trắng, giữa lớp
nước lèo màu đỏ (từ vị ớt). Ăn kèm với các lọai rau húng quế, rau thơm,
giá sống với 1 ít muối hột giã với ớt đỏ kèm thêm lát chanh.
Bạc
Liêu có đường bờ biển dài 56 km. Dưới lòng biển sâu có nhiều lọai hải
sản có trữ lượng và giá trị cao như: tôm, cá hồng, cá gộc, cá sao, cá
thu, cá linh và cá chim…Món ăn đặc trưng của người địa phương được nhiều
người nước ngoài thích thú thưởng thức đó là món “bún gỏi và” và gỏi
cuốn đều sử dụng những hải sản này.
Món
gỏi cuốn là món ăn đơn sơ thanh đạm, một vài lát cải, một chút rau
thơm, một chút giá trộn lẫn với một ít bún trắng ngần, nhưng không thể
thiếu những lát ba rọi thái mỏng đệm thêm những con tôm tép thắm ngọt
tình quê hương được cuốn trong một bánh tráng trang trọng nhìn rõ cả màu
xanh của cải, màu trắng của bún của thịt và nổi bật là màu đỏ tươi của
những con tôm làm cho món ăn thêm phần hấp dẫn. Nước chấm là tương xay
nát xào cho thơm với chút tỏi và được đệm thêm một ít cọng dưa chua và
cà rốt, củ cải trắng cắt nhỏ và đặc biệt thơm nồng với đậu phọng rang
giả nhỏ, không quên một ít ớt cho thấm đượm hương vị nhẹ. Món này không
chiên xào nên không có nhiều dầu mở người nước ngoài rất thích.
Thông thường các món ăn Nam bộ rất cầu kỳ và công phu và cần
nhiều thời gian để làm và nhiều công để cuốn do đó người Bạc Liêu đã
nghỉ ra món “bún gỏi và” này. Món bún này là sự tổng hợp của món gỏi
cuốn nhưng ăn với nước súp và không cần nhiều công lắm. Đầu tiên dùng
xương heo để nấu một nồi súp đồng thời cũng dùng để luộc thịt ba rọi.
Khi luộc tép không sử dụng nước luộc ấy vì sẽ làm nước súp bị đục không
ngon, nêm nếm với muối và đường đồng thời không quên thêm chút vị chua
của me.
Món
này ăn kèm với giá và cải, thêm một ít rau thơm. Trên đó là một lớp bún
trang điểm trên mặt là những cọng ba rọi (ba rọi không xắt thành lát mà
xắt thành những cọng vuông như những cọng bì nhưng lớn hơn) và những
con tép đỏ tươi. Sau khi đổ nước súp cho nóng lên chúng ta cho thêm vào
một muỗng tương đã xào thơm lên và một ít đậu phọng rang giả nhỏ.
Đây
là một món ăn được chế biến từ món gỏi cuốn nhưng sẽ giúp ta tiết kiệm
được nhiều thời gian để chuẩn bị hơn. Với tô bún nóng hổi bóc khói cộng
với những hương vị chua chua ngọt ngọt cộng với vị thơm lừng của đậu
phọng rang giả nhỏ đệm trên những cọng thịt ba rọi trắng nâu và màu đỏ
tươi của những con tôm, tép làm cho ta cảm thấy cả hương vị của vùng
biển quê hương ta.
Kết luận:
Thông
thường những món ăn ngon luôn gợi lên trong mỗi người chúng ta những
hoài niệm riêng không thễ lẩn vào đâu được. Có thể là vị mặn của biển
miền Trung, có thể là cơn mưa phùn miền Bắc hay mùa nước nổi miền Lục
Tỉnh. Ẩm thực miền Tây chứa đựng cả một thế giới sản vật chan hòa chất
liệu, màu sắc, vẫn mang hơi thở của vườn rộng sông dài.
Trong
sự giới hạn của vài trang viết, chúng ta không thể diễn tả hết những
tinh vi của cả một nền văn hóa ẩm thực miền Tây. Nếu có dịp chúng ta ghé
vào nhà một người dân miền Tây và được mời ăn bữa cơm đơn giản với mắm
lóc chưng thịt, thịt kho nước dừa, bạn sẽ thấy chủ nhà dọn kèm với một
đĩa rau sống đủ loại, dưa leo, chuối chát, khế chua và một đĩa bánh
tráng. Cho một ít rau các loại vào miếng bánh tráng đã ủ lá chuối thật
dẻo, rồi thêm một miếng dưa leo, một lát chuối chát, một miếng khế chua,
rồi gắp một ít mắm lóc chưng thơm phức, cuốn lại, cắn thử một miếng,
nhai chầm chậm cho hương vị này thắm vào lưỡi. Đây là vị mặn, béo của
miếng mắm chưng, vị chua của khế, chát của chuối, thơm của các loại rau
thơm, tất cả hòa thành một miếng cuốn ngon vô cùng, lạ miệng.
Những món ăn ngon khác mà người dân miền Tây vẫn còn nhớ mãi mặc dù tha hương sinh sống ở bất cứ phương trời nào như: canh chua với cá kho tộ đủ kiểu và đủ màu sắc (nào là cá basa, cá lóc, cá rô hay lươn kho xả ớt, v.v.v.), bánh khoai mì, bánh ống, ếch nướng ống tre, lẩu mắm bông súng, bánh chuối nướng, cơm tầm bì, nem nướng, bánh khọt, bánh phồng nếp, lẩu mắm rau đắng, cá tai tựơng chiên xù, bánh tầm Cà Mau, mắm chưng, lẩu cá kèo, v.v.v…
Những món ăn ngon khác mà người dân miền Tây vẫn còn nhớ mãi mặc dù tha hương sinh sống ở bất cứ phương trời nào như: canh chua với cá kho tộ đủ kiểu và đủ màu sắc (nào là cá basa, cá lóc, cá rô hay lươn kho xả ớt, v.v.v.), bánh khoai mì, bánh ống, ếch nướng ống tre, lẩu mắm bông súng, bánh chuối nướng, cơm tầm bì, nem nướng, bánh khọt, bánh phồng nếp, lẩu mắm rau đắng, cá tai tựơng chiên xù, bánh tầm Cà Mau, mắm chưng, lẩu cá kèo, v.v.v…
Cũng vùng miền Tây này, thiên nhiên hào phóng đã cho con người biết bao
cây trái thực phẩm ngọt ngon lành bổ. Thực phẩm thì thế nhưng công cụ
chế biến sao có đầy đủ như chốn quê nhà! Và từ buổi hoang sơ đầu tiên
ấy, đến nay món cá kho tộ đã dành được một vị trí trong danh mục những
món ăn của hương quê Nam bộ. Hương thơm của mắm chưng trở thành một thứ
cảm giác lạ lùng, đeo đẳng theo đời ta trong suốt dặm dài... Mai đây dẫu
có được ăn sơn hào hải vị cũng không thể nào quên!
Bản
thân người viết bài này cũng mê mắm chưng cá lóc lắm nhưng đã nhiều lần
mua đủ loại gia vị làm thử món ăn miền quê này mà nó vẫn không ra hương
vị món mắm chưng chính cống của miền Tây. Giờ đây tôi sống tha hương
nên không còn những dịp đoàn tụ ăn những buổi cơm gia đình. Những buổi
chiều Montréal đổ mưa, ngồi trong nhà nhìn ra phía xa chợt nhớ quá những
bữa cơm đầm ấm, thân thương cùng cha mẹ ở quê xa. Nhất là nhớ hương
thơm từ nồi mắm kho đậm đà của mẹ mà tôi sẽ mang theo tình yêu ấy suốt
cả cuộc đời. Nếu có một bà Tiên nào tốt bụng cho tôi thực hiện một ước
mơ thì tôi sẽ không ngần ngại xin được một bửa cơm đoàn tụ cả gia đình
với món mắm chưng do chính mẹ tôi làm.
Tha hương anh nhớ quê nhà,
Nhớ cơm rau mắm, mặn mà tình thương …
Việt
kiều có thể mang hương vị Lục Tỉnh miền Tây từ món mắm chưng đóng hộp
từ quê nhà về cho gia đình ở phương xa cùng thưởng thức. Chúng ta sẽ
hình dung ra bóng người nông dân quấn khăn rằn trên đồng ruộng, bên ao
cá quê nhà mà nhớ da diết tiếng vịt bơi lội với tiếng kêu cạp cạp giữa
trưa hè nắng gắt.
Những
món ăn truyền thống của Lục Tỉnh miền Tây này đã mang chúng ta gần gũi
hơn trong những buổi trò chuyện của những kẻ ly hương, nhớ về quê mẹ vào
những buổi tối lạnh lẻo đầy tuyết băng trên đất khách và luôn hỏi “ai
đã mang lại sự phong phú cho những món ăn này!”.
Phuc Nguyen
Ẩm thực Nam bộ - đau đáu hương vị cội nguồn
“Món
ăn, xét bề ngoài, chỉ là cái đích của sự thỏa mãn vật dục. Nhưng đi
sâu, ta vô cùng ngạc nhiên thấy nó biểu hiện trình độ văn hóa vật chất
thì rất ít, nhưng biểu hiện trình độ văn hóa tinh thần của dân tộc thì
rất nhiều” (Đại văn hào Balzac).
Món ăn của người Việt đặc sắc, nổi
tiếng đến nỗi ông Philips Kosler, cha đẻ của Marketing hiện đại khuyên
là nên lấy “ẩm thực” làm đột phá khẩu trong chiến dịch truyền bá thương
hiệu Việt trên toàn thế giới .
Ẩm thực dân gian, cách thức ăn
uống của từng vùng, từng làng xóm được bắt rễ sâu xa từ truyền thống
lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc của địa phương. Và là một nội dung
quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa, phong vị dân tộc, phong vị
quê hương, tác động rất lớn vào tâm tư tình cảm, vào cách ứng xử của
mỗi con người.
Món
ăn Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị
ngọt ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt
dâng tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm
u của lớp lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu
tiên, chỉ có cho ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành
chim đậu”, mưa thuận gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng
mặc sức chim bay/ Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”. Và vì vậy không thể
có “gạo Chợ Đào” thứ hai, món lẩu mắm giữa “Hà Thành” do chính tay
người An Giang nấu cũng không dễ qua được “hàng chính gốc”…
Mê
Kông lại là con sông giàu cá tôm đứng hàng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau
sông Amazon của Nam Mỹ. Vùng hạ lưu sông Mê Kông thuộc Việt Nam có hơn
1.200 loài thuỷ sản, trong đó hơn 60 loài có giá trị kinh tế, tập trung ở
hai họ cá Chép (Cyprinidae) và cá Tra (Pangaciidae), sản lượng ước tính
có đến 2 triệu tấn/năm. “Xóm trên giăng lưới /xóm dưới bủa câu”. Trong
thực tế, khu vực này đóng góp đến 85% tổng sản lượng thuỷ sản nội địa
khai thác được của cả nước. Cho đến hiện nay, dù có phần thua sút so với
trước đây, năng lực cung ứng cá nước ngọt của vùng châu thổ vẫn là “số
zách”, khó nơi nào bì kịp .
Có người nhận xét rằng, ẩm thực Nam
bộ như một cô gái thôn quê, không cần trang điểm vẫn đẹp. Anh Bảy, một
nhà báo lâu năm kể khi về Sóc Trăng, nhà văn hóa Sơn Nam đã nói về món
cá rô kho tiêu, “món ruột” của đồng bằng Nam bộ như thế này: cá rô là
chúa của cá đồng, nước mắm là tinh túy của đại dương, rắc chút tiêu là
lấy hương của đồi núi… Chỉ một món ăn dân dã mà gom cả hương hoa đất
trời, thể hiện văn hóa của một xứ sở. Trên mảnh đất tận cùng phương Nam
này, con người đã tận dụng tự nhiên, thỏa chí sáng tạo ra những món ăn
độc đáo thể hiện cái cốt cách, dấu ấn của những người một thời đi mở cõi
- đó là bản sắc của khẩn hoang, phóng khoáng, không cầu kỳ câu nệ .
Ẩm
thực Nam bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm. Nó không
chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm
linh, tư tưởng con người nữa. Trong khuôn khổ chương trình “Mê Kông –
Dòng sông kết nối các nền văn hóa” tổ chức tại Washington vừa qua, nghệ
nhân Nguyễn Thị Xiềm, 67 tuổi (Trà Nóc - Bình Thủy) đã biểu diễn đổ bánh
xèo, gói bánh tét, bánh ít trần... được công chúng, nhất là Việt kiều
xuýt xoa tán thưởng… Cái ngon chưa nói nhưng việc bà tự tay chọn gạo xay
bột, kiếm dây cột bánh đã đánh thức cả miền ký ức xa xăm của người Việt
xa xứ, làm sống dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Chả nói đâu xa, mới
gần đây, ngồi trong quán cà phê giữa đất Cần Thơ, trời mưa lất phất, một
đồng nghiệp đã bần thần “ăn bánh tét bà Mười tự nhiên thấy nhớ ngoại
quá. Ngày xưa ngoại em hay nấu như vậy”. Chiếc bánh bình thường nhẹ hều
mà sao có lúc oằn nặng suy tư, tình cảm đến vậy !
Thưởng
thức miếng bánh mà vụt òa trong tâm thức họ là hình ảnh dòng sông bến
nước thủa ấu thơ, là mẹ già lam lũ cặm cụi bên nồi bánh tét khi xưa, là
khói rơm đốt đồng thơm thơm bay tỏa chiều tà, là hương vị quê hương có
cây cầu khỉ có buổi tát đìa, như chùm khế ngọt, như cánh cò bay… “Tình
yêu đất nước là sự thương nhớ, thèm thuồng món ăn mà cha mẹ cho ăn lúc
mình nhỏ tuổi". Theo thời gian những món ăn mộc mạc, đơn sơ đó; những
hương vị đậm đà đó vẫn in chặt, quyện vào tâm thức dù họ có rời xa đến
đâu. Và thật lạ, càng xa lại càng đau đáu đến rã rời nỗi nhớ quê. Ra
vậy, dưới lớp áo sặc sỡ của văn hóa ẩm thực là cái cốt lõi đạo lý tình
người của dân tộc Việt chúng ta.
Nhà văn Vũ Bằng đã dẫn trong lời nói đầu tập sách Miếng ngon Hà Nội như vầy “Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ”. Bản thân ông cũng cồn cào da diết, quay quắt trong nỗi nhớ Hà Nội hàng mấy chục năm trời mà mượn văn chương gởi tình cho nơi xa, mà tạo nên thiên tùy bút tuyệt phẩm dài hơn hai trăm trang. Câu chuyện ăn uống được thăng hoa thành văn hóa ẩm thực cả một vùng miền.
Chị bạn lại nói ăn giống như thở, khi thiếu mới thấy không chịu đựng nổi. Chị đã mua một trái chuối nướng ở Bangkok giá 8000 đồng Việt Nam vì quá nhớ thức ăn Việt. Chuối nướng là món ăn của trẻ con đã thành một niềm thương nỗi nhớ giằng xé tâm can khi đi xa nhà vậy đó! Lại nhớ, mấy năm trước có kẻ hoài hương bồn chồn lang thang lê gót đi tìm tiếng lanh canh của chiếc cóng tre múc nước chấm bên mẹt bún chả đầu Ô Quan Chưởng, mùi thơm gánh xôi xéo đậu xanh rưới mỡ hành phi vàng ươm đầu phố Nguyễn Du khi hương hoa sữa còn đậm đặc quanh hồ Thiền Quang…
Mỗi món ăn là một hương vị, một niềm vui, một gợi nhớ và tất cả những thứ đó hội lại thành một quá khứ thân thương. Món ăn làm khổ người đi xa nhiều hơn bạn từng nghĩ. “Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” (Vô đề-Sơn Nam). Cái thời chúng ta ăn để no đã qua rồi và thế giới càng hiện đại người ta lại càng muốn gần với thiên nhiên hơn và coi đó chính là chất lượng của cuộc sống hôm nay.
Chương trình "Ẩm thực khẩn hoang Nam bộ" tạo ra cả một trào lưu ẩm thực hướng về cội nguồn chốn quê, thủa xa xưa khẩn hoang giữa thời hội nhập. Những món ăn mộc mạc, “hương đồng cỏ nội” như cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống, chuột đồng rô ti, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu, canh chua cá lóc, hủ tiếu Mỹ Tho, tôm lụi Bạc Liêu, nấm tràm Phú Quốc... vẫn lên ngôi, trở thành đặc sản; vẫn khuấy động thực khách ngay chốn phồn hoa đô hội. Và họ còn chọn cách thưởng thức nó theo kiểu dân dã nhất mà mọi người có thể. Kể sơ cách nướng (chưa động gì tới chất liệu nghe) cũng muốn kêu… “ba xị” rồi (nướng than hồng, nướng trui, nướng mọi, nướng lu, nướng rơm, nướng đất sét, nướng ống tre…).
Nhà văn Vũ Bằng đã dẫn trong lời nói đầu tập sách Miếng ngon Hà Nội như vầy “Tại kinh đô Trương Hàn thấy lá ngô rụng giếng thu thì sực nhớ đến rau thuần, cá lư và muốn treo ấn trở về quê cũ”. Bản thân ông cũng cồn cào da diết, quay quắt trong nỗi nhớ Hà Nội hàng mấy chục năm trời mà mượn văn chương gởi tình cho nơi xa, mà tạo nên thiên tùy bút tuyệt phẩm dài hơn hai trăm trang. Câu chuyện ăn uống được thăng hoa thành văn hóa ẩm thực cả một vùng miền.
Chị bạn lại nói ăn giống như thở, khi thiếu mới thấy không chịu đựng nổi. Chị đã mua một trái chuối nướng ở Bangkok giá 8000 đồng Việt Nam vì quá nhớ thức ăn Việt. Chuối nướng là món ăn của trẻ con đã thành một niềm thương nỗi nhớ giằng xé tâm can khi đi xa nhà vậy đó! Lại nhớ, mấy năm trước có kẻ hoài hương bồn chồn lang thang lê gót đi tìm tiếng lanh canh của chiếc cóng tre múc nước chấm bên mẹt bún chả đầu Ô Quan Chưởng, mùi thơm gánh xôi xéo đậu xanh rưới mỡ hành phi vàng ươm đầu phố Nguyễn Du khi hương hoa sữa còn đậm đặc quanh hồ Thiền Quang…
Mỗi món ăn là một hương vị, một niềm vui, một gợi nhớ và tất cả những thứ đó hội lại thành một quá khứ thân thương. Món ăn làm khổ người đi xa nhiều hơn bạn từng nghĩ. “Phong sương mấy độ qua đường phố/ Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê” (Vô đề-Sơn Nam). Cái thời chúng ta ăn để no đã qua rồi và thế giới càng hiện đại người ta lại càng muốn gần với thiên nhiên hơn và coi đó chính là chất lượng của cuộc sống hôm nay.
Chương trình "Ẩm thực khẩn hoang Nam bộ" tạo ra cả một trào lưu ẩm thực hướng về cội nguồn chốn quê, thủa xa xưa khẩn hoang giữa thời hội nhập. Những món ăn mộc mạc, “hương đồng cỏ nội” như cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống, chuột đồng rô ti, lươn hấp trái bầu, ếch xào lăn, cá rô kho tộ, cá bống dừa kho tiêu, canh chua cá lóc, hủ tiếu Mỹ Tho, tôm lụi Bạc Liêu, nấm tràm Phú Quốc... vẫn lên ngôi, trở thành đặc sản; vẫn khuấy động thực khách ngay chốn phồn hoa đô hội. Và họ còn chọn cách thưởng thức nó theo kiểu dân dã nhất mà mọi người có thể. Kể sơ cách nướng (chưa động gì tới chất liệu nghe) cũng muốn kêu… “ba xị” rồi (nướng than hồng, nướng trui, nướng mọi, nướng lu, nướng rơm, nướng đất sét, nướng ống tre…).
Món
lẩu mắm Châu Đốc, “kỳ thú phương Nam” sành điệu phải đủ hai mươi mấy
thứ rau đồng nội như cù nèo, tai tượng, càng cua, bông so đũa, bông điên
điển...
Món “Cá cơm đệ nhất nem” mà nghe nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian Nguyễn Hữu Hiệp (An Giang) kể lại dứt khoát thực khách phải
“đùng đùng nổi giận” đi lùng bằng được: cá cơm rửa sạch vảy ngâm nước
muối cho đến khi thịt cá tét làm hai thì vớt ra, gỡ bỏ xương, ngâm trong
nước dừa tươi. Lại vớt ra cho ráo, đổ thịt cá lược qua vải xô, vắt khô,
quết nhuyễn với tỏi nướng, ướp đủ gia vị (muối, đường, mỡ, tiêu, nước
củ riềng, thính…). Nắn thành viên, gói vòng trong bằng lá chùm ruột non,
rồi lá vông nem, ngoài cùng mới quấn lá chuối, cột lại theo hình chữ
thập… Khi cần cầu kỳ, “ăn cho đáng mới ăn” thì ẩm thực Nam bộ cũng đâu
thiếu món khiến thực khách nghe qua đã “lên ruột”, bắt thèm. Như tự
nhiên vậy, như tri ân người mở cõi, ẩm thực Nam bộ vẫn luôn chứa đựng cả
một thế giới sản vật chan hòa chất liệu, màu sắc, vẫn mang trong mình
hơi thở của vườn rộng sông dài.
“Thú quê thuần hức bén mùi”
(Truyện Kiều), cụ Nguyễn Du đã chỉ ra cái giá trị nguồn cội của ẩm thực.
Nó thấm vào máu thịt ta từ lúc nào không hay, khi xa mới cồn cào lan
tỏa, mới dằng dặc nỗi nhớ; bàng bạc phiêu diêu trong tâm tưởng, khó mà
phân chia, cắt lìa được lắm. Và các mẹ, các chị nhiều khi vô tình không
nhận ra hôm nay đang lụi cụi bên bếp chính là lúc họ đang dệt nỗi nhớ
khôn nguôi về gia đình, về cội nguồn cho người thân họ ngày mai.
- Vũ Thống Nhất -
(theo Metinfo)
(theo Metinfo)