Thứ Năm, 9 tháng 8, 2012

NTV 21 - Tất cả đều là Vô Thường


Image Detail
Tìm về......
Tìm về "Một thoáng" "Bình an",
Mỗi ngày là một ngày vàng với ta....
Rồi thì ai cũng ...về nhà !
Thấm nhuần tâm đạo tâm ta an bình..
Dù cho thuyền có linh đinh ,
Gắng chèo rồi cũng một mình ta thôi !
Nào ai góc biển chân trời,
         Cầu xin tất cả về nơi An bình !!!   
NM  
Tất cả đều là VÔ THƯỜNG      

1-Thời gian : Vô Thường 
Tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già. Chẳng dám nói hiểu hết mọi lẽ nhân sinh nhưng chỉ có hiểu đời thì mới Qua một ngày vui một ngày.sống thanh thản, sống thoải mái.
 Qua một ngày mất một ngày 
 Vui một ngày lãi một ngày.
  2-Hạnh phúc : Vô Thường
Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
3-Tiền : Vô Thường
Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua ? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ ! Người khôn biết kiếm tiền, biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó. (Khó lắm !?!?)
4- Đời sống : Vô Thường
“Quãng đời còn lại càng ngắn thì càng phải làm cho nó phong phú”. Người già phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “con chim bay lượn”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già.
5-Thê´Gian : Vô Thường
-Tiền bạc là của con ( không chắc lám) - Tài sản có thể bị mất vì các nguyên nhân: 1-Thiên tai, 2- Hỏa hoạn, 3- Pháp lênh của vua hay chính quyền tich thu, quốc hửu hóa, 4- Trộm cướp, 5- Con cái.
- Địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứsức khỏe là của mình.
-Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn.
-Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút, hỏi vài câu là thấy đủ rồi.
-Con tiêu tiền cha mẹ, thoải mái ; Cha mẹ tiêu tiền con, chẳng dễ.
-Nhà cha mẹ là nhà con ; Nhà con không phải là nhà cha mẹ.
Khác nhau là thế, người hiểu đời coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, không mong báo đáp.
-Chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
--Ốm đau trông cậy ai ? Trông cậy con ư ? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu (cửu bệnh sàng tiền vô hiếu tử). Trông vào bạn đời ư ? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi.
Trông cậy vào đồng tiền ư ? - Chỉ còn cách ấy.
-Cái được, người ta chẳng hay để ý; cái không được thì nghĩ nó to lắm, nó đẹp lắm.
Chân lý của Đạo, thực ra sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quý trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghĩa của nó, làm cho cuộc sống vui hơn, giàu ý nghĩa hơn.
Cần có tấm lòng rộng mở, yêu cuộc sống và thưởng thức cuộc sống, trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình (tỷ thượng bất túc tỷ hạ hữu dư), biết đủ thì lúc nào cũng vui (tri túc thường lạc).
Tập cho mình nhiều đam mêvui với chúng không biết mệt, tự tìm niềm vui.
Tốt bụng với mọi người, vui vì làm việc thiện, lấy việc giúp người làm niềm vui.
Con người ta vốn chẳng phân biệt giàu nghèo sang hèn, tận tâm vì công việc là coi như có cống hiến, có thể yên lòng, không hổ thẹn với lương tâm là được.. Huống hồ nghĩ ra, ai cũng thế cả, cuối cùng là trở về với tự nhiên. Thực ra ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao, tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao.
Quá nửa đời người dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho mìnhquan tâm bản thânsống thế nào cho vui thì sốngviệc nào muốn thì làmai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với mình.
Sống ở trên đời không thể nào vạn sự như ýcó khiếm khuyết là lẽ thường tình ở đờinếu cứ chăm chăm cầu toàn thì sẽ bị cái cầu toàn làm cho khổ sở. Chẳng thà thản nhiên đối mặt với hiện thực, thế nào cũng xong.
Tuổi già, tâm không giàthế là già mà không già Tuổi không già ma` tâm giàthế là không già mà già. Nhưng xử lý một vấn đề thì nên nghe người`già.
Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức. Ăn uống quá thanh đạm thì không đủ chất bổ ; quá nhiều thịt cá thì không hấp thụ được. Quá nhàn rỗi thì buồn tẻ; quá ồn áo thì khó chịu…. Mọi thứ đều nên “vừa phải”.
Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống…).
Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh).
Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống..
Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh… Tất cả đều là muộn.

Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp, chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy hướng lợi là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy hướng lợi để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.
Chơi là một trong những nhu cầu cơ bản của tuổi già, hãy dùng trái tim con trẻ để tìm cho mình một trò chơi ưa thích nhất, trong khi chơi hãy thể nghiệm niềm vui chiến thắng, thua không cay, chơi là đùa. Về tâm và sinh lý, người già cũng cần kích thích và hưng phấn để tạo ra một tuần hoàn lành mạnh.
“Hoàn toàn khỏe mạnh”, đó là nói thân thể khỏe mạnh, tâm lý khỏe mạnh và đạo đức khỏe mạnh. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp; đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu.
Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong hoạt động xã hội, thể hiện giá trị của mình, đó là cuộc sống lành mạnh.
Cuộc sống tuổi già nên đa tầng đa nguyên, nhiều màu sắc, có một hai bạn tốt thì chưa đủ, nên có cả một nhóm bạn già, tình bạn làm đẹp thêm cuộc sống tuổi già, làm cho cuộc sống của bạn nhiều hương vị, nhiều màu sắc.
Con người ta chịu đựng, hóa giải và xua tan nỗi đau đều chỉ có thể dựa vào chính mình. Thời gian là vị thầy thuốc giỏi nhất. Quan trọng là khi đau buồn bạn chọn cách sống thế nào.
Tại sao khi về già người ta hay hoài cựu (hay nhớ chuyện xa xưa)? Đến những năm cuối đời, người ta đã đi đến cuối con đường sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói xa vời, đã đứng ở sân cuối, tâm linh cần trong lành, tinh thần cần thăng hoa, người ta muốn tim lại những tình cảm chân thànhVề lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn của tuổi già.
Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó ! Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả (trai') ngắt vội không bao giờ ngọt.
Sinh lão bệnh tử là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình một dấu châm hết thật tròn.
Sống ngày nào, vui ngày nấy ! Đó là giải thoát !ấy ! Đó là giải thoát ! 
Trúc nguyên
 
Những Hạnh Phúc Nhỏ 
Nếu có ai hỏi "Mục đích của cuộc đời là gì"", hay là "Mục đích của sự tu tập là để làm gì?", tôi nghĩ mình sẽ mượn câu trả lời của đức Ðạt Lai Lạt Ma để đáp, "Mục đích của sự sống là để đi tìm hạnh phúc." Một hạnh phúc chân thật, không bị vướng mắc và ràng buộc.
Có lần trả lời cho một vị đệ tử, đức Phật nói, "Tôi chỉ dạy có mỗi một điều mà thôi, đó là khổ đau và con đường để chấm dứt khổ đau." Hay nói một cách khác, là con đường đi đến hạnh phúc.
Có người khi nghe các thầy dạy rằng trên con đường tu học mình nên lấy sự an lạc và thảnh thơi để làm tiêu chuẩn, thì đôi khi họ không đồng ý lắm. Chúng ta thường cho là sự tu tập phải cao hơn thế, phải vượt lên trên cả vấn đề hạnh phúc và khổ đau. Nhưng tôi nghĩ, vượt lên trên nó không có nghĩa là ta phải chối bỏ nó. An Lạc, hạnh phúc cũng là một yếu tố của Niết Bàn! Mà con đường đi đến hạnh phúc lớn, tôi nghĩ phải được làm bằng những hạnh phúc nhỏ.
Làm bằng những hạnh phúc nhỏ.
Sống trong đời, muốn có hạnh phúc, chúng ta phải biết tiếp xúc, với sự sống của mình. Trước hết, chúng ta có thể đặt câu hỏi là sự sống của mình được làm bằng những gì? Nếu nhìn cho sâu sắc, ta sẽ thấy rằng cuộc đời của ta được làm bằng những buổi sáng, buổi trưa, buổi tối, những người bạn, người thương của mình, bằng con đường mình đi, bằng những giọt mưa, những sợi nắng... mà nếu ta không có mặt để tiếp xúc với những hạnh phúc nhỏ ấy, thì làm sao ta có thể thật sự sống được, có hạnh phúc được!
Tôi nhớ có lần được đọc rằng: You are not able to enjoy life because you are not able to enjoy the things in life. Sự thật đơn giản là như vậy. Nếu ta không biết tiếp xúc, hạnh phúc với những gì đang có mặt chung quanh ta, thì làm sao ta có thể sống hạnh phúc được? Cuộc sống của ta là gì, thật ra nó được làm bằng những cái nhỏ ấy.
Trên con đường đời của ta đi, chúng là những đóa hoa, những hạt sỏi, những ngọn cỏ, những chiếc lá của bốn mùa... mà ta chỉ có dịp tiếp xúc một lần trên con đường mình qua. Chúng tuy không quan trọng nhưng chúng chính là cuộc đời của ta, giúp ta tiếp xúc với sự sống, với hạnh phúc đang có mặt chung quanh mình.
Ðiều ấy có nghĩa, hạnh phúc không phải là những gì chúng ta cần phải lao công, tìm kiếm, mà hạnh phúc là những gì chúng ta chỉ cần dừng lại và nhận diện mà thôi. Vấn đề ở đây không phải là "discover" mà là "uncover" hạnh phúc. Một nhà thơ của La Mã, Horace, có dùng chữ "Carpe diem" có nghĩa là "Seize the day", nắm bắt ngày hôm nay, như là một công thức để sống hạnh phúc. Ngày nay tôi thấy người ta dùng chữ đó rất nhiều. Nhất là những người trẻ.
Nhưng tôi nghĩ ta cũng cần nên xét lại thái độ ấy. Theo tôi nghĩ, thật ra chúng ta không cần nắm bắt một ngày nào hết, chúng ta chỉ cần tập dừng lại, và nhận diện những gì đang có mặt mà thôi. Thay vì "nắm bắt ngày hôm nay" chúng ta nên tập dừng lại trong một ngày, hoặc là chỉ một giây phút thôi, thì cũng đã là hạnh phúc lắm rồi.
Hạnh phúc đang có mặt, chúng ta chỉ cần tập dừng lại mà tiếp xúc. Mặt trời bình minh, hoàng hôn cũng đẹp, và một chiếc lá, một cọng cỏ cũng đẹp. Trăng rằm mười sáu đẹp, mà một ngọn nến nhỏ cũng đẹp. Không có một cái gì trên đời này là tầm thường hết. Lẽ dĩ nhiên nó đòi hỏi một công phu, một cái nhìn sâu sắc của ta. Nếu chúng ta chịu nhìn lại những gì đang có mặt chung quanh, ta sẽ thấy những gì mà ta cho là tầm thường, thật ra chúng nhiệm mầu hơn ta nghĩ. Cuộc sống của ta có rất nhiều cái hay và đẹp. Có ngày nắng, ngày mưa, có tăng thân, có bạn bè, có những đóa hoa, những em bé... - vùng này mùa Thu rất đẹp. Thiên nhiên là một bức tranh muôn mầu sắc. Có lần tôi được nghe một thiền sư nói,
What is Autumn? Autumn is a season in which each leaf is a flower. Mỗi chiếc lá Thu là một phép lạ, mà mỗi người chúng ta cũng là một sự kiện nhiệm mầu nữa.
Chúng ta ai cũng có khả năng hiểu biết và thương yêu, ai cũng có khả năng sống hạnh phúc, ai cũng có thể làm cho người chung quanh mình bớt khổ đau hơn.
Chăm sóc quả trái hạnh phúc.
Trên con đường tu học, chúng ta thường được nhắc nhở là mình nên chăm sóc và nuôi dưỡng những hạt giống an lạc, hạnh phúc trong ta. Nhưng ở đây tôi muốn nói đến việc chăm sóc những quả trái hạnh phúc của mình. Quả trái hạnh phúc là những gì bình thường, an lành đang có mặt trong ta và chung quanh ta trong giờ phút này. Hãy giữ gìn và chăm sóc chúng. Vì khi ta chăm sóc cho những quả trái ấy trong hôm nay, là ta cũng đang nuôi dưỡng và tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc trong tương lai. Trong đời sống hằng ngày, tôi thực tập nuôi dưỡng chúng bằng cách gần gũi và tiếp xúc với những môi trường, thiên nhiên và con người, an lạc và hạnh phúc.
Tôi nhớ trong khoa học vật lý có một định luật là "Bao giờ cũng có nhiều cách để phá hỏng một hệ thống hoạt động, hơn là những cách để cải tiến nó." "There are always more ways to impair a working system than to improve it." Tôi nghĩ định luật đó áp dụng rất chính xác cho các hiện tượng vật lý mà cũng đúng cho cuộc sống hằng ngày của ta nữa. Một tình bạn, hạnh phúc gia đình, gây dựng lên thì rất chậm, cần nhiều thời gian, nhưng mà khi nó sụp đổ xuống thì rất là nhanh. Nhiều khi chỉ bằng một câu nói, một hành động nhỏ, một sự hiểu lầm mà thôi. Hạnh phúc nào cũng cần phải có sự nuôi dưỡng và gìn giữ của ta. Hãy giữ gìn những người bạn thương và hiểu mình, liên hệ trong gia đình, tăng thân, những người thân thương của mình...
Chúng là những quả trái hạnh phúc mà chúng ta cần nuôi dưỡng. Sáng nay ta bước ra ngoài nhìn được những chiếc lá thu, đôi mắt ta là một quả trái hạnh phúc. Ta còn ngồi xuống chia xẻ được với một người bạn thân, anh ta là một quả trái hạnh phúc. Tôi còn có những ngày tu học an lạc, tăng thân của tôi là một quả trái hạnh phúc... Hãy trân quý và gìn giữ chúng. Ðó là những quả trái hạnh phúc trong cuộc đời này mà ta đang có. Chúng ta cần chăm sóc chúng, vì những hạnh phúc ấy cũng đang nuôi dưỡng và chăm sóc cho chính ta.
Năng lượng chuyển hóa khổ đau.
Các bạn biết không, tôi nghĩ chúng ta có thể chuyển hóa khổ đau bằng cách tiếp xúc với hạnh phúc của mình. Ta có thể chuyển hóa khổ thọ bằng cách nuôi dưỡng những lạc thọ, thay vì là cố gắng đào bới và tìm hiểu những khổ đau của mình. Tôi nghĩ, trước một người đang gặp khổ đau, ta có thể không làm gì cho người ấy hết khổ đau được, nhưng ta có thể giúp cho người ấy mỉm cười, thanh thản trong giây lát được! Khi ta cùng với một người bạn đi thiền hành cho vững chãi, cho thảnh thơi là ta đang thực tập khơi dậy hạt giống hạnh phúc cho nhau. Khi ta đến ngày tu học, ngồi chung với thầy, với bạn là ta đang tiếp xúc với những yếu tố hạnh phúc trong ta. Ánh sáng đâu bao giờ có thể trộn lẫn với bóng tối! Khi ánh sáng có mặt, thì bóng tối sẽ vắng mặt. Khi niềm vui có mặt thì khổ đau sẽ vắng mặt.
Chúng ta đừng nghĩ rằng, ta cần phải giải quyết hết những vấn đề khổ đau của mình rồi ta mới thể có tự tại, thảnh thơi và hạnh phúc được. Hạnh phúc không nhất thiết là sự hoàn toàn chấm dứt của khổ đau. Ði thiền hành với thầy, với tăng thân, ta cảm thấy vững vàng nhờ nương tựa vào năng lượng của thầy và tăng thân. Tiếp xúc với thiên nhiên, ngồi uống trà với một người có thực tập cũng là những yếu tố hạnh phúc.
Học về Tàng Thức, chúng ta biết rằng, hạt giống an lạc bao giờ cũng có mặt trong ta. Khi ta tiếp xúc với những yếu tố hạnh phúc ấy, thì ta cũng sẽ là hạnh phúc. Hể biết khơi chúng dậy thì ta sẽ có hạnh phúc, mặc dù trong giờ phút này, ta có thể đang có những khổ đau.
Những khó khăn về đời sống tuy vẫn còn đó, nhưng năng lượng an lạc sẽ giúp cho ta có một cái nhìn sáng tỏ hơn, giúp ta giải quyết vấn đề dễ dàng hơn. Hạnh phúc không nằm ở sự vắng mặt của khổ đau mà là ở khả năng chyển hóa khổ đau trong ta. Lẽ dĩ nhiên là nó cần công phu thực tập.
Không gian thênh thang.
Khi gặp những biến cố khổ đau trong cuộc sống, chúng ta thường có cảm tưởng rằng cuộc đời này chỉ toàn là những khổ đau và đổ vỡ. Nhưng đôi khi ta quên rằng, mình không phải chỉ là cái khổ đau đó, chúng ta còn rộng lớn hơn nhiều. Nếu nhìn cho sâu, ta sẽ thấy rằng cuộc sống thật ra có nhiều những cái bình thường, hơn là những cái hư hao và mất mát.
Khi bước vào căn phòng này, nếu tôi hỏi bạn thấy gì? Chắc bạn sẽ nói rằng tôi thấy bàn thờ, các tôn tượng, gối ngồi thiền, bồ đoàn, bàn, ghế... Nhưng các bạn có thấy được cái khoảng không gian nằm giữa những đồ vật ấy không? Cũng vậy, trong cuộc sống, chúng ta có những bận rộn, những khó khăn, và đôi khi là những khổ đau, nhưng giữa những khó khăn đó cũng có những khoảng không gian yên tĩnh và hạnh phúc! Ta có ý thức được chúng không, tiếp xúc được với những khoảng tĩnh lặng ấy không? Hay ta chỉ thấy được toàn những bận rộn và khó khăn tiếp nối nhau trong cuộc đời mình!
Ta có thể ví dụ cuộc sống như là một bài nhạc. Trong một bài nhạc bao giờ cũng đều phải có những khoảng cách giữa hai nốt nhạc với nhau. Thiếu những khoảng trống ấy, thì bản nhạc không thể là một bản nhạc, nó chỉ là một âm thanh kéo dài vô nghĩa mà thôi. Một nhạc sĩ dương cầm tài danh, Artur Schnabel, đã chia sẻ như vầy về tài đánh đàn của ông, "Tôi không nghĩ là mình chơi đàn hay hơn bất cứ một nhạc sĩ nào khác, những nốt nhạc trong một bài nhạc đều giống như nhau, chúng cũng chỉ vậy thôi. Nhưng tôi biết cách sử dụng những khoảng cách giữa hai nốt nhạc. Mà nghệ thuật nằm ở những chỗ nghỉ đó. Chúng làm cho bản nhạc hay hơn."
Trong một bài pháp thoại, có lần Trungpa Rinpoche lấy ra một tờ giấy trắng, ông vẽ lên đó một chữ "V" và hỏi các học trò, "Quý vị thấy gì?" Mọi người đáp, "Ðó là một cánh chim đang bay!" Trungpa Rinpoche nói, "Không phải! Ðó là một bầu trời thênh thang và có một cánh chim đang bay qua!" Nhiều khi chúng ta chỉ chú ý nhìn một cánh chim nhỏ bé mà quên đi cái bầu trời thênh thang chung quanh nó. Muốn có hạnh phúc ta phải tập tiếp xúc với cái không gian thênh thang trong cuộc đời mình. Chúng ta không phải chỉ là một người khổ đau, ta không phải chỉ là một người nóng tánh, một người bị mất mát, một người có bệnh... chúng ta không phải chỉ là một người nhỏ nhen, một người thấp kém... ta bao giờ cũng rộng lớn hơn thế. Cuộc sống này bao giờ cũng bao la và rộng mở hơn là ta nghĩ.
Một Công Án Cho Bạn
Tôi nghĩ, một trong những lý do khổ đau của ta trong cuộc đời là vì ta muốn sự việc xảy ra theo ý mình muốn. Hễ việc hợp theo ý của mình thì ta cảm thấy vui, thấy đời đẹp, và ngược lại không đúng với ý mình thì ta thấy phiền muộn, bi quan. Nhưng có điều là nhiều khi chúng ta cũng thật sự không biết mình muốn gì nữa! Hôm nay thì ta muốn như vầy, và rồi ngày mai ta lại muốn khác. Nhiều khi cái mà ta tưởng là mình muốn đó, cũng chưa chắc thật sự là cái ta muốn. Khi có được nó rồi, tâm hồn ta vẫn cảm thấy thiếu thốn, trống trải!
Tôi nghĩ, chúng ta cần một thời gian nào đó, ngồi xuống và tự hỏi mình "Con đường của mình đang đi là như thế nào?" Thật ra ta hỏi nhưng đừng vội trả lời. Câu hỏi mới quan trọng chứ câu trả lời không quan trọng. Trong nhà Thiền có quan niệm về công án, đó là những vấn đề mà ta không thể dùng suy luận, lý trí để trả lời được, mà ta phải biết ôm ấp, phải sống, phải thở với vấn đề ấy. Câu hỏi quan trọng hơn câu trả lời.
Thật ra thì con đường của ta đi chính là cuộc sống mà ta đang sống bây giờ đây! Khổ đau hay hạnh phúc gì thì đó cũng chính là con đường của ta đã và đang chọn. Ta đừng bao giờ nghĩ rằng, bởi vì mình muốn hạnh phúc mà ta sẽ chọn con đường hạnh phúc! Tôi thường lấy đó làm một công án cho mình. Con Ðường của ta đi là gì? Và đừng trả lời bằng lý trí mà phải bằng con tim. Và khi ta khám phá được rằng, con đường của mình thật ra chính là sự sống của ta trong giờ phút này, thì ta sẽ không làm gì khác hơn là thực tập sống sao cho có hạnh phúc.
Hạnh Phúc là một nghệ thuật.
Tu tập là một nghệ thuật chứ không phải là một kỷ thuật. Con đường tu tập cũng phải là sự sống của mình, chứ không phải chỉ là một phương cách để ta đối phó với những khó khăn, hoặc trốn tránh khổ đau. Trong cuộc đời, thường thường chúng ta làm gì cũng có một mục đích, để thành tựu một cái gì đó. Ví dụ như khi ta quét nhà là để cho có nhà sạch, ta rửa chén là để cho có chén sạch. Ta có một mục đích cho mỗi việc làm của mình.
Nhưng ta quét nhà với mục đích là có nhà sạch, nhưng rồi nó cũng sẽ dơ lại, và ngày mai ta sẽ quét lại. Rửa chén cũng thế. Nếu ta thực tập với ý định là làm cho mau xong, cho rồi, thì ta dễ sinh thêm bực dọc, phiền não mà thôi. Có một thầy người Tây Phương kể lại khi sang Thái Lan xuất gia tại một tu viện trong rừng, ông được vị Thầy giao cho phận sự quét lá trên con đường nhỏ dẫn vào thiền đường. Vì tu viện nằm ở giữa rừng nên lá đổ quanh năm. Ông kể, vừa quét được nửa đường, khi nhìn lại quảng đường vừa quét xong, lá đã rơi xuống phủ đầy.
Nhưng ông vẫn cứ tiếp tục làm công việc của mình. Về sau ông ý thức được rằng, công việc của ta làm tự nó là đầy đủ rồi. Trong tu viện, mỗi công việc ta làm là một công phu thực tập: làm sao để thật sự có mặt trong công việc mình đang làm. Chúng ta làm là để tập có định, có an lạc trong việc mình làm, đó mới là mục đích chính. Còn những cái khác chỉ là phụ thêm mà thôi.
Trong truyện Hoàng Tử Bé (The Little Prince) có kể, khi cậu Hoàng Tử Bé đi đến một hành tinh nọ rất là nhỏ, trên hành tinh này chỉ duy có một cây đèn đường và một anh thợ thắp đèn mà thôi. Bổn phận của anh thợ là thắp đèn lên khi trời tối và tắt đèn khi trời bình minh. Nhưng vì hành tinh quá nhỏ nên khi mặt trời vừa mới mọc thì cũng bắt đầu lặn, bình minh vừa mới lên thì cũng bắt đầu hoàng hôn. Thế nên anh thợ cứ hết thắp đèn lên, rồi chỉ vài giây sau lại tắt đèn đi. Và anh cứ tiếp tục công việc ấy mãi. Nghe anh kể lể lại công việc buồn chán của mình, Hoàng Tử Bé nói, "Sao anh không nghĩ rằng, mỗi khi anh thắp ngọn đèn lên là anh đang thắp thêm một ngôi sao sáng nữa trên vũ trụ này, hay là tạo thêm một nụ hoa đẹp cho cuộc đời!"
Người ta thường đặt câu hỏi là cuộc đời này có ý nghĩa gì? Nhưng theo tôi nghĩ thì có lẽ sự sống này tự nó không có ý nghĩa gì hết, mà ta đem lại cho nó một ý nghĩa bằng cách sống của chính ta.
Con Ðường Hạnh Phúc.
Phật là một con người rất thực tế, cũng như giáo pháp của ngài. Khi người ta hỏi Phật dạy gì, Ngài nói "Tôi dạy, khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau" Khi được hỏi về những vấn đề liên quan đến vũ trụ, thần học, huyền bí... Ngài im lặng không trả lời. Phật nói những gì Ngài dạy chỉ có một mùi vị duy nhất là tự tại và giải thoát. Khi có người hỏi Phật là ai, Ngài không nhận mình là thượng đế, thần linh, siêu nhân, mà nói Ngài chỉ là một người mà thôi, một người Tỉnh Thức, một người có hạnh phúc. Phật nhắc nhở chúng ta rằng, Ngài dạy bằng một bàn tay rộng mở. Ngài trao truyền hết cho chúng ta những gì ngài biết, không dấu diếm một điều gì hết.
Vì vậy mà con đường tu học của ta cũng phải thực tế như lời dạy của Phật. Nó phải có tác dụng chuyển hóa những vấn đề, những khổ đau của chính mình. Chúng ta nên học và thực tập theo kinh nghiệm và trong hoàn cảnh của chính mình. Ta hãy quán chiếu về những khó khăn và khổ đau của chính mình, xem sự thực tập có thể làm gì được để chuyển hóa chúng. Sự thực tập phải có liên quan trực tiếp đến một vấn đề, một khổ đau nào đó của ta. Chứ bằng không, tất cả chỉ là lý thuyết suông mà thôi.
Khi ta thấy được rằng, sự thực tập có thể mang lại những ích lợi thực tiễn, ta sẽ có một niềm vui. Trên con đường tu học, chúng ta cần nuôi dưỡng hạnh phúc, ta cần có một niềm vui, vì nếu thiếu hạnh phúc ta khó mà đi được lâu dài lắm. Con đường thực tập cần có một yếu tố là sự tinh tấn. Tinh tấn thường được hiểu như là một sự cố gắng và nỗ lực. Nhưng nó cũng có nghĩa là cái ý thích, cái nhiệt tâm muốn làm của ta. Vì khi ta thích một điều gì thì ta sẽ làm mà không bao giờ biết chán, biết mệt. Như có rất nhiều người hỏi, làm sao mà mình có thì giờ viết báo, rồi viết sách, đi ngày quán niệm, tham dự các khóa tu... trong khi ta bận rộn gia đình và còn phải đi làm mỗi ngày?
Nhưng thật ra ta thấy những người đặt câu hỏi ấy, họ cũng có rất nhiều việc để làm, ngoài sở làm, bận bịu chuyện gia đình, họ còn có nhiều dự án khác nữa... mà ta cũng thắc mắc là làm sao họ lại có thì giờ nhiều đến thế!
Tôi nghĩ, vấn đề là nếu ta thích việc mình làm, ta sẽ không thấy đó là khó, là khổ, là mất thì giờ. Mỗi bước chân ta đi trên con đường tu học là một hạnh phúc nhỏ. Vì vậy, dầu con đường tuy có dài, nhưng ta vẫn cứ thảnh thơi mà đi.
Hạnh Phúc và Phương Tiện
Bây giờ giả sử như nếu tôi hỏi các bạn, "Tại sao, anh chị lại muốn có hạnh phúc?" Bạn sẽ trả lời sao! Thật ra thì câu đó làm sao mình trả lời cho đúng được! Tại vì hạnh phúc tự chính nó là chân thật, là cứu cánh, là đủ hết rồi, nó đâu cần có một cái gì khác để nương tựa đâu.
Nhưng nếu tôi hỏi "Tại sao chị lại mua chiếc xe mới, hay là tại sao chị lại đi nghỉ hè nơi đó?" Thì ta có thể dễ dàng có câu trả lời. "Vì tôi muốn sống thoải mái hơn, tôi muốn được vui, muốn có hạnh phúc..."Tôi làm những cái đó là vì tôi nghĩ nó sẽ mang đến cho tôi hạnh phúc.” Một bên là phương tiện và một bên là cứu cánh.
Nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta lại thường bỏ rất nhiều công sức vào phương tiện mà quên đi cứu cánh của nó. Bây giờ ta hãy thử nhìn lại những gì mình đang có, và ý thức rằng mục tiêu của chúng là để mang lại cho ta hạnh phúc. Và rồi ta hãy thành thật tự trả lời cho chính mình: chúng có thật sự mang lại cho ta một hạnh phúc nào không?
Nhiều khi ta cứ lầm lẫn phương tiện cũng là cứu cánh! Mục đích của chiếc bè là để mang ta sang bờ bên kia, còn ngoài ra nó không còn có một công dụng nào khác.
Và trong bài nói chuyện hôm nay chúng tôi muốn trình bày đến các bạn về một trong những lối sống hạnh phúc, mà hạnh phúc ở đây là một thứ hạnh phúc có tính cách vững chãi và thảnh thơi, không dính mắc, và hạnh phúc ấy theo lời Phật dạy mới thật là một chân hạnh phúc.
Nguyễn Duy Nhiên

Album Guitar Vô Thường 

Đọc truyện online : Vô Thường

GIẢI THOÁT CA
***
Như nước luân lưu tự thuở nào
Kiếp này làm nước đọng trong ao
Giữa bầy sinh vật tâm phiền não
Rác rưởi tanh hôi lắm khổ đau.
Nhưng nước xuất thân từ biển cả
Ao tù không giam được lòng ta
Miệt mài, nước hóa thành mây trắng
Bay khắp phương trời, vui hát ca.
Hữu duyên, mây hóa thành mưa pháp
Tưới mát nhân gian, sạch muộn phiền
Nước thành con suối, dòng sông hạnh
Chảy khắp trần gian bao pháp vui.
Là mưa, là suối, là dòng sông
Vẫn là hạt nước mát thong dong
Nước vẫn mênh mông lòng biễn cả

Tâm vẫn bên ngoài chuyện sắc không ./.
 
Con quỹ Vô Thường
Trong thế giới này, trong vũ trụ này hoặc trong muôn ngàn vạn ức thế giới, có một con quỷ - không biết dung mạo của nó ra sao, nó bao nhiêu tuổi, nhưng quyền năng của nó thật ghê gớm. Đó là Con Quỷ Vô Thường:
-Nó làm cho muôn vật không đứng yên một chỗ mà phải biến đối.
-Nó làm cho vạn pháp phải hoại diệt. Thánh thần, dù thần linh tối cao, tối thượng, mầu nhiệm nó cũng
không tha.
-Nó làm cho mái tóc xanh của con người phải bạc đi.
-Nó làm cho thân hình đẹp đẽ tráng kiện, hấp dẫn kia phải lọm khọm, đôi môi xinh xắn phải héo tàn. Giọng nói, giọng hát trong trẻo phải thều thào. Làn da mịn màng phải khô như gốc củi.
-Nó làm cho đóa hoa sớm nở tối tàn.
-Nó làm cho lâu đài tráng lệ kia lần hồi hoang phế, mục nát. Biển cả hóa cồn dâu.
-Nó làm cho yêu trở thành ghét. Ghét trở thành yêu. Đen trở thành trắng. Đúng trở thành sai. Bạn trở
thành thù. Thù trở thành bạn…không có gì vĩnh cửu cả.
-Nó làm cho giàu sang bỗng trở nên tay trắng. Quyền thế bỗng trở thành tội phạm. Thánh thiện, linh thiênng bỗng trở thành kẻ thương luân bại lý, khiến cuộc đời này giống như một bãi hý trường.
-Nó làm cho đời ta giống như một giấc mộng. Có đó rồi mất đó.
-Cả cái giải Thiên Hà với hàng tỉ, tỉ ngôi sao kia nó cũng làm cho chuyển động không ngừng, mở rộng rồi co vào, rồi nổ tung (Big Bang), rồi văng đi vạn nẻo rồi lại co vào rồi lại nổ tung…giống như một trò vui chơi bất tận.
-Nó làm cho những tụ hội kiêu sa, yến tiệc linh đình, hội họp “thượng đỉnh” phút chốc tan biến đâu mất rồi chỉ còn lại những khắc khoải, lo âu, toan tính và mệt nhọc, đôi khi lại chia rẽ nhau.
-Làm sao chúng ta có thể lấy lại được những gì trong cuộc sống của ngày hôm qua? Chúng ta có thể
lưu lại phần nào đó qua những tấm hình, trong băng nhựa, trong các đĩa ép (CD) nhưng rồi Con Quỷ
Vô Thường cũng sẽ làm cho những tấm hình trở nên hoen ố, các đĩa ép rồi cũng sẽ vỡ vụn. Chúng ta cũng có thể lưu những thứ đó vào trong máy điện tử nhưng rồi Con Quỷ Vô Thường lại gửi Virus tới lấy đi tất cả. Thật là quái ác!
-Làm sao chúng ta có thể tìm lại những cảm xúc ngọt ngào, những lời nói du dương, những phút giây hạnh phúc của ngày hôm qua? Chúng ta có thể vận dụng trí nhớ nhưng rồi với tuổi đời chồng chất, Con Quỷ Vô Thường cũng sẽ làm cho trí nhớ của chúng ta mòn mỏi. Rồi nó lại “thân tặng” chúng ta căn bệnh Parkinson làm chúng ta mất luôn hoặc trở nên lú lẫn.
Ôi Con Quỷ Vô Thường, nó thật ác độc! Nó là kẻ thù hạnh phúc của con người. Nó làm cho chúng ta đau khổ nhưng hầu như trong chúng ta ít người biết đến nó.
Bạn ơi! Chúng ta đã coi thường “quyền năng” của Con Quỷ Vô Thường khi chúng ta cho rằng, nghĩ rằng, tin rằng cuộc đời này vĩnh cửu, thế giới này vĩnh cửu, niềm tin này bất diệt, tử tưởng này bất biến, giá trị này muôn đời bền vững, sức mạnh này muôn năm trường trị, tình yêu này bất tử…
Bạn ơi ! Bạn sẽ vô cùng đau khổ khi bạn chống lại Con Quỷ Vô Thường. Bởi nó là một quyền năng vượt lên trên tất cả mọi quyền năng khác. Chúng ta có thể nói rằng không một quyền năng nào có thể chống lại Quyền Năng Vô Thường.
Vậy thì hãy đi với nó. Hãy vui chơi và thuận thảo với nó. Hãy là chính nó. Khi đó chúng ta sẽ mạnh mẽ bảo Con Quỷ Vô Thường rằng:
 -Ông ơi, xin ông đi chỗ khác kiếm ăn đi. Tôi có chấp trước gì đâu mà ông đòi hủy diệt? Tôi có lưu giữ gì đâu mà ông đòi lấy đi? Tôi đã biết thế giới này là huyễn hóa thì chuyện ông làm có gì lạ đâu? Cả cái thân tôi đây do “Tứ Đại giả hợp mà thành” (*) tôi biết từ lâu rồi. Nó có mất đi thì cũng là chuyện quá thường. Xin ông đừng hù dọa tôi. Cả cái đồng tiền mà tôi đang cầm trong tay đây cũng chỉ là “tín dụng” - tin mà dùng. Khi niềm tin mất thì nó sẽ trở thành giấy lộn, quăng ngoài đường không ai thèm nhặt. Vậy thì Có-Không, Được-Mất cũng vậy thôi. Luật vô thường tôi nắm trong tay đây này.
Nghe bạn nói như thế, Con Quỷ Vô Thường sẽ trở nên bất lực và kính cẩn chào bạn.
Ban ơi!
-Tâm hồn bạn sẽ thanh thoát, nhẹ nhàng khi bạn hiểu được lẽ vô thường.
-Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.
-Bạn sẽ không còn nuối tiếc bất cứ một cái gì khi bạn hiểu rằng thật sự ra trên cõi đời này không có gì đích thực là của bạn. Cho dù nó đích thực là của bạn đi nữa rồi thì nó cũng sẽ vô thường. Có đó rồi mất đó.
-Bạn sẽ ung dung, tự tại trước bao đổi thay, hưng-phế, còn-mất, được-thua, đúng-sai đang diễn ra trước mắt.
-Bạn cho rằng cái này Đúng, cái này là Chân Lý ư? Bạn có biết không? Cái hiểu biết của chúng vốn vô thường nhưng rồi chúng ta lại dùng cái hiểu biết vô thường đó để nhận xét về một cái vô thường khác – như như Đức Phật dạy rằng “ vì con mắt bệnh cho nên thấy hoa đốm ở hư không, thấy mặt trăng thứ hai” (*) nó cũng giống như “một người cho rằng cảnh vật trong giấc chiêm bao là thật.” (*). Vì vọng chấp vào đó cho nên Con Quỷ Vô Thường mới làm khổ chúng ta. Vậy thì suy nghĩ cho cùng - cái  “quyền năng” của Con Quỷ Vô Thường do chính cái tâm vọng chấp của chúng sinh tạo ra. Nói khác đi chính Vô Minh đã tạo ra Con Quỷ Vô Thường.
-Chư Phật, chư vị Bồ Tát vượt lên lẽ vô thường vì các ngài thường quán chiếu lẽ vô thường, không chấp trước vào đâu, không nương tựa vào đâu cho nên các ngài hằng trụ, không biến đối.
-Hằng trụ, không biến đổi tức không Sinh không Diệt. Không Sinh không Diệt tức không phiền não.
Không phiền não tức hạnh phúc, tức Niết Bàn.
Bạn ơi! Vượt lên trên lẽ Vô Thường chính là Chân Như, Bồ Đề, là Phật vậy.
Đào Văn Bình 
CHIÊM NGHIỆM VỀ VÔ THƯỜNG
GN - Vô thường nghĩa là vạn vật luôn thay đổi và con người là vô ngã...
Nói đến vô thường, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy muốn buông xuôi tất cả, vì vô thường thì nỗ lực làm gì cho mất công. Nghe vô thường, chúng ta cảm thấy cuộc đời có rồi không, luôn thay đổi từ khi con người sinh ra rồi già, bệnh, chết; nói cách khác, chúng ta chưa có trước khi xuất hiện trên cuộc đời và khi từ giã cuộc đời, chúng ta cũng là không. Vì vậy, một số người nói đạo Phật chán đời.
Hôm nay chúng ta suy nghĩ về vô thường. Giáo lý Phật tuy nhiều, nhưng chủ yếu nằm trong vô thường, nghĩa là vạn vật luôn thay đổi và con người là vô ngã, tức con người do tứ đại hợp thành, không có thật.
Giáo lý vô thường và vô ngã mà Phật dạy để làm gì? Điều này có mục tiêu rõ ràng, Đức Phật nói vô thường và vô ngã để giúp chúng ta tận diệt khổ đau và đạt Niết bàn. Từ vô thường, chúng ta tìm cái thường còn, từ khổ đau, chúng ta tìm cái an lạc là Niết bàn có thường, lạc, ngã và tịnh.
Đức Phật sống trên cuộc đời có vô thường, nên Ngài phải nói vô thường để chúng ta đừng chấp mọi vật là thường còn mà đau khổ. Phật dạy vật chất luôn thay đổi để chúng ta đoạn diệt tâm chấp trước, mới có thế giới an lạc là Niết bàn. Thật vậy, đầu tiên Phật thuyết vô thường vô ngã cho năm anh em Kiều Trần Như và họ đắc quả A la hán. Từ đó, họ hiện hữu trên cuộc đời này mà không bị tham lam, ganh tỵ chi phối, nên họ luôn an lạc, mới làm cho người chấp thường thấy vậy mà thức tỉnh và phát tâm tu theo. Điển hình là Xá Lợi Phất thấy sự vật là thường, nhưng bị mất mát, nên đau khổ; nhưng nhờ gặp được Mã Thắng sống với chơn thường và an lạc, Ngài mới thấy cuộc đời vô thường mà đoạn diệt khổ đau và chứng được chơn thường. Như vậy, Phật dạy vô thường để chúng ta nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật mà chứng được chơn thường.
Mọi vật có hai phần là sanh diệt và vô sanh. Phật dạy thế giới này là khổ và nguyên nhân của khổ; đó thuộc về  phần sanh diệt. Để đoạn trừ khổ và nguyên nhân của khổ, Phật dạy tu Đạo đế là 37 trợ đạo phẩm, thì chứng được Niết bàn là Diệt đế; nhưng không biết lại nói đạo Phật chán đời là sai lầm lớn của con người.
Phật dạy cuộc đời thế nào thì phải thấy đúng và sống đúng để đoạn trừ ảo giác. Vì chúng ta có tham vọng, mới có ảo giác là không thực tế mới bị đau khổ. Còn thấy cuộc đời đúng sự thật và biết nguyên nhân nào dẫn đến đau khổ, thì khổ phải chấm dứt và tu nguyên nhân dẫn đến an lạc thì Niết bàn hiện hữu. Phật dạy rõ hai con đường như vậy.
Ở thế giới sinh diệt mà chúng ta muốn không sinh diệt làm sao được. Con người sanh ra, lớn lên, già, rồi chết là quy luật tất yếu, mà chúng ta muốn không già, không chết và sống mãi là không thực tế. Mà nếu con người sống mãi thì trái đất này sẽ bị nạn nhân mãn mất. Bây giờ người chết ít hơn người sanh, người ta còn phải mong cho chết bớt để trái đất này còn tồn tại. Thời Phật tại thế, trái đất này chỉ có độ 500 triệu dân, nhưng nay 7 tỷ người, thì quý vị nghĩ sao. Nếu không có người chết, ngày nay trái đất này có bao nhiêu người.
Có quy luật sanh, già, bệnh, chết, trái đất mới trở thành cân bằng và tồn tại được. Có sanh mà không chết là nghĩ đến thiên đường, nhưng như vậy cũng bị nạn nhân mãn, không còn chỗ chứa người ta. Quan niệm lên thiên đường hưởng phước luôn cũng không đúng. Thiên đường cũng có tuổi thọ của nó, nhưng dài hơn thế gian. Ở thiên đường, đất rộng người thưa, vì chỉ có loài người tu được thập thiện mới được sinh lên thiên đường, nên cũng khó có người được lên thiên đường. Thật vậy, chúng ta thọ thập thiện, nhưng tu thập thiện không dễ. 1.000 người tu thập thiện may ra có được 1 người thành tựu.
Nói rằng thiên đường đất rộng, nhưng thật ra không có đất, họ sống bằng tâm thức, không có thân vật chất như chúng ta, nhưng có thân vi tế. Pháp hội Linh Sơn có vài ngàn Tỳ kheo đã không có đủ chỗ ngồi, nhưng có đến 70.000 chư Thiên và 8 vạn Bồ tát mà không trở ngại. Thế giới của chư Thiên, Phật, Bồ tát khác với thế giới của chúng ta, vì đó là thế giới siêu vật chất, tức một vật thể nhỏ, nhưng có sức dung chứa vô cùng tận. Ngày  nay điều này dễ hiểu, ví như người ta dùng phần mềm dung chứa biết bao nhiêu hình ảnh và âm thanh không lẫn lộn.
Chúng ta hình dung được thế giới chư Thiên có lạc, không khổ. Hết phước thì hoa trên đầu héo là chư Thiên bị đọa, hay ở đó chỉ vui, nhưng thấy buồn là đọa. Ở thế giới chư Thiên sung sướng, nên quên hết trần thế, nhưng khởi niệm nhớ con là đọa liền, rơi xuống trần thế, thọ sanh vào các loài chỉ với một ý niệm như vậy.
Ta chiêm nghiệm ý nghĩa vô thường mà Phật dạy thấy rõ sự thật rằng vạn vật biến đổi, hay gọi là tiến hóa, từng thế hệ luôn phát triển. Đời sống từ Phật tại thế cho đến ngày nay, nếu không có tiến hóa thì con kiến vẫn là con kiến. Từ thời Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời Phật giáo phát triển cũng nhờ vô thường, tức hoàn cảnh đổi khác mà chúng ta có nhận thức khác, là có sự tiến hóa về vật chất và tiến hóa về tâm linh. Tiến hóa vật chất là từ cuộc sống đơn sơ của người cổ đại đã tiến lên cuộc sống văn minh hiện đại. Tiến hóa tâm linh là người khổ đau tu Tứ thánh đế thì diệt được khổ đau và đắc quả Tu đà hoàn, cho đến quả A la hán, Bích Chi Phật và thành tựu quả vị Phật. Nếu không có vô thường thì tất cả mọi việc nằm yên, không thay đổi. Nhờ vô thường, chúng ta tích cực hơn, vận dụng được sự phát triển, giúp cho đời sống thăng hoa và tiến hóa.
Riêng tôi, từ thuở nhỏ, đã cảm nhận ý niệm vô thường, thấy mạng người ngắn ngủi, nên 12 tuổi đã nỗ lực tu học, sợ không kịp rồi chết, không biết về đâu. Tôi phấn đấu tìm đạo và tu học không mệt mỏi, nên thăng hoa đời sống tâm linh. Nhờ vô thường, có tiến hóa nên tôi lần thay đổi từ đứa trẻ nhỏ cho đến trưởng thành và tốt nghiệp việc học để giúp đời. Chúng ta biết thay đổi theo hướng tốt đẹp là sống theo Đạo đế của Phật dạy thì phát triển được đời sống vật chất và tâm linh. Còn thấy vô thường rồi chán nản buông xuôi thì về đâu không biết.
Biết vô thường, chúng ta cũng hạn chế được các việc ác và phát triển được mặt thiện. Sự thay đổi cũng có hai khuynh hướng, một là phát triển vật chất, đó là công việc của các nhà khoa học nhắm đến phát minh vật chất. Hai là những nhà triết học, nhà tôn giáo tìm về sự phát triển đời sống tâm linh. Đương nhiên chúng ta không phủ nhận đời sống phát triển vật chất, nhưng không coi nó quan trọng, vì nhận thấy đời sống vật chất ràng buộc chúng ta nhiều hơn. Thật vậy, người có nhiều của cải, quyền lợi thì bị ràng buộc nhiều. Phật tu là thoát ngục vàng. Hạnh phúc không phải ở đời sống vật chất. Một người giàu có đến than với tôi rằng ông có một người con trai duy nhất bị nhiễm HIV, vì cho nó tiêu xài phung phí quá nên mới bị như vậy. Ông khổ quá, tiền nhiều, nhưng không thể để tài sản cho đứa con hư này được. Đời sống vật chất giúp chúng ta một phần, nhưng gây buồn khổ nhiều hơn. Người nhiều tiền luôn luôn lo lắng cho việc giữ gìn tài sản. Phật dạy rằng tài sản chưa có thì mong cho được, có rồi thì giữ gìn càng khổ và mất tài sản thì khổ nhiều hơn nữa.
Phật dạy vật chất không cần nhiều như chúng ta tưởng, mà cần vật chất nó lại đưa đến bất hạnh, không cần nó lại hạnh phúc. Ví dụ trời nóng bức, người có nhà cửa, tiện nghi vật chất tốt, nhưng hết phước thì họ khổ hơn người chưa có cuộc sống tiện nghi. Vì vậy, Phật dạy tu hành phấn đấu cho đạt được giải thoát, tức không bị lệ thuộc đói, khát, nóng, lạnh. Về vật chất có ăn, mặc, ở, nhưng tu hành, tập cho mức cầu luôn dưới mức cung là có hạnh phúc liền. Giả sử trưa nay không có gì ăn, thì người ta cho gì mình ăn cũng thấy ngon; còn cầu lớn, muốn ăn tiệc thì không được như vậy là khổ, hay dù có ăn cũng phải trả nhiều bằng phước. Tôi sợ đi trai tăng, vì ăn không bao nhiêu, nhưng trả quá nhiều, vì trả bằng phước đức tu hành của mình. Tôi thường hỏi bữa ăn tốn bao nhiêu, phần ăn, phần bỏ, tất cả chi phí này phải gánh, nên phước mau hết, khổ phải tới.
Tu hành, Phật dạy ít ăn, hay ăn gì cũng được. Phật có lưỡi công đức khác với các loài chúng sinh có lưỡi nghiệp chướng thì dùng nó để nói điều tội lỗi, dùng nó để ăn những thức ăn tốn tiền. Lưỡi công đức thì ăn gì cũng biến thành cam lồ. Riêng tôi phát hiện ra khi đói, cơ thể nạp vào cái gì cũng thấy ngon. Câu chuyện ông vua ăn mầm đá cho thấy lý này. Ông ăn nhiều quá nên thấy cái gì cũng không còn ngon, nhưng gặp nhà sư cho vắt cơm nguội với muối mà thấy ngon vì phải chờ nhà sư dọn món mầm đá lâu quá, nên đói bụng. Lưỡi nghiệp của chúng ta đòi hỏi nhiều, nên cố tìm hoài thức ăn ngon mà không thấy có gì ngon.
Muốn có lưỡi công đức, nên ăn thiếu, đừng ăn dư. Sức tôi ăn được 2 chén cơm, thì tôi chỉ ăn 1 chén rưỡi. Ăn thiếu thì thấy ngon, ăn nhiều thì không còn ngon. Hạn chế được sự chi phối của vật chất là ăn uống rồi, chúng ta cũng hạn chế ngủ nghỉ, vì cơ thể mệt mới ngủ say; nhưng không mệt thì ngủ ít và tỉnh là ngồi thiền giữ cho cơ thể thăng bằng. Thiền sư ăn ít, ngủ ít, lao động bớt lần, không bị vật chất chi phối, mới phát triển được tâm linh.
Người tu không phát huy vật chất, nhưng phát triển tâm linh để thấy cuộc đời sáng hơn, thấy cái nào khổ, cái nào không khổ, còn sự vật thì luôn thay đổi. Đạo hữu Võ Đình Cường để lại tác phẩm Thử hòa điệu sống rất hay: “Ngồi trên thuyền thời gian, ta rong chơi trong biển không gian…”. Thời gian luôn thay đổi, lúc còn nhỏ, ta nghĩ đến việc của người nhỏ, lúc lớn ta nghĩ việc của người lớn, lúc già ta nghĩ đến tuổi già. “Sóng triều bào ảnh lô nhô không phải không đẹp với người đạo sĩ…”. Nhờ có sự thay đổi mới thấy cuộc đời này đẹp, thấy đứa trẻ chào đời rất đẹp và thấy đám ma cũng đẹp. Nếu cuộc đời là một bức tranh không thay đổi là bức tranh chết hay sao. Chúng ta có bức tranh sống mà tất cả hình ảnh được minh họa trong đó. “Chúng chỉ đáng ghét đối với những kẻ tham lam…”, vì chúng ta muốn nó dừng lại, nhưng sao dừng được, hoặc chúng ta muốn dừng cho người, nhưng không dừng cho mình, tất cả mọi người chết, một mình ta sống, như vậy là tham quá.
Trong phẩm Nhà lửa thứ ba, kinh Pháp Hoa, Phật nói mọi vật luôn sinh diệt, biến đổi không ngừng, nhưng nhờ đi 3 xe chạy ra khỏi Nhà lửa thì đời sống vật chất của chúng ta ra khỏi Nhà lửa, tức nhận ra được cái gì của ta thì ta giữ, cái gì không phải của ta thì thôi. Người ta khổ vì tham lam tìm cầu mong muốn nắm giữ cái không phải của ta, nên mất mới khổ đau. Cái gì của ta, ta giữ và tiến hơn nữa, của ta cũng không cần giữ, nhưng nó cũng phải theo ta như bóng với hình. Một người bạn tốt của ta, ta không giữ, họ vẫn là bạn của ta. Vì vậy, phải nhận được Bồ đề quyến thuộc, đó là những người bạn đồng hạnh đồng nguyện là bạn tốt của ta, dù không giữ; nhưng ta muốn giữ thì họ lại muốn bỏ trốn. Bồ tát đồng hạnh đồng nguyện là ta làm một việc, họ cũng muốn làm việc đó, thì hợp tác được. Còn không đồng hạnh, không đồng nguyện, không thể ráp với nhau được, dù hợp tác cũng hư việc; vì đưa vô cái chung, nhưng người nào cũng muốn đem về riêng. Những người không đồng hạnh nguyện mà chúng ta cố giữ họ ở lại đạo tràng này, họ làm chúng ta khổ thêm. Chỉ sống với những người cùng hạnh nguyện thì khổ cũng biến thành vui.
Trên bước đường tu, những gì không phải của ta, ta coi của ai. Phật dạy nếu hết phước thì tài sản của ta là của năm nhà. Năm nhà là giặc cướp, bị tịch thu, bị con hư phá của, bị nước cuốn trôi, bị lửa cháy. Nếu là của năm nhà thì trả lại cho năm nhà, cố giữ cũng không được còn bị chuốc họa vào thân. Trả rồi, thân tâm chúng ta nhẹ nhàng. Nhiều người nghĩ rằng làm ra của cải để cho con cháu hưởng, nhưng nó không có phước thì cũng không hưởng được. Chỉ để cho con cháu phước đức là tốt nhất. Cha mẹ có phước đức vì từng cứu giúp người, nên con gặp nạn có người giúp lại. Trước khi chết, chúng ta biến tất cả của cải thành phước đức, thì phước đức đi theo ta sang đời sau.
Nếu không có vô thường biến dịch thay đổi thì đến nay tôi vẫn là cậu bé nhà quê. Nhờ vô thường biến đổi mà tôi trở thành Hòa thượng như ngày nay có bạn bè khắp năm châu. Trong vô thường có cái không biến đổi là chân tình, đạo tình không thay đổi. Tất cả Tăng Ni và Phật tử đều ở trên lộ trình đạo hạnh từ kiếp xa xưa mà ngày nay chúng ta mới gặp lại nhau cùng tu hành trong ánh hào quang của Đức Phật vậy.
Tác giả : HT.Thích Trí Quảng



Hạnh Phúc......
Hạnh phúc tự tâm, tại chốn nầy,
Hạnh phúc trong tâm, trong tầm tay.....
Càng cố mong cầu càng xa mãi,
Chỉ có trên tay đoá sen phai !!!

Trên ao thanh thản hoa sen nở,
Nơi đất an nhiên sắc sen hồng....
Đoá sen hồng ngát ta cùng ngắm,
Ấm áp từ sen quên gió đông !!!
NM



                      
Hành trình đi tìm Hạnh Phúc
Mảnh vỡ thất lạc
Có một câu chuyện cổ tích dành cho người lớn, kể về một khối tròn bị thất lạc một mảnh vỡ hình tam giác. Cái vòng muốn được tròn vẹn nên lang thang tìm kiếm mảnh thất lạc. Bởi nó không còn hoàn hảo nên chỉ có thể lăn đi rất chậm. Trên đường đi, nó được chiêm ngưỡng những bông hoa, tán gẫu với những con sâu và tận hưởng ánh nắng mặt trời. Nó đã thấy rất nhiều mảnh vỡ nhưng chẳng có cái nào vừa với nó, nên nó bỏ qua tất cả và tiếp tục cuộc tìm kiếm.
Rồi một ngày kia, nó tìm thấy một mảnh vỡ rất vừa vặn, thật là hạnh phúc! Giờ đây nó đã được toàn vẹn sau khi lắp khít mảnh đã mất và bắt đầu lăn thử. Bây giờ thì nó đã có thể lăn rất nhanh, quá nhanh đến độ không còn có thể lưu tâm đến những gì đang lướt qua nó. Và khi nó chợt nhận ra thế giới đã đổi khác như thế nào khi nó lăn quá nhanh, nó bèn vứt bỏ mảnh vỡ vừa tìm được ở bên đường để có thể tiếp tục lăn đi chậm rãi như cũ, để có thể bình yên ngắm nhìn hạnh phúc đang diễn ra xung quanh và cả trong chính nó.
Chúng ta cũng thế, chúng ta có thói quen đi tìm kiếm ở bên ngoài cái được gọi là hạnh phúc, bởi ta nghĩ ta vẫn còn khiếm khuyết, chưa được hoàn thiện cũng giống như khối tròn kia. Chính cái ý niệm về hạnh phúc còn ở bên ngoài đã lôi kéo ta bỏ bao nhiêu thời gian và công sức để lang thang tìm kiếm, mà vẫn cứ thấy thiếu vắng, buồn chán và mệt mỏi. Nếu như ta hiểu được rằng dù cho có khiếm khuyết đi nữa thì ta vẫn có khả năng sống hạnh phúc ngay trong từng phút giây của hiện tại, thứ hạnh phúc vẫn luôn có mặt ngay lúc này và ở đây!

"Chẳng có con đường nào dẫn đến hạnh phúc, bởi hạnh phúc là chính con đường."
(There is no way to happiness, happiness is the way itself)

Long Phi 
 



                  
Kiếp Hoa    Dương Thiệu Tước
cool babes
 Kiếp hoa
Nếu dưới nắng vàng,
Hoa rực tràn sắc thắm...
Trong ráng chiều về,
Hoa dịu dàng đằm thắm biết bao nhiêu !
Hoa nở rồi phai ,
Lặng lẽ biết bao chiều....
Trong thinh lặng có bao nhiêu hoa ngủ ?!

Những giọt sương mai ...
Rơi trong đêm dài có đủ ?
Giúp nụ hoa nào chớm nở sáng tinh sương,
Chợt thấy xôn xao...
Ong bướm cả khu vườn,
Trong nắng ấm...
Cùng hoa vui trẫy hội !!
Vui cho thoả, niềm vui trong ngày mới
Há lo chi cho một sắc hoa tàn !?
Nếu hoa còn tồn tại với thế gian ,
Vẫn cùng bướm ,
Đùa vui cho thoả chí....
NM.
                                    
flower and sky
Hạnh phúc một ngày một giờ
*****
Có lần tôi tham dự một buổi thiền trà trong một khóa tu. Buổi thiền trà do vị Thầy hướng dẫn làm trà chủ, và có một vị trà giả phụ giúp ông trong công việc pha và rót trà để mời những vị trà khách đến tham dự. Sau phần uống trà nghi lễ, vị trà chủ mời mọi người cùng chia sẻ, có thể là một bài thơ, một niềm vui, hay là một khó khăn nào đó nếu có. Đến phiên vị trà giả, chị chia sẻ, “Công việc của tôi là pha trà mời mọi người uống, mong tất cả được thưởng thức một tách trà thơm ngon” (My job is to serve you tea). Xong buổi thiền trà, sau khi mọi người đã ra về, vị Thầy quay sang nói với người trà giả, “Con nói như vậy là không đúng, đó không phải là ‘công việc’ mà phải là ‘niềm vui’ của mình mới đúng chứ!” (It's not a job, it's a joy).
Thiết thực hiện tại
Và trên con đường tu học của mình cũng vậy, tôi nghĩ đó phải là một niềm vui. Con đường của Phật dạy có hai yếu tố là thiết thực, practical, và hiện tại, here now, hay nói một cách khác là nó có thể mang lại sự an vui cho ta ngay bây giờ và ở đây. Giáo lý của Phật dạy rất sâu sắc và nhiệm mầu, nhưng đừng vì thế mà chúng ta đánh mất đi yếu tố thiết thực hiện tại của nó. Có một câu truyện vui kể về nhà hiền triết Nasrudin. Có lần vì gia cảnh túng thiếu nên ông Nasrudin phải đi buôn để kiếm thêm tiền. Nhà ông ở gần biên giới nên mỗi sáng ông cứ đi bộ sang xứ láng giềng và đến chiều thì ông cưỡi một con lừa đi về. Và từ đó ông cũng trở nên giàu có hơn, nhà cửa xây cất rộng lớn hơn. Lính biên phòng nghi ngờ, nghĩ là ông có mua bán thứ gì đó mà không khai báo để trả thuế, nên mỗi ngày khi ông trở về họ khám xét con lừa của ông cưỡi rất kỹ lưỡng, xem ông có cất dấu một món hàng nào đó không. Nhưng ngày qua ngày, khám xét mãi họ vẫn không tìm thấy một điều gì khác thường. Cuối cùng, người lính biên phòng nói với ông Nasrudin, “Chúng tôi biết là ông buôn bán một thứ gì đó mà không khai báo, nhưng tìm không ra. Thôi bây giờ ông cứ nói thật đi, chúng tôi cũng chẳng làm khó dễ ông đâu.” Ông Nasrudin, quay sang nói nhỏ với người lính biên phòng, “Tôi buôn lừa!” Chúng ta cũng dễ giống như những người lính ấy, có thể vì lo tìm kiếm sâu xa quá mà quên nhìn thấy những gì ở ngay trước mắt. Ta vô tình đánh mất đi những niềm vui thiết thực hiện tại của mình. Bạn biết không, với một rừng kinh điển mênh mông, chúng ta có thể nghĩ rằng những điều Phật dạy rất là huyền bí cao siêu, khó hiểu, khó thấy, nhưng thật ra chúng cũng rõ ràng ngay trước mắt ta. Tăng Chi Bộ Kinh ghi, có một người ngoại đạo tên Sivaka đến hỏi Phật “Con nghe nói giáo pháp của Ngài là rõ ràng ngay trước mắt (the dhamma is directly visible)... Thưa Ngài thế nào là rõ ràng ngay trước mắt?” Đức Phật đáp, “Nếu nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’; nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’ chăng?” Ông Sivaka thưa: “Thưa có.” Phật bảo: “Này Sivaka, nội tâm có tham, ông có biết ‘nội tâm ta có tham’, nội tâm không có tham, ông có biết ‘nội tâm ta không có tham’. Như vậy này Sivaka ‘pháp ấy là rõ ràng ngay trước mắt, (the dhamma is directly visible)...” Chúng ta đâu cần phải tìm kiếm đâu xa xôi để chuyển hóa những muộn phiền và khó khăn của mình phải không bạn?Bình đẳng và bao dung Đức Phật dạy rằng chúng ta sẽ có nhiều niềm vui trong giờ phút hiện tại, nếu như ta biết nhìn lại và tiếp xúc với cái hay cái đẹp của mình. Tôi nghĩ, trong đạo Phật thì những cái hay và đẹp này không phải là sự tài giỏi, thông minh hoặc những thành đạt của ta, mà là ở tấm lòng của mình. Và trong chúng ta ai cũng có một tấm lòng ấy. Bạn nghĩ đi, những khi ta làm một việc tốt, dầu không ai biết đến nhưng mình cũng cảm thấy an vui, khi nghe kể những hoàn cảnh bất hạnh ta cảm thấy thương xót và muốn chia sẻ, giúp đỡ. Và mỗi khi làm một việc gì không tốt ta cảm thấy bứt rứt, khó chịu. Chúng ta cảm nhận được những điều ấy là vì trong ta, tự bản chất, có những hạt giống tốt lành rất lớn. Ngày xưa đức Phật đã giúp cho biết bao nhiêu người từ bậc vua chúa, tu sĩ, cho đến những hạng thấp nhất trong xã hội. Tiếp xúc với ai Phật cũng nhìn thấy được cái bản chất hay đẹp, những hạt giống thiện lành đang có mặt sẵn trong tất cả mọi người. Có một lần trên đường đi, A Nan gặp một cô thiếu nữ đứng bên cạnh một giếng nước, ngài đi đến gần và xin cô ta một bát nước. Cô thiếu nữ vừa thấy ngài A Nan đến vội tránh xa ra và nói rằng, “Thưa ngài tôi thuộc giai cấp hạ tiện, tôi không có quyền cúng dường nước cho ngài, tôi sợ sẽ làm ô uế ngài.” A nan nhìn cô thiếu nữ và nói rằng, “Tôi đâu có hỏi hay là xin địa vị, giai cấp của cô đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xin cô nước mà thôi.” Lời nói của ngài A Nan thật bao dung quá phải không bạn. Chúng ta nhiều khi cũng giống như cô thiếu nữ ấy, có những quá khứ, có những việc xưa cũ mà mình cứ ôm ấp và giữ chặc mãi, khiến cho ta không còn có thể tiếp xúc được với niềm vui hiện tại.Empty your cup of suffering Có lần, thiền sư Nan-in tiếp một vị giáo sư đại học đến để tham vấn về Thiền. Nan-in rót trà mời khách, ông rót đầy tách của vị giáo sư, và cứ tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư nhìn trà tràn ra ngoài cho đến lúc ông không nhịn được nữa, “Thưa Ngài tách trà đã đầy tràn ra ngoài rồi, không còn thêm được nữa!”, “Như là tách trà này,” Nan-in nói, “nếu ông đã có đầy ý niệm và thành kiến rồi, làm sao tôi có thể chỉ gì thêm cho ông nữa. Ông hãy đổ sạch tách của ông đi!” Tôi nghĩ lời khuyên của ngài Nan-in cũng có thể áp dụng cho vấn đề hạnh phúc của chúng ta nữa. Hạnh phúc sẽ không thể có mặt nếu như tách trà của mình còn đầy những muộn phiền. Thật ra chúng ta cũng đâu cần phải đi tìm kiếm hay xây dựng một trạng thái hạnh phúc nào mới lạ đâu, điều chúng ta cần chỉ là biết buông bỏ mà thôi. Ta buông bỏ những ganh tỵ, tham lam, nhỏ nhoi của mình. Có người nghĩ rằng nếu như mình bỏ hết rồi thì ta sẽ còn lại gì đây? Nhưng ta đâu phải chỉ là những tham lam, giận hờn thôi đâu! Chúng là gốc rễ của khổ đau, thì thật ra ta chỉ buông bỏ những nguyên nhân của khổ đau mà thôi. Và hễ không cái này thì là có cái kia. Không mưa thì nắng, không bóng tối thì ánh sáng, không khổ đau thì là hạnh phúc, không có giận hờn thì ta sẽ có niềm vui. Buông cái này thì ta sẽ được cái kia. Bạn biết không, nếu như ta cứ cầm mãi một tách trà trên tay, thì dầu có nhẹ đến đâu rồi nó cũng sẽ trở thành nặng. Và nếu như ta không đặt tách trà xuống thì làm sao mình có thể nhặt một chiếc lá thu, viết một bài thơ, hứng một hạt mưa, hay nắm tay một người thân. Nếu như một tay ta cứ nắm chặt vào khổ đau bên này, thì dù có cố với mấy ta cũng sẽ không thể nào chạm được hạnh phúc phía bên kia. Buông bỏ là để giúp ta có khả năng đi tới, nhờ buông thả khổ đau mà ta tiếp xúc được với hạnh phúc đang có mặt. Trong kinh có một danh từ chuyên môn gọi là kiết sử hay là nội kết, samyojana, chúng là những gút thắt, những khối vui buồn, khổ đau được kết tụ lại trong lòng ta theo ngày tháng. Trong chúng ta ai cũng có một số những muộn phiền hoặc khó khăn nào đó. Và tôi thấy, đôi khi muốn mở những gút thắt ấy, thật ra chúng ta cũng không cần phải tìm cách tháo gỡ chúng ra, mà chỉ cần đừng cột chặt thêm vào nữa mà thôi. Sự sống là một dòng sông linh động, nó luôn trôi chảy và biến đổi, không có một hờn giận, muộn phiền nào sẽ còn mãi nếu như ta thôi đừng ôm chặt nó lại. Đừng nhốt sự sống của mình vào một tách nước nhỏ bé, nước nếu bị cô đọng thì dầu trong mát đến đâu cũng sẽ trở thành nước ao tù. Hãy để cho nó được tiếp tục lưu chuyển, để ta có thể tiếp nhận được một hạnh phúc mới của ngày hôm nay.Ánh xuân về trên đóa hoa tươi Trên con đường tu học ta ý thức rằng, trong giây phút hiện tại này chúng ta có thể tiếp xúc được với niềm vui, nếu mình muốn. Chúng ta không phải ai cũng đang có hạnh phúc, nhưng đa số chúng ta ai cũng đang có những điều kiện của hạnh phúc. Nếu như chúng ta vẫn còn sức khỏe, vẫn còn nhìn thấy được trời xanh mây trắng, vẫn còn bước đi được trên con dường nhỏ… đó là những điều kiện của hạnh phúc. Tôi nghĩ, nếu sự tu học của mình có hay hơn người khác chăng là ở chỗ mình đã thực tập ý thức điều này được bao nhiêu mà thôi. Tôi nhớ đến bài thơ của Tế Hanh
Nếu không có hạnh phúc một đời
Thì tìm hạnh phúc một năm một tháng
Nếu không có hạnh phúc một năm một tháng
Thì tìm hạnh phúc một ngày một giờ 
 Sáng nay
Tôi tìm thấy hạnh phúc
Sau một đêm yên giấc
Tôi nhìn thấy ánh xuân về
Trên một đóa hoa tươi. 

Và nếu như mình có được hạnh phúc trong một ngày một giờ, thì ta cũng sẽ có hạnh phúc trong một đời, phải không bạn. Vì đời sống cũng chỉ làm bằng ngày hôm nay, và hạnh phúc cũng có thể rất đơn sơ như một sợi nắng vàng trên đóa hoa tươi của buổi sáng này...
 
                                       

Có một "tâm chay"

Họ là hai anh em, tuổi đã cao, trên dưới tuổi về hưu. Người anh sống ở Sài Gòn còn người em sống ở một thành phố lớn miền Trung. Do tuổi tác cũng kề nhau, cùng trong một thế hệ, nên hai anh em rất đồng cảm và thường xuyên điện thoại thăm hỏi nhau.
Một hôm, trong lúc chuyện trò với người anh, người em vui miệng kể rằng ra chợ lựa mua trái cây về cúng Phật thường hay bị người bán lợi dụng lúc mình lơ là, tráo trái cây hư vào. “Anh biết không, mấy cô bán hàng cứ tưởng em ngu ngơ không để ý, đâu biết rằng chẳng có gì qua được mắt mình, tuy nhiên do thấy tội cho họ phải gánh chịu nhiều trái cây hư nên em phải giả đò không biết để chia sẻ bớt!”. Và người em nghĩ rằng người anh nghe chuyện lòng sẽ vui vì hành động biết nghĩ tới người khác của mình.
Nhưng không, người anh nghe xong điềm tĩnh bảo người em: “Không được, em làm vậy là sai rồi, vì khi em làm vậy tưởng là mình giúp người nhưng thực ra lại làm cho họ mang tội lừa đảo, không trung thực. Như vậy không phải là giúp người mà chính là hại người! Anh cũng giống em, chỉ khác một chút là khi mua đồ, anh luôn tự mình chọn lấy một vài trái cây hư, đồ hộp móp để cùng chia sẻ chút hư hao với người, không để cho người mắc phải tật gian dối”. Người em nghe xong, ngậm ngùi.
Một thời gian sau, nhân lúc rảnh rỗi, người em lại điện thoại thăm hỏi người anh. Và trong cuộc trò chuyện, người em kể rằng trong những lúc trà dư tửu hậu, có đem câu chuyện trao đổi hôm trước ra kể cho các bạn bè thân hữu nghe, và một người bạn thân nghe xong đã phát biểu rằng, “Tâm đó mới đúng là tâm chay!”.
Người anh chỉ cười và cũng chẳng quan tâm gì lắm. Vì, một là, chuyện trò đã qua xong rồi thì thôi, chẳng lưu giữ trong lòng làm chi. Hai là, người anh cũng chẳng tin tưởng gì lắm về lời phát biểu cùng buổi họp mặt của người em, tất cả đều có thể có và cũng có thể không. Có thể chỉ là phịa ra một chút cho vui. Và ba là, chỉ có chân tâm diệu hữu chớ làm gì có tâm chay.
altThế nhưng, một ngày nọ, nhân dịp thuận tiện, người anh về thăm người em. Trong buổi cà phê hàn huyên cùng các thân hữu, có mặt cả “tác giả” của hai chữ “Tâm chay”. Người bạn này kể lại chuyện và lúc đó người anh mới biết rằng em mình kể chuyện tâm chay là thật. Người anh rất vui và lòng vô cùng cảm ơn người bạn này vì nếu trong những lúc trà dư tửu hậu anh ta cứ kể chuyện này thì ít ra cũng nhắc nhớ được cho nhau về cách sống làm sao cho đúng với đạo làm người, cho dù chỉ bằng những hành vi nhỏ nhặt nhất.
Chợt nhớ đọc trong sách xưa, có kể chuyện một vị đạo sĩ mang ơn một người nên muốn tặng cho thuật biến than thành vàng ròng. Người này ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi thuật này có giá trị trong bao lâu. Vị đạo sĩ cho biết là 500 năm. Nghe vậy, không chút đắn đo, người này lập tức trả lời rằng: “Vậy là sau 500 năm nữa vàng sẽ trở lại thành than, và người ôm số vàng đó sẽ vô cùng khổ đau vì mất mát và tiếc của. Cảm ơn tiên sinh, nhưng tôi không nhận thuật này vì tôi không muốn cho người khác phải khổ đau, cho dù là sau 500 năm!”. Chao ôi, đọc chuyện mà thấy vô vàn kính mộ cho tấm lòng của người xưa.
Thật sự thì đời nay cũng không phải là không có những tấm lòng như vậy. Như Leon Tolstoi, nhà đại văn hào Nga, với câu nói bất hủ “Hạnh phúc của một người là làm cho người khác được hạnh phúc”. Hay như một tác giả Pháp với câu: “On ne peut donner son bien, mais on peut donner une partie de son coeur” (tạm dịch: Dẫu ta không thể đem cho người tài sản của cải, nhưng ta vẫn có thể trao cho người một phần của trái tim mình).
Mong sao cho mọi người chúng ta hôm nay đều có được “Tâm chay” và biết trao cho người một phần của
trái tim mình 

Hai con chó sói

Hai ông cháu ngồi trên tảng đá bên một dòng suối chảy róc rách dưới ánh mặt trời. Đứa cháu nói:
– Ông ơi, ông kể chuyện cho cháu nghe đi!
– Ừ! người ông nói, để ông kể cho cháu nghe về câu chuyện của hai con chó sói.
Khi chúng ta lớn lên, có đôi khi chúng ta cảm thấy như là có hai con chó sói đang chiến đấu với nhau để giành lấy quyền điều khiển ở bên trong chúng ta. Cháu có thể hình dung con chó sói thứ nhất với bộ lông màu xám mềm mại, có ánh mắt hiền từ và có nụ cười dịu dàng. Nó là con chó sói hiếm khi nhe hàm răng ra và sẵn lòng đứng yên để cho những con chó sói nhỏ đút thức ăn. Chúng ta có thể gọi con chó sói này là chó sói của sự yên bình, của tình thương yêu, và sự tử tế. Bởi vì con chó sói này nghĩ rằng, nếu tất cả chúng ta sống hòa bình với nhau thì mọi loài động vật và mọi người sẽ được hạnh phúc hơn nhiều.
Đối với con chó sói này, tình thương yêu là quan trong hơn tất cả mọi thứ khác. Cháu thấy đấy, nó biết rằng không có tình thương yêu thì thế giới loài người và loài vật sẽ không thể nào tồn tại. Bởi vì người mẹ thương yêu con nên mẹ chăm sóc cho con, cho con ăn, mặc áo quần cho con, ru con ngủ và bảo vệ con khỏi những mối hiểm nguy. Chúng ta đến với thế giới này như một hành động của tình thương yêu và chúng ta trưởng thành nhờ vào tình thương yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta. Tất cả chúng ta đều muốn được thương yêu và cuộc sống của chúng ta sẽ được nuôi dưỡng, được phong phú hơn khi chúng ta thương yêu mọi người và được mọi người thương yêu.
Con chó sói ấy cũng dường như biết rằng lòng tốt là một phần của tình thương yêu ấy. Khi chúng ta tử tế với người khác thì họ cũng thường đối xử tử tế với chúng ta. Mỉm cười với người khác và rất có khả năng họ sẽ mỉm cười đáp lại mình. Hãy giúp đỡ mọi người và người mà cháu giúp đó có thể sẽ giúp lại cháu lúc cháu cần sự giúp đỡ. Những con chó sói có nét hơi giống với loài người và chúng sống thành bầy đàn. Chúng tụ họp với nhau và thường thì chúng cảm thấy tốt hơn khi tụ họp với nhau trong sự hòa hợp và thân thiện.
Nhưng, người ông nói tiếp, hãy hình dung có một con chó sói khác ở trong đàn, và nó không nghĩ giống như vậy. Con chó sói này thật đê tiện và có vẻ mặt kinh tởm. Nó co rút hai cái môi của nó lại những lúc nó nhe hàm răng ra để đe dọa các con vật khác. Những lúc nó làm như vậy thì thường những con vật khác cảm thấy sợ nó hơn là thương yêu và tôn trọng nó, bởi vì đây là con chó sói của sự lo sợ, tham lam, và căm ghét. Có lẽ nó bị đe dọa và e sợ, vì thế nó luôn phòng vệ.
Thật là không may cho nó, nó không hiểu được rằng nếu nó tỏ ra giận dữ và hung hăng đối với người khác, nếu nó nghĩ về những người hay những điều nó căm ghét thay vì nghĩ về những người và những điều mà nó thương yêu, thì nó sẽ tạo nên nhiều cảm nghĩ xấu ở trong bản thân nó và cả trong những con chó sói khác.
Con chó sói này chỉ biết nghĩ cho nó mà thôi. Ngược lại, con chó sói của sự yên bình, lòng thương yêu và tử tế thì quan tâm đến hạnh phúc, và sự lành mạnh của những con sói khác cũng như của chính nó.
Như cháu có thể tưởng tượng, hai con chó sói như thế trong bầy có thể tranh đấu với nhau để chứng tỏ con nào chiếm được thế thượng phong. Con chó sói của sự bình yên, lòng thương yêu và tử tế muốn chia sẻ những giá trị mà nó có với những con sói khác, nhưng con chó sói của sự lo sợ, tham lam và căm ghét chỉ nghĩ cho chính nó. Tự nó cảm thấy không tốt và bỏ mặc những con chó sói mà nó cảm thấy không tốt ở xung quanh nó.
– Chúng ta hãy tiếp tục hình dung, người ông nói, hai con chó sói như thế đang chiến đấu với nhau trong lòng chúng ta.
Đứa bé ngước nhìn ông với đôi mắt mở to:
– Thế thì con nào sẽ thắng, thưa ông? Cậu bé sốt sắng hỏi.
Người ông nhìn xuống với đôi mắt hiền từ, giọng nói nhỏ nhẹ, rồi trả lời:
– Cháu cho con nào ăn thì con đó sẽ thắng.
George W. Burns
Minh Nguyên dịch

Giac Mo Ngay Xua - Hien Thuc

Tỉnh giấc mộng tình....!!
Nàng là người của ngày xưa,
Còn ta, người của nắng mưa bao ngày,
Tình ta quả thật đắm say,
Khiến ta quên cả tháng ngày phôi pha.....
Tình ta dẫu có bao la,
Thì tình cũng đã cách xa lâu rồi !!
Gặp nhau mới rõ mới thôi,
Tấm thân huyễn mộng, khối tình u mê......
Bây giờ mới ngộ nẽo về,
Bây giờ mới tỉnh luỵ mê bao ngày !!
NM

photo

Người ngày xưa
    Sinh là một anh học trò nghèo kiết xác tha phương cầu học. Anh ở trọ trong một ngôi chùa, ngày đêm dùi mài kinh sử để ứng thí. Quan huyện sở tại cũng là người xứ khác bổ nhiệm đến, thường lui tới chùa vì quan rất mộ đạo. Quan có một cô con gái tuổi độ trăng tròn, nhan sắc mỹ miều diễm lệ. Một hôm nhân ngày lễ Vu lan, cô gái theo cha đến chùa. Vừa trông thấy người ngọc, Sinh ôm lòng thầm yêu trộm nhớ. Nhưng chàng đã có vợ con ở quê nhà, lại thuộc gia đình nghèo khó, mà nàng thì đang độ xuân xanh, lá ngọc cành vàng. Chuyện lương duyên thật khó nỗi ước mơ. Mối tình bị chướng duyên ngăn trở càng thêm nồng nàn thắm thiết, mặc dù chưa một lời trao đổi, tình yêu chỉ đơn phương. Chàng đành nuốt nước bọt ngâm câu "tình tuyệt vọng":
    “Lòng ta chôn một khối tình
    Tình trong giây phút mà thành thiên thu.”
   
 
    Nàng thoáng hiện tới chùa một lần rồi không bao giờ trở lại. Con "người gieo thảm" đó để lại trong lòng Sinh một mối tương tư cay đắng, vì không thể nào trăm năm tính cuộc vuông tròn. Hình ảnh nàng đang ám ảnh Sinh một cách mãnh liệt, thì bỗng một hôm, chàng nghe tin nàng đã chết. Ôi! Rõ thật là: "Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thu."
    Mới thấy nàng có một lần, nhưng Sinh lăn khóc thảm thiết khi hay tin nàng lìa trần. May thay, tục lệ lúc bấy giờ ưa chôn người chết ở nguyên quán, nên quan huyện ướp xác quàng thây nàng tại ngôi chùa Sinh trú ngụ, chờ ba năm sau sẽ đưa về cố quận. Từ đó Sinh được đêm ngày gần gũi người đẹp... trong quan tài. Mối tình si vẫn nồng đượm, có lẽ còn mặn mà hơn xưa, bởi lẽ giờ đây không còn gì ngăn cách. Cái chết xóa tan mọi bất bình đẳng giữa con người, phá đổ mọi ranh giới tài sản, địa vị, giai cấp... Mỗi bữa ăn, Sinh đặt một mâm cơm trên nắp quan tài cúng cho vong linh hưởng xong, chàng mới chịu hạ xuống ăn. Chàng kể lể với người trong quan tài như sau:
    "Ối nàng ơi! Âm dương đôi ngã, nàng có thấu cho lòng tôi không? Khi nàng còn sống, nàng là lá ngọc cành vàng, tôi chỉ là một kẻ thư sinh bần hàn ăn nhờ ở đậu, có khi nào đài gương soi đến đậu bèo! Nhưng tôi yêu nàng tha thiết, tình riêng luống ra ngẩn vào ngơ. Hình bóng nàng đậm nét trong tim tôi. Bây giờ, nàng nằm đó, tôi đứng đây, cách nhau có một tấm ván quan tài, chỉ trong gang tấc vậy mà thành ra biết mấy trùng quan san! Ôi! Sao con tạo khéo trêu người dường bấy! Khi tôi được hân hạnh gần gũi nàng, thì nàng đã hóa ra người thiên cổ, thành cái xác không hồn! Ước sao nàng hãy sống lại, tôi xin đổi bất cứ gì để đôi ta được tái ngộ trên dương trần! Xin nàng chứng giám cho lòng tôi."
    Bữa ăn nào cũng vậy, việc cúng cơm và đọc văn tệ than khóc người đẹp trở thành một tục lệ bất biến trong đời chàng thư sinh. "Hữu cầu tất ứng", lời cầu nguyện của chàng chẳng bao lâu cảm ứng được vong hồn người chết. Một đêm nàng hiện về thỏ thẻ:
    "Cảm tấm tình si của chàng, em đã xin với Diêm vương cho em được tái sinh vào ngôi nhà số 555, đường Nguyễn Văn Trổi, thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm sau đúng vào ngày rằm tháng bảy, chàng hãy đến tìm em ở đó, chúng ta sẽ gặp gỡ để vầy mối lương duyên. Nhưng chàng ôi, Diêm vương có ra một điều kiện. Muốn tái sinh, em phải nhờ người thân chí thành tụng một Tạng Kinh Kim Cương thì mới được như ý. Vậy, nếu chàng có lòng, xin chàng hãy tụng kinh cho em."
    Sinh tỉnh dậy mừng rỡ, ghi rõ ngày tháng nàng đã hẹn lên vách, ghi luôn cả địa chỉ mới của cô gái. Từ đó chàng xếp bút nghiên, chuyên chú tụng Kim cương đến sáu ngàn lần như nàng dặn, phải hết mất ba năm. Năm đó chàng đã bốn mươi lăm tuổi. Còn những mười hai năm nữa mới gặp lại người đẹp ngày xưa! Sinh vẫn ôm lòng chờ đợi, hình ảnh yêu kiều của nàng mỗi ngày một đậm nét trong trí tưởng.
    Về phần cô gái, quả nhiên thần thức cô đã thác sinh vào một gia đình thường dân ở địa chỉ trên, để đáp lại tấm tình si của anh học trò. Cô mang hình đáng một cô gái nhu mì dễ yêu, nhưng không có gì gọi là cá lặn chim sa cho lắm. Mối tình đeo đẳng từ lúc còn nằm trong quan tài, khiến tiềm thức cô vẫn một mực đợi chờ anh chàng thư sinh mặt trắng. Với tình yêu mới nở, cô tưởng tượng hình dung của anh chàng ít ra cũng bằng chàng Kim:   
  
    "Phong tư tài mạo tuyệt vời.
    Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa."
    
    Ngày tháng thoi đưa, sắp đến ngày hẹn. Chàng thư sinh bây giờ tuổi đã xấp xỉ lục tuần, râu tóc hoa râm, sắm mặt phong trần vì nỗi đời mưa nắng. Nhưng mối tình thì vẫn tươi trẻ như thuở ban đầu, vì nó vô hình vô tướng nên không có già bệnh như cái thể xác của anh. Tình yêu đã không đổi, nên hình ảnh nàng trong tim anh không chút đổi thay, đó là nét đẹp đắm nguyết say hoa của một lần sơ ngộ. Anh yêu, là yêu cái hình bóng của nàng thì đúng hơn. Vì nếu nàng còn sống thì chắc chắn bây giờ nàng cũng không còn như hình bóng anh tôn thờ.
    Cái ngày hẹn hò đã đến. Anh chàng thắng bộ y phục mới tinh, chải lại mái tóc nửa đen nửa bạc không biết bao nhiêu lần, cố che dấu càng nhiều tóc bạc càng hay. Anh cũng không quên bôi dầu láng mượt như thời trang dạo đó. Nhưng làm gì thì làm, không thể hóa trang cái già thành trẻ. Không thể nào xóa hết những vết hận năm tháng khắc sâu trên vừng trán nhăn nheo.
    "Phong trần đến cả sơn khê
    Tang thương đến cả hoa kia cỏ này."
   
    Huống chi là con người, dù nó có nỗ lực bao nhiêu để xóa bỏ vết tích thời gian trên thân thể. Nhưng tâm hồn của chàng, mối tình si của chàng vẫn không chịu già theo tuổi tác, mà nó vẫn là mối tình đầu của tuổi đôi mươi, của cái lần sơ ngộ. Cho nên anh chàng hăng hái, hăm hở thuê xe tắc xi đến địa chỉ nàng hẹn để gặp lại tình xưa. Phần nàng cũng vậy, con tim rộn rã với tình yêu, với mộng đẹp và với hình ảnh chàng thư sinh khả ái. Chắc hẳn mặt chàng phải đẹp như mối tình của chàng! Chắc hẳn chàng phải tươi trẻ như hoa xuân phong nhụy! Ôi, cảm động làm sao sẽ là cái phút giây gặp gỡ! Ngàn năm hồ dễ đã ai quên.
    ...Mỗi người sống trong tâm tưởng hình ảnh tuyệt vời của người kia, và của mối tình, tưởng tượng đến cái lúc gặp gỡ mà suýt chết ngất người vì sung sướng. Chiếc xe tắc xi đã dừng lại trước một ngôi nhà chúng cư dơ dáy. Nàng con gái đã ra đứng tựa cửa trông chờ. Mà nào thấy đâu bóng hình "hoàng tử của lòng em"? Chỉ là một cụ già trông càng già hơn do bởi nỗ lực làm cho có vẻ trẻ. Cô gái buột miệng hỏi:
    - Ông kiếm ai?
    - Xin lỗi, cho tôi hỏi thăm nhà tiểu thư...
    - Ông là ai?
    - Tôi là thư sinh ở trọ chùa Bà Ðầm. Xin cô cứ thưa lại với tiểu thư như vậy.
    Cô gái òa khóc, nói trong tức tưởi:
    - Không phải, không phải! Trời ôi! Chàng đã phụ tình, đã lừa dối ta! Chàng đã si mê người khác, nên đưa ông già này đến thay! Chàng lừa dối ta! Thật chàng khinh ta quá mức!
    Nàng ôm mặt bỏ chạy một mạch vào nhà trong. Cụ thư sinh lủi thủi lê bước trên đường về. Chàng như bừng tỉnh cơn trường mộng: hình ảnh cô tiểu thư đã chết thật rồi, nhờ chàng vừa tai nghe mắt thấy. Vâng, nhờ thấy người con gái sống, mà chàng chết được trong tim hình ảnh người con gái chết. Bấy lâu hồn ma vẫn sống mãnh liệt trong lòng chàng dưới hình ảnh một cô nương hoa nhường nguyết thẹn. Nhưng bây giờ, sau mười lăm năm chờ đợi, chàng chỉ bắt gặp một cô gái nhan sắc tầm thường như trăm ngàn cô gái khác, nào có gì đâu?
    Chàng trở về, giở lại Kinh Kim Cương ra tụng, đến câu kết:

    Hết thảy pháp hữu vi
    Như mộng huyễn ảo ảnh
    Như sương và như chớp
    Hãy quán sát như vậy.

    Chàng tỉnh ngộ, thầm nhủ:
    "Cảm ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp. Nhan sắc nàng, cái nhan sắc mà mười lăm năm nay ta từng say đắm, đã không thực, huống chi là hình ảnh, hoài niệm về nhan sắc ấy. Cái thực đã không thực, huống hồ là mộng tưởng trong tâm." 
Sưu Tầm

Tình thương là mùa xuân

Tình thương là mùa xuân, là niềm vui, là hạnh phúc, nếu tình thương ấy hoàn toàn chân thật, trong sáng, không biên giới, không ích kỷ buộc ràng.

16868_1268496607008_1667626837_641642_4231675_n

Kinh Pháp Cú kể lại:
Tôn giả Vakkali xuất gia vì thương Phật quá. Do thương Phật bằng tình thương ích kỷ buộc ràng, nên tôn giả thất vọng khi thấy Phật không quan tâm đặc biệt tới mình. Từ đó ngài đau khổ và không tu được.
Đức Phật dùng tâm đại từ vô duyên đối với tất cả chúng sanh mà Vakkali lại tự trói buộc mình trong vòng luyến ái hữu duyên, Phật vô ý mà Vakkali lại hữu ý. Mỗi khi đức Phật thuyết pháp, Vakkli cứ nhìn Như Lai trân trân nhưng không nghe không biết Như Lai nói gì, vì tâm tôn giả bị kẹt nơi sắc tướng và âm thanh của Thế Tôn, không thể mở ra để đón nhận giáo pháp vi diệu. Không muốn tôn giả chìm sâu trong si ái, đức Phật tránh mỗi khi Vakkali tìm cách thân cận riêng. Cuối cùng chịu hết nổi, Vakkali chọn con đường tự tử để không phải kéo dài nỗi khổ thêm nữa. Ngay khi ông định lao xuống vực, đức Phật xuất hiện với lòng từ vô duyên. Vakkali như người chết đuối vớt được chiếc phao cứu mệnh.
Tôn giả nói:
- Như Lai không bỏ con?
Phật bảo:
- Ta chưa bao giờ bỏ ông, chỉ có ông mới bỏ ông. Như Lai đã lập bày phương tiện, giúp ông khai mở tâm tư đón nhận giáo pháp, nhưng ông không chịu mở tâm ra, tự giam hãm mình trong ích kỷ si mê. Đó chẳng phải là ý muốn của Như Lai.
Bấy giờ Vakkali mới mở được đôi mắt tuệ ra, hiểu rõ Như Lai vẫn thương tưởng đến mình, nhưng không thương như mình từng nghĩ sai lầm. Ngài ăn năn sám hối và từ đó thoát ra khỏi lưới ái, lắng đọng tâm tư nghe Phật chỉ dạy, triển khai thiền định, chẳng bao lâu thành tựu được Thánh quả.
Đức Phật dùng lòng từ vô duyên, không gá duyên nên không bị cột trói bởi các duyên. Vô duyên từ của Phật và Bồ-tát, hạng phàm phu tục tử như chúng ta không dễ có được đâu. Phật độ chúng sanh là vì thương xót chúng ngu mê, bất luận người nào, loài nào, hễ thấy khổ là Phật độ, không ra điều kiện, không phân biệt thân sơ, không nghĩ tới bản thân mình được đền đáp lại. Tình thương của Phật bình đẳng, trong tình thương ấy không có luyến ái buộc ràng, không có cho đi đòi lại, không có sự trói buộc. Đây mới đích thực là một tình thương lớn, đúng nghĩa, chân thật.
Đức Phật từng thương chúng sanh như vậy và cũng mong mỏi chúng sanh khai mở được suối nguồn vi diệu ấy. Nhờ có tình thương mà tâm ta khoan dung độ lượng, bỏ tật xan tham keo xẻn. Tình thương làm cho mình mở rộng tâm vị tha. Phật dạy bốn vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả. Từ là ban vui, bi là cứu khổ, hỷ là vui vẻ tùy hỷ, xả là tha thứ buông bỏ. Bốn tâm này nếu được phát triển tột cùng, nó sẽ trở thành vô lượng. Muốn cứu khổ ban vui thì phải thương, không thương không làm được. Ví dụ thấy đứa bé bị té, ta chạy đến bế lên, vì thương sợ nó đau nên mới bế. Tình thương chân thành, vô phân biệt thì thấy bé nào té cũng bế. Tình thương ái nhiễm, trói buộc thì chỉ bế bé của mình, chớ không bế bé của người khác. Một khi đối xử phân biệt như vậy, bé của mình lỡ bị mất đi mình sẽ chịu không nổi. Chúng ta thường chỉ cứu người ta thương, còn người ta ghét thì cho… chết luôn. Như vậy không có chút xíu nào từ tâm cả, không phải là con Phật, không phải là người tu hạnh Bồ-tát. Đại bi là lòng thương rộng lớn không có ranh giới, không có đối tượng riêng biệt. Bồ-tát thấy ai khổ cũng cứu, không phân biệt thân sơ, không thương ghét để lòng.
Tình thương không phân biệt, không có điều kiện sẽ không có sự trói buộc, khổ đau. Chúng ta thấy đức Phật không bao giờ khổ. Ngược lại chúng ta thương có đối tượng, cho và nhận đều tính toán kỹ càng nên khổ. Mình cho người ta ít mà đòi lại khá nhiều. Như vậy là ăn gian. Nếu có đòi cũng đòi ít thôi, đừng có đòi quá, đòi quá sẽ mắc nợ trở lại, vay trả hoài mệt lắm. Tất cả sự đổ vỡ trong cuộc đời, chỉ có ta mới biết mấu chốt ở chỗ nào mà xây dựng lại, làm lành trở lại. Phải là ta tự cứu ta, rồi sau đó chia sẻ cho mọi người. Đã là ta tự cứu ta thì đâu có trả giá, dù làm lợi ích cho người nhưng vẫn là viên mãn hạnh nguyện lợi tha cho chính mình, như vậy đâu có gì để so đo tính toán nữa. Bồ-tát rõ biết thế ấy nên các ngài phát triển hạnh đại bi vô tận, vẫn không cảm thấy mệt mỏi.
Quanh ta trong cuộc đời, rất nhiều những con người thầm lặng đến rồi thầm lặng đi, không chút lưu dấu mà chan chứa bi trí tròn đầy, để lại trong lòng nhân sinh những khoảnh khắc giật mình. Giật mình nên tỉnh, biết nghĩ lại. Sao ta không thể yêu thương cả trần gian này, mà chỉ yêu thương có một vùng? Trái tim con người vì thế bị siết chặt trong chiếc thòng lọng của vô minh khát ái, để rồi phải thản thốt kêu lên tuyệt vọng giữa cuộc đời vẫn còn nhiều tấm lòng trong sáng, rộng mở luôn hướng về mình. Thật tiếc quá!
Phật bảo tháo gỡ sự trói buộc tức thì giải thoát thong dong, tự tại. Tháo được hay không là do sự quyết tâm, ý chí và nghị lực của mỗi người. Tháo được thì khỏe, tháo không được thì mệt, cho nên phải ráng tháo cho được. Đó là chuyện sống còn của ta, chớ không phải của ai khác. Đức Phật, chư vị Bồ-tát và thiện hữu tri thức đã hết lòng tiếp sức cho chúng ta rồi. Tệ lắm thì mình cũng phải bắt chước tôn giả Vakkali, một lần đứng trước cửa tử rồi muôn thuở sống lại với chính mình, chấm dứt tử sinh, đem mầm sống mới đến cho muôn loài…
HẠNH CHIẾU 

Thứ Tư, 8 tháng 8, 2012

NTV 20 - Bên trăng tôi chưa ngủ



New Moon                      

Ánh trăng buồn

Thư Tình Cuối Mùa Thu - Cẩm Ly - Quốc Đại

Trăng hội ngộ....

Có một vầng trăng sáng trong tôi,
Trong tôi trọn vẹn suốt cả đời....
Ánh trăng bàng bạc soi nhân thế,
Từng giọt đưa ta thoát bến mê !!

Trăng sáng - Tâm bình - Hương hoa cúc,
Đưa tâm về nguồn cội ban sơ....
Ngắm trăng chẳng phải đợi chờ
Ta luôn hội ngộ bạn hiền dưới trăng ?!
NM 

Bên trăng tôi chưa ngủ 
Trà Thơm
Lữ
(Trích từ tập 'Bên Trăng Tôi Chưa Ngủ', NXB Nắng Mới với sự cho phép của tác giả)
Bạn tôi thích hoa cúc, nhưng nghèo. Anh đi ngang tiệm hoa, cứ nhìn vào và trầm trồ. Tôi cũng nghèo, và cũng thích hoa cúc. Chúng tôi chỉ cho nhau xem một chậu cúc gồm cả mấy trăm đóa nho nhỏ đang nở thật đều đặn. Tôi chắt lưỡi: “Tôi còn đủ tiền. Thôi mình mua đại. Về nhà pha ấm trà ngon, vừa thưởng thức trà, vừa ngắm hoa.” Anh gật gù,rồi nắm tay tôi lôi đi,
Vậy mà cuối cùng chúng tôi vẫn mua. Chúng tôi đem chậu cúc về với rất nhiều niềm vui. Anh có tài pha trà. Anh pha ấm trà nhỏ, rót ra hai chén, rồi chúng tôi ngồi hàng giờ bên nhau, ngắm chậu cúc vàng một cách thích thú. Tôi nghĩ: “Thật ra bạn tôi cũng có vài thú chơi mà thôi: trà, hoa cúc và thơ.” Anh uống trà loại thượng hạng. Nghèo mà sang lắm. Có khi cái thú uống trà làm cho anh không còn một xu dính túi.
Chỉ có thú chơi thơ của anh là ít tốn tiền nhất. Anh làm thơ, rồi đọc cho tôi nghe. Anh thường nói: “Thơ chúng mình cũng thường thường thôi.” Thường thường có nghĩa là không hay gì mấy, không sánh được với những nhà thơ trứ danh. Mà tôi đâu có làm thơ. Thơ chúng mình có nghĩa là thơ của anh làm. Mỗi khi nói điều gì, anh vẫn thường dùng chữ “chúng mình”. Chỉ có một trường hợp anh luôn luôn dùng chữ “tôi”. Anh nói: “Tôi bệnh lắm, chắc không còn sống được mấy năm nữa.”
Một hôm, chúng tôi ngồi đợi trăng lên. Anh nhờ tôi pha trà. Tôi pha rất vừa ý anh. Chúng tôi uống được vài chén thì ánh trăng hiện lên nền trời, to và vàng như một trái cam lớn. Tâm tôi trở nên bình an lạ lùng. Chưa bao giờ tôi có một sự lắng đọng trong tâm hồn như vậy. Tuy tôi vẫn cười nói bình thường, nhưng anh nhận ra sự biến chuyển trong tôi. Anh nói: “Hôm nay tâm của anh bình an lắm.” Tôi nghe anh nói thì cảm động, nghĩ thầm: “Vậy anh là tri kỷ của tôi rồi. Ngày xưa, Tử Kỳ hiểu tiếng đàn của Bá Nha cũng nhạy bén như vậy là cùng.”
Ánh trăng hôm đó thật lạ lùng. Đó là một vành trăng sáng. Nhưng chưa bao giờ tôi tiếp xúc với một ánh sáng nào kỳ lạ như vậy. Nó sáng từ trong lòng tôi mà sáng ra. Đôi mắt của tôi biến thành hai cái đèn thật lớn, mở to nhìn mặt trăng bằng cái nhìn bỡ ngỡ của buổi ban đầu.
Hè vừa rồi, tôi dọn sang một căn nhà mới. Căn nhà với một gian phòng có hai cánh cửa kính thật lớn nhìn ra phía sau vườn. Tôi đem chiếc giường ngủ đặt gần hai cánh cửa. Ban đêm, tôi có thể mở cửa và nhìn ra ngoài vườn. Tôi chờ mà không biết mình đang chờ gì. Tôi nằm như vậy và nhìn. Cho đến một đêm thì tôi hiểu. Tôi chờ một giây phút tao ngộ với ánh trăng ban sơ. Tôi muốn gặp trăng, nhưng thật ra tôi cũng muốn gặp lại chính mình. Khi nhìn một vành trăng mới tinh, tôi cũng trở thành mới tinh. Tôi thấy đó là một sự tắm gội. Một nghi lễ rửa tâm.
Mùa hạ, vào những đêm trăng tròn, không khí ngoài trời mát rượi. Ánh trăng đứng bên ngoài nhìn vào. Không, ánh trăng không đứng bên ngoài, mà rót từng giọt ánh sáng vào trong phòng tôi. Ánh sáng của trăng như một vòng tay của mẹ hiền, choàng lên người tôi từ đầu cho tới ngón chân. Tôi nằm nghiêng, đưa mắt nhìn ra mảnh vườn sáng rực và tâm tôi trở nên trong vắt.
Tôi nằm thật yên, thấy mình trở thành một em bé sơ sinh. Một em bé được sinh ra từ ánh sáng. Tâm của tôi không còn một chút bợn nhơ nào. Tôi trở thành hoàn toàn ngây thơ, vô tội. Rồi tôi cũng thấy tâm từng người một. Những người mà tôi từng quen biết trong cuộc đời. Họ đều là những em bé ngây thơ, hiền hòa. Thì ra những người sống xung quanh ta cũng chỉ là ta mà thôi. Khi tôi trở thành một em bé, thì quanh tôi không còn ai là người lớn cả. Tôi không ngủ, cứ nằm như vậy, miệng chúm chím cười. Thấy cuộc đời này vui quá.
Bạn tôi mất khi tôi đi xa. Ngày tôi đi, anh nói: “Đi chơi cho vui. Tôi không sao đâu.” Anh nằm trên võng đu đưa, vẫy tay chào tôi. Khi tôi về tới nhà thì anh đã là một hũ tro nguội. Tôi cảm thấy buồn, mất bạn. Tôi đi dạo vòng vòng trong sân nhà anh. Bỗng nhiên tai tôi nghe tiếng ai đọc thơ. Đúng rồi, tôi không lầm, chỉ có bạn tôi mới có cái lối đọc thơ như vậy. Tôi rùng mình, nhìn quanh vẫn không thấy ai. Bài thơ mới tinh. Bạn tôi chưa bao giờ đọc cho tôi nghe bài này lần nào. Tôi lấy trong túi ra cây bút và một tờ giấy vụn rồi chép xuống:
Đúng là giọng thơ của anh. Tôi cố lục trong trí nhớ thử xem tôi có lầm không. Có thể đây là một bài thơ anh đã đọc cho tôi nghe, và bây giờ từ tiềm thức bài thơ trồi lên trở lại. Nhưng mà không, giọng anh vẫn đọc đều đều từng câu, từng dòng. Bài thơ dài ngoằng, có những câu thật lạ:
Trà thơm nắng ấm thơ lòng,
Thơ hoa trổ đóa cúc trong cõi ngoài.
Trà hương khói trở về mây,
Mà hoa thơ lại phô đầy cúc thơm.

Tôi chợt hiểu. Bằng cách nào đó, chúng tôi đang gặp nhau. Và anh đang nói chuyện với tôi bằng thơ. Anh nhắc về chậu hoa cúc ngày xưa. Anh đúng là một thứ “hương nắng”, và tôi cứ ngỡ là “nắng phai” rồi. Nhưng tất cả vẫn còn đó. Chậu cúc năm xưa vẫn còn đang nở rộ. Và vầng trăng nữa. Vầng trăng luôn đưa tôi trở về với cõi nguyên sơ. Ở đó, tôi không thấy một sự ngăn cách nào giữa con người với con người. Trong cuộc hội ngộ với trăng đó, tôi luôn luôn thấy anh.
Trong nhiều đêm, trăng sáng rực. Tôi nằm trên giường, và cảm thấy mình cũng đang nằm bên cạnh trăng. Tôi không ngủ. Tôi cứ nằm yên vậy. Tất cả đều đang là sự thật, mà lại đẹp như một cơn mơ.
nguồn:dieukhong.org

Trăng quê
Ai đó từng bảo rằng từ khi tạo hoá sinh ra con người ở cõi trần gian này thì mới có vầng trăng tròn đầy và sáng trong ngự trên thượng giới. Đã từ bao đời nay, vầng trăng ban tặng cho con người thứ ánh sáng dịu lành, trong mát và con người cũng không ngớt lời ca ngợi, tôn vinh vẻ đẹp của vầng trăng. Vốn dĩ đã đẹp rồi, nay lại được soi qua trăm ngàn câu tục ngữ, ca dao soi qua những trang truyền thuyết, cổ tích nên ánh trăng càng thêm huyền ảo, lung linh…
Ngắm trăng ở mỗi độ tuổi khác nhau thì lại thấy vầng trăng mỗi lần mỗi khác cho dù vẫn là vẻ đẹp sáng trong, êm đềm có từ thuở ban sơ ấy. Ngày còn nhỏ, tôi thường trải chiếu trước hiên nhà, nằm ngắm trăng và đếm sao trời, nghe mẹ kể chuyện về sự tích chú Cuội cung trăng mà thấy vầng trăng vừa gần gũi vừa xa xôi, vừa hư vừa thực. Dưới ánh trăng ngà, dịu mát và hương cau thoang thoảng lan toả khắp sân nhà, chẳng biết tự lúc nào, giấc mộng về đón tôi bay lên thế giới thần tiên, một thế giới nửa thực nửa mơ của riêng trẻ con: hồn nhiên, trong sáng…
Những đêm ánh trăng dát vàng khắp ruộng vườn, đường thôn, lũ trẻ lại í ới rủ nhau tụ tập ở đầu làng gió mát để bày trò chơi trốn tìm hay trồng nụ trồng hoa, rồng rắn lên mây…Ánh trăng cùng đùa vui, theo bước chân hồn nhiên, tinh nghịch của lũ trẻ. Trăng trèo lên cây, trăng tắm bến sông, ngụp lặn, vẫy vùng làm tung toé lên trời muôn ngàn vảy vàng vảy bạc.
Những đêm ngồi học bài có ánh trăng ghé vào trang sách soi lấp lánh những con chữ. Bên khung cửa sổ tràn ngập trăng vàng, có cậu học trò bao lần mơ làm thi sĩ, mơ đến một ngày kia sẽ tìm được vầng trăng viên mãn của riêng mình…
Rồi trăng cùng tôi lớn lên đi tìm những phương trời mới lạ. Tôi chợt hiểu ra một điều là ánh trăng ở nơi nào cũng đẹp, cũng sáng trong nhưng chẳng nơi đâu bằng được quê nhà. Trăng chứng kiến bao lời nguyện ước, bao câu tâm tình của những lứa đôi. Để rồi bao lời hẹn thề cũng đẹp huyền ảo như trăng ...
Ơi vầng trăng kì diệu toả ánh sáng muôn nơi, toả ánh sáng ngàn năm mà vẫn sáng trong như kí ức tuổi thơ, vẫn dịu hiền như khúc hát lời ru của mẹ. Dù vật đổi sao dời thì trăng muôn đời vẫn có người làm bạn, vẫn sáng soi mà thành nhạc nên thơ…
DDK 


Cúc vàng mùa thu....

Sớm heo may. Vừa bước chân ra khỏi con ngõ nhỏ, bất ngờ, một mầu vàng rực rung rinh hiện ra trước mắt. Đặt gánh hàng hoa xuống, bà cụ xởi lởi: “Mua hoa cho già đi. Cúc vàng mùa thu đấy!”.
Chao ôi. Cúc vàng mùa thu! Câu nói thật lãng mạn của người già khiến người nghe phải định thần lại. Tóc bạc trắng, vấn trần. Đôi viền môi khô mà vẫn nét. Đôi mắt nheo cười hiền hậu, hóm hỉnh, gợi cái nét nghịch ngầm từng gặp đâu đây.
Phải rồi, hình như là nét thanh xuân phảng phất của nữ điêu khắc gia nổi tiếng họ Điềm, xứ Huế, với cái dáng tượng nằm có cái tên rất  ngộ – “vắt mảy”/*/. Hình như chỉ người Huế mới hiểu, độc đáo, xuân thì, vĩnh cửu với thời gian.
Khác chăng, là tấm áo nâu sồng của người quê xứ bắc, và đôi quang gánh như tạc trên vai. Ngày xưa, hẳn là người duyên ngầm, hút hồn thiên hạ lắm đây.
Tôi cúi xuống đón từ tay bà lão một bó cúc. Hai người đàn bà, một đã già và một đã tới, nhìn nhau. Mắt cười, miệng cười và hoa cũng như cười. Như đón nhận mối tình muôn thuở mặn nồng nhất khi thu sang. Đón lấy cái màu vàng rực rỡ mà ấm áp.
Một mùi thơm thoảng hăng hắc, nồng say. Những bông cúc to đang độ hàm tiếu, cứ cong cong, cum cúp như má lúm đồng tiền con gái ẩn giấu điều riêng b­í ẩn.
Tôi không hiểu lắm nụ cười của cúc vàng. Nhưng lại yêu cúc đến nặng lòng. Tình yêu vốn đa diện, lạ kỳ và oái oăm mọi lẽ. Có thể càng hiểu lại càng yêu. Mà cũng có khi chỉ cần cảm thấy yêu mà không cần hiểu. 
Dường như trong cuộc đời mỗi người thiếu nữ, mỗi người đàn bà đều chọn cho mình một loại hoa để yêu, để nhớ, để gửi gắm tình tự, để thấy nó gần với mình, nó là chính mình.
Nhưng tôi không chọn cúc vàng mà chính cúc vàng chọn tôi.
Bông cúc vàng đầu tiên đã “chọn” tôi lại là bông cúc trong… tấm bưu ảnh của “người ấy”. Một bông cúc đại đoá vàng rực như không thể vàng hơn. Những cánh hoa mỏng manh, quăn quăn, còn rõ những giọt sương hay giọt nước, ngân ngấn. Thế thôi.
Cũng đủ nghe thấy tiếng con tim thình thịch. Cũng đủ có những phút giây như đãng trí một mình ngồi nghĩ xa xăm mà chẳng hiểu nghĩ gì. Cũng đủ để bỗng thấy thoắt vui thoắt buồn, thoắt hờn giận vô cớ.
Những tiếng đập khe khẽ ngây thơ, khờ dại rồi cũng đi qua. Chỉ cúc vàng còn ở lại. Bông cúc vàng trong ảnh đã đánh thức tuổi thơ tôi, một thời khăn quàng đỏ ngày ngày cắp sách qua bờ hồ Hoàn Kiếm, đẹp tuyệt vời những khoảnh vườn nhỏ quanh hồ đầy cúc vàng.
Tôi tung tăng trong bài thơ của sách giáo khoa ngày khai trường:
                    “Cứ mỗi độ thu sang.
                    Hoa cúc lại nở vàng.
                    Ngoài vườn hương thơm ngát.
                    Ong bướm bay rộn ràng.
                    Em cắp sách tới trường…”
Không giống những tiểu thư con nhà giàu nhung lụa ở Hà Nội, tìm thấy mình trong vị thế của hồng nhung. Không giống những ni cô nhà chùa tìm thấy mình trong hồn của hoa sen. Tôi không dám yêu hồng cũng chẳng dám yêu sen.
Vì hồng kiêu sa quá, khuê các quá ít ai dám gần. Còn sen thì thanh khiết quá, nhưng mỏng manh quá, sớm nở sớm tàn. Khi những cánh sen rụng bời bời, nhụy sen héo rũ, tôi thấy se lòng.
Tôi chỉ là đứa con gái nhỏ một gia đình công chức cũ hạng trung lưu của Hà Nội, bị cuốn theo những chìm nổi, những thăng trầm, những biến thiên của thời cuộc. Càng trải nghiệm và hiểu cái cay đắng của cuộc đời, tôi càng yêu cúc vàng.
Không phải chỉ vì cúc vàng đã “chọn” tôi, mà chính vì càng ngắm cúc, càng quan sát cúc, tôi càng ngưỡng mộ cúc những phẩm chất “người”.
Cái đẹp của cúc ngời sáng và thánh thiện như gương mặt thiếu nữ, nhưng lại đằm thắm duyên dáng như tâm hồn thiếu phụ. Giản dị đấy mà không kém phần kiêu hãnh. Mềm mại đấy mà không kém phần cứng cáp. Ngay cả khi chết đi rồi, tàn úa rồi, thân cúc khô quắt lại, lá cúc héo rũ, cúc vàng vẫn như cười nụ, nụ cười bí ẩn với thời gian, với nhân gian.
Tình yêu cúc vàng nhân lên gấp bội khi tình cờ tôi được biết cúc còn là loài hoa có ích - có thể là một vị thuốc dân gian – và còn để ướp trà. Tôi yêu thêm hoa cúc bởi những vẻ đẹp hữu ích và hương sắc bền lâu ấy.
Cúc vàng còn hiển hiện trong tâm thức nghề nghiệp của tôi, khi một nhà báo đồng nghiệp, nguyên là nhà giáo, có người cha là một giáo sư, và gia đình chị cũng là gia đình nhà giáo nổi tiếng của Hà Nội xưa, nói: “Em à, hoa cúc cũng là hoa tượng trưng cho nghề dạy học, cho nhà giáo đấy, vì nó có vẻ đẹp rất thanh cao!”.
Tôi theo học một lớp ngoại ngữ, tiếng Anh. Thầy giáo của tôi thuộc một gia đình danh gia vọng tộc. Khi thầy còn sống, Ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11 năm nào cũng vậy, tôi đều mang tới tặng thầy bó hoa cúc tươi rói, vàng rực. Trong nhà thầy, mỗi phòng thiết kế nội thất theo từng phong cách, phương Đông phương Tây. Bó hoa cúc vàng của tôi bao giờ cũng được thầy cắm trang trọng trong phòng khách lớn.
Nhưng tôi không hề biết rằng, tên của thầy lại gắn với quê gốc bên cha tôi
Sắc mầu mùa Thu. 
Thầy mất rồi, thi thoảng tôi bỗng nhớ đến hình ảnh của thầy. Một ông giáo già cao lớn như người phương Tây, có mái tóc bạc hơi lượn sóng nghệ sĩ, thầy thường đeo chiếc kính trắng, khoác chiếc áo măng tô và chống chiếc can. Nhớ đến câu nói của thầy: “Có lúc thầy nhớ tới em và tự hỏi, không biết con bé Dung của thầy có hạnh phúc không?”. 
Rồi thầy cười, nụ cười thật hiền hậu. Tôi đã lớn rồi, có chồng, có con, nhưng trong mắt thầy tôi vẫn chỉ là con bé… 
Tôi đã theo cúc vàng hay cúc vàng theo tôi trên mọi nẻo đường công tác, không biết nữa. Chỉ biết tôi đã sửng sốt, đã sững sờ, dọc con đường lên cao nguyên Lâm Đồng, cơ man nào là những vạt hoa cúc vàng.
Những bông cúc quỳ nổi tiếng từng nhẹ nhàng bước vào những trang văn tinh tế của Trần Thuỳ Mai, rực màu cam, cánh cứng cáp, vươn cao giữa nắng giữa gió, cứ lao xao trò chuyện suốt dọc đường.
Vẳng đâu đây, tiếng hát trầm ấm đầy nội tâm của Cẩm Vân: “Nơi anh gặp em có hoa vàng rực rỡ, có khung trời mộng mơ…”. Và tôi đã không tin nổi trước mắt mình, phía xa, sau sân bay Liên Khương (Đà Lạt), cả một trời hoa, cả một cánh đồng hoa cúc vàng. “ Mùa thu vàng” trên cao nguyên là đây.
Nhưng tôi yêu nhất bông cúc vàng của tình yêu đã ở lại vĩnh viễn trong thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Bông cúc vàng qua bao mất mát, đổ vỡ, qua bao giông bão, để rồi vẫn biết: “Cuối trời mây trắng bay/ Lá vàng thưa thớt quá/ Phải chăng lá về rừng/ Mùa thu đi cùng lá/ Mùa thu ra biển cả/ Theo dòng nước mênh mông/ Mùa thu vàng hoa cúc/ Chỉ còn anh và em/ Chỉ còn anh và em/ Là của mùa thu cũ….”.
Chỉ còn anh và em, là của mùa thu cũ. Và bông cúc vàng. Ở lại
Và, còn có điều này chắc nhiều người không biết. Mùa thu trời rất trong và nắng rất hanh, nhưng lại là mùa khắc nghiệt. Đến làn da con gái còn trở nên khô ráp. Không một loài hoa nào sung mãn với mùa thu. Mùa thu không phải mùa của “Hoa đến thì… hoa nở”.
Chỉ riêng cúc vàng, với sức sống và bản lĩnh sinh học, cứ vươn cao cứ nở rộ, cứ vàng rực cứ sáng ngời giữa đất trời. Như con người giữa cuộc đời vậy.
Ôi, cúc vàng mùa thu!
Kim Dung

Khối Tình Trương Chi - Sĩ Phú ft. Khánh Ly   

Hoa cúc vườn xưa 

Vỹ Dạ có lẽ là nơi trồng nhiều hoa cúc nhất ở Huế. Hoa được trồng trong vườn nhà, ven sông Hương, dọc theo những bãi bồi, trên những cánh đồng rộng màu mỡ phù sa. Kể từ mùa thu, hoa cúc tiểu muội đã nở rất sớm. Cánh hoa hơi gầy, nhưng giữa một bầy lá xanh xao vẫn ửng vàng những nụ hoa nhỏ như những dấu chấm mà người nghệ sĩ tạo hóa đã vô tình để rơi nhòe trên mặt toan trắng.
Tiết trùng cửu, mùng chín tháng chín, hoa cúc Vỹ Dạ đã nở những nụ duyên đầu tiên. Màu hoa vàng phai tơi tả trong gió lạnh. Hương nhu mì lan tỏa khắp vườn. Trong hương cúc như có mùi cỏ dại, mùi mồ hôi sau chân tóc con gái đằm thắm quê mùa. Chút hương ấy tàn phai trong mê muội khiến chân muốn đi mà lòng không sao bước nổi khỏi vườn xưa.
Hoa cúc tiểu muội e ấp bao nhiêu thì cúc đại đóa rực rỡ bấy nhiêu. Hoa vàng rực không một chút che giấu, cứ thế nở to như bàn tay phô phang một cách đành hanh nhan sắc giữa đời. Mùa xuân nhìn đến hút tầm mắt cũng chỉ thấy một màu hoa cúc vàng mười ròng ròng những giọt nắng. Ngắm hoa cúc nở mà lòng cứ mê đi như vừa lạc vào chốn xưa Đào nguyên. Tôi ngây ngất trước màu hoa phò mã, trước sự thanh khiết không thể nói lên lời. Lời hoa cúc là nhan sắc hoa, hay chính là hương hoa cười đoan trang như một tình yêu đơn phương cho khắp thế gian này.

Kỳ ảo nhất có lẽ là ngắm hoa cúc vàng trong những đêm trăng. Dưới ánh trăng thôn Vỹ xanh mướt lòng, màu hoa vàng mộng mị. Bóng tối viền quanh dáng hoa, hắt lên sắc vàng một màu tím u nhã. Cánh hoa chợt như có tâm hồn khẽ lay động suốt đêm thâu. Người ngồi quanh hoa như bè bạn, tìm đến hoa trong mối tương cảm của một đời sống tâm linh sâu thẳm...

Trong câu chuyện quanh chiếu rượu, chúng tôi nói về một Vỹ Dạ xưa. Nơi đây ngày ấy chỉ toàn vilô, lau lách đứng san sát bờ bãi. Người muốn đi phải luồn sâu trong những lối đi nhỏ. Và ông hoàng Tuy Lý Vương với tâm hồn của một nghệ sĩ bẩm sinh, đã ký thác bao tâm khảm vào ánh trăng xanh vời vợi thôn Vỹ. Những đóa hoa cúc này phải chăng là hậu duệ của làng hoa cúc xưa. Là người yêu hoa cúc, tôi muốn "giải oan" rằng thôn Vỹ không chỉ đẹp bởi bóng cau xưa trong thơ Hàn, bây chừ vắng cau, thôn Vỹ đẹp là nhờ ở hoa cúc, ở sắc vàng truyền thống không một gợn màu lai.

Cũng hiếm có loài hoa nào nở bền bỉ như hoa cúc. Hoa nở mãi từ mùa thu cho đến cuối mùa xuân. Và suốt ba mùa ấy, hoa cũng chỉ giữ một màu vàng, sắc hoa như diện mạo người quân tử, không ngả lòng trước bao biến cố. Và màu vàng ấy là tấm lòng hoa gắng gượng, chắt chiu bao nhiêu nắng, gió và sương mù để sinh thành riêng một màu hoa.

Nhớ ngày nọ cũng vào mùa xuân, cùng bạn bè xuôi đò từ Đập Đá về Vỹ Dạ. Giữa bảng lảng trời mây, đò đi bồng bềnh như một đóa hoa súng lạc. Đò đi qua bến Cô Thừa giai nhân và kỳ lạ chưa, lọt thỏm giữa ngàn tre dại, bên triền sông chợt thấp thoáng cả một vườn hoa cúc vàng. Màu hoa rưng rưng như chiếc khăn tay của ai đó vẫy hoài bên bến sông. Thấp thoáng sau ngàn hoa, mênh mông một mái tóc thề con gái. Gió từ lòng sông rộng thổi lên rười rượi mặt hoa. Ôi xao xuyến màu tóc xanh giữa một trời hoa cúc vàng mơ. Như một ảo ảnh, những đóa hoa cúc bên triền sông Hương chợt gần chợt xa cứ đè lên ngọn gió mà đi như một giấc chiêm bao. Và cho đến khi bừng tỉnh, màu hoa vẫn còn trước mặt như một hiện hữu của ký ức. Tôi mệnh màu hoa cúc vàng ấy là màu hoa của tương tư. Nó là tiếng hát của Trương Chi, mà cung mi thứ đã nghẹn lại trong sắc vàng tức tưởi nhớ thương. Cái chén đã vỡ tan nghìn mảnh mà sao còn ở lại một sắc vàng như trôi trên bến xưa ?

Mãn mùa hoa cúc, người Vỹ Dạ chọn những đóa hoa cúc can trường nhất để ngâm rượu. Đúng mười hai lần trăng Vọng, rượu cúc khi cất ra sắc vàng sóng sánh như hoa lúc còn đương nụ. Chiết rượu cúc ra chiếc cốc nhỏ, còn nghe hương hoa ngan ngát thơm, bao nhiêu mộng mị lại tràn về. Uống rượu hoa cúc năm ngoái, ngắm hoa cúc đương thì, gối đầu lên tay lòng bảng lảng mà e ngại cho mối tình của Thôi Hộ riêng chỉ dành cho hoa đào ngày xưa.

Mùa xuân này tôi về lại vườn xưa, lòng ba bận bâng khuâng đi tìm hoa cúc. Nắng buổi sáng minh mang giăng kín những lối đi rất nhiều sương mù. Ngơ ngác bên triền sông một tiếng chim kêu cô lẻ. Rừng rực trong cơn mê, mắt chợt chộ một trời hoa cúc. Ơ ai như em ngày xưa vận áo vàng cho tôi một đời thương nhớ sắc hoa...

Tình tang hát lời chim sáo
Mười năm bỏ phố lên rừng

Ngỡ tháng ngày dần khuất lấp

Về ngang vườn cũ rưng rưng

Rưng rưng lần theo nỗi nhớ
Cúc vàng vẫn màu vàng xưa.
Có ba loài hoa giữ vị trí quan trọng trong thơ Xuân Quỳnh : hoa tường vi gắn với một thời trẻ dại, hoa cỏ may đã trở thành tên của một tập thơ, và hoa cúc cứ đi về trong những bài thơ của chị.
Sự tích về bông hoa nhiều cánh, mùa thu, hay là một tình yêu không thể cắt nghĩa đã gắn hoa cúc với Xuân Quỳnh. Thế rồi đến lượt sự đa cảm, tảo tần, nhân hậu lại gắn Xuân Quỳnh với hoa cúc.

Trong thơ Lưu Quang Vũ, hoa cúc chính là hình ảnh của Xuân Quỳnh :

Cảm ơn em, em từ miền cát gió
Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng
(Và anh tồn tại )

Còn trong thơ Xuân Quỳnh, hoa cúc là hình ảnh của tình yêu

Tôi trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc
Đợi tiếng gà đánh thức sự bình yên
........
Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở
Đến tận cùng cay đắng, đến tình yêu
(Thơ tình cho bạn trẻ)

Đó là tình yêu với mặt hồ rộng, với kẽ là gió đùa, với lời tự tình trên ghế đá và ánh mắt nhìn như chấp cả vô biên. Tình yêu và hoa cúc đã đặt người yêu ngai vàng của sự tôn thờ tuyệt đối, đến mức mà :

Anh đã nghĩ chắc là hoa đã có
Mọc xanh đầy thung lũng của ta xưa
(Hoa cúc xanh)

Chỉ cần anh nghĩ thôi, là hoa sẽ tồn tại. Chỉ cần anh tin, là hoa sẽ có thật. Vậy hoa là gì trong giấc ngủ anh?
Anh mơ anh có thấy em
Thấy bông cúc nhỏ nơi triền đất quê
(Hát ru)

Tôi rất thích bài thơ này của Xuân Quỳnh, thích đến từng hình ảnh trong bài thơ : Một con tàu neo bến, trời đêm nghiêng xuống mái nhà, biển xanh mơ về đất liền, con sông về với rừng, đám mây về với cơn mưa, và con đường đi tới miền chưa có đường...
Nhưng Baby ơi, có những con đường không thể bước trọn, cũng như những tình yêu không đi được đến cùng. “Người đã ra đi khi mùa chưa hoa cúc, và ta mơ hoang một sắc nắng vàng” Ta còn thương lắm cánh hoa xưa, nhất là khi trời vào mùa sương, mùa gió, khi mà :

Kìa bao người yêu mới
Đi qua vùng heo may
(Thơ tình cuối mùa thu)

  Hà Nội mùa heo may. Gió se se những sợi vô tình. Mây nhuốm màu phiêu lãng. Và hoa sữa cứ nồng nàn trên lối ta đi. Bước đi em, đừng quay đầu nhìn lại. Nhưng nếu có lúc nào, vô thức đưa em trở về ngày xưa, thì em hãy hiểu rằng  
Quá khứ đáng yêu, quá khứ đáng tôn thờ
Nhưng đâu phải điều em luyến tiếc
(Có một thời như thế)

“Tình yêu là cánh đồng hoa giữa trời”. Xuân Quỳnh đã viết thế, và em tin như thế. Hoa cúc xanh trong thung lũng tuổi thơ, hoa cúc tím trong bài hát cũ, và hoa cúc vàng trong giấc mơ em ngày nào. Em đã đọc, và em đã hiểu :

Những mùa sen, mùa phượng đã qua
Trên khắp nẻo lại bắt đầu mùa cúc
Rồi hoa đào lại tươi hồng nô nức
Như chưa hề biết đến những tàn phai
(Lại bắt đầu)

Đi qua vùng heo may, đi qua những tàn phai, vẫn có một vườn hoa ở phía lối em đi, và có một bàn tay đợi em phía cuối con đường...

Daisy - Hoa cúc dại 
Cúc dại là loài hoa nhỏ thường mọc hoang, có những cánh trắng ngần, từ giữa tỏa ra như hình nan hoa quanh một nhụy vàng tươi. Trẻ em thường thích hái hoa cúc dại để kết thành bó hay xâu thành chuỗi. Ở Anh, cúc dại còn được gọi là Baby's pet hay Bairnwort có nghĩa là hoa của trẻ em
Tên tiếng Anh - Daisy - của loài hoa này bắt nguồn từ một từ Saxon, day's eye, có nghĩa là "con mắt ban ngày", có lẽ vì hoa nở cùng với ánh sáng ban mai rồi khép lại những cánh trắng khi chiều xuống.
Theo thần thoại La Mã, bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là Ephigeus, cô đã lọt vào mắt xanh của Vertumrus, vị thần cai quản các vườn cây. Để bảo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, Flora, nữ chúa các loài hoa, đã biến cô thành một đóa hoa cúc trắng.
Còn theo truyền thuyết của người Ailen cổ, hoa cúc trắng chính là linh hồn những hài nhi đã chết khi vừa mới sinh ra. Chúa rải hoa cúc khắp núi đồi và thảo nguyên, khắp trần gian để làm vơi đi nỗi buồn của những người cha mẹ ấy. Truyền thuyết giải thích tại sao daisy mang ý nghĩa sự trong trắng - ngây thơ.
Người xưa còn dâng tặng hoa cúc cho Artemis (The goddess of women).
Người ta tìm thấy rất nhiều hình những bông cúc trên gốm sư Ai Cập cũng như ở những nơi khác suốt vùng Trung Đông. Người Assyria dùng hoa cúc để chữa một số bệnh về mắt. Họ cũng tin rằng, nếu bạn nghiền hoa cúc và trộn chúng với dầu rồi quét lên tóc sẽ làm cho tóc muối tiêu đen trở lại
"Marguerite"-tên tiếng Pháp của hoa cúc, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là hạt ngọc trai "pearl". Người ta nói rằng, St. Louis đã khắc hình hoa cúc cùng với hoa diên vĩ (fleur-de-lis) và thánh giá trên chiếc nhẫn của ông. Chiếc nhẫn này, theo lời nhà vua, tượng trưng cho tất cả những gì ông yêu quý nhất : tôn giáo, nước Pháp, và vợ ông - Marguerite.
Có một câu nói xưa của người Anh bảo rằng mùa xuân vẫn chưa đến cho tới khi bạn có thể đặt bàn chân mình trên 12 bông cúc. Họ cũng cho là, nếu bạn mơ thấy hoa cúc vào mùa xuân hay mùa hè thì tốt, nhưng nếu vào mùa thu hay mùa đông thì lại là điềm chẳng lành.

He loves me, he loves me not, he loves me...
Nếu một cô gái nhỏ nhắm mắt lại và hái một chùm cúc dại rồi đếm thì số hoa trong chùm hoa đó sẽ là số năm còn lại trước khi cô lấy chồng. Các thiếu nữ cũng thường bói tình yêu bằng cách lần lượt bứt từng cánh của một bông cúc dại đồng thời lập đi lập lại điệp khúc :
"Chàng yêu ta, chàng không yêu ta, chàng yêu ta..."

Nếu có thể trở thành một bông hoa
Xin được hóa thân thành hoa cúc trắng
Khép nhẹ khi hoàng hôn tĩnh lặng
Và nhờ dương đánh thức lúc ban mai
Ta đón chào tia nắng sớm khoan thai
Và đón cả những long lanh nước mắt
(I'd choose to be a Daisy - Khuyết danh)

[Sưu tầm]