Thương tặng tất cả các "bà nội, bà ngoại" và các "bà mẹ" thân quen trong Ngày của Mẹ 11/5/2014
Những bài hát hay nhất về mẹ
Ngoại ơi !...
Đôi quang gánh ngoại đong đầy gian khổ,
Đức hi sinh và lòng ngoại thương con
!!
Dầu cho sông cạn đá mòn,
Bóng hình ngoại vẫn theo con suốt
đời....
Ao rau muống của ngoại
Từ
ngày bà ngoại đi xa, mấy cậu mấy dì vẫn giữ lại cái ao ấy mà không san
bằng lại. Bây giờ rau muống trong ao chỉ dành để cho bà con trong xóm,
ai muốn ăn thì cứ hái về mà dùng.
Buổi
trưa, trên đường về nhà có chút nắng. Bỗng dưng trong bụng thèm một món
gì đó thanh thanh. Nhớ trong tủ lạnh còn mấy trái sấu xanh nên ta tạt
vội ngang chợ, mua ít rau muống, hai miếng đậu hủ. Nghĩ đến cái chén
nước canh rau muống đã phát thèm.
Cái
tính ta vốn ăn uống không cầu kỳ nên nhiều khi mọi người trong nhà cứ
lo. Bữa cơm đôi khi chỉ là vài miếng đậu chiên sả, dĩa rau muống xanh
non, và tô nước rau muống vắt chanh thơm thơm cánh mũi. Nhiều lúc ngồi
ăn mà cứ nghĩ vu vơ, cũng như hôm nay. Nhìn tô canh mà trong lòng rưng
rưng nỗi nhớ nhà, nhớ Ngoại.
Cái
ao rau muống trước nhà bây giờ vẫn còn, nên mỗi lần về nhà nhìn quanh
quẩn ta lại nhớ một thời ấu thơ. Nơi đó, tờ mờ tinh sương có hai bà cháu
một già một trẻ bì bõm dưới ao. Bàn tay gân guốc chai sần của Ngoại
thoăn thoắt cắt từng đọt rau muống xanh tươi. Đứa cháu gái theo sát bên
nhặt từng đọt rau bỏ vào thau lớn. Hai bà cháu cứ thế lần dò ngụp lặn
suốt hai tiếng để kịp cho buổi chợ sáng. Khi rau được mang lên bờ, Ngoại
dùng những dây chuối khô bó lại từng lọn nhỏ. Trong lúc hai bà cháu
cùng bó rau, Ngoại bảo rằng:
-
Có bó rau đẹp thì người ta nhìn mới muốn mua, chứ con để một đống vầy
ai mà mua cho. Làm cái gì cũng vậy, có chăm chút, để tâm chú ý thì mới
được kết quả tốt chứ con.
-
Dạ, con biết rồi. Mà Ngoại ơi! Rau muống rẻ rề, mỗi lọn có 500 đồng,
bán cả đống này cũng chỉ đủ bữa chợ sáng. Sao Ngoại không lấp cái ao
trồng cái khác giá trị hơn mà mình cũng khỏe thân. Con thấy nhà bác Tư
trồng đậu, dưa, bí mà bán giá cao lắm, tiền nhiều lắm đó Ngoại.
-
Rau muống tuy rẻ, nhưng ai cũng thích ăn. Con thấy đó, một bó cải Đà
Lạt rẻ nhất cũng 5.000. Một kí đậu cũng 20.000. Một bữa chợ mà rau cải
giá như thế, ai dám ăn. Bà con ở đây còn nghèo, nên rau muống sẽ là món
dễ ăn và dễ mua nhất. Tiền bạc thì cũng quý, ai cũng ham nhưng làm cái
gì cũng nhớ đến những người chung quanh. Ở xóm mình, ai cũng chờ thau
rau muống của Ngoại và con vào mỗi buổi sáng. Một con cá, một miếng thịt
đã là gánh nặng trên vai của mọi người rồi. Con thấy có nên lấp cái ao
này không?
-
Dạ, con hiểu rồi. Không nên vì vật chất quá mà quên mất những bà con
nghèo xung quanh hén Ngoại. Mà con cũng thích ăn rau muống, mát da dài
tóc nữa há Ngoại!
-
Ừ… Làm người thì cũng nên biết mình biết ta con à. Giữ cái tâm không
hơn thua hèn sang, không cầu kỳ biến chất, không vì người ta làm mình
cũng làm theo. Người ta chặt bỏ thứ này, trồng thứ khác mình cũng nhào
vào chặt hết mà không biết rõ công thức gieo được hạt giống tốt là như
thế nào. Trước khi con không rõ điều gì, con cần phải quan sát, lắng
nghe từ nhiều người để hiểu rõ cách thức làm thế nào để có được những
cây tốt, phân biệt những cây xấu. Bằng không cứ giữ nguyên những loại
giống mà con đang có, ít ra nó cũng là phương tiện cho con miếng cơm
trắng qua ngày.
- Dạ… Ngoại à! Con hiểu rồi
Con lớn lên từ những quang gánh trên vai Ngoại
Chỉ
có một bó rau muống thôi, mà ta học được từ người bà đáng kính một bài
học sống. Sống không chỉ là sống cho riêng bản thân mình, mà còn vì
những người xung quanh. Sự bon chen đua đòi theo những giá trị phù phiếm
sẽ không tồn tại lâu dài. Đôi khi sự sẻ chia, đơn giản chỉ là một tâm
niệm tốt dành cho mọi người xung quanh cũng khiến lòng thanh thản lạ
lùng. Từng bó rau muống của Ngoại đã sẻ chia một phần gánh nặng cơm áo
của bà con xung quanh. Và con đã lớn lên bên những bó rau muống từ đôi
tay của Ngoại. Thỉnh thoảng mấy cô chú lại xách cái rỗ sang:
- Dì Tư! Cho con mấy cọng rau muống nấu mì nha!
- Dì tư, cho con thêm một ít nữa đi. Hôm nay nhà có khách, nấu nồi canh mà thiếu rau.
Thỉnh thoảng ông Ngoại ta lại ra đứng bờ ao mà nhớ, chép miệng gọi:
- Bà nó ơi!
Ngồi
lẩm nhẩm chuyện xưa mà ta ăn hết tô cơm lớn hồi nào không hay. Cái vị
chua chua thanh thanh của nước rau muống dầm sấu làm mát dịu khoang cổ.
Sống ở Sài Gòn, món gì mà chẳng có, món gì mà ta chưa ăn. Nhưng đôi khi,
trong bụng cứ thèm làm sao! Thèm một tô rau muống chua chua của quê
mình.
Giàn bầu của mẹ
Năm nào nhà tôi cũng có
một giàn bầu trước ngõ. Giàn bầu ấy mẹ tôi trồng. Mẹ tôi cả đời làm
ruộng, chỉ biết quanh quẩn sau lũy tre làng với cánh đồng, mảnh vườn.
Chợ tỉnh, chợ huyện bà mới ra được vài lần, sau này tôi định chở mẹ
xuống phố mua sắm, bà lại bảo chỗ ấy đông người, mẹ… sợ. Qua năm này
tháng nọ, mẹ tôi chỉ loanh quanh trong xóm, ra chợ làng, thăm vài người
bạn láng giềng rồi lại trở về với căn nhà, góc sân, lại tự tay ươm
trồng, vun vén cho hàng cà giàn mướp. Mẹ tôi thích ăn bầu, bà bảo ăn bầu
người mát, nên năm nào cũng trồng một giàn trước ngõ cho trái sum suê.
Mẹ tôi là người kỹ tính. Từ việc để giành hạt giống mùa trước, cho
đến ươm hạt lên mầm, bắc giàn cho bầu bò lên, bà đều làm tỉ mỉ. Có lần
mẹ đi làm đồng, tôi ở nhà nấu cơm trưa. Tôi ra giàn bầu hái một quả đẹp
nhất vào nấu canh cho mẹ. Tưởng rằng trưa mẹ về sẽ vui bởi bữa cơm do
thằng con vụng về như tôi nấu. Ngờ đâu, khi mẹ về, tôi thấy mặt mẹ không
vui: “Con hái trái bầu lớn nhất giàn rồi phải không”. Tôi hồ hởi dạ. Mẹ
thở dài “Trái đó mẹ để làm giống mà”. Tôi mới ngớ người ra, bao giờ mẹ
cũng để trái ra đầu tiên lấy hạt cho năm sau trồng. Rồi bà gõ đầu tôi,
trái đầu tiên để giống mới tốt, lần sau làm gì cũng phải để ý nghe con.
Tôi chỉ biết cười xòa. Rồi tự tay mẹ dọn cơm cho tôi.
Mẹ tôi cả đời lặng lẽ. Có niềm vui nỗi buồn nào bà cũng giấu cho
riêng mình, nếu có nói ra cũng chỉ nói với dây bầu, quả bí bằng ngôn ngữ
của ánh mắt thoáng buồn mà tôi chẳng bao giờ hiểu được. Tôi ngày ấy vô
tư đến độ dại khờ, chưa một lần chợt nghĩ về những nỗi lòng của mẹ. Chỉ
riêng giàn bầu thương mẹ nhọc công, lam lũ mà năm nào quả cũng sai. Có
năm giàn bầu trĩu trái, mẹ chọn những quả đẹp nhất hái mang đi biếu từng
nhà trong xóm. Tôi hỏi mẹ sao không bán lấy tiền. Mẹ chỉ cười: “Chẳng
được mấy đồng đâu con, láng giềng chỗ tình nghĩa giúp nhau”. Tôi hồi ấy
hay làm phép tính nhân, nếu bán cả giàn bầu thì nhẩm ra cũng được vài
trăm nghìn đồng chứ ít gì. Rồi tôi thấy tiếc, sao mẹ không bán để có
thêm vài đồng, bớt lại vài ngày đi làm mướn nhỉ. Sau này đi ra với cuộc
đời, được bạn bè cưu mang, tôi mới hiểu hết lời của mẹ
Giàn bầu trước ngõ được mẹ tôi nâng niu
lắm. Mỗi ngọn bầu non bò ra, bà lại bắc lên giàn cho ngay ngắn. Chiều
chiều mẹ lại ra mương xách nước về tưới gốc bầu. Từng quả bầu bụ bẫm, mẹ
gửi gắm yêu thương như chính bà bao giờ cũng thương yêu, kỳ vọng vào
đứa con trai mình. Giàn bầu nhà tôi do vậy mà bao giờ cũng xanh mượt, ai
đi ngang qua cũng tấm tắc khen. Mẹ tôi vui, một niềm vui đơn sơ thầm
lặng. Giàn bầu thương mẹ nên cứ đâm ngọn, xanh rợp cả con ngõ quê nhà.
Mẹ thường ra ngồi dưới giàn bầu hóng mát mỗi trưa hè hay cùng bạn trong
xóm ngồi uống nước chè, nói chuyện vào những buổi chiều khi việc ruộng
đồng đã xong. Sau này tôi xa nhà đi học, mỗi lần gọi điện về, mẹ lại
nhắc mùa này bầu cho nhiều quả non, con về mà ăn canh bầu với mẹ.
Còn gì ngon bằng bát canh bầu mẹ nấu.
Nhà tôi ngày xưa nghèo lắm, chẳng bao giờ có được tôm mà nấu với bầu.
Nhưng bát canh đơn sơ mẹ nấu, tôi vẫn thích ăn nhất đến giờ. Có lần về
quê, tôi mua một cân tôm tươi cho mẹ nấu canh với bầu. Ăn lần đầu mẹ bảo
cũng ngon nhưng lần sau không thích nữa. Tôi chợt băn khoăn, hay là mẹ
không ăn được tôm. Cả một đời khổ nghèo, mẹ thành ra quen miệng với
những món đạm bạc. Bà hay bảo, canh bầu đã ngọt mát rồi, cần gì cho thêm
tôm nữa. Tôi chợt giật mình, hay là những năm tháng sống nơi phố thị,
tôi đã quên hương vị quê nhà mất rồi…
Chiều nay hết việc, một phút thảnh thơi,
tôi chợt nghĩ về mẹ. Gọi điện về hỏi thăm, bà lại bảo, bây giờ bầu đang
nhiều quả non, con có rảnh thì về ăn canh bầu với mẹ. Chợt thấy thương
giàn bầu trước ngõ, bao nhiêu năm tháng cứ ăn ở thủy chung, thương mẹ
tảo tần mà mùa nào cũng tươi tốt. Còn tôi, tôi cứ đi hoài…
Phạm Tuấn Vũ
Nỗi Buồn Mẹ Tôi - Phương Mỹ Chi Thùy Dương
Mẹ vẫn thường ngồi đấy....Mẹ vẫn thường ngồi đấy,
Giữa hoa tím không phai.....
Hương hoa nhài thơm ngát,
Bâng khuâng chờ đợi ai ?
Bâng khuâng chờ đợi ai ?
Mẹ ươm mầm gieo hạt,
Trong ngày xuân gió lay....
Mẹ dường như trẻ lại,
Ngắm mầm cây vươn dài...
.
Trong ngày xuân gió lay....
Mẹ dường như trẻ lại,
Ngắm mầm cây vươn dài...
.
Con rày đây mai đó,
Vẫn nhớ chốn "bình an"....
Thương đôi mái đầu bạc,
Thương mẹ hiền lo toan !!
Vẫn nhớ chốn "bình an"....
Thương đôi mái đầu bạc,
Thương mẹ hiền lo toan !!
Mẹ vẫn thường ngồi đấy,
Hoa tím chiều đâu phai ?
Hương nhài bay lan toả,
Như tình mẹ tràn đầy !!
NM
Mảnh vườn của mẹ
Mẹ vẫn
thường ngồi ở đấy, bên góc vườn với sắc hoa nhài trắng muốt và giàn bầu
lủng lẳng những quả dài như muốn chạm xuống đất. Ánh mắt mẹ thật vui khi
ngắm nhìn những cây thạch thảo chở đầy sắc tím khẽ đung đưa trong gió.
Mảnh vườn của mẹ bốn mùa đầy hương thơm của sắc hoa cùng quả ngọt và cả
tiếng chim lảnh lót trong veo...
Góc trái vườn nhà tôi là khoảng không gian đầy màu xanh của giàn bầu
năm nào cũng nặng trĩu quả. Cứ mỗi dịp ăn tết xong, mẹ tôi lại lấy những
hạt bầu khô mà mẹ từng cất lại từ mùa quả trước đem gieo vào đám đất
mềm xốp cạnh bờ ao. Ngày lại qua ngày, mẹ nhìn vào đám đất, nơi có những
chiếc cọc tre khoanh tròn, lòng vui theo những hạt bầu nảy mầm rồi ra
lá.
Và khi những cây bầu lớn chừng gang tay, ba tôi lại ra vườn chọn
những thân cây và nhành tre để làm giàn. Hai cây bầu to và xanh nhất
được trồng ở hai góc chéo của giàn bầu. Không bao lâu, cả góc sân nhà
tôi rợp một màu xanh của lá rồi từng trái bầu thi nhau lớn lên lúc lắc ở
một góc vườn. Thuở ấy, làng quê tôi dường như nhà nào cũng giống nhau ở
sự nghèo khó. Mỗi trái bầu của mẹ gánh xuống chợ mang theo cả niềm hy
vọng cho cả gia đình tôi. Mỗi khi mẹ đi chợ về mà chị em tôi có bánh
khoai, kẹo dẻo thì chắc chắn rằng gánh bầu của mẹ đắt khách, còn hôm nào
thấy mẹ thở dài, bữa cơm chỉ có đơn sơ vài con tép kho khô và chút ruốc
nấu canh bầu là biết ngay rằng mẹ phải bán rẻ gánh bầu lúc chợ trưa để
về cho đỡ nặng.
Chị em tôi được đến trường trong nỗi gian truân của mẹ. Tôi còn nhớ
những hôm mẹ phải dậy thật sớm cắt vội những quả bầu non rồi đạp xe hơn
chục cây số đường đồi để lên chợ huyện với hy vọng bán được bầu để có
tiền mua sách vở, áo quần cho chúng tôi. Mỗi dịp như thế mẹ còn mang
theo cả đậu xanh, lạc rang, rau muống lỉnh kỉnh cùng những quả bầu ra
chợ khi trời chưa kịp sáng...
Mẹ tôi là người hay lo xa. Đang ngày nắng ráo mẹ lại lo đến ngày mưa,
ngày bão lũ cả nhà không có cái ăn. Thế nên, cứ hôm nào trời nắng đượm
vàng mẹ lại chọn những quả bầu to cắt thành từng lát thật mỏng rồi đem
phơi nắng. Khi những lát bầu đã khô cứng, trắng ngần, mẹ lấy bao giấy
thật dày gói chúng lại rồi treo trên giàn bếp. Những hôm trời mưa gió,
mẹ lấy ra vài lát ngâm vào nước còn âm ấm rồi rửa lại thật sạch đem kho
với cá khô. Thế là cả nhà đã có một bữa ăn ngon lành.
Giờ đây, những quả bầu không còn theo mẹ lặn lội đường xa ra chợ như
ngày trước mà những quả to đẹp mẹ thường đem biếu những người hàng xóm.
Mỗi dịp về quê, thế nào mẹ cũng chuẩn bị sẵn những chiếc bao lác dài sắp
được cả chục trái bầu để tôi mang theo cho bạn bè ở phố. Những trái hơi
già mẹ lại cắt lát, phơi khô và cứ mỗi dịp đông về lại gói ghém cẩn
thận gửi người quen mang lên thành phố cho chị em tôi.
Mảnh vườn của mẹ bây giờ còn có thêm cả sắc trắng hoa nhài và sắc tím
của hoa thạch thảo. Mỗi buổi sáng sớm, khi mẹ chọn những búp nhài trắng
ngần để ướp trà là lúc ba ra vườn vừa tưới cây vừa ngân nga vài câu thơ
bằng cái giọng ê a như lúc ru cháu ngủ. Hai mái đầu xanh một thuở đã
ngả màu bàng bạc nghiêng nghiêng về phía thời gian đang trôi trên đám
hoa nhài còn ngậm sương đêm và giàn bầu sum suê trái. Có lần tôi đọc ở
đâu đó cụm từ "mùa bình an"-mùa của sự đoàn viên, sum họp, và với tôi,
cái mùa không có trong bốn mùa của đất trời ấy là mảnh vườn của mẹ- nơi
có hai mái đầu ướt đẫm sương mai. Nhật Văn
Giàn bầu nậm
Chút ánh sáng con giữ tình ấm áp,
Thương mẹ cha, luôn nhớ đến quê nhà....
Ngắm trái bầu đầy ấp những hạt khô,
Con lại nhớ tháng ngày nơi quê cũ !
Tình quê hương mãi hoài con ấp ủ,
Giàn bầu xưa, mầu hoa trắng mong manh...
Tấm lòng quê thật chất phát chân thành,
Theo con suốt những ngày xa quê mẹ !!
Ngắm trái bầu đầy ấp những hạt khô,
Con lại nhớ tháng ngày nơi quê cũ !
Tình quê hương mãi hoài con ấp ủ,
Giàn bầu xưa, mầu hoa trắng mong manh...
Tấm lòng quê thật chất phát chân thành,
Theo con suốt những ngày xa quê mẹ !!
NM
Giàn bầu nậm
Không án ngữ
trước hàng hiên để chặn bớt cái nắng hừng hực của tháng Tư, tháng Năm
như nhiều người thường làm; giàn bầu nậm nhà tôi là một công trình nghệ
thuật của cha tôi. Giàn được làm từ tre cán cuốc ngâm bùn, nên có tuổi
thọ khá tốt. Mép giàn là sợi mây sáp già, to cỡ cổ tay, uốn lượn theo
kiểu dợn sóng, là nơi dây bầu nằm sóng soãi trên đó nở nhụy kết hoa.
Phía dưới giàn kê một bộ bàn ghế đá, là nơi trưa trưa, xế xế chị em tôi
ngồi học bài. Bầu nậm xuất xứ từ vùng cao, quả nhỏ có thắt eo ở giữa,
khi già người ta mới bỏ ruột đem phơi khô dùng đựng nước, đựng rượu hay
thức ăn lỏng như cháo. Cha tôi xin được giống này khi ông có dịp lên đó.
Cả xóm tôi, chỉ duy nhất nhà tôi có giàn bầu nậm. Cha bảo nó chẳng có
giá trị gì lớn, ăn cũng không ngon mấy, không ngọt bằng bầu thước ở xứ
mình, nhưng không ai có thì thành quý, mà quý thì người ta mới thích,
mới không tiếc lời trầm trồ khen ngợi.
Hoa bầu có năm cánh màu trắng sáng, mỏng
mịn, dính nhau ở phần ống và dính vào bầu noãn, nhụy vàng. Noãn hoa có
hình trái bầu bé tẹo, nhiều lông tơ mịn bao quanh, noãn có màu xanh lợt.
Cuống hoa dài, chắc khỏe. Hoa đực không có bầu noãn. Khi hoa bầu nở, có
khá nhiều ong ruồi bay đến, đó là những chú lính thợ hiền từ, siêng
năng với công việc duy nhất là tìm mật về nuôi ong chúa và ấu
trùng. Chúng đâu biết, nhờ chúng, nhờ những sợi lông tơ mảnh dẻ sau đuôi
chúng mà phấn hoa đực bám vào đó đi khắp nơi. Để rồi khi chạm vào lớp
màng trên nhụy hoa cái thì không thể rứt ra được nữa, đành “ở rể nhà
người”. Bướm và gió cũng góp phần làm công việc này.
Hạt giống, cha chẳng cho ai bao giờ. Cha
bảo thích thì tới ngắm, muốn ăn thì cha biếu, còn hạt giống thì vui lòng
lượng thứ. Trái bầu mà cha để giống cũng khó mà hái trộm được. Trái
được bọc trong rọ sắt neo chắc chắn trên giàn. Vả lại đâu phải năm nào
cũng để giống, một trái giống có biết bao nhiêu là hạt, chỉ sợ để lâu
quá hạt sẽ không nảy mầm nên ba, bốn, năm cha tôi mới để giống một trái.
Khi đó, chị em tôi được dịp ăn hạt bầu cũ rang giòn.
Ở quê, tình bạn thắm thiết vô cùng, bởi
dân cư thưa thớt, có được người học cùng lớp với mình để đi về thì còn
gì vui sướng bằng. Khi qua cầu tre lắt lẻo, lội ruộng băng đồng, có bạn
đồng hành thì bao giờ cũng an tâm hơn. Quen nhau từ cấp I tới nay, 6 - 7
năm rồi chứ chẳng ít, tôi và Nhàn chưa hề giận nhau. Có gì hai đứa cũng
san sẻ, duy chỉ một điều mà tôi chưa làm Nhàn hài lòng là cho hạt giống
bầu nậm. Biết bao lần Nhàn xin tôi vài hạt giống, vì cha Nhàn rất thích
trồng bầu nậm, nhưng tôi biết lấy đâu ra. Lần lữa mãi đến mấy năm sau,
khi cha tôi trút trong ống tre ra được lưng bát hạt giống bầu nậm bảo
chị em tôi rang lên ăn thì tôi chợt nhớ đến Nhàn. Tôi trộm vài hạt giấu
đi.
Nửa năm sau, giàn bầu nậm bên nhà Nhàn
trĩu trái. Nghe tin, cha tôi đến xem rồi ra về với vẻ ưu tư. Cha không
nói gì, nhưng trong thâm tâm cha biết chính tôi chứ không ai khác đã cho
Nhàn hạt giống. Biết cha buồn, tôi đành thú thật với cha là mình đã
trộm hạt giống khi cha bảo đem rang, cho bạn. Cha bảo cha biết rồi, nếu
tôi xin sớm thì nhà Nhàn cũng đã có giàn bầu nậm từ lâu. Giữa tình cảm
bạn bè thiêng liêng và vật chất thì người ta luôn chọn tình bạn. Cha
cũng kể cho tôi nghe, đó không phải là loại bầu nậm bình thường mà nhiều
nơi có. Quả cũng thắt eo, cũng giống hồ lô của ông Tiên, nhưng màu da
thì trơn tru không có sọc như giống bầu nậm của cha. Giống bầu nậm này
có sọc màu xanh đậm hơn màu da của quả một chút. Khi để khô sọc này ngả
sang màu nâu nổi bật trên nền da màu vàng vàng, trông rất ấn tượng. Cha
còn bảo, chỉ có già làng K’Sor ở buôn Ré dưới chân núi Ngọc Linh mới có
giống này và cha là người duy nhất được ông biếu cho năm hạt giống.
Bây giờ cha mẹ tôi không còn, tôi cũng đã
xa quê. Căn nhà của cha mẹ tôi trao lại cho người em út và giàn bầu nậm
vẫn còn xanh mướt. Nhớ cha mẹ, tôi đem hai quả bầu nậm khô về chưng
trong tủ kính nhà mình, quả nào cũng đầy hạt do em út lâu lâu gửi đến.
Tôi mắc một bóng đèn nhỏ màu vàng phía bên trên hai quả bầu ấy để sưởi
ấm. Tôi liên tưởng đến cha mẹ mình.
LÝ THỊ MINH CHÂU
Tấm lòng của mẹ
Thân cau dầu nhẵn dây trầu,
Thân cau dầu nhẵn dây trầu,
Con đi, đem
tiếng "Ví
dầu" mẹ theo.....
Suối nguồn nước chảy trong
veo,
Tình cha, nghĩa mẹ nặng đeo trong lòng !
Đại dương dẫu có mênh mông,
Đại dương dẫu có mênh mông,
Làm sao sánh được tấm lòng mẹ
yêu....?!
Tuổi già bóng xế quạnh hiu,
Thương con
mẹ vẫn chắt chiu trong lòng.....
Mẹ
ơi, thương mẹ ngóng
trông,
Nhớ mẹ, con nhớ cả vòng tay ôm...!
Nhớ mẹ, con nhớ cả vòng tay ôm...!
NM
NỘI
- Nội xuống kìa !
- Nội xuống kìa !
- Nội xuống ! Ê ! Nội xuống !
- Nội xuống !
Bầy con tôi reo mừng, chạy ùa ra ngõ. Ngoài đó, tiếng xích lô máy cũng vừa tắt.
Trong
buồng, vợ tôi gom vội mấy giấy tờ hồ sơ nhét vào xắc tay, nhìn tôi, im
lặng.Tôi hiểu : bà già xuống như vậy, làm sao giấu được chuyện tôi và
hai đứa lớn sẽ vượt biên ? Sáng sớm mai là đi rồi …
Tôi choàng tay ôm vai vợ tôi, siết nhẹ :
- Không sao đâu. Để anh lựa lúc nói chuyện đó với má.
Khi
vợ chồng tôi bước ra hiên nhà thì bầy nhỏ cũng vừa vào tới sân. Đứa
xách giỏ, đứa xách bao, đứa ôm gói, hí hửng vui mừng. Bởi vì mỗi lần bà
nội chúng nó từ Gò Dầu xuống thăm đều có mang theo rất nhiều đồ ăn, bánh
trái thịt thà… Những ngày sau đó, mâm cơm dưa muối thường ngày được
thay thế bằng những món ăn do tay bà nội tụi nó nấu nướng nêm-nếm. Nhờ
vậy, mấy bữa cơm có cái phong vị của ngày xưa thuở mà miền Nam chưa mất…
Mấy con tôi thường gọi đùa bà Nội bằng « trưởng ban hậu cần » hoặc chị «
nuôi » và lâu lâu hay trông có bà nội xuống. Và lúc nào câu chào mừng
của chúng nó cũng đều giống như nhau : « Nội mạnh hả Nội ? Nội có đem gì
xuống ăn
không Nội ? ». Mới đầu, tôi nghe chướng tai, nhưng sống trong sự thiếu
thốn triền miên của chế độ xã hội chủ nghĩa, lần hồi chính bản thân tôi
cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi !
Con
gái út tôi, mười một tuổi, một tay xách giỏ trầu của bà nội, một tay
cặp-kè với bà nó đi vào như hai người bạn. Bà nó cưng nó nhứt nhà. Lúc
nào xuống, cũng ngủ chung với nó để nghe nó kể chuyện. Nó thích bà nội ở
điều đó và thường nói : « Ở nhà này chỉ có nội là thích nghe em kể
chuyện thôi ! ».Thật ra, nó có lối kể chuyện không đầu không đuôi làm
mấy anh mấy chị nó bực. Trái lại, bà nó cho đó là một thi vị của tuổi
thơ, nên hay biểu nó kể chuyện cho bà nghe, để lâu lâu bà cười chảy nước
mắt.
Tôi hỏi má tôi :
- Sao bữa nay xuống trưa vậy nội ?
Vợ
chồng tôi hay gọi má tôi bằng « nội » như các con. Nói theo tụi nó,
riết rồi quen miệng. Lâu lâu, chúng tôi cũng có gọi bằng « má » nhưng
sao vẫn không nghe đầm-ấm nồng-nàn bằng tiếng « nội » của các con. Hồi
cha tôi còn sống, tụi nhỏ còn gọi rõ ra « ông nội » hay « bà nội ». Cha
tôi mất đi, ít lâu sau, chúng nó chỉ còn dùng có tiếng « nội » ngắn gọn
để gọi bà của chúng nó, ngắn gọn nhưng âm thanh lại đầy trìu mến.
Má tôi bước vào nhà, vừa cởi áo bà ba vừa trả lời :
-
Thôi đi mầy ơi !… Mấy thằng công an ở Trảng Bàng mắc dịch ! Tao lên xe
hồi sáng chớ bộ. Tới trạm Trảng Bàng tụi nó xét thấy tao có đem một lon
ghi-gô mỡ nước, vậy là bắt tao ở lại. Nói phải quấy bao nhiêu cũng không
nghe. Cứ đề quyết là tao đi buôn lậu !
Rồi má tôi liệng cái áo lên thành ghế bàn ăn, nói mà tôi có cảm tưởng như bà đang phân trần ở Trảng Bàng :
-
Đi buôn lậu cái gì mà chỉ có một lon mở nước ? Ai đó nghĩ coi ! Nội
tiền xe đi xuống đi lên cũng hơn tiền lon mỡ rồi. Đi buôn kiểu gì mà ngu
dại vậy hổng biết !
- Ủa ? Rồi làm sao nội đi được ? Bộ tụi nó giữ lại lon mỡ hả nội ? Con gái lớn tôi chen vào.
- Dễ hôn ! Nội đâu có để cho tụi nó « ăn » lon mỡ, con ! Mỡ heo nội thắng đem xuống cho tụi con chớ bộ.
Ngừng lại, hớp một hớp nước mát mà con út vừa đem ra, xong bà kể tiếp, trong lúc các con tôi quây quần lại nghe :
- Cái rồi … cứ dan ca riết làm nội phát ghét, nội đổ lì, ngồi lại đó đợi tụi nó muốn giải đi đâu thì giải.
Nghe
đến đây, bầy con tôi cười thích thú. Bởi vì tụi nó từng nghe ông nội
tụi nó kể những chuyện « gan cùng mình » của bà nội hồi xưa khi cùng
chồng vào khu kháng chiến, nhứt là giai đoạn trở về hoạt động ngầm ở
thành phố sau này, trước hiệp định Genève…
Con út nóng nảy giục :
- Rồi sao nữa nội ?
-
Cái rồi… lối mười một mười hai giờ gì đó nội hổng biết nữa. Ờ… cở đứng
bóng à. Có thằng cán bộ đạp xe đi ngang. Nó đi qua khỏi rồi chớ, nhưng
chắc nó nhìn thấy nội nên hoành xe lại chào hỏi : « Ũa ? Bà Tám đi đâu
mà ngồi đó vậy ? » Nội nhìn ra là thằng Kiểu con thầy giáo Chén ở
Tha-La, tụi bây không biết đâu. Kế nội kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nó
nghe. Nó cười ngất. Rồi nhờ nó can thiệp nên nội mới đi được đó. Lên xe
thì đã trưa trờ rồi… Ti ! Kiếm cây quạt cho nội, con !
Ti
là tên con út. Cây quạt là miếng mo cau mà má tôi cắt, vanh thành hình
rồi đem ép giữa hai tấm thớt dầy cho nó bớt cong .Má tôi đem từ Gò Dầu
xuống bốn năm cây quạt mo phân phát cho mấy cháu, nói : « Nội thấy ba má
tụi con gỡ bán hết quạt máy, nội mới làm thứ này đem xuống cho tụi con
xài. Kệ nó, xấu xấu vậy chớ nó lâu rách ».
Con
út cầm quạt ra đứng cạnh nội quạt nhè nhẹ mà mặt mày tươi rói : tối nay
nó có « bạn » ngủ chung để kể chuyện ! Vợ tôi đem áo bà ba của má tôi
vào buồng mấy đứa con gái, từ trong đó hỏi vọng ra :
- Nội ăn gì chưa nội ?
- Khỏi lo ! Tao ăn rồi. Để tao têm miếng trầu rồi tao với mấy đứa nhỏ soạn đồ ra coi có hư bể gì không cái đã.
Rồi
mấy bà cháu kéo nhau ra nhà sau. Tôi nhìn theo má tôi mà bỗng nghe lòng
dào dạt. Từ bao nhiêu năm nay, trên người má tôi chẳng có gì thay đổi.
Vẫn loại quần vải đen lưng rút, vẫn áo túi trắng ngắn tay có hai cái túi
thật đặc biệt do má tôi tự cắt may : miệng túi cao lên tới ngực chớ
không nằm dưới eo hông như những áo túi thường thấy. Mấy đứa nhỏ hay đùa
: « Cha… bộ sợ chúng nó móc túi hay sao mà nội làm túi sâu vậy nội ? »
Má tôi cười : « Ậy ! Vậy chớ túi này chứa nhiều thứ quí lắm à bây ».
Những thứ gì không biết, chớ thấy má tôi còn cẩn thận ghim miệng túi lại
bằng cây kim tây !
Tôi
là con một của má tôi. Vậy mà sau khi cha tôi chết đem về chôn ở Gò
Dầu, quê tôi, má tôi ở luôn trên đó. Nói là để châm sóc mồ mả và vườn
tược cây trái. Thật ra, tại vì má tôi không thích ở Sài Gòn, mặc dù rất
thương mấy đứa cháu. Hồi còn ở chung với vợ chồng tôi để tránh pháo kích
- dạo đó, người ta hay bắn hỏa tiễn vào Gò Dầu về đêm – má tôi thường
chắc lưỡi nói : « Thiệt… không biết cái xứ gì mà ăn rồi cứ đi ra đi vô,
hổng làm gì ráo ». Cái « xứ » Sàigòn, đối với má tôi, nó « tù chân tù
tay » lắm, trong lúc ở Gò Dầu má tôi có nhà cửa đất đai rộng rãi, cây
trái xum xuê, và dù đã cao niên, má tôi vẫn thường xuyên xách cuốt xách
dao ra làm
vườn, làm cỏ. Vả lại chung quanh đất má tôi, là nhà đất của các anh bà
con bên ngoại của tôi, thành ra má tôi qua lại cũng gần. Các anh chị bà
con tới lui thăm viếng giúp đỡ cũng dễ. Cho nên, dù ở một mình trên đó,
má tôi vẫn không thấy cô đơn hiu quạnh. Lâu lâu nhớ bầy con tôi thì
xuống chơi với chúng nó năm bảy bữa rồi về. Má tôi hay nói đùa là « đi
đổi gió » !
Mấy
năm sau ngày mất nước, cuộc sống của gia đình tôi càng ngày càng bẩn
chật. Cũng như thiên hạ, vợ chồng tôi bán đồ đạc trong nhà lần lần để
ăn. Má tôi biết như vậy nên xuống thăm mấy đứa nhỏ thường hơn, để mang «
cái gì để ăn » cho chúng nó. Nhiều khi nằm đêm tôi ứa nước mắt mà nghĩ
rằng lẽ ra tôi phải nuôi má tôi chớ, dù gì tôi cũng mới ngoài bốn mươi
lăm còn má tôi thì tuổi đã về chiều. Vậy mà bây giờ, mặc dù là công nhân
viên nhà nước xã hội chủ nghĩa với lương kỹ sư « bật hai trên sáu »,
tôi đã không nuôi nổi má tôi, mà trái lại chính má tôi phải cắt-ca
cắt-củm mang đồ ăn xuống tiếp tế cho gia đình tôi, giống như má tôi mớm
cơm đút cháo cho
tôi thuở tôi còn thơ ấu ! Thật là một « cuộc đổi đời » ( Nhà
Nước thường rêu rao : « Cách mạng là một cuộc đổi đời » ). Nhưng cuộc
đổi đời của mẹ con tôi thì thật là vừa chua cay vừa hài hước !
Lắm
khi tôi tự hỏi : « Rồi sẽ đi đến đâu ? ». Bấy giờ tôi đã trở thành «
trưởng ban văn nghệ » của cơ quan, một lối đi « ngang » mà nhờ đó tôi
còn được ở lại với sở cũ. Bởi vì mấy chục năm kinh nghiệm trong nghề
nghiệp chánh của tôi, nhà nước cách mạng cho là vô dụng, không « đạt yêu
cầu ». Thành ra, tối ngày tôi chỉ lo cho đoàn « nghiệp dư » của cơ quan
tập dượt hát múa. Thật là hề. Còn về phần các con tôi, tương lai gần
nhứt là đi đánh giặc Kampuchia, tương lai xa hơn thì thật là mù mịt !
Trong
lúc tôi không có lối thoát thì một người bạn đề nghị giúp chúng tôi
vượt biên, nhưng chỉ đi được có ba người. Vậy là chúng tôi lấy quyết
định cho hai đứa lớn đi theo tôi. Chuyện này, chúng tôi giấu má tôi và
mấy đứa nhỏ, kể cả hai đứa đã được chọn. Phần vì sợ đổ bể, phần vì sợ má
tôi lo. Ai chẳng biết vượt biên là một sự liều lĩnh vô cùng. Rủi đi
không thoát là bị tù đày chẳng biết ở đâu, may mà đi thoát cũng chưa
chắt là sẽ đến bờ đến bến. Người ta nói trong số những người đi thoát,
hai phần ba bị mất tích luôn. Thành ra, « vượt biên » là đi vào miền vô
định…
Theo
chương trình thì sáng sớm ngày rằm cha con tôi đi xe đò xuống Cần Thơ
rồi từ đó có người rước qua sông ông Đốc để xuất hành ngay trong đêm đó.
Tôi thắc mắc hỏi : « Tổ chức gì mà đi chui nhằm ngày rằm cha nội? ».
Bạn tôi cười : « Ai cũng nghĩ như anh hết. Tụi công an cũng vậy. Cho nên
hể có trăng sáng là tụi nó nằm nhà nhậu, không đi tuần đi rỏn gì hết.
Hiểu chưa ? »
Bữa
nay là mười bốn ta nhằm ngày thứ bảy, vợ chồng tôi định không nói gì
hết, chờ sáng sớm mai gọi hai đứa lớn dậy đi với tôi xuống Cần Thơ. Như
vậy là chúng nó sẽ hiểu. Và như vậy là kín đáo nhứt, an toàn nhứt. Rồi
sau đó vợ tôi sẽ liệu cách nhắn tin về cho má tôi hay. Chừng đó thì « sự
đã rồi »…
Bây
giờ thì má tôi đã có mặt ở đây, giấu cũng không được .Đành phải nói cho
má tôi biết. Nhưng nói lúc nào đây ? Và nói làm sao đây ? Liệu má tôi
có biết cho rằng tôi không còn con đường nào khác ? Liệu má tôi có chấp
nhận cho tôi không giữ tròn đạo hiếu chỉ vì lo tương lai cho các con ?
Liệu má tôi… liệu má tôi… Tôi phân vân tự đặt nhiều câu hỏi để chẳng
thấy ở đâu câu trả lời…
Tôi
ngồi xuống thềm nhà, nhìn ra sân. Ở đó, bờ cỏ lá gừng xanh mướt ngày
xưa đã bị chúng tôi đào lên đấp thành luống để trồng chút đỉnh khoai mì,
một ít khoai lan, vài hàng bắp. Không có bao nhiêu nhưng vẫn phải có.
Cho nó giống với người ta, bởi vì nhà nào cũng phải « tăng gia » cho
đúng « đường lối của nhà nước » . Thật ra, trồng trọt bao nhiêu đó, nếu
có… trúng mùa đi nữa, thì cũng không đủ cho bầy con tôi « nhét kẻ răng »
! Vậy mà tên công an phường, trong một dịp ghé thăm, đã tấm tắc khen : «
Anh chị công tác tốt đấy chứ. Tăng gia khá nhất khu phố đấy ! Các cháu
tha hồ mà ăn ». Anh ta không biết rằng mấy nhà hàng xóm của tôi, muốn «
tăng gia », họ đã phải
đào cả sân xi-măng hoặc sân lót gạch, thì lấy gì để « làm tốt » ?
Khi
tôi trở vào nhà thì con út đang gãi lưng cho nội. Nó vén áo túi nội lên
đến vai, để lộ cái lưng gầy nhom, cong cong và hai cái vú teo nhách.
Tôi tự hỏi : « Lạ quá ! Chỉ có mình mình bú hồi đó mà sao làm teo vú nội
đến như vậy được ? ». Rồi tôi bồi hồi cảm động khi nghĩ rằng chính hai
cái núm đen đó đã nuôi tôi lớn lên với dòng sữa ấm, vậy mà chẳng bao giờ
nghe má tôi kể lể công lao. Tôi cảm thấy thương má tôi vô cùng. Tôi len
lén từ phía sau lòn tay măn vú má tôi một cái. Má tôi giựt mình, rút cổ
lại :
- Đừng ! Nhột !Thằng chơi dại mậy !
Rồi má tôi cười văng cốt trầu. Con Ti la lên :
- Má ơi ! Coi ba măn vú nội nè !
Tôi
cười hả hê thích thú. Trong khoảnh khắc thật ngắn ngủi đó, tôi bắt gặp
lại những rung động nhẹ nhàng sung sướng khi tôi măn vú mẹ thuở tôi mới
lên ba lên năm…Và cũng trong khoảnh khắc đó, tôi đã quên mất rằng má tôi
đã gần tám mươi mà tôi thì trên đầu đã hai thứ tóc ! Và cũng quên mất
rằng từ ngày mai trở đi, có thể tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại má tôi
nữa, để măn vú khi bất chợt thấy má tôi nhờ cháu nội gãi lưng như hôm
nay…
Chiều
hôm đó, khi ngồi vào bàn ăn, mắt bầy con tôi sáng rỡ. Bữa cơm thật tươm
tất, đầy đủ món ăn như khi xưa. Có gà nấu canh chua lá giang, một loại
giây leo có vị chua thật ngọt ngào mà hình như chỉ ở miệt quê tôi mới
có. Món này, bà nội mấy đứa nhỏ nấu thật đậm đà. Bà thường nói : « Canh
chua phải nêm cho cứng cứng nó mới ngon ». Mà thật vậy. Tô canh nóng
hổi, bốc lên mùi thơm đặc biệt của thịt gà lẫn với mùi chua ngọt của lá
giang, mùi mặn đằm thấm của nước mắm và mùi tiêu mùi hành… Húp vào một
miếng canh chua, phải nghe đầu lưỡi ngây ngây cứng cứng và chân tóc trên
đầu tăng tăng, như vậy mới đúng. Nằm cạnh tô canh chua là tộ cá kèo kho
tiêu mà khi mang
đặt lên bàn ăn nó hãy còn sôi kêu lụp-bụp, bốc mùi thơm phức vừa mặn
vừa nồng cay lại vừa béo, bỡi vì trong cá kho có tóp mỡ và trước khi bắt
xuống, bà nội có cho vào một muỗng mỡ nước gọi là « để cho nó dằn » !
Đặc biệt, khi làm cá kèo, bà không mổ bụng cá, thành ra khi cắn vào đó,
mật cá bể ra đăng đắng nhẹ nhàng làm tăng vị bùi của miếng cá lên gấp
bội. Ngoài hai món chánh ra, còn một dĩa măng luộc, tuy là một món phụ
nhưng cũng không kém phần hấp dẫn nhờ ở chỗ sau khi luộc rồi măng được
chiên lại với tỏi nên ngã màu vàng sậm thật là đậm đà…
Sau khi và vài miếng, vợ tôi nhìn tôi rồi rớt nước mắt. Nội hỏi :
- Bộ cay hả ?
Vợ
tôi “dạ”, tiếng “dạ” nằm đâu trong cổ. Rồi buông đũa, mếu máo chạy ra
nhà sau. Tôi hiểu. Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng, bữa cơm mà cả gia
đình còn xum họp bên nhau. Rồi sẽ không còn bữa cơm nào như vầy nữa. Gia
đình sẽ chia hai. Những người đi, rồi sẽ sống hay chết ? Còn những
người ở lại, ai biết sẽ còn tan tác đến đâu ? Tôi làm thinh, cắm đầu ăn
lia lịa như mình đang đói lắm. Thật ra, tôi đang cần nuốt thật nhanh
thật nhiều, mỗi một miếng nuốt phải thật đầy cổ họng… để đè xuống, nén
xuống một cái gì đang trạo trực từ dưới dâng lên. Mắt tôi nhìn đồ ăn,
nhìn chén cơm, nhìn đôi đũa, để khỏi phải nhìn má tôi hay nhìn bầy con,
ngần
đó khuôn mặt thân yêu mà có thể tôi sẽ vĩnh viễn không còn thấy lại
nữa. Trong đầu tôi chợt hiện ra hình ảnh người đang hấp hối, trong giây
phút cuối cùng lưỡi đã cứng đơ mắt đã dại, vậy mà họ vẫn nhìn nuối những
người thương để rồi chảy nước mắt trước khi tắt thở. Rồi tôi thấy tôi
cũng giống như người đang hấp hối, không phải chết ở thể xác mà là chết ở
tâm hồn, cũng một lần vĩnh biệt, và cũng sẽ bước vào một cõi u-minh nào
đó, một cõi thật mơ hồ mà mình không hình dung được, không chủ động
được !
Má tôi gắp cho tôi một cái bụng cá to bằng ngón tay cái :
- Nè ! Ngon lắm ! Ăn đi ! Để rồi mai mốt hổng chắc gì có mà ăn !
Ý
má tôi muốn nói rằng ở với tình trạng đất nước này riết rồi đến loại cá
kèo cũng sẽ khan hiếm như các loại cá khác. Nhưng trong trường hợp của
tôi, lời má tôi nói lại có ý nghĩa của lời tống biệt. Nó giống như : ”Má
cho con ăn lần này lần cuối. Ăn đi con ! Ăn cho ngon đi con !”. Tôi
ngậm miếng cá mà nước mắt trào ra, không kềm lại được. Nếu không có mặt
bầy con tôi, có lẽ tôi đã cầm lấy bàn tay của má tôi mà khóc, khóc thật
tự do, khóc thật lớn, để vơi bớt nỗi thống khổ đã dằn vật tôi từ bao
nhiêu lâu nay… Đằng này, tôi không làm như vậy được. Cho nên tôi trạo
trực nuốt miếng cá mà cảm thấy như nó thật đầy xương xóc
!
Má tôi nhìn tôi ngạc nhiên :
- Ủa ? Mày cũng bị cay nữa sao ?
Rồi bà chồm tới nhìn vào tộ cá. Các con tôi nhao nhao lên :
- Đâu có cay, nội.
- Con ăn đâu thấy cay. Hai có nghe cay hôn Hai ?
- Chắc ba má bị gì chớ cay đâu mà cay.
- Con ăn được mà nội. Có cay đâu ?
Các
con tôi đâu có biết rằng cái cay của tôi không nằm trên đầu lưỡi, mà nó
nằm trong đáy lòng. Cái cay đó cũng bắt trào nước mắt!
Tôi đặt chuyện, nói tránh đi :
- Hổm rày nóng trong mình, lưỡi của ba bị lở, nên ăn cái gì mặn nó rát.
Rồi tôi nhai thật chậm để có thời gian cho sự xúc động lắng xuống. Miếng cơm trong miệng nghe như là sạng sỏi, nuốt không trôi…
Sau
bữa cơm, bà cháu kéo hết vào buồng tụi con gái để chuyện trò. Thỉnh
thoảng nghe cười vang trong đó. Chen trong tiếng cười trong trẻo của các
con, có tiếng cười khọt khọt của nội, tiếng cười mà miếng trầu đang
nhai kềm lại trong cổ họng, vì sợ văng cốt trầu. Những thanh âm đó toát
ra một sự vô tư, nhưng lại nghe đầy hạnh phúc. Lúc này, có nên nói
chuyện vượt biên với má tôi hay không ? Tội nghiệp bầy con, tội nghiệp
nội… Ngoài phòng khách, tôi đi tới đi lui suy nghĩ đắn đo. Vợ tôi còn
lục đục sau bếp, và cho dù vợ tôi có mặt ở đây cũng không giúp gì tôi
được với tâm sự rối bời như mớ bòng bong. Tôi bèn vào buồng ngủ, trải
chiếu dưới gạch-từ lâu
rồi, vợ chồng tôi không còn giường tủ gì hết- rồi tắt đèn nằm trong
bóng tối, gác tay lên tráng mà thở dài…
Thời
gian đi qua… Trăng đã lên nên tôi thấy cửa sổ được vẽ những lằn ngang
song song trắng đục. Trong phòng bóng tối cũng lợt đi. Không còn nghe
tiếng cười nói ở phòng bên và tôi nghĩ chắc đêm nay vợ tôi ngủ với hai
đứa lớn ngoài phòng khách, để trằng trọc suốt đêm chờ sáng.
Bỗng cửa phòng tôi nhẹ mở, vừa đủ để tôi nhìn thấy bóng má tôi lom khom hướng vào trong hỏi nhỏ :
- Ba con Ti ngủ chưa vậy ?
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời nho nhỏ vừa đủ nghe :
- Dạ chưa, má.
Má tôi bước vào đóng cửa lại, rồi mò mẫm ngồi xuống cạnh tôi, tay cầm quạt mo quạt nhè nhẹ lên mình tôi, nói :
- Coi bộ nực hả mậy ?
- Dạ. Nhưng rồi riết cũng quen, má à.
Tôi
nói như vậy mà trong đầu nhớ lại hình ảnh tôi và thằng con trai hè hụi
tháo gỡ mấy cây quạt trần để mang đi bán. Im lặng một lúc. Tay má tôi
vẫn quạt đều. Rồi má tôi hỏi:
- Tụi bây còn gì để bán nữa hông ?
- Dạ…
Tôi
không biết trả lời làm sao nữa. Chiếc xe hơi bây giờ chỉ còn lại cái
sườn, không ai chịu chở đi. Trong nhà bây giờ chỉ còn bộ bàn ăn, cái tủ
thờ nhỏ và bộ xa-long mây “sứt căm gãy gọng”. Ngoài ra, trên tường có
chân dung “Bác Hồ” dệt bằng lụa và nhiều “bằng khen”,”bằng lao động tiên
tiến”… những thứ mà nhà nào cũng có hết, cho, chưa chắc gì có ai thèm
lấy ! Bỗng tôi nhớ có một hôm tôi nói với bầy con tôi : ”Ba tự hào đã
giữ tròn liêm sỉ từ mấy chục năm nay. Bây giờ, đổi lấy cái gì ăn cũng
không được, đem ra chợ trời bán cũng chẳng có ai mua. Sao ba thấy thương
các con và tội cho ba quá !”. Lúc đó, tôi tưởng tượng thấy tôi đứng ở
chợ
trời, dưới chân có tấm bảng đề “Bán cái liêm sỉ, loại chánh cống. Bảo
đảm đã hai mươi năm chưa sứt mẻ”. Thật là khùng nhưng cũng thật là chua
chát !
Nghe tôi “dạ” rồi nín luôn, má tôi hiểu, nên nói:
-
Rồi mầy phải tính làm sao chớ chẳng lẽ cứ như vầy hoài à ? Tao thấy bầy
tụi bây càng ngày càng trõm lơ, còn mầy thì cứ làm thinh tao rầu hết
sức.
Má tôi ngừng một chút, có lẽ để lấy một quyết định :
-
Tao xuống kỳ này, cốt ý là để nói hết cho mầy nghe. Tao già rồi, mai
mốt cũng theo ông theo bà. Mày đừng lo cho tao. Lo cho bầy con mầy kìa.
Chớ đừng vì tao mà bắt mấy đứa nhỏ phải hy sinh tương lai của tụi nó.
Mầy liệu mà đi, đi ! Kiếm đường mà kéo bầy con mầy đi, đi ! Ở đây riết
rồi chết cả chùm. Không chết trận trên Miên thì cũng chết khùng chết
đói. Thà tụi bây đi để tao còn thấy chút đỉnh gì hy vọng mà sống thêm
vài năm nữa. Mày hiểu hôn ?
Nghe
má tôi nói, tôi rớt nước mắt. Chuyện mà bao lâu nay tôi không dám nói
với má tôi thì bây giờ chính má tôi lại mở ngỏ khai nguồn. Và tôi thật
xúc động với hình ảnh bà mẹ già phải đẩy đứa con duy nhứt đi vượt biên
để vui mà sống với ít nhiều hy vọng ! Thật là ngược đời : có người mẹ
nào lại muốn xa con ? Chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa mới xảy ra những
chuyện “đổi đời” như vậy !
Tôi nắm bàn tay không cầm quạt của má tôi, lắc nhẹ :
- Má à ! Lâu nay con giấu má. Bây giờ má nói, con mới nói. Sáng sớm mai này, con và hai đứa lớn sẽ xuống Cần Thơ để vượt biên.
Tôi nghe tiếng cây quạt mo rơi xuống gạch. Rồi yên lặng. Một lúc lâu sau, má tôi mới nói :
- Vậy hà…
Tôi nghe có cái gì nghẹn ngang trong cổ. Tôi nuốt xuống mấy lần, rồi cố gắng nói :
- Con đi không biết sống hay chết. Con gởi má vợ con và ba đứa nhỏ, có bề gì xin má thương tụi nó …
Nói
tới đó, tôi nghẹn ngào rồi òa lên khóc ngất. Tôi nghe có tiếng quạt phe
phẩy lại, nhanh nhanh, và bàn tay má tôi vuốt tóc tôi liên tục giống
như hồi nhỏ má tôi dỗ về tôi để tôi nín khóc.
Một lúc sau, má tôi nói :
- Thôi ngủ đi, để mai còn dậy sớm.
Rồi
bước ra đóng nhẹ cửa lại. Sau đó, có tiếng chẹt diêm quẹt rồi một ánh
sáng vàng vọt rung rinh lòn vào khuôn cửa, tôi biết má tôi vừa thắp đèn
cầy trên bàn thờ. Tiếp theo là mùi khói nhang, chắc bà nội mấy đứa nhỏ
đang cầu nguyện ngoài đó.
Tôi thở dài, quay mặt vào vách, nhắm mắt mà nghe chơi vơi, giống như đang nằm trong một cơn mộng…
Năm
giờ sáng hôm sau, má tôi kêu tôi dậy đi. Hai con tôi đã sẵn sàng, mỗi
đứa một túi nhỏ quần áo. Chúng nó không có vẻ gì ngạc nhiên hay xúc động
hết. Có lẽ mẹ tụi nó đã gọi dậy từ ba bốn giờ sáng để giảng giải và
chuẩn bị tinh thần. Riêng tôi, thật là trầm tĩnh. Nước mắt đêm qua đã
giúp tôi lấy lại quân bình.Thật là mầu nhiệm !
Tôi vào buồng hôn nhẹ mấy đứa nhỏ đang ngủ say, xong ôm vợ tôi, ôm má tôi. Hai người thật là can đảm, không mảy may bịn rịn.
Tôi chỉ nói có mấy tiếng :
- Con đi nghe má !
Rồi bước ra khỏi cổng.
-oOo-
Lần đó, tôi đi thoát.
Rồi phải ba bốn năm sau, tôi mới chạy chọt được cho vợ con tôi rời Việt Nam sang sum họp với tôi ở Pháp. Má tôi ở lại một mình.
Mấy
ngày đầu gặp lại nhau, vợ con tôi kể chuyện “bên nhà” cho tôi nghe, hết
chuyện này bắt qua chuyện nọ. Bà Nội được nhắc tới nhiều nhứt và những
chuyện về bà nội được kể đi kể lại thường nhứt.
Tụi nó kể :
“Ba
đi rồi, mấy bữa sau cơ quan chỗ ba làm việc cho người đến kiếm. Tụi con
trốn trong buồng, để một mình nội ra. Nội nói rằng nội nhờ ba về Tây
Ninh rước ông Tư xuống bởi vì trên đó đang bị Cao Miên pháo kích tơi
bời, tới nay sao không thấy tin tức gì hết, không biết ba còn sống hay
chết nữa. Nói rồi, nội khóc thật mùi-mẫn làm mấy cán bộ trong cơ quan
tin thiệt, họ an ủi nội mấy câu rồi từ đó không thấy trở lại nữa”.
Rồi tụi nó kết câu chuyện với giọng đầy thán phục “Nội hay thiệt !”.
Nghe
kể chuyện, tôi bồi hồi xúc động. Tôi biết lúc đó má tôi khóc thiệt chớ
không phải giả khóc như các con tôi nghĩ. Bởi vì, trong hai trường hợp
dù sự việc xảy ra có khác nhau, nhưng hoàn cảnh sau đó vẫn giống nhau y
hệt. “Ba con Ti đi không biết sống hay chết” vẫn là câu hỏi lớn đè nặng
tâm tư của má tôi. Bề ngoài má tôi làm ra vẻ bình tĩnh để an lòng con
dâu và cháu nội, nhưng là một cái vỏ mỏng manh mà trong khi kể chuyện
cho các cán bộ, nó đã có dịp bể tung ra cho ưu tư dâng đầy nước mắt…
“Rồi
sau đó -tụi con tôi kể tiếp- nội ở lại nhà mình để chờ tin tức và cũng
để ra tiếp chuyện hàng xóm và chánh quyền địa phương, chớ má thì ngày
nào cũng đi chùa, còn tụi con nội sợ nói hé ra là mang họa cả đám. Lâu
lâu, nội về Gò Dầu bán đồ rồi mua thịt thà đem xuống tiếp tế cho tụi
con. Thấy nội già mà lên lên xuống xuống xe cộ cực nhọc quá, tụi con có
can ngăn nhưng nội nói nội còn mạnh lắm, nội còn sống tới ngày con Ti
lấy chồng nội mới chịu theo ông theo bà !”.
Tôi
biết : má tôi là cây cau già - quá già, quá cỗi - nhưng vẫn cố bám lấy
đất chỉ vì trên thân cây còn mấy dây trầu… Hình ảnh đó bỗng làm tôi ứa
nước mắt. Thương má tôi và nhớ cả quê hương. Cái quê hương tuyệt đẹp của
tôi mà người ta đã cướp mất. Cái quê hương mà trên đó tôi không còn
quyền sống như ý mình muốn, phát biểu những gì mình nghĩ, ca tụng những
gì mình thích. Ở đó, ở quê hương tôi, tôi còn bà mẹ già, bà mẹ tám mươi
đã cắt ruột đuổi con đi, bỏ quê hương mà đi, để bà còn chút gì hy vọng
sống thêm vài ba năm nữa ! Bây giờ, vợ con tôi cũng đã đi hết. Má tôi
còn lại một mình. Thân cây cau giờ đã nhẵn dây trầu, thêm tuổi đời
một nắng hai mưa. Tôi biết ! Má ơi ! Con biết : cây cau già bây giờ
đang nhớ thắt thẻo mấy dây trầu non …
Theo
lời các con tôi kể lại, hôm tiếp được điện tín của bạn tôi ở Pháp đánh
về báo tin tôi và hai đứa lớn đã tới Mã Lai bình yên, cả nhà tưng bừng
như hội. Tụi nó nói : “Nội vội vàng vào mặc áo rồi quì trước bàn thờ
Phật gõ chuông liên hồi. Đã giấu không cho ai biết mà nội gõ chuông
giống như báo tin vui cho hàng xóm !”
“Mấy
hôm sau, bỗng có công-an phường lại nhà. Công an đến nhà là lúc nào
cũng có chuyện gì đó cho nên nội có hơi lo. Thấy dạng tên công an ngoài
ngõ, trong này nội niệm Phật để tự trấn an. Sau đó, nội cũng kể chuyện
ba về Tây Ninh rồi nội kết rằng ba đã chết ở trên đó. Rồi nội khóc…”
Mấy
con tôi đâu biết rằng đối với má tôi, dù tôi còn sống, sống mà vĩnh
viễn không bao giờ thấy lại nhau nữa thì cũng giống như là tôi đã chết.
“
Sau đó nội than không biết rồi sẽ ở với ai, rồi ai sẽ nuôi nội, bởi vì
má buồn rầu đã bỏ nhà đi mất. Nghe vậy, tên công an vội vàng an ủ
-
Bà cụ đừng có lo ! Rồi chúng cháu sẽ đem bà cụ về ở với chúng cháu. Cứ
yên chí !”. Sau khi tên công an ra về, nội vào buồng kể lại chuyện đó
cho tụi con nghe, rồi nói : “Nội nghe thằng công an đòi đưa nội về nuôi
mà nội muốn xỉu luôn ! Không phải vì cảm động mà vì sợ ! Ở với tụi nó,
thà chết sướng hơn !”
Vợ
con tôi được đi chánh thức nên hôm ra đi bạn bè thân quyến đến chia tay
đầy nhà. Lúc mẹ con nó quì xuống lạy má tôi để giả biệt -hay đúng ra để
vĩnh biệt- tất cả mọi người đều khóc. Đó là lần cuối cùng mà má tôi
khóc với bầy cháu nội. Và tôi nghĩ rằng má tôi khóc mà không cần tìm
hiểu tại sao mình khóc, chỉ thấy cần khóc cho nó hả, chỉ thấy càng khóc
thân thể gầy còm càng nhẹ đi, làm như thịt da tan ra thành nước mắt, thứ
nước thật nhiệm mầu mà Trời ban cho con người để nói lên tiếng nói đầy
câm lặng.
Bầy
bạn học của các con tôi đứng thành hai hàng dài, chuyền nước mắt cho
nhau để tiễn đưa tụi nó ra xe ngoài ngõ. Tôi hình dung thấy những cặp
mắt thơ ngây mọng đỏ nhìn các con tôi đi mà nửa hồn tê-dại, không biết
thương cho bạn mình đi hay thương cho thân phận mình, người ở lại với
đầy chua xót…
Mấy con tôi nói : ”Nội không theo ra phi trường. Nội ở nhà để gõ chuông cầu nguyện”.
-oOo-
Tôi
làm việc ở Côte d'Ivoire ( Phi Châu ), cách xa vợ con bằng một lục địa,
và cách xa mẹ tôi bằng nửa quả địa cầu. Những lúc buồn trống vắng, tôi
hay ra một bãi hoang gần sở làm để ngồi nhìn biển cả. Mặt nước vuốt ve
chân cát, tiếng sóng nhẹ nghe như thì thào… những thứ đó làm như chỉ
dành cho riêng tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như được dỗ về an ủi. Những
lúc đó, sao tôi nhớ má tôi vô cùng. Trên đời này má tôi là người duy
nhứt an ủi tôi từ thuở tôi còn ấu thơ cho đến khi trên đầu tôi đã hai
thứ tóc. Ngay đến đêm cuối cùng trên quê hương, cũng chính trong vòng
tay khẳng khiu của má tôi mà tôi khóc, khi gởi vợ gởi con… Lúc nào tôi
cũng tìm thấy ở má tôi một tình thương
thật rộng rãi bao la, thật vô cùng sâu đậm, giống như đại dương mà tôi
đang nhìn trước mặt.
Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi hay ra ngồi đây để nhìn biển cả…
Tiểu Tử
Hoa bầu trắng
Hoa bầu trắng tha hương mà cứ ngỡ...
Chốn làng quê hoa bướm rập rình xưa !
Thương quê hương, thương biết mấy cho vừa,
Nhìn bướm trắng lại mơ về quê cũ !!
NM
GIÀN BẦU PARIS
Khu vườn cạnh xưởng in Quê Mẹ có giàn bầu nổi tiếng lắm. Người Pháp
qua đường, các bà hàng xóm đi ngang, tay kẹp ổ bánh mì hoặc kéo xe đi
chợ, bận rộn, gấp gáp cách mấy cũng phải dừng chân đứng lại. Họ thường
ngước đầu nhìn liếc, vừa kinh ngạc, vừa chiêm ngưỡng.
Ngày theo ngày, lá bầu xanh biếc chạy vùn vụt trên khung giàn bằng
tre, vượt tràn qua bức tường cũ kỹ, nứt nẻ, của nhà in. Bất ngờ hết sức
!!
Nhà in Quê Mẹ ở nơi vùng ngoại ô Bắc Paris nghèo nàn. Đây là khu công
xưởng, kỹ nghệ. Ống khói nhà máy mọc lên thay cây cỏ. Nhưng ngay giữa
vùng bụi bặm, hẩm hiu này, một giàn bầu Việt Nam được dựng lên ngạo
nghễ. Hoa bầu trắng năm cánh, thơm nhè nhẹ, gọi bướm tứ phương về, lá
xanh to bản chạy đua cùng mặt trời…
Anh em trong tòa soạn nhớ nước nhớ nhà quá dựng lên giàn bầu với
những khúc tre còn sót lại sau kỳ tổ chức Hội Chợ Tết ở rừng Vincennes,
Paris. Các người dựng giàn đều là dân trí “thức” nên giàn bầu có vẻ buồn
“ngủ” hơi nghiêng ngả, nhiều khi lung lay theo gió chiều. Nhưng chính
sự yếu ớt này làm tăng duyên dáng, khiến ai cũng thương giàn bầu, mong
manh như đời người, như một kiếp tha hương…
Mùa hè nóng nực, Ỷ Lan thích ngồi mơ mộng bên giàn bầu. Anh em trong
tòa soạn cũng hay kê bàn cạnh đấy, ngồi viết bài cho mát. Trưa nay, Ỷ
Lan bày đầy sách vở, giả bộ làm việc. Nhưng đầu óc đuổi theo tiếng máy
chữ của anh Thi Vũ, lóc cóc như vó ngựa. Một vài khi, anh Thi Vũ viết
bài trên máy đánh chữ. Anh nói rằng tiếng lóc cóc, và sự đề kháng của
nốt máy nhấn, kìm hãm bớt dòng suy tưởng quá nhanh, quá cuồn cuộn như vũ
bão trong đầu. Viết tay chảy quá, khó kìm.
Nhìn giàn bầu, nhớ câu ca dao :
Bầu ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Ỷ Lan nhớ tới những năm vừa qua sống “chung một giàn” với anh chị em
Việt Nam, và cười thầm nhớ lại những ngày đầu tiên khi mới qua Pháp.
Thuở đó còn chiến tranh, Ỷ Lan chỉ tính tình nguyện bỏ một năm sang
Pháp giúp “Hội Phật tử Việt kiều Hải ngoại” trong việc phổ biến tin tức
và văn hóa Việt Nam cho thế giới thông cảm. Làm sao ngờ được, ngày ấy đã
hoàn toàn thay đổi đời mình ? Và mình sẽ bị, hay được Việt Nam hóa,
mình sẽ tìm ra một “Quê Mẹ” xa hẳn nơi chôn nhau cắt rốn ! !
Đến sống trong một không khí hoàn toàn xa lạ, Ỷ Lan vừa rán bập bẹ
học tiếng Việt, vừa cố tìm hiểu và bắt chước sống theo tinh thần Đông
phương.
Chướng ngại đầu tiên là cách ăn chén đũa ! Làm sao gắp cho được và bỏ
vào miệng những cọng rau luộc, khuôn đậu rán, miếng cá hay miếng thịt
nằm ngoan ngoãn trên dĩa trước mặt bàn ?? Ỷ Lan dùng đủ cách, đủ kế,
nhưng bữa nào cũng thua cuộc Đâm thẳng tới, thì “chúng” nhảy đi chỗ khác
như ếch nhái. Đâm lén, thì “chúng” vượt khỏi dĩa, bay thẳng vào chén
người trước mặt !! Chó ngáp phải ruồi mà gắp được, đưa gần tới miệng,
thì…”chúng” nhào xuống lại trong chén mình, làm nước canh bắn lên tung
toé ! ! Vừa dơ áo, vừa làm bộ mặt quê mùa của mình đỏ như gấc!!
Khổ quá. Mấy ngày đầu đói meo, vẫn cắn răng không dám than. Do tự ái
người Hồng Mao, nhất định không chịu thua, dù các bạn tội nghiệp đưa dao
nỉa ra cứu. Vì vậy, sáng sáng Ỷ Lan thường uống cà phê sữa, ăn bánh mì
thật no, chuẩn bị cho trận “đánh đũa” sắp tới !!
Ôi, mấy hột cơm làm mình ốm o, đau khổ ! Chúng xếp hàng cả ngày trong
lòng chén xa xăm của mình, mà chẳng chịu làm ơn co giò nhảy vào miệng
!! Thiệt bất công quá đi !! Sống trong xứ ăn cơm mà phải chịu đói.
Ngoài việc tranh đấu với chén đũa, Ỷ Lan chăm chỉ học tiếng Việt. Mỗi
ngày mỗi chữ mới. Nhưng khi phát âm ra, chẳng ai hiểu mô tê chi cả !! Ỷ
Lan xoay qua học cách phát âm tên từng người trong nhà.
Thuở ấy, người ra kẻ vào thường dùng chữ “đạo hữu” học khá dễ. Nhưng
tên các vị Thượng tọa, Đại đức thì rắc rối lắm. Do sự đoán mò, và do một
vị tu sĩ ưa khôi hài giải thích bậy, Ỷ Lan nghĩ rằng mỗi lần họ đi đâu
đều “thích” đổi tên mới ! Ỷ Lan được giải thích rằng, chẳng hạn khi qua
Pháp, họ phải lấy tên mới, nên mới gọi là “pháp danh” (tên ở Pháp). Có
một vị tên là Thích Pháp Kiến rất dễ nhớ. Tên người ở Pháp lấy theo tên
thánh không có nghĩa. Ở Việt Nam, mọi tên đều mang ý nghĩa. Có khi thơm
tho, thơ mộng, như Quỳnh Hoa, Thu Ba, Mộng Tuyết… Có khi oai nghi hùng
dũng, như Thiếu Dũng, Văn Hùng… Có khi mơ ước điều chưa có như Bạch
Tuyết. . . Nhưng cũng có tên tuy đủ nghĩa nhưng không cần đẹp, như Đinh
Năm Phân, Trần Văn Trụi, Bé Teo, Cu Tí… Hỏi nghĩa Pháp Kiến là gì, thầy
Thế Tịnh giảng cho Ỷ Lan là “le fourmi français” (con kiến
Pháp). Hồi đó còn dốt hơn bây giờ, Ỷ Lan tin ngay, thấy nhiều ý nghĩa
nữa. Đầu thầy trọc và tròn, người béo, suốt ngày bận rộn chạy vô chạy ra
các phòng như con kiến. Dù không thích kiến lắm, Ỷ Lan vẫn phục lòng từ
bi không phân biệt chủng loại của đạo Phật, như con kiến của thầy Pháp
Kiến. Theo lời giải thích của thầy Thế Tịnh, Ỷ Lan tưởng tượng rằng rồi
đây khi thầy Pháp Kiến sang hoằng pháp các nước khác như Ý, Mỹ, Thái
Lan, Mông Cổ… thầy sẽ phải đổi tên thành Thích Ý Kiến, Thích Mỹ Kiến,
Thích Thái Kiến, Thích Mông Kiến ??! !
Thời đó là thời kỳ “khám phá” học hỏi nhiều nhất của Ỷ Lan. Nhất tự
vi sư, bán tự vi sư ! Ai dạy cho mình dù là nửa chữ vẫn là thầy của
mình, nên Ỷ Lan có không biết bao nhiêu là thầy. Thầy hay, cũng như thầy
bông lơn bậy bạ. Hèn chi người Việt có câu : “nhiều thầy thúi ma!” (Vậy
khi chữ Việt của Ỷ Lan không được thơ mộng lắm, cũng xin Bạn đọc tha
thứ cho !) Và sở dĩ Ỷ Lan hăm hở học hết cả chuyện đúng, chuyện sai,
chuyện ngược, chuyện xuôi luôn, mà không biết phân biệt, là cũng vì nạn
nhiều thầy dạy “nửa chữ” như thế.
Có một thầy học dạy Ỷ Lan chữ “đồng hồ”. Ông giải thích chữ “đồng” là
kim loại dùng để làm đồng hồ thời xưa, và chữ “hồ” nghĩa là con chồn,
chạy nhanh như thời gian. Và khi giảng chữ “huệ trí” trong truyện ngắn
“Con thằn lằn chọn nghiệp” của nhà văn Hồ Hữu Tường, ông nói “huệ” là
hoa huệ trắng, tên là hoa lys của Pháp; “trí” là trí tuệ, tinh thần. Huệ
trí là trí tuệ trắng thơm như bông huệ. Về nhà khoe bài học mới với anh
em trong tòa soạn, Ỷ Lan không hiểu vì sao ai cũng bật cười về “đồng hồ
con chồn” và “bông huệ trắng” thơm tho của mình !!
Trưa nay, ngồi dưới giàn bầu mơ mộng chuyện thời xưa. Không phải
chuyện thời xưa khi tóc còn để chỏm, mà “thời xưa” đã có tóc thề !! Vì
“thời để chỏm mẫu giáo”, Ỷ Lan “ham chơi” đi học tiếng Anh, tới khi lớn
mới bắt qua tiếng Việt !!! Nhưng thà trễ còn hơn không, phải không các
bạn ?
Xung quanh vườn im lặng như tờ. Sao không còn nghe tiếng máy chữ lóc
cóc của anh Thi Vũ . Nhìn lên, thấy anh cười ngạo, tay chỉ bàn viết của Ỷ
Lan. Liếc xuống bàn, một chồng sách báo và tự vị bày ra “dọa” thiên hạ,
chứ chẳng viết lách chi được. Nãy giờ Ỷ Lan chỉ lách, chứ chưa viết. Và
suốt những giờ thả hồn mơ mộng, giấu mình sau chồng sách, một giây
“râu” bầu đã vểnh ra, cuốn vòng quanh cây bút còn cầm trên tay như cuốn
“lò xo”. Râu bầu là nụ cười nhếch mép của thiên nhiên đang vạch trần “âm
mưu” không chịu làm việc của mình !!
Ỷ Lan càng hiểu thêm sâu sắc câu ca dao Việt :
Bầu ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn !
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn !
Tự thấy đời mình cuốn ốc “chung giàn” với người Việt . Ngày càng buộc
chặt. Ngày càng vươn cao. Ngày càng đi xa, đi chung mãi mãi về phương
trời quê mẹ.
Tiếng cười của anh Thi Vũ làm rung rinh đàn bướm trắng đang ngủ trưa
trên những nụ hoa bầu. Bướm tung tăng bay dưới nền trời Paris xanh ngắt.
Ai biết đâu những con bướm ấy lại không đến từ một giàn bầu xa lắc ở
một khu vườn trên đất nước Việt Nam. Bướm tới đây thầm thì kể chuyện
nước non với giàn bầu hải ngoại xanh biếc mọc cao giữa Paris tự do.
:::Ỷ Lan Penelope Faulkner:::