Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2012

NTV 38 - Người bán đào rong


Anh chờ mãi như tình chưa phai nhạt
Mặc gió Đông làm rũ cánh đào phai !!....
Cố tìm em dù lam lũ biết bao ngày !?
Mong hội ngộ, cả đời anh mơ ước !

Em ở đâu anh vẫn chưa tìm thấy ?
Chỉ bên anh dáng đẹp của đào phai....
Chỉ bên anh con gái nhỏ thiên thần,
Và vốn quý cành đào phai năm cũ !!

Tháng năm qua đi, quản chi khó nhọc,
Đào vẫn bày trong chậu quý , gió đông.....
Anh vẫn chưa gặp lại được bóng hồng,
Người vợ trẻ suốt đời anh yêu quý !!

Anh nào biết bóng dáng xưa kề cận,
Dõi theo anh và con trẻ thơ ngây....
Ẩn bên trong từng cánh, nụ đào phai,
Chấp chới hiện bên xe người yêu cũ !!!....

Một mảnh tình , hai linh hồn ấp ủ,
Mặc gió đông làm rụng cánh đào phai.....
Quyết tìm em dù vất vã bao ngày,
Luôn thương nhớ cánh đào phai năm ấy !!
NM
Người bán đào rong
     Thạnh còng lưng cố giấu không để con gái nhìn thấy anh đang phải thóp bụng, ráng hơi ráng sức đẩy chiếc xe cà tàng cà khổ một cách khó nhọc. Sáng nay, mua được một vắt xôi đỗ xanh nóng, anh đã nhường cả cho con gái. Còn anh tới giờ vẫn chưa có gì lót dạ. Vừa mới tờ mờ đã dậy, hí húi với đám dây chằng buộc quanh cây đào có gộc to bự bằng bắp chân người lớn, chiều cao chưa quá mét hai, lại phải hết mực nâng niu vì mỗi cành, mỗi nhánh đều nặng trĩu lộc, chỉ chờ đúng ngày Tết là hé nở.
    Cây đào ấy, Thạnh trồng trong một chiếc chậu sứ Cảnh Đức, đồ cổ quý trăm phần trăm. Thạnh bứng cả gốc cả rễ đào, trồng vào đó, mặc kệ thứ đất châu thổ sông Hồng đặc quánh bện vào nước men sứ đặc biệt, lại được sự trau chuốt của thời gian, càng trở nên lóng lánh. Hì hụi ém cây đào vào chậu đã khổ, đến lúc ra Tết, anh lại phải cẩn thận xắn quanh gốc, bứng trở ra trồng trên khoảnh đất đã đào xới sẵn, rồi kỳ cạch cọ rửa cái chậu quý, đặt trên một đôn gỗ để ở góc nhà.
    Chậu sứ quý lại đặt trên đôn gỗ được làm từ một gốc cây anh tự đẽo gọt, nên trông có vẻ cọc cạch. Cọc cạch như cuộc đời anh. Như cái cảnh anh gò lưng, hóp bụng đẩy xe nhưng cố giữ vẻ mặt tươi cười vui vẻ để con gái anh không để ý. Và cọc cạch đến đáng thương lẫn hài hước là cảnh một gã đàn ông áo quần tã như cái xơ mướp, xứng với cái xe cà khổ đã quá kỳ sử dụng mấy mươi năm, trên đó, đèo theo cây đào quý, có lẽ là gốc đào đẹp nhất nhì ở phố Hàng Lược chuyên bán đào Tết. Và nó lại được trồng trong một cái chậu giá trị nhất so với mọi loại chậu mà người ta vẫn dành để trồng đào bán trên chợ hoa.
    Hơn thế nữa, đi cùng với gã, nhon nhón tay đẩy hờ đằng sau cái xe đạp chằng buộc chở gốc đào, là đứa bé mười hai tuổi, mặt mũi thanh tú sáng trưng, da trắng ngần, môi đỏ như son, tóc đen nhánh, xúng xính trong bộ áo quần lụa vàng rực, trông như một bông mai chín lạ lẫm giữa rừng đào phơ phất, như một thiên thần hạ cố đi cùng kẻ bần cùng mà người ta chỉ thường thấy trong những bức tranh cổ, những câu chuyện cổ.    
    Đứa bé ấy đích thị là con gái anh. Đã năm năm nay, từ dạo nó lên bảy, nói chuyện líu lo như chim khách, biết nhảy chân sáo, biết mặc áo quần đẹp và luýnh quýnh theo bố ra chợ, thì anh bắt đầu tham gia phiên chợ giáp Tết trở lại. Những cây đào của anh, thứ đào quý được trồng và chăm sóc đặc biệt bằng bí quyết gia truyền mới xuất hiện trở lại nơi phố chợ. Nhưng so với thời hoàng kim, khi đào của gia đình anh mỗi lần có mặt chỉ dăm bảy mươi phút đã bán hết veo, đã có sự thay đổi rất nhiều.  
    Mặc dù cây đào anh mang ra trưng bày ở chợ vẫn là đào quý ấy, được trồng bằng bí quyết gia truyền ấy, thậm chí còn quý hơn, thu hút người mua, người đi vãn chợ hoa nhiều hơn, thì mỗi năm, anh chỉ mang đến chợ duy nhất một gốc.
    Đã năm năm qua. Năm gốc đào quý, được trồng trong cái chậu quý duy nhất, dưỡn dẹo trên chiếc xe đạp cà khổ, lần khân đứng ở cuối phố chợ Hàng Lược, tuy nép vào một góc cho đỡ chật và không bị đám trật tự huýt còi đuổi đi, nhưng vẫn nổi bật lên vẻ rực rỡ, vì thế của cây đào tuyệt đẹp, và cả vì đứa con gái như thiên tiên, khiến nhiều người phải trầm trồ đứng lại. Người sành hoa thì thưởng hoa, kẻ thích người thì ngắm cô bé.     
    Thi thoảng, vào những giờ chợ vãn, và sau khi cánh trật tự đã quá quen với kẻ như trêu ngươi này, khiến họ huýt còi đến phát chán, đến không buồn quát mắng, phạt tiền nữa, thì anh lại còng lưng đẩy cái xe ọp ẹp chở đào ấy, diễu một vòng từ đầu đến cuối chợ, luồn lách qua các hàng đào xếp san sát nhau chờ khách, như thách thức. Nhưng chẳng còn ma nào thèm khó chịu vì sự thách thức của anh, hay của cây đào trơ gan năm nào cũng nổi bật vì trổ lộc đúng độ, với thế cây như rồng uốn phượng chầu, với cái chậu quý khiến ai cũng thèm thuồng sở hữu. Những người bán hoa chợ Tết đều biết anh chỉ dưỡn dẹo lượn qua lượn về vậy thôi. Bởi sau đó, anh lại nép mình vào một góc cuối phố Hàng Lược, đứng thẫn thờ mãi đến quá mười hai giờ đêm, khi chợ đã vãn, mới lại quay về. 
    Ai hỏi giá để mua cây đào, anh cũng lắc đầu không bán. Làm gì có người mua nổi cây đào quý của anh. Chỉ riêng cái chậu Cảnh Đức cổ vật trăm phần trăm, số tiền bỏ ra đã trị giá bằng một căn nhà. Mua riêng đào, riêng chậu, thì anh lại không đồng ý. Anh không nói giá cả bao nhiêu, thì đích thị anh mang đào ra đây chỉ để thi hoa. Tự thi với mình, với hình ảnh gốc đào của chính mình hồi năm ngoái vẫn còn lưu lại trong trí nhớ mọi người. Và để tự khoe thành tích trồng đào quý của mình, làm khổ đứa con gái giữa phố chợ tấp nập ngày Tết, mà thực ra, chính nó lại lấy làm thích thú, chứ chẳng hề khổ sở tí nào.
    Dân trồng đào Nhật Tân, Ngọc Hà, các làng trồng hoa lâu năm ngoại thành Hà Nội (giờ đã thuộc nội thành) thì đã quá quen anh. Những làng hoa mới phát triển phía Tây thành phố cũng chẳng ai lạ gì anh. Họ gọi anh là "đào dở", để ám chỉ anh - dân trồng đào, dở người, dở ngợm...   
    Thạnh là con nhà trồng đào nổi tiếng đất Nhật Tân đã mấy mươi đời. Mấy mươi đời tông tộc nhà anh ở đất này, chính anh cũng không sao nhớ được, nhưng quả từ khi mở mắt nhìn thấy ánh sáng cuộc đời, thứ đầu tiên đập vào mắt Thạnh là những gốc đào trụi trơ sau ngày Tết. Và anh đã sống với nó, lớn lên cùng nó, đã cùng tưới chăm mưa nắng, phân gio, bón cả mồ hôi nước mắt cho nó, để rồi sau mỗi năm cắt cành, lại hồi hộp chờ mọc lên những nhánh mới, để vít vít uốn uốn, trẩy lá, hãm lộc, sao cho hoa nở đúng mùa đúng vụ...   
    Anh đã chia sẻ khí trời cùng những gốc đào cho đến tận khi đất Nhật Tân mỗi ngày mỗi hẹp, sau đó nữa, thì người Nhật Tân phải mò ra bờ đê, thuê đất bãi để tiếp tục trồng hoa, nhường đất dòng tộc mình cho những biệt thự, chung cư mọc lên san sát... Gia đình anh cũng phải thuê đất bãi để tiếp tục theo nghề. Ấy là lúc bố mẹ anh đã mất, chẳng để lại gì cho anh ngoài cái nghề trồng đào và mười mấy mét đất đủ cắm sào cho ngôi nhà cỏn con tơi tả.  
    Năm gia đình phải lần mò ra bãi sông kiếm sống, Thạnh đã ba mươi hai tuổi. Ở tuổi ấy, tuy không có nhiều đất cát để bán đi kiếm tiền xây cái biệt thự dăm ba tầng kính với dăm ba chóp nhọn như những hàng xóm khác, Thạnh cũng không lấy làm buồn. Thuở xưa, dưới thời Lê Trịnh, khi Thăng Long vẫn là kinh đô phồn hoa, ông tổ gia đình anh đã làm quan nghe đâu chỉ sau thượng sư. Rồi thế sự nhiễu loạn, cụ tổ anh từ quan về ở ẩn. Gia đình sống bằng của nả mấy mươi đời để lại, chọn trồng đào như một thú chơi, một thú vui vừa bộc lộ nhân cách khẳng khái, vừa thể hiện tình người.
    Ban đầu, đất đai điền sản của gia tộc mênh mông rộng lớn, về sau, cụ tổ cứ xén bớt, phân phát cho mọi người thân quen, kẻ hầu người hạ, đến đời bố mẹ anh chỉ còn lại một khoảnh cỏn con, đủ để mỗi năm, trồng được vài ba gốc đào thế, đào phai. Trồng đào, ngắm hoa, và nhâm nhi thưởng ngoạn tình hoa, tình người với những cổ vật tổ tiên để lại, ấy là những gì tinh túy nhất của gia tộc mà anh được thừa hưởng.  
    Không có xuất xứ như người nông dân chuyên canh trồng hoa, nên dù vẫn dồn hết tâm sức chăm hoa, nhưng để duy trì được nguồn sống, những cổ vật của gia đình đã theo thời gian đội nón ra đi. Ra đi với giá rẻ mạt, và phải bán vụng, bán trộm, bởi có cổ vật trong nhà thì bị quy là đại tư sản, tiểu tư sản. Họ đã bán gia sản truyền đời như là bán của ăn trộm. Đến khi có người lần mò tới nhà ngã giá cái chậu sứ Cảnh Đức với giá có thể mua được một ngôi nhà ở ngay đất Nhật Tân lúc đó chưa rơi vào cơn sốt đất, thì anh - cậu con trai thừa tự của gia tộc giàu sang một thuở ấy mới tá hỏa lên, tiếc ngẩn tiếc ngơ những món đồ quý bố mẹ đã bán đi đổi lấy cơm gạo ngày thường. Anh quyết không bán món đồ cổ cuối cùng còn lại, mà xem đó là thứ duy nhất của hương hỏa ông bà phải gìn giữ.
    Anh được sự đồng tình hết mình của Hoàng Lan:
    - Anh làm thế là đúng. Nếu anh bán nó đi, vợ chồng mình rồi vẫn tay không của ăn núi lở. Hơn nữa, cái chậu sứ này càng để lâu càng quý...
    Hoàng Lan, người đẹp như tên, là con gái hoàng tộc triều Nguyễn. Nàng luôn có vẻ mặt u sầu và cách nói gợi nhớ lại một không khí quá vãng xa xưa, luôn nghĩ mình giống cái chậu sứ Cảnh Đức, lưu lạc từ cố đô Huế ra đất Bắc, có thể trở thành một món đồ trao tay qua bao người mua, kẻ bán, nếu chủ sở hữu không có lòng trân trọng.
    Ý nghĩ ấy ám ảnh nàng mỗi ngày mỗi giờ, không phải không có nguyên do.
    Đó là vào một ngày trời mưa. Mưa Huế tầm tã chẳng bút nào kể xiết. Cả nhà nàng, trong cơn mưa Huế không bao giờ dứt ấy, đã phải tan đàn xẻ nghé mỗi người một phương. Tất cả chỉ vì những cổ vật quý ông bà để lại. Trong một đêm, gia đình nàng bị kẻ trộm đào ngạch vào nhà, vơ vét từ những thứ to tát trên bàn thờ, trong kho sách, đến những thứ nhỏ nhặt như cái đê khâu, cuộn chỉ nàng vẫn thêu thùa. Những bộ sách không mang đi được, còn trên nền đất thì bị xé tả tơi. Nàng, bố mẹ và hai cô hầu gái ở với nàng từ tấm bé, mà nàng vẫn coi như chị em ruột, nhìn nhau, nước mắt ngắn dài. Nàng biết, mọi tai họa ấy đều là do người đàn ông mà tháng trước, nhân chuyến qua bến Ngự, thấy anh ta đang lê lết ăn xin giữa chợ, nàng thương tình mang về chăm sóc và cho đảm nhiệm việc trồng hoa trong phủ. Sau mấy ngày anh ta xin phép về quê, tai họa đã ập đến.
    Đã là tai họa do nàng gây ra, tất nàng phải gánh lấy trách nhiệm. Thế là, cũng trong một ngày mưa tím bầm trời đất, nàng khăn gói trốn nhà đi tìm người trồng hoa - người đàn ông tệ hại, người lạ đầu tiên hiện diện trong phủ nhà nàng.
    Tìm khắp chốn cùng trời chẳng thấy, Hoàng Lan suýt nữa đã trở thành kẻ đoản mệnh, ngất xỉu vì đói, khát, lạnh, ngay trên mảnh đất còm cõi trồng đào của nhà Thạnh, sau một thời gian dài lưu lạc. Và thế là hai người nên duyên.
    Cái mảnh đất se duyên cho người, nhưng không may mắn về đường làm ăn nên hai vợ chồng cày cục chăm chỉ lắm cũng chỉ đủ ngày hai bữa. Bàn tay nuột nà chỉ biết thêu thùa và làm thơ, vẽ tranh của Hoàng Lan đã chai sạn. Mặt nàng đã nhuốm mùi gió sương. Con gái đầu lòng đã gần một tuổi mà đến cái chái nhà dột ướt cả hai vợ chồng vẫn không sao dựng nổi. Cộng thêm nỗi nhớ thương bố mẹ và hai cô hầu gái không biết đang sinh sống ra sao, Hoàng Lan lúc nào cũng day dứt không yên.
    Đã mấy lần Thạnh định bán đi cái chậu sứ quý, để có tiền cho Hoàng Lan về quê, quà cáp cho gia đình, nhưng cô không đồng ý. Sau lễ đầy năm con gái, Hoàng Lan một mình tay trắng ra đi.
    Một tháng, hai tháng, cái hẹn Hoàng Lan để lại đã qua. Thật lâu, rồi Thạnh biết nàng không trở lại nữa. Vậy mà anh vẫn ngóng chờ. Như chờ một áng mây xuân tụ hội lâu dài. Như chờ một cánh đào nhạt không bao giờ rụng phai trước gió. Như chờ những gì anh đã không thể nào thực có hay nắm bắt được, ngoại trừ đứa con gái xinh như thiên thần không bao giờ khóc, đã bắt đầu biết lê la chơi đùa cùng đất cát, gio phân.
    Vậy mới có chuyện Thạnh trở lại những phiên chợ hoa cuối năm ở phố Hàng Lược, mỗi năm với một gốc đào quý, chỉ xuất hiện dễu dện mà không bao giờ bán. Bởi vì nơi đây, năm xưa, hai vợ chồng anh đã từng có những phiên chợ được mùa, và cả những canh chợ bị dồn đuổi vì không đủ tiền nộp thuế. Cũng đã có năm Hoàng Lan bụng chửa vượt mặt, nhịn đói suốt buổi chợ dài chờ khách hỏi mua đào phai, vẫn nhất định không chịu bán cái chậu sứ quý Cảnh Đức với bất kỳ giá nào. Và Thạnh, đã có lúc nghĩ vơ vẩn vì quá túng quẫn, xem cái chậu sứ như đồ ma ám, chỉ muốn đập tan, vứt ra bãi. Quý hay không, chung quy cũng chỉ là một cái chậu sứ. Một cái chậu sứ vô hồn chỉ khiến người ta thèm muốn lời ra tiếng vào mà không mang lại cái ăn cái mặc cho vợ con, thì để làm gì.
    Thạnh không sao hiểu được tâm tư của Hoàng Lan, những ám ảnh thời vàng son xa xưa thì có liên quan gì đến vật quý của tổ tiên gia đình anh mà nàng ra công gìn giữ, nhất là giữa lúc cái ăn cái mặc còn chưa đủ. Nhưng vì tôn trọng vợ, anh đã giữ nó lại. Rồi anh không còn ý định bán nó nữa, kể từ lúc vắng bóng Hoàng Lan.
    Bây giờ không còn nhiều người biết trọng giá trị của cổ vật quý như ngày trước. Hầu hết khách hàng dừng lại tấm tắc hỏi mua gốc đào phai, thế đẹp của Thạnh đều đánh giá gốc đào rất cao, nhưng không mấy ai chú ý đến cái chậu Cảnh Đức. Một vài người biết, cũng không tin đó là của thật. Chẳng ai điên đi trồng đào trong một món đồ cổ có giá trị ngang một gia tài. Thạnh chỉ cười, lặng lẽ hết ngắm cây đào, chậu sứ quý, đến đứa con gái nhỏ xúng xính trong bộ áo quần lụa là rực rỡ.
    Có bao nhiêu gia tài, anh đã mang ra hết để trưng bày dọc phố, để thu hút mọi ánh nhìn.
    Hoàng Lan ơi, em ở đâu mà anh không thấy?
    Khi mọi ánh đèn nhấp nháy trên những hàng đào phố chợ đã tắt, chỉ còn lạnh lẽo ánh sáng trắng của đèn đường cao áp giữa một rừng đào im lìm ngủ chờ đến buổi chợ mai, Thạnh thất thểu đẩy xe quay về. Trên xe vẫn còn nguyên gốc đào thế uy nghi ngự trị giữa cái chậu sứ quý. Nhon nhón đẩy đằng sau xe là đứa con gái, vẫn tươi như hoa sau một ngày phơi mặt ở phố, mỗi bước đi của nó rập rờn như một cánh mai đậu xuống. Thạnh không còn nghĩ đến buổi chợ ngày mai, anh đang phải tính toán để tìm một món ăn vừa với khoản tiền nhỏ trong túi, chỉ mong ấm lòng con gái.
    Cả hai bố con đều không biết, dõi theo cái xe cót két và tiếng guốc gỗ hồn nhiên loẹt quẹt trên đường phố buổi tối cuối năm ấy, có bóng một người đàn bà vấn tóc, mặt buồn phảng phất.
    Người đàn bà ấy đứng ở đằng xa tít, nhưng toàn thể hình bóng của chị cứ lung linh chuyển động theo tiếng xe cót két của hai bố con đang dần dần rời phố, lung linh điệp mãi vào ánh sứ trắng muốt Cảnh Đức.
    Có lúc, cái bóng ấy hiện lên chấp chới, lặn tắt giữa những khoảng hoa văn trên chậu sứ, có lúc, màu hồng đào từ bộ áo quần chị mặc lại nghiêng đổ chìm cả vào bóng của cây đào thế đang ấp ủ những nụ hồng phai, sống động như một bông hoa đào khổng lồ được vẽ nên bởi bóng tối và khoảng sáng. Lung linh, chấp chới và lặn tắt, rồi lại lung linh từng phút, từng phút một...
    Nhưng Thạnh và con gái đã không hề ngoảnh lại. Đường về Nhật Tân thì vẫn còn xa...

Lê Mỹ Ý 
 

 





Album Quê Hương (Cẩm Ly - Quốc Đại)



NHÀ DƯỚI GIÓ
Từ ngày về sống với cái xóm nhà lá, đầy ắp tiếng chim hót, tiếng chó sủa và cả tiếng lá vàng xào xạc rơi.. Tôi cảm thấy dễ chịu vô cùng. Vốn là một nhà giáo lại được sinh ra trong gia đình Nho phong tại cái xứ miền Trung đầy những nghi thức, tục lệ và cả những nét văn hóa tiến bộ… Tôi tự cho mình là người phải giữ bản sắc ấy để giúp cho con cháu mình hiểu và sống cho có ý nghĩa, cái cốt lõi là làm người. Tôi nghỉ dạy khi cơ chế thay đổi và có những bất đồng giữa những người lãnh đạo với nhau. Tôi cảm thấy bực bội khi phải đối mặt với những người mất hẳn tình nghĩa. Cũng có thể do lòng tôi chưa cảm hóa được họ, nên tự rút lui như an phận, để tự tu thân cho mình. Phải chăng tuổi tác, đã làm tôi thay đổi và không còn thích nghi với lối sống bon chen, đầy vị kỹ, kể cả những điều thực dụng… Không cần phải tranh chấp, cố vị và cũng không cảm thấy yếu hèn khi tự mình xin nghỉ. Mà tự nhủ lòng – Con người vốn hơn con vật khác là cái tâm chân chính, chứ mọi sinh vật sinh ra trên trái đất này đều thích sống, sợ chết , cũng đều có những bản năng riêng và sự sống còn như nhau …
Trong không khí thanh bình của một vùng quê. Tôi tự tạo cho mình một khu vườn hợp với tâm hồn … như cây cảnh, non bộ, chim lồng, cá chậu… Cũng hàng rào bằng cây chè tàu, cắt tỉa thẳng tắp và đặc biệt là cây rơm ấp ủ bên hè. Tôi cũng không biết phải xử dụng nó làm gì! Hay cái nếp sống của cha mẹ, đã ghi vào tiềm thức mà thành thói quen chăng ? Chỉ thỉnh thoảng những buổi chiều mát, tôi tư lự ngồi nhìn đàn gà lấy mỏ và chân bới, tìm kiếm thóc và côn trùng trong cái đống rơm ấy mà ăn… Lòng tôi cảm thấy rạt rào tình quê hương… Tôi cũng cảm thấy vui vui khi người hàng xóm sang xin một ôm để lót ổ gà, người khác một bó khi trời lạnh lót ổ cho heo nằm… Riêng tôi thích khi mùa mưa rét, đàn gà con chui rúc vào đó vừa tránh mưa gió vừa kiếm ăn… Tiếng kêu chiêm chiếp thật ấm tai. Đụn rơm là mái ấm cho những con vật nhỏ bé đó. Nhiều người trách tôi sao lại xây cây rơm làm gì, khi trong nhà xài bếp ga, bếp điện … Tôi cười vui vẻ - Thì phòng khi điện, ga không có … Rơm cũng nấu được cơm, canh! Mà nó có đòi ăn đòi bú gì cho cam! – Cây rơm đứng sững giữa mùa mưa, nắng như chiếc nấm, lâu lâu bốc hơi vào buổi sáng, nếu chiều hôm trước mưa. Nó chỉ ban phát chứ có lấy lại của ai thứ gì bao giờ?! Ý tưởng ấy nhiều người cho tôi là kỳ quặc. Nhưng tôi chẳng cần tranh luận làm gì, việc mình thích thì mình làm, có mắc mớ đến ai đâu ?
Vợ tôi vốn người cùng quê, cũng chắt chiu dành dụm từng đồng bạc, hạt thóc… Để lo cho mấy đứa con ăn học… Tấm lòng chất phác, thương chồng, yêu con. Dù cha mẹ làm nông, nhưng vợ tôi chẳng biết một tí gì về đồng áng. Thất thời, lỡ vận… Chỉ bền bĩ theo chồng. Ngày hai buổi cơm nước, giặt giủ và chăm sóc cho chồng con … Khi vừa đến cái xóm này, mọi người cứ thắc mắc – Sao chị không đi đâu cả? Chỉ lẳng lặng xong công việc, vào xem Tivi, rồi đi ngủ… Sáng hôm sau, lại bắt đầu công việc như mọi ngày nên chẳng làm mất lòng ai. Nàng không góp ý kiến cho chồng con, vì nàng thất học nên mang mặc cảm thua thiệt. Dại khôn cũng chẳng cần. Cứ lầm lũi như con ong !
Ngày qua tháng lại… Gia đình tôi đã sống với cái xóm nhà lá này hơn mười năm. Tình làng nghĩa xóm đầy ắp … Thế rồi, căn nhà bên cạnh, ông già qua đời…Cậu con trai cưới vợ. Cuộc sống mỗi mỗi thế hệ, tuổi tác khác nhau. Trước đây, ông cụ còn sống, mỗi lời nói, mỗi hành động đều đầy ắp nghĩa tình. Từ củ khoai, trái bắp luộc cũng qua lại hai nhà… Nay cậu con trai làm ăn khá hơn, sắm được Honda, cưới vợ xong cậu ta bỏ cả cuốc cày, hằng ngày rong ruỗi trên con ngựa sắt chở người, gặp gì chở nấy miễn có tiền là được. Trong bối cảnh xã hội nhiều thành phần ấy. Cậu tiêm nhiểm nhiều thói hư tật xấu. Là người hàng xóm, có quá trình gắn bó với nhau, nhưng mỗi người mỗi lối sống riêng. Sau những lần khuyên giải chân tình trong các buổi giổ chạp, họp mặt… không được! Tôi đành chặc lưỡi lắc đầu – Nói nhiều, chắc gì đã nghe, có khi còn oán hận thêm!
Căn nhà bên cạnh… Thì cuộc sống trầm mặc. Hằng ngày vào rẫy cà phê từ sáng sớm, tối mịt mới về. Các đứa con và người vợ, còn chạy qua chạy về, trao đổi đôi điều. Người chồng thì tuyệt nhiên, họa hoằng trong các buổi giổ chạp, có khi còn từ chối. Cái mặc cảm giữa đời thường… Tôi cố gắng thật nhiều mà cũng không lay chuyển được- Gia đình tôi thì dồn hết của cải cho con ăn học, mặc dầu thiếu thốn, nhưng vẫn cam lòng! Còn nhà bên, thì quan niệm sống là gắng sức vào nương rẫy, kiếm được nhiều tiền để dành tậu thêm vườn tược, tiện nghi gia đình … Nhiều khi lời qua tiếng lại với vợ con…- Theo chiều gió- Tôi nghe như rót vào tai – Học hành làm quái gì, có tiền có tất cả! Mọi việc đều tốt đẹp, trắng đen đều có thể đổi được. Cú lấy đồng tiền làm chuẩn mực để đo lường cuộc sống, phải – trái… kể cả thay đổi những điều tồi tệ nhất!
Nhà có hai người con gái đẹp, nhưng chỉ cho con học hết cấp 2, là ở nhà phụ việc nương rẫy với cha mẹ. Giá mà, hai cô gái …- Chị mười tám, em mười sáu, đều được học hành đến nơi đến chốn thì không thiếu gì những cậu con tai thành thị, nhà giàu có địa vị hoặc ít nhất những nhà có điều kiện rước về làm con dâu… Đó là điều thiệt thòi vì môi trường sống của gia đình các cô … Ngày thức dậy sớm, theo cha vào rẫy, tối về nhà. Sự quan hệ bạn bè, trai gái cùng lứa tuổi, đều bị hạn chế trong khuôn khổ người cùng hoàn cảnh hơn là tiếp cận với những người có học vấn cao, kiến thức rộng …

Mùa nắng đã gần qua, cái xứ bụi mù, đất đỏ làm loét cả mi mắt. . Trong khu vườn bên cạnh, những cây gạo trồng cho tiêu leo đã rụng hết lá. Một ngày, tôi phát hiện có một túm bông của cây gạo nở lập lòe giữa bầu trời xanh, trong vắt. Đóa hoa đỏ, cánh dài tuyệt đẹp, trên cành cây như gãy khúc, trụi lá. Lòng tôi lại rộn lên những kỷ niệm của thời trai trẻ …
Vốn là sinh viên, con nhà nghèo ở huyện xa. Tôi lên tỉnh học. Cái ước nguyện duy nhất là cố gắng học thành tài, sau này ra trường, làm được một ngành nào đó, giúp ích cho xã hội và niềm hạnh phúc lớn nhất là đáp lại ân tình của người cha già, bệnh tật. Ông đã sống vậy nuôi con, khi tôi vừa tròn hai tuổi, mẹ tôi bị tai nạn xe hơi qua đời. Những ngày tháng bên ông, tôi mới cảm nhận được tình phụ tử cao cả như núi Thái Sơn ấy. Ý niệm tiến thân cứ thôi thúc và lớn dần trong tâm hồn một sinh viên tự bương chải với đời để kiếm tiền ăn học.Những năm còn mài đủng quần ở ghế sinh viên, tôi không ngần ngại đi dạy kèm , bán phụ hàng. Kể cả vá xe đạp trong thời gian nghỉ hè…Cho nên sự quan hệ bạn bè trai gái không làm tôi sốt sắng lắm… Tôi tự nhủ lòng – Mình con nhà nghèo, ba thì bệnh tật dễ gì kiếm được một cô gái tử tế ở thành thị về làm dâu,. Cái mặc cảm không làm sao dứt ra khỏi hồn của con người trầm mặc, sống nhiều với nội tâm…
Một buổi sáng… Lên thư viện để tìm đọc lại các giáo trình để làm luận văn cuối năm học. Khi bước vào phòng thư viện, tôi nhìn quanh chẳng còn chổ trống nào, định cầm sách ra trước hiên ngồi đọc thì văng vẳng có tiếng gọi :
- Anh Huy! Có ghế anh đây !
Tôi nhìn về phía ấy, kịp nhận ra cô bé có mái tóc thề xõa, che nửa vầng trán. Một thoáng ngại ngùng, nhưng tôi lấy lại bình tĩnh – Thì cứ ngồi đọc, mắc mớ gì, cô ấy gọi chứ mình có xin đâu mà nhút nhát vậy, không chừng người ta lại cho mình là thiếu lịch sự cũng nên! Tôi đưa tay vuốt lại mái tóc ( Một cử chỉ thường làm khi quyết định một điều gì đó) Tôi đến… cô gái lấy chiếc cặp đặt lên bàn rồi dành ghế cho tôi.
- Cảm ơn bạn! Xin lỗi, cho mình biết tên đi!
- Em là Ân, khoa Anh năm hai!
- Chào Ân, thế là bạn sau mình hai năm!
- Vâng!
- Bạn đi một mình sao lại ngồi hai ghế?
Ân cười tĩnh bơ :
- Anh đi trước Ân hai năm mà trông như mới vào đây lần đầu!
- Có nghĩa …
- Choáng ghế ! Có ai đến thì nói bạn Ân đi ra ngoài một chút, hoặc đi đâu đó chẳng hạn. Còn nếu như… Để loại trừ ai không hợp nhãn với mình hoặc những người quấy rầy mình!
- Có thể gọi Ân là gì nhỉ ?
- Gì cũng được, miễn là người ngồi bên cạnh phải là người có cảm tình!
- Thế mình có được diễm phúc ấy ?
- Anh tự hiểu vậy ! Nhưng Ân đoán không lầm …
- Ân đoán thử xem có đúng không nào ?
- Anh khô khan và ích kỷ !
Tôi nhìn thẳng vào mắt Ân rồi cười.
- Sao mới gặp nhau mà nặng lời đến vậy ?
- Anh vô tình thì mới gọi gặp nhau lần đầu, chứ ngày sinh nhật bé Loan ai tặng hoa cho Ân, khi Ân hát?
Tôi bỗng ngượng, mặt đỏ bừng. Phân bua :
- Xin lỗi Ân, hôm đó mình có uống chút men ! Sau đó mình cứ chúi mũi vào sách vở nên quên mất. Mong Ân thông cảm!
Rồi câu chuyện học hành, thi cử, sinh nhật nối tiếp nhau cho đến khi thư viện đóng cửa.
Hai đứa vừa ra khỏi cửa thì Ân chỉ lên cành gạo trước sân
- Hoa gạo nở tuyệt đẹp phải không anh?
Màu đỏ nổi bật trên bầu trời xanh, lóng lành dưới ánh nắng vàng của một ngày đẹp trời.
Tôi gật đầu, không nói thêm gì. Ngày qua tháng lại. Tôi nhận thấy giữa mình và Ân có một điều gì đó thật gần gủi, mặc dầu tình cờ cũng có và chủ ý cũng nhiều. Nhiều khi nhìn Ân vui đùa tôi chỉ cười, im lặng. Tôi sợ làm Ân khổ, tôi hiểu được lòng mình hơn ai hết – Khi thực sự yêu nhau thì đừng mong người ấy thuộc về mình! Như một nhà thơ đã viết – “ Tình chỉ đẹp khi còn dang dở, mà hết vui khi đã vẹn câu thề!”
Nhiều khi tôi tự trách mình “ Tình yêu đâu có lỗi? Chỉ những tâm hồn ích kỷ mới hướng đến sự chia xa !” Ân mời tôi về nhà và giới thiệu với gia đình. Ba Ân là người quắc thước, bệ vệ như một quan lại ngày xưa. Áo dài đen, quần trắng, giày hạ. Mẹ Ân xinh đẹp và phúc hậu, nhưng rất chiều con… Anh trai Ân cũng là dân trí thức, kiến trắng, cà vạt. Nghe đâu anh ấy là Trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, có xe hơi riêng. Nói chung nhà Ân thật đầy đủ tiện nghi. Nhà phố, nằm trên một con yên tĩnh có nhiều cây bóng mát, một biệt thự hạng sang…
Suốt buổi gặp gỡ. Tôi chỉ thu mình lại và khiêm tồn trả lời các câu hỏi của ông bà. Sau buổi đó. Tôi tự cảm thấy mình không nên đi sâu vào tình cảm của Ân. Vì những đêm dài trằn trọc trong ký túc xá tôi đã làm một bài toán so sánh :
- Ba Ân thì ăn nói nghiêm nghị, gia đình giàu sang…
- Ba mình thì bệnh tật, quê mùa, chân lấm tay bùn
- Ông ngồi trên ghế xa lông, bệ vệ như một quan tòa…
- Ba mình thì ốm yếu, lom khom như một phạm nhân
- Mẹ Ân thì thương con, đôn hậu
- Mẹ mình thì mất sớm…
Tôi đưa ra một hằng số chính xác. Gia đình mình nghèo làm sao Ân sống được khi một người đang ở trong bối cảnh giàu sang mà trở về nơi khốn khổ… Chắc gì sau này đã được hạnh phúc mặc dù tôi có đem hết quả tim đặt trọn vào tay Ân. Nỗi tự ti mặc cảm lớn dần… Sau lần tôi đến nhà xin phép cho Ân đi ăn kem… Tôi đã nói thật lòng mình cho Ân trong buổi tối hôm đó. Ân khóc thật sự, khi đưa Ân về với gia đình. Cả bờ vai áo tôi ướt đẫm. Tôi đi như kẻ vô hồn, về đến ký túc xá tôi nằm như cái xác… Từ đó, tôi bận học thi, làm luận án ra trường. Tôi gò mình trong phòng và không đi đâu cả. Nhiều khi thấy Ân đi qua lớp buồn buồn tôi xót xa vô hạn… Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng – Ân sẽ quên được, vì Ân đẹp có điều kiện để trở thành người vợ tốt với người cùng môn đăng hộ đối… Tôi xa dần Ân từ đó, nhưng trong tim tôi hình ảnh và đôi mắt Ân tôi không thể nào quên…
&
Ra trường… Tôi được phân bổ đi Tây nguyên. Tôi lo sợ rồi đây… Ba tôi phải sống như thế nào, một người bệnh tật, già yếu. Tôi xin đặc ân ở lại nhưng Sở không chấp nhận. Tôi chờ đợi, nhận quyết định xong tôi vẫn không làm sao để Ba tôi lại, lên đường. Cứ chần chờ mãi… Lên Tây nguyên chưa được bao lâu, ba tôi bệnh nặng, suy sụp… qua đời. Tôi về quê chịu tang… Nhờ vào bà con, tình làng nghĩa xóm, đám tang cũng tươm tất, tử tế. Chính trong đám tang này, tôi gặp Lành, người con gái nông thôn, đã nhiệt tình trong việc bếp núc, cổ bàn cho người đến dự đám ma. Nàng cũng là em gái người bạn học cũ hồi còn Tiểu học. Từ ấn tượng ấy tôi yêu Lành và hy vọng sau này có thể xây dựng gia đình. Lành cũng chất phác, có duyên và rất hay cười nên nhiều khi tôi cảm thấy dễ chịu khi ở bên nàng. Trái lại tôi nghiêm nghị, ít nói. Quen nhau, tôi đi dạy xa, chỉ viết thư cho nàng. Hơn hai năm sau… Tôi về mãn tang và trong dịp này xin cưới nàng, không xe hoa, không lễ cưới linh đình, chỉ mâm cau trầu, rượu, hai họ ngồi lại, chấp nhận. Thế là Lành trở thành vợ tôi. Hai vợ chồng lên lập nghiệp tại Tây nguyên. Thấy hoàn cảnh vợ chồng tôi, nhà trường xin địa phương cấp cho một mãnh đất đất sau trường để làm nhà. Với căn nhà gỗ nhỏ mà nhà trường đã tạm ứng mua vật liệu. Hằng ngày tôi đi dạy, Lành ở nhà với mảnh vườn nhỏ, cơm nước và nuôi ít gà. Cuộc sống ấm êm, hạnh phúc, một đứa con trai ra đời trong niềm vui sướng của đôi vợ chồng trẻ…Sau ba năm tôi lại có đứa bé gái thứ hai… Ngày tháng như tên bay!

Thấm thoắt, Hiếu ( Tên con trai ) đã vào Đại học còn Loan , đang học Phổ thông Trung học. Từ trong cuộc sống vợ chồng cũng không ít lần tôi nhận xét… Lành là người tôt, giàu nghị lực, chỉ đảm trách là người nội trợ giỏi với chồng con. Nhưng người bạn đường thật sự để giúp cho chồng vươn lên thì Lành không làm được. Lành không dám đóng góp ý kiến với chồng những công việc quan trọng. Còn Ân thì có đủ lý luận, thẳng thắn góp ý. Nên trong tim tôi vẫn còn một chỗ cho Ân trú…
Mùa hè đã đến… Những tiếng ve rộn rã trong khu vườn đầy bóng cây râm mát. Hiếu về nghỉ hè với gia đình. Sự tháo vát đã hiện ra trong ý nghĩ của nó.
- Ba à! Vườn nhà mình quá nhiều cỏ, ngày mai con dọn dẹp và nhất là tỉa bớt các lá tiêu, chống quang hợp, chứ Ba để rậm rạp quá, quả ra cũng không đậu bao nhiêu cả!
- Ừa! mỗi lần Ba trèo lên thang để hái hay làm gì đó thì Ba cảm thấy chóng mặt
- Vâng, Ba tuổi đã cao là thế đấy! Để mai con làm cho!
Thế là ngày nào Hiếu cũng ra vườn. Một buổi chiều, tôi đi thăm người bạn về thì bắt gặp Hiếu đang chuyện trò vui vẻ với Tâm ( Con gái lớn của ông Hòa- nhà bên cạnh). Sau những lần gặp gỡ… Từ những cử chỉ, ánh mắt. như thế . Tôi đoán được rằng, hai đứa đang đi tìm một con đường chung nhất . Tôi nói riêng với vợ tôi vào một buổi tối :
- Em à! Hình như thằng Hiếu nhà mình đang tìm hiểu con Tâm đấy!
- Sao anh biết ?
- Anh bắt gặp chúng đang có những cử chỉ thân thiện !
- Nó lớn rồi, cũng cần có những vấn đề tình cảm để động viên nhau !
- Cũng có thể như anh, sau khi sống ở thành phố rồi trở về tìm một đóa hoa đồng nội đó chăng?
Vợ tôi cười một cách đôn hậu :
- Miễn sao sống thật chân tình và đạo đức!
- Như em đấy à ?
Tôi ôm Lành vào lòng như hồi mới cưới và đặt một nụ hôn lên tóc nàng…
Từ đó, tôi không còn để ý chúng nói năng, hẹn hò điều gì nữa. Thỉnh thoảng Hiếu lại xin phép đi chơi. Mỗi lần như vậy nó lại bồn chồn, soi gương, chải tóc, quần áo chỉnh tề… hơn.
Mùa hè qua đi … Hiếu trở lại trường. Trước ngày đi nó xin phép được tổ chức một buổi liên hoan. Vợ chồng tôi đồng ý ( Với ý ngầm xem nó mời những ai).Và, đúng như dự đoán… Hôm đó Tâm mặc chiếc áo pul quần jean xanh. Trông cô ta trội hẵn trong đám bạn bè đến dự…
Hiếu đi học, nhưng lại về nhà vào chiều thứ bảy, khác hẵn những năm trước, khi về khi ở lại. Vườn tược nhà cửa có nó về thì sạch sẽ, tươm tất hơn. Tuy nhiên tôi cũng nhắc khéo con :
- Con gắng học hành tốt, để Ba Me nở mặt nở mày với thiên hạ, dù chi đi nữa Ba cũng là thầy giáo. Đừng để người đời đánh giá không hay !
- Vâng! Con vẫn học thường đấy chứ !
- Còn giữa con và Tâm thì sao ?
- Chúng con quen nhau bằng tình bạn chân tình chứ có sao đâu !
- Thật thế thôi sao con?
Nó cười và lãng tránh câu hỏi của tôi. Thời gian sau. Căn nhà bên cạnh có nhiều người thường lui tới hơn, thanh niên có và người lớn tuổi cũng đến chơi.
Một buổi chiều… Tôi nghe tiếng quát tháo giận dữ của ông Hòa
- Mầy chọn lựa cái gì ? Con người ta biết làm ăn, nương rẫy cà phê tươm tất, tương lai ở đó chứ đâu!
Vẫn nghe tiếng khóc ấm ức …
- Mầy nghĩ lại coi, đời cha sao thì đời con cũng vậy, một ông giáo quèn thì cuộc sống như thế nào (?) Trong khi bác Hai lại thân thiết với gia đình. Người ta cũng có xe cộ, nhà cửa bề thế, lỡ sau này sa cơ thì cũng có miếng đất cắm dùi để mầy sống !
Nghỉ một lát, tiếng gió lại vọng lẫn tiếng khóc
- Đừng mơ tưởng viễn vông nữa ! Tao nói thì phải nghe. Nó học ít mà chắc chắn có của ăn của để, dân làm nông tuy chân lấm tay bùn, nhưng không nghĩ già nghĩ non. Như vậy sau này con không phải khổ tâm. Còn thằng Hiếu dù học cao nhưng sau này ra trường chắc gì có việc làm, thời buổi này… muốn đi làm phải có tiền chứ phải dễ dàng gì. Mà nó có đi làm thì cũng vào mấy cái huyện chó ăn đá, gà ăn muối, chứ dễ gì về được gần nhà ! Cha mẹ nào cũng mong cho con sung sướng, con ở xa gia đình, nghèo khổ cha mẹ thêm lo!
Những lời nói cuả ông Hòa cứ xoáy vào tai tôi theo chiều gió. Đầu tôi nặng trĩu, mắt lơ đểnh nhìn lên trần nhà, con nhện cứ mãi miết giăng tơ … Hơi thở từ lồng ngực không nén được bật ra thật mạnh. Tôi thương Hiếu như thương chính mình. Một ý nghĩ len vào hồn tôi. Bật khỏi ghế ngồi và buột miệng – Ông ấy nói đúng! …
Hai tháng sau …Đám hỏi, được tổ chức, mặc dầu có lời qua tiếng lại trong gia đình ông Hòa. Tôi chẳng để tâm… Hằng ngày chăm chú đọc sách và chăm sóc các giò lan. Hiếu thưa với Ba me là nó học nhiều, nên xin về nhà ít hơn. Mỗi lần thấy nét mặt đăm chiêu của Hiếu, tôi không thể nào tránh khỏi xót xa. Tôi khuyên con – Phần số là vậy… Hiếu chỉ lãng tránh không nói điều gì.
Một buổi sáng, vọng theo tiếng gió tôi nghe tiếng quát tháo của ông Hòa :

- Thật là bất hiếu, nó làm nhục gia đình… Làm sao ăn nói với người ta đây hỡi trời ?
Xen lẫn trong những tiêng quát tháo, giận dữ ấy, những lời ôn tồn của bà Hòa chen vào:
- Con dại cái mang, thì chúng ta sang nhà bác Hai thưa chuyện, rồi đưa lá thư cho bác xem… Nó bất hiếu là có, nhưng nó làm gì nhục nhã đâu? Con Tâm nó đi tu thì cũng một phần lỗi của chúng ta, làm cha mẹ mà không hiểu được nó!
Những tiêng loảng xoảng trong nhà lại vang lên .
- Tại bà làm mẹ mà không khuyên bảo được nó. Nó hư là tại bà cả !
Tiếng khóc ấm ức hòa theo chiều gió…
Ngoài trời lác đác vài giò lan đã khoe sắc. Bầu trời xanh bạc… Làn hương nhè nhẹ len vào hồn tôi.

Dzạ Lữ Kiều


Hoa đào trước ngõ

Ai đi xa về làng Quế vào dịp tết cũng phải trầm trồ trước hai cây đào bên ngõ nhà ông Tân nằm ngay đầu làng. 

'Hoa đào trước ngõ' - Truyện ngắn của Hoàng Hiền - ảnh 1

Hai cây đào phai chiết cành từ đào rừng Tây Bắc, người con trai cả đã kỳ công mang về cách đây gần chục năm, giống đào cánh kép sắc hồng mơ năm nào cũng ra hoa thật sớm trước tết và qua tết thật lâu mới chịu tàn. Nhiều người bảo, cứ thấy hoa đào trước ngõ ông Tân là thấy tết.

Nhà ông Tân có ba người con, con trai cả thì làm kỹ sư giống cây trồng tận Sơn La, gần bốn mươi tuổi đầu mà chưa chịu vợ con gì cả. Hai đứa con gái, người thì làm kế toán tận Hải Phòng, người theo chồng vào Nam làm xí nghiệp. Thành ra ngôi nhà hai tầng ông bà Tân cố công dành dụm xây cất, đi ra đi vào lụm cụm chỉ có hai bóng dáng già nua.

Nhà ấy xưa kia chỉ là một thẻo đất ven đầm thắt hậu xấu dáng, ngôi nhà ngói và chái bếp vẫn rúm ró mỗi mùa mưa rét, mấy chục năm hai ông bà làm đậu có bao nhiêu xỉ than đều đổ xuống ven bờ nước, cứ có tiền là ông Tân lại mua mấy chục xe đất, nhà nào trong làng dỡ nhà để xây mới ông đều cặm cụi kéo xe bò đi xin xà bần... Đất vườn bây giờ rộng mênh mông, ven đầm trồng đầy vải nhãn. Mùa xuân hàng nhót chín đỏ mọng ven con mương ông dẫn nước từ đầm vào cứ sai lúc lỉu như hàng nghìn cái đèn lồng ngũ sắc. Mùa hạ vải nhãn trĩu cành chấm cả xuống nước, thu sang bưởi na cam vàng ươm trong gió heo may... Vậy mà mấy người con chỉ trở về vào dịp cuối đông, tháng củ mật đêm không trăng đen như mực, ở dăm ba ngày tết rồi hối hả lên đường. Cô em út còn than thở rằng dành dụm quanh năm về ăn tết xong là rỗng túi. Lần nào đi, cô út cũng ao ước giá mà bê đất bưng vườn ra phố được. Ôi con với cái, cứ như những đàn chim, chúng chỉ chịu ở trong lòng mẹ cha khi da còn đỏ hỏn, khi đôi chân chưa nhấc nổi mình cất cánh tìm mồi. Đứa nào cũng như nhau, đủ lông đủ cánh là vút lên trời xanh thẳm... Nghe ông Tân than vậy, bà bảo ông sao cứ cằn nhằn mãi, nếu có cùm chân chúng thì chúng sẽ nhảy loạn xạ như con sáo trong lồng. Nào có phải mỗi nhà mình thế đâu.

Làng bây giờ như trái bầu khô rỗng ruột. Tháng ba mồng mười làng mở hội không có gái trinh kín nước tế thần, đám khiêng kiệu tuyệt không có lấy một anh trai trẻ. Mục văn nghệ chỉ có người già hát múa, cũng áo dài hồng phấn thướt tha, môi son má ửng, nhưng những bàn tay múa nón đã cực nhọc dầm bao mùa mưa nắng cứng đơ đơ không sao tạo được làn sóng vỗ dạt dào. Vở Phạm Công Cúc Hoa không ai xem vì toàn ông già bà lão đã thuộc nằm lòng...

Mỗi lần gọi điện cho anh cả Phong, bà Tân đều thúc giục anh lấy vợ sinh cho bà thằng cu rồi để nó ở nhà cho ông bà trông, ra vào có đứa cháu tay bồng tay bế, rồi anh cả muốn đi đâu thì đi. Lần nào Phong cũng cười cười chống chế bảo con còn trẻ, lo gì. Lần nào bà cũng nói như hét vào ống nghe: Tổ cha anh, bằng tuổi anh có phúc thì đã làm ông nội ông ngoại rồi. Nghe mẹ la, Phong vội vã nói “con đang bận rồi” rồi cúp máy. Người mẹ ngồi thừ xuống cái phản gỗ, thở đánh sượt, tự càm ràm: Biết thế này ngày xưa bắt nó lấy vợ rồi mới cho đi làm.

Những ngày cuối năm, trời u ám như lão già bẳn tính, mưa phùn thối đất thối đường. Mấy con lợn nuôi trong chuồng lông dựng đứng vì giá rét, cả tháng rồi nhìn không phổng được tí nào. Cánh lái buôn ép giá, tính ra còn lỗ tiền cám tiền công nhưng ông bà không thể bỏ chuồng không. Phần vì làm việc quen tay, phần vì lúc nào cũng canh cánh trong đầu: nhỡ anh cả lấy vợ thì lợn sẵn đấy chỉ việc ngả ra thịt, gà sẵn đấy, vườn rộng tha hồ chăn không phải mua...

Mấy hôm nay ngày nào ông Tân cũng kéo xe bò đi thật sớm. Ông mang bao tải đến nhà máy xát gạo gom trấu về hun muỗi sưởi ấm cho bầy lợn, trấu bỏ gốc cam nhãn vải trong vườn, mưa phùn trấu nhanh hoai mục làm xốp lớp đất quanh năm cây cối xanh tươi. Những ngày cuối năm nhà máy xát lúa lúc nào cũng tất bật. Cả làng xát thóc nếp gói bánh đồ xôi, xát thóc tẻ đầy phi cho đầu năm gạo đầy ăm ắp, cho con cái sau tết đi xa có gạo đùm đề mang đi ăn dần.

Trấu đầy xe, đường thì trơn, xương cốt người già giòn như than hoa, ông Tân ngã. Chỉ bong gân thôi, cứ lá láng hơ lửa đắp lên, lá tre nấu lấy nước mà bóp, mấy hôm là đi lại bình thường. Nhưng nằm một chỗ không quen, ông bị cái trí nghĩ quẩn quanh hành hạ. Mấy mươi năm trôi nhanh quá, có lúc tưởng không bước qua được những khúc quanh nghiệt ngã của cuộc đời, thế mà cũng đã qua bao nhiêu cái tết. Khi đứng ở cuối con dốc cuộc đời, người ta hay hồi tưởng. Chuyện vui mau quên mà chuyện buồn cứ se sắt mãi trong lòng. Rút cuộc cũng đất vườn rộng thênh, con cái chưa phải lo thang thuốc, sổ tiết kiệm có chút vốn, túc tắc vừa làm vừa chơi. Lúc trẻ trai chỉ mong có thế mà bây giờ sinh thói hay nghĩ ngợi quẩn quanh, ông thấy mình ốm thật.

Bà Tân vướng cái chân sưng vù của ông mà không thể theo chị em ra quét tước vườn chùa, xem chừng tay chân cũng bứt rứt, cứ ra ngóng vào trông. Năm nào vào dịp cuối năm bà cũng ra phụ nhà chùa quét dọn, lau chùi phủ điện vừa để lấy lộc mát mẻ cho con cháu làm ăn, vừa chuyện vãn với chị em nơi xa nơi gần về quê ăn tết. Trẻ vui nhà, già vui chùa là vậy. Người già, chỉ mong một chữ “an”, dẫu không ưa gì những ngày nhàn nhạt, từ khi thức dậy đến lúc trùm chăn đi ngủ vẫn từng ấy việc quen thuộc. Họ chờ những đốm sáng vút lên, những điều làm bung lên trong trí nghĩ già nua những thứ vui tươi, sôi nổi, đấy là hạnh phúc của những đứa con. Mà chúng thì cứ như những cánh chim, cứ lớn lên là bươn bải...

Chiều đổ loang mặt nước bên vườn. Làng mấy hôm nay đông vui quá, những đứa trẻ đi học xa, những thanh niên trai tráng đã lục tục về làng. Chúng đi nổ bỏng nếp làm bánh lòng, chúng kéo nhau ra cầu bến rửa lá dong, lá chuối về gói bánh, chúng cười nói nô đùa bên cầu bến thật rộn ràng.

Bà Tân ngồi bẻ rễ thúng bèo tây vừa vớt được. Bà trông ra ngõ, lòng dạ nôn nao dẫu biết cả ba đứa chưa đứa nào lên xe để trở về.

Mấy ngày nằm yên một chỗ, ông Tân không kiên nhẫn được nữa. Cái đài cũ mang từ chiến trường về đã được ông lau chùi sạch bong, không thể sạch thêm được. Ông đã làm sạch từng khe kẽ bằng tất cả sự tỉ mẩn và sốt ruột của người ốm đau, để gạt đi cái suy nghĩ quẩn quanh tiếc nuối vì những điều từng khát khao nhưng lại khất lần khất lữa với những khát khao đó, cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện. Ông ngắm mảnh vườn qua hàng chấn song cửa sổ, đẩy mình lên một chút để ngắm hai cây đào ngoài ngõ nhưng mắt mờ rồi không thể thấy rõ chúng đã bung thêm bao nhiêu nụ, bao nhiêu hoa. Ông nổi cáu gọi thật to:

- Bà nó đâu rồi, nhanh cái chân vào đây tôi bảo.

Bà hớt hải chạy vào đã thấy ông ngồi dậy, ông bỗng cất giọng sang sảng bảo:

- Bà chưa lo tết nhất gì à?

- Ôi dào, nào ăn uống có là bao!

Bà chưa dứt lời thì ông gắt:

- Bà chuẩn bị cho tôi hai chục ống nếp, dăm ký đậu xanh, mua đủ lá dong, nổ sẵn hai ký bỏng ra đấy để tôi đóng bánh lòng. Mà thôi, bà ra gọi điện cho thằng cả bảo về ngay cho tôi, cứ nói tôi ốm nặng.

Bà nghe thế thì tái xanh mặt, tưởng ông đòi ăn dở, chân tay lóng ngóng bà run run bảo:

- Ông ơi, đã đến nỗi nào, chờ tôi đi thắp nén nhang.

Ông lại càng cáu lên:

- Ơ hay bà này lạ thật, tôi còn khỏe lắm, mấy cái tết rồi nhà mình không làm bánh lòng chả gói bánh chưng. Cả năm có cái tết, năm nay phải ăn tết thật to. Bánh trái ăn không hết thì để chúng nó về mang đi biếu anh em cơ quan lấy thảo. Tết là ăn hương vị tết, ăn không khí tết chứ có ai còn thèm thịt mỡ dưa hành. Nhỡ ra giời bắt tội sang năm chả ngồi mà gói bánh chơi hoa được nữa...

Bà hiểu ra, lần đầu thấy ông cáu mà bà lại tủm tỉm cười. Có tiếng chân con trẻ thình thịch chạy vào sân, chưa lên đến cửa nó đã liến thoắng nói một hơi:

- Ông ơi, bà ơi, bác Phong bác ấy về đến quán Tiến rồi kìa, lại còn dẫn theo một chị trẻ mà rất xinh nữa.

Ông bà còn chưa kịp hỏi gì thì nó đã chạy biến.

Bà Tân buột miệng: Cha bố anh cu Bon!

Rồi như chợt nhớ ra, bà vội đi vào buồng, lấy bộ pijama và cái áo khoác mới giục ông thay vội, khéo cả Phong nó dẫn người yêu về. Cái chân đau bỗng khỏe khác thường, ông vội vã đi ra ngõ, đúng là anh cả về đến đầu ngõ kia rồi. Đúng là anh có dẫn theo người yêu... Ông vội vã trở vào nhà, ngồi xuống ghế, rót chén trà rồi vừa cười vừa ngóng xuống bếp gọi vợ:

- Bà ơi, nhanh cái tay lên, tết về đến ngõ kia rồi.

Hơn bảy mươi tuổi đầu, ông lại thấy lòng mình nao nức lạ. Ông mỉm cười nhìn ra mấy quả bưởi vàng ươm đợi tết đung đưa theo gió. Trời đã tạnh, gió se se hong khô mảnh sân trước nhà. Cây đào bắt đầu bung thêm nhiều hoa, nhú thêm nhiều nụ. Cả đất trời như hân hoan trong bản đàn rạo rực, dịu dàng và ngây ngất trước thềm xuân. 

Hoàng Hiền





Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

NTV 37 - Dòng sông thơ ấu



 
                Ân tình của Ngoại                    
Tôi đã lớn lên bên dòng sông,
Sông quê xanh mát rộng mênh mông,...
Bao la ấm áp như tình ngoại,
Cùng tiếng ru buồn tuổi chớm đông !
...............................
Ai đưa con sáo sang sông ?...
Mẹ đi lấy chồng bỏ lại con thơ !....

Ngoại tôi chẳng ngóng chẳng chờ,
Âm thầm nuôi cháu bơ vơ giữa đời.... 
Bao giờ mới trả cho vơi ?
Ân tình của ngoại suốt đời trong con !

Xa con chắc ngoại héo hon ?
Con thà xa mẹ cho lòng ngoại vui.....

Con như thoáng thấy ngoại cười,
Dường như trong ngoại rạng ngời tình con ?!
 NM
Dòng sông thơ ấu



    1. Bố mẹ tôi ly dị. Bên nội không ai chịu nhận tôi về nuôi. Thực ra, ông bà nội cũng muốn nuôi tôi nhưng vì những lời bóng gió của chú và mợ nên tình thương của ông bà đành giấu kín trong lòng. Tôi không trách ông bà nội mà cảm thấy thương hơn. Bố mẹ tôi mỗi người đi mỗi ngả, tôi về ở với bà ngoại, lúc ấy tôi 5 tuổi.
    Vườn rau nhỏ nhắn của bà nằm khiêm nhường bên phải ngôi nhà. Bà cháu tôi nương tựa nhau qua ngày chính là nhờ vào vườn rau ấy. Mùa nào thức nấy. Bà chăm sóc rau cẩn thận như đã từng chăm sóc tôi. Ngày ngày bà ra vườn hết nhổ cỏ, bỏ đạm rồi xới đất. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi nhổ cỏ hay xới đất, bà cũng nhẹ nhàng. Nếu bà không làm như vậy, rễ của những cây rau sẽ bị đứt. Khi đó, những cây rau vốn đã yếu ớt, rồi sẽ héo dần mà chết. Và bà thấy tội nghiệp!
    Trông bà tôi vẫn khỏe hơn các ông các bà cùng tuổi. Trên mặt đã có những nếp nhăn nhưng răng thì đều tăm tắp. Chẳng như bà thằng Bờm, mỗi lần ăn trầu đều phải nhờ con cháu nhai hộ hay phải bỏ vào một chiếc cối đồng nhỏ xíu, giã cho miếng trầu dầm dập rồi mới cho vào miệng. Bà tôi cho miếng trầu vào miệng và nhai rau ráu. Nhìn bà ăn trầu ngon không chịu được! Miếng nào miếng nấy đỏ chon chót. Có lẽ nhờ lao động mà bà còn khỏe mạnh như vậy. Bà chỉ sinh được mình mẹ tôi. Ông ngoại hy sinh ở chiến trường Campuchia. Rồi mẹ tôi lấy chồng xa, bà phải thui thủi một mình. Nhiều lần mẹ dẫn tôi về thăm nhà, sau lại ra đi, tôi thấy bà khóc. Bà nắm tay tôi tạm biệt mà như muốn van vỉ mẹ con tôi ở lại. Mẹ tôi hiểu điều đó nhưng cũng chỉ ở nhiều nhất là một tuần. Rồi lật đật trở về bên nội...
    Hằng tháng bà vẫn nhận được một khoản tiền trợ cấp do Nhà nước dành cho. Số tiền ấy bà cất thật kỹ để dành nuôi tôi đi học sau này. Còn cuộc sống hằng ngày bà cháu tôi tằn tiện bằng những đồng tiền bán rau. Bà còn nuôi thêm một con lợn trong chuồng, để đỡ phí những thứ cơm thừa canh cặn trong nhà. Vả lại, ở quê mà không nuôi một con gì dù to hay nhỏ thì cũng thấy văng vắng! Ngày đó, tôi thích bà nuôi một con mèo để tôi có thể bồng bế hoặc nựng nịu nó. Nhưng cũng chẳng hiểu vì sao, tôi lại không nói với bà. Mặc dù hồi đó, tôi vẫn được bà khen là ngoan ngoãn. Tôi đem theo ước mơ của mình vào giấc ngủ, để đêm đêm, tôi lại vòng tay ôm bà hay rúc vào nách bà mà ngủ ngon lành.
 
2. Dưới bàn tay chăm bẵm của bà, tôi dần dần lớn lên và bắt đầu đi học. Tôi học buổi sáng còn buổi chiều đi chăn trâu cho nhà bác Dục. Bác Dục sinh được ba người con, các anh chị đều đã đi xa, người đi làm, người đi học. Thấy tôi đã lớn hơn rất nhiều so với ngày mới về, bác Dục bèn sang nhà tôi hỏi bà để mượn tôi đi chăn trâu giúp. Mỗi tháng bác trả cho bà một yến thóc và nuôi tôi bữa cơm tối. Tôi không chịu ăn cơm nhà bác mà đòi về ăn cơm cùng bà.
    Lần đầu tiên theo lũ bạn lùa trâu ra đê, tôi thực sự choáng ngợp trước sông. Sông quê không rộng và to nhưng nước trong và bình lặng. Chỉ vì chưa bao giờ được ra khỏi nhà nên đứng trước sông tôi mới có cảm giác như vậy. Con sông hiền hòa, chầm chậm trôi, nước chảy thành dòng uốn lượn, có chỗ hai bên bờ co vào. Từ bờ bên này, nhìn sang bờ bên kia thấy rất gần. Và một thế giới được mở ra từ khi tôi thấy sông.
    3. Tôi ôm khúc chuối ở đâu dạt vào bờ rồi từ từ tập bơi. Tụi thằng Tài, thằng Nhân... nhìn tôi cười chế giễu nhưng tôi vẫn mặc kệ. Loay hoay mãi tôi vẫn không làm sao co chân lên để đạp nước. Bởi mỗi lần tôi co chân lại bị chìm xuống. May mà tôi tập ở gần bờ. Nếu lỡ bị chìm, chắc sẽ tha hồ uống nước.
    Tập đến lúc mệt lử thì tôi đứng tựa vào bờ, ngắm nhìn tụi nó bơi qua bơi lại trên sông một cách thèm thuồng. Tôi ước, một ngày nào đó cũng sẽ bơi giỏi như thằng Tài, thằng Nhân. Còn giờ, tôi đứng rờ rẫm ven bờ, tay khoát khoát nước lên người. Nước sông mát rượi khiến tôi cảm thấy thích thú với công việc đang làm.
    Đến chiều, cả lũ lên bờ lùa trâu về nhà. Vừa lúc đó, có người đi ra tháo cống, nước sông chảy cuồn cuộn về bến cuối. Dòng nước bây giờ không còn trong xanh như lúc chúng tôi tắm nữa mà đục ngầu. Những túi rác hay đám rong rêu theo dòng nước trôi dập dờn. Tuy vậy, cả lũ vẫn hò nhau đập trâu xuống sông rồi để trâu bơi ngược dòng nước. Bọn chúng ngồi trên lưng trâu, chẳng cần đạp chân tay gì cả mà chỉ việc vung chiếc roi vào mông trâu để trâu bơi nhanh hơn. Chốc chốc, bọn chúng lại hét hò rất sung sướng. Lếch thếch dắt trâu trên bờ, lòng tôi cũng thấy xốn xang. Chú trâu tôi chăn hình như cũng muốn xuống sông bơi hay sao mà cái đầu cứ ngúc ngoắc? Thế rồi, tôi liền đập trâu xuống sông, tay nắm chắc dây thừng. Cầm chiếc roi trong tay, tôi ra sức quất vào mông trâu những mong sẽ đuổi kịp bọn thằng Nhân, thằng Tài... Quả thật không có gì thú vị bằng ngồi trên lưng trâu rồi để mặc nó chở mình đi. Tôi có cảm giác như đang ngồi trên một con tàu vậy.
    Nhưng được một đoạn, tôi trượt khỏi lưng trâu và bị dòng nước cuốn đi. Nước chảy mạnh làm tôi chới với giữa dòng. Những ngụm nước ngòn ngọt bắt đầu vào cổ họng rồi xuống bụng. Tôi khua khoắng tay chân nhưng vẫn không thể dạt vào bờ được. Rồi cứ thế, tôi thấy mình trôi theo dòng nước, không còn cảm giác gì nữa. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang nằm trên đường đê, xung quanh là tụi thằng Tài, Nhân, Bờm, có cả một bác làng chài, vẻ mặt ai cũng lo lắng. Đầu tôi ong ong, nặng trịch. Chợt từ đằng xa, trong ánh chiều chạng vạng tôi thấy dáng bà tôi tất tả chạy trên đường đê, thỉnh thoảng vấp phải cục đất giữa đường khiến bà ngã nháo nhào. Nhưng bà vội vã đứng dậy rồi tiến về phía tôi. Bà vừa chạy vừa khóc: “Ới Lành ơi là Lành ơi! Sao mày bỏ bà mà đi hả Lành...”. Lúc ấy, tôi muốn đứng dậy chạy về phía bà nhưng không tài nào dậy nổi. Tôi cứ nằm vậy để mặc nước mắt lưng tròng.
    Sau lần chết hụt ấy, tôi bị ốm và phải ở nhà một tuần để bà chăm. Mấy ngày không được đi chăn trâu, tôi thấy nôn nao quá đỗi. Nhưng có lẽ, tôi nhớ nhất là sông. Một tuần không được trằn mình trong dòng nước mát lạnh, kể ra cũng nhớ thật. Nên khi vừa khỏi ốm, tôi hớn hở chạy sang nhà thằng Bờm rủ nó đi chăn trâu ngay. Thằng Bờm đưa cho tôi một quả ổi rồi cả hai đứa cùng lùa trâu ra đê. Khi tôi vừa ra đến nơi đã thấy tụi thằng Tài, thằng Nhân đang vùng vẫy dưới sông. Tôi và thằng Bờm nhanh chóng nhập cuộc. Lần này, cả lũ xúm vào tập bơi cho tôi. Có lẽ sau sự cố lần trước, bây giờ đứa nào cũng quan tâm đến tôi nhiều hơn. Thằng Tài chạy đi đâu một lát, sau về cầm trên tay một con chuồn chuồn bụp, to dễ bằng ngón tay cái. Mấy đứa còn lại vật tôi ra rồi để thằng Tài đưa con chuồn chuồn lại gần bụng tôi. Tôi ra sức giãy giụa nhưng bất lực. Đến khi con chuồn chuồn cắn vào rốn tôi đau điếng, tôi liền giãy thật mạnh làm cả bọn đứa nào cũng ngã chúi vào nhau. Mãi sau này tôi mới biết bọn chúng đang giúp tôi sớm biết bơi. Mà quả thật, không biết có phải nhờ chuồn chuồn cắn rốn hay không mà mấy ngày sau, được sự giúp đỡ của mấy đứa bạn, tôi đã biết bơi! Tôi sung sướng hét vang cả một khúc sông. Bắt chước tụi bạn, tôi đứng trên thành cống rồi nhảy tùm xuống sông trong tiếng reo hò của bọn nó.
    Kể từ khi tôi biết bơi, hình như các trò chơi dưới nước đều vui hơn. Cả lũ cứ trằn mình dưới nước, hết trò chơi này đến trò chơi khác cho đến khi mắt đứa nào đứa nấy đỏ hoe như mắt cá gáy. Có hôm, cả bọn thi nhau lặn xuống đáy sông, đứa nào gặp may lại nhặt được một quả trứng vịt đẻ rớt. Mừng như bắt được vàng! Vậy là chiều về, cả lũ tập trung tại nhà tôi cùng đánh chén. Ngon không có gì tả nổi!
    Tôi cứ vậy mà lớn lên, bên dòng sông, trong tình thương của bà. Có lẽ, tình thương của sông và bà quá lớn nên tôi cũng ít nhớ về cha mẹ của mình. Mặc dù mấy đứa bạn của tôi, đứa nào cũng có đầy đủ cả cha và mẹ. Tôi đi chơi, đi học, đi chăn trâu cùng chúng nó nhưng không hề có một chút mặc cảm mà còn thấy hạnh phúc khi được sống bên bà. Khi lớn lên, tôi mới biết đó gọi là món nợ ân tình. Mà nợ ân tình thì không bao giờ có thể trả được.
    4. Năm tôi mười lăm tuổi thì mẹ tôi về. Tôi không vui mà cũng không buồn trước sự hiện diện của mẹ. Mẹ tôi đã không còn cái dáng vẻ tất bật, lam lũ như những người dân quê nơi đây. Mẹ tôi trẻ ra nhiều, quần áo là lượt. Tôi chợt nhớ ra lời kể của bà và bỗng thấy lòng nao nao khi nghĩ về đôi bàn tay ngày xưa của mẹ vẫn thường tắm cho tôi vào mỗi đêm hè, để tôi được ngủ ngon giấc. Trời ơi, tôi muốn chạy tới ôm lấy mẹ mà khóc nức nở, cho bõ những ngày xa mẹ biết bao mà sao đôi chân của tôi không buồn nhúc nhích. Tôi cứ đứng nhìn mẹ bằng đôi mắt vừa xa lạ lại vừa tha thiết. Bà ngoại không nói gì, cứ ngồi lặng lẽ nhìn đống quà cao ngất. Chẳng hiểu sao mẹ là con gái của bà, lâu ngày mẹ con mới gặp nhau mà bà cũng chẳng vui. Bà vẫn ngồi trầm ngâm, mãi đến khi mẹ lên tiếng phá tan bầu không khí nặng nề: “Thưa mẹ, con về đây trước là để cảm ơn mẹ đã nuôi thằng Lành nên người. Sau đó, con muốn xin phép mẹ được đón cháu lên phố ở với con để cháu nó có điều kiện học hành”. Bà tôi im lặng một lúc rồi mới nói: “Bây giờ thằng Lành cũng lớn rồi, mẹ để nó tự quyết định...”. Rồi bà quay sang tôi, bảo: “Lành! Ý cháu thế nào?”. Tôi nhìn mẹ rồi nhìn bà: “Để cháu suy nghĩ đã!”.
    Nói xong, tôi chạy ra bờ sông ngồi một mình, lòng xáo trộn. Tôi lấy hòn sỏi nhỏ ném xuống lòng sông, những con sóng thi nhau chạy dài, tầng tầng lớp lớp, ngổn ngang như lòng tôi vậy. Năm nay tôi vừa học xong trường làng, sang năm sẽ lên học ở trường huyện. Trường huyện cách nhà khá xa nên rất khó khăn trong việc đi lại. Tôi lên học trường huyện chắc là bà sẽ xót xa vì thương tôi. Tôi biết, lúc nãy bà không trả lời câu hỏi của mẹ vì nửa muốn tôi lên phố học, để tôi có được một tương lai tốt đẹp; nửa lại không muốn phải xa tôi, đứa cháu nhỏ đã gắn bó với bà trong những ngày cuối đời.
    Tôi ngồi phân vân mãi. Tôi biết, dù quyết định như thế nào thì bà vẫn luôn ủng hộ tôi. Chỉ có điều, quyết định nào cũng thật khó đối với tôi. Lúc này đây, tôi ước giá như lòng mình cũng bình lặng như sông. Để tôi mãi được ở bên bà, ở bên những đứa bạn đã cùng tôi lớn lên.
    5. Tôi thất thểu đi về, khuôn mặt không biểu lộ cảm xúc. Bà và mẹ ngồi hai bên ghế, nói chuyện gượng gạo. Sự chờ đợi biểu lộ trên khuôn mặt của bà và mẹ. Tôi lặng lẽ đứng trước bà rồi lí nhí: “Cháu có lỗi với bà...”. Rồi tôi oà khóc. Bà nhẹ nhàng: “Cái thằng này! Có gì phải khóc nào... Đàn ông đàn ang phải mạnh mẽ lên chứ”. Bà chỉ nói đến đó rồi nghẹn lại. Tôi đến thu xếp quần áo thì mẹ bảo không cần, lên đó mẹ sẽ sắm cả quần áo lẫn sách vở. Tôi đứng đó, tay chân bỗng nhiên lóng ngóng. Ừ thôi, quần áo tôi để lại, mai này bà có nhớ tôi cũng đỡ trống trải hơn. Bây giờ, tôi muốn nói với bà cái ước mơ ngày nhỏ biết bao, nhưng tôi không thể nói được lời nào. Hơn nữa, một con mèo liệu có thể làm bà đỡ nhớ tôi được không? Cháu thương bà quá, bà ơi!
    Mẹ đến nắm tay tôi rồi bảo chào bà. Tôi lí nhí mãi vẫn không tròn câu. Chỉ thấy bà cứ đưa ống tay áo lên chậm chậm nước mắt. Mắt tôi cũng nhòe đi. Nghĩ đến cảnh, ngày mai bà phải thui thủi một mình là lòng tôi quặn lên. “Cháu đi đây bà ơi!”. Tôi chỉ nói được chừng ấy rồi để mẹ nắm tay dắt đi, hai chân ríu vào nhau, không thể bước dứt khoát. Mẹ dẫn tôi ra bến xe, sau lưng bà đứng nhìn mãi.
    Hai mẹ con tôi đi trên đường, không ai nói với nhau dù chỉ một câu. Ra đến bến sông, đột nhiên tôi đứng sững lại. Những kỷ niệm ùa về, dồn dập. Sông đã gắn bó suốt một thời trẻ dại; đã cùng tôi vui đùa bên lũ bạn. Sông cũng là nơi tôi suýt phải về thế giới bên kia. Sông nuôi tôi lớn khôn và dạy tôi biết yêu thương. Sông đã trở thành một phần máu thịt của tôi từ khi nào. Sông cũng lành hiền như bà tôi vậy! Đến đây, đôi chân tôi không thể nhúc nhích được dù chỉ là một bước nhỏ. Tôi quay sang mẹ, nói một câu dứt khoát: “Mẹ tha lỗi cho con” rồi nhằm hướng nhà bà chạy về, để mẹ một mình ngơ ngác. Tôi chạy miết, trong lòng chộn rộn khi nghĩ về bà. Khi tôi về đến đầu ngõ, vẫn thấy bà đứng đó, khuôn mặt buồn buồn. Tôi chạy đến ôm chầm lấy bà, chỉ kịp thốt lên “Bà ơi” rồi khóc tức tưởi. Bà cũng khóc nhưng tôi thấy hình như khóe miệng của bà đang cười. 
Hồ Huy Sơn

Nụ cười ...
Có nụ cười vui tuổi trẻ thơ,
Trong tâm ghi nhớ tự bao giờ...
Theo cùng ta mãi bao ngày tháng,
Tiếng cười trong trẻo đáng tôn thờ !

Có nụ cười xinh - Ôi rất xinh !
Thanh tân hoà lẫn biết bao tình,
Nụ cười duyên dáng thời con gái,
Làm cho ngơ ngẩn kẻ si tình !!!

Có nụ cười tươi thoáng vu vơ,
Tuy vui nhưng lắm cái bất ngờ !
Ẩn bao cay đắng và chua chát,
Với một tâm hồn đã xác xơ....

Xin hãy cười vui như tuổi thơ,
Hồn nhiên , trong sáng, đẹp như mơ....
Nụ cười tươi thắm như hoa nở
Trong suốt đời ta vẫn mãi chờ !!
 NM




      Nụ cười bên sông
  Cặp bến phà Thủ Thiêm, người ta sắp làm một dự án lớn. Đồng nghĩa với việc tất cả người dân ở đây sẽ đến một khi tái định cư nào đó, hoặc nhận tiền mà tự mua một nơi khác để an cư. Người ta bàn tán xôn xao về nhận tiền đền bù, bàn tán ở chợ, bàn tán ở quán cà phê, ở vỉa hè... Chị bán bánh mì thở dài, chị uốn tóc cũng thở dài, cô bánh xèo, ông bún bò huế... Tất cả đều nghĩ đến một nơi khác, một nơi mình có thể sống bằng cái nghề mình đang sống. Tất cả họ, ai cũng sẽ giảy nảy lên khi chính quyền đưa họ vào nơi tái định cư là một chung cư cao cấp. Họ không thèm, vì khi sống chung cư cao cấp họ không thể bán bánh mì, họ không bán hủ tiếu hay bún bò được, họ không thể mở quán cà phê cóc, hay bán dừa, rau câu...
    Có một quán tạp hóa nhỏ cặp mé sông, dưới chân bến phà, ở đó không nghe chủ tiệm than thở gì cả, chị cũng bình thản với những việc làm của mình, làm cần mẫn, làm hằng ngày, không tham gia vào cuộc tranh luận bàn tán xôn xao nào của những người trong chợ. Chị khoảng ba mươi lăm tuổi, cái tuổi xuân sắc đã đi qua lâu rồi bởi một căn bệnh lạ, chị chưa chồng. Chỉ thỉnh thoảng thấy anh Tư xe ôm ra vào chở hàng hóa cho chị, kiêm luôn cả việc đi lấy nợ và cuối tháng. Đơn giản, dễ hiểu thôi, vì chỗ chị ngồi bán ấy khoảng 12 mét vuông, chị đã thuê lại của một gia đình giàu có đâu chừng chục năm trước, mỗi năm người ta tới thu tiền một lần. Chị nghĩ, đến khi có lệnh giải tỏa, chị chỉ cần dọn mớ đồ này đi là được, thuê một chỗ khác, nhỏ, rẻ thôi. Chị không còn sức để ra mặt tiền mà làm ăn lớn, chị cũng không còn muốn kiếm nhiều tiền nữa, kiếm có nhiều cũng không sống được bao lâu nữa đâu.
    Anh Tư xe ôm có lần hỏi "Ngân không định tìm một chỗ khác mà đi sao?", chị cười "dễ gì mà nhanh vậy được, chủ nhà ở đây còn chưa nhận tiền đền bù mà, cả năm nửa không chừng!". Anh Tư mắt buồn xa xăm "thay đổi là mất hết khách, không biết rôi sẽ ra sao?", chị vẫn vui và lạc quan "thì đến chỗ mới tìm khách mới, ở đâu chẳng sống được, mình đã có gì đâu mà sợ mất!". Lúc ấy hình như anh Tư muốn cãi lại gì đó, hình như anh muốn nói là mình có chứ sao không? Có nhiều thứ ở cái mé sông này lắm. Nhưng rôi anh không nói gì, chỉ nhìn chị bằng ánh mắt long lanh.
    Thằng con trai nhà kế bên say xỉn vê ăn vạ như Chí Phèo, hắn đòi chia tiền đền bù nhà, vì hắn cũng có tên trong hộ khẩu. Số tiền đền bù mà người mẹ còn thở dài thườn thượt không biết có mua nổi một chỗ đàng hoàng khác để sống hay không? Thấy thì thấy vậy, nhưng chị không kể với ai, kể cả anh Tư xe ôm, vì đàng nào nó cũng không phải là chuyện của chị.
    Chị là người sống tha phương từ mười lăm năm trước, chị làm công nhân, kiếm tiền để tự nuôi sống mình, kể từ ngày ba chị mất. Nhưng không may cho chị, chỉ được năm năm đi làm theo ý thích, đủ để mua được vài món đồ cá nhân có giá trị một chút, chị đổ bệnh. Một căn bệnh lạ, không bệnh viện nào chẩn đoán được. Xương chị như mục ruỗng dần, trước thì chỉ đau đầu, nhức mỏi, sau này đau và sưng các khớp xương, đau lưng, tức ngực, khó thở... Bất cứ cơ quan nào trong cơ thể chị cũng đau, đau từ từ, đau dai dẳng.
    Chị khám hết bệnh viện nay đến bện viện khác, người ta lấy gần như hết máu trong người chị ra mà xét nghiệm. Uống hàng trăm thứ thuốc, nghe ở đâu có thầy thuốc Bắc, thuốc Nam chị đều đến. Chị sống nhờ thuốc, uống thuốc no cả ngày.
    Khi không còn sức vào công ty làm, chị mượn tiền bạn bè về mở một tiệm tạp hóa nhỏ, để đổi đắp qua ngày. Sáng bảy giờ chị mở cửa, đến chín giờ tối thì đóng. Cuộc sống của chị bình yên một cách tẻ nhạt. Không ai biết rằng cứ mỗi lần sắc xong chén thuốc, bưng lên uống mắt chị lại rưng rưng. Hình như có lúc chị sợ chết, dù chị đã chuẩn bị đón nó từ lâu rồi.
    Có lần chị hỏi anh Tư rằng anh có sợ chết không? Anh Tư trợn mắt "Giỡn chơi hoài Ngân, anh chưa vợ con, không sợ chết thì sợ gì?". Rồi anh Tư nhìn chị, nhìn như van lơn, Ngân à, em còn khỏe lắm, sao nghĩ đến chuyện chết hoài vậy? Em còn đủ thời gian để có chồng, sinh con... Nhưng anh không biết nói thế nào cho chị hiểu, vì trái tim chị đã khép lại rồi, chị khép luôn cuộc đời mình lại.
    Trong khu phố lại họp, lần này chính quyền mạnh tay hơn, không lấy ý kiến ngươi dân nữa, chỉ thông báo cho dân biết là có 2 sự lựa chọn, một là tái định cư, hai là nhận tiền đền bù, ai muốn cái nào thì đăng ký, đúng sáu tháng nữa ai không đi sẽ có lệnh cưỡng chế, chính quyền sẽ cho xe xuống ủi đi. Những người cuối cùng phản đối cũng đành tiu nghỉu lấy giấy ra về. Vậy là xong, chị có một cái mốc rõ ràng cho việc dọn đi nơi khác của mình. Anh Tư nói "để hàng ngày chạy xe, tui để ý có chỗ nào cho thuê rẻ tui hỏi dùm cho". Chị ừ, có sớm thì dọn sớm, bắt đầu lại bây giờ hay sáu tháng nữa cũng giống nhau thôi.
    Cuộc sống của chị vẫn cứ đều đều trôi, một hôm, anh Tư đưa về nhà chị một ông lão, bảo rằng ông bắt mạch và kê thuốc hay lắm, anh đã năn nỉ hết lời để đưa ông từ Long Khánh về đây.
    Ông lão bắt mạch rồi kê toa, bảo chị mang tâm bệnh. Bệnh chị không nặng, nhưng tâm bệnh khiến cơ thể chị suy sụp và tiều tụy. Ông bảo chị hãy lạc quan và làm điều gì đó vui cho cuộc đời mình. Chị hỏi ví dụ như gì? Ông lão móm mém nói như lấy chồng chẳng hạn. Chị trợn mắt nhìn ông lão thầy thuốc. Nhưng ông lão khoát tay nói tiếp, chị không tin thì thôi, tôi già bằng ngần này tuổi, với gần bảy mươi năm làm nghề thuốc, tôi đi nói dối chị ư? Chị mím môi, im lặng.
    Anh Tư đưa ông lão về, bảo chị đưa toa thuốc ông lão vừa kê anh đi mua cho. Chị không đưa, nói để từ từ uống, thuốc chị còn nhiều quá, mua về nhà nữa thì ngán không uống nổi.
    Khi anh Tư quay trở lại, chị nghiêm mặt "lần sau đừng có làm vậy nữa!". Anh Tư giả bộ ngơ ngác "thì nghe đồn ông già đó hay, tui giúp Ngân thôi mà", chị nói bằng giọng đều và buồn "tui biết bệnh của tui, anh không cần tìm mọi cách để an ủi tui đâu, ngày nào tới nó tới, tui cũng không bi quan, dù có cố gắng thì cũng thót khỏi được phận mình đâu, mình chỉ có một cuộc đời để sống, dài hay ngắn có quan trọng gì, phải không?".
    Anh Tư ngồi xuống, chống tay lên cằm, rủa thầm "cái lão già này, đóng kịch dở ẹc".
    Sau lần đó, anh không dám giới thiệu với chị thêm "thầy thuốc" nào nữa. Chỉ nghe lời chị chở chị đến những bệnh viện chị đã từng khám để tái khám. Mọi thứ trở về như cũ.
    Anh Tư hỏi cho chị được một phòng trong con hẻm nhỏ ở quận Bình Thạnh, rộng chừng chín mét vuông, có cái gác nhỏ nhỏ. Chị nói bây nhiêu đủ cho chị sống rồi. Anh Tư bảo hàng ngày tui sang phụ Ngân, cần gì cứ nói. Chị ừ, anh cứ làm những việc anh đã từng làm, đi xa hơn nên tui sẽ bù tiền xăng cho anh. Anh Tư phật ý "biểu tui làm không công tui cũng giành nữa là...." Rồi như bắt gặp cái nhìn nghiêm nghị của chị, anh thôi, anh cầm cái nón bảo hiểm bảo "thôi, tui đi rước khách". Chị thẫn thờ nhìn theo. Những bịch đậu phộng, những gói snack cho trẻ con rơi dần khỏi tay chị. Chị uống thuốc, uống chăm chỉ, chị trông chờ một phép màu nào đó, biết đâu ngày mai, ngày kia bỗng dưng khớp chị hết đau, ngực không còn tức, tóc không còn rụng, da không còn xanh... rồi lúc ấy, anh Tư sẽ thế nào nhỉ? Chị vội lắc đầu, xua ngay cái ý nghĩ mà chị cho là kinh khủng ấy, là viễn vông, là không tưởng.
    Chị yếu hơn chút nữa, mắt mờ dần, chắc tại chị uống quá nhiều thuốc. Bác sĩ bảo chị mổ đi, nếu mổ thì mắt sẽ sáng dần trở lại, không sao cả, chi phí khoảng mười triệu đồng. Chị hỏi mổ trước một con được không? Bác sĩ nói được.
    Chị về gom hết tiền dành dụm, không lấy hàng mới, nhờ anh Tư đi gom hết số nợ còn lại. Anh Tư hoảng hốt, bộ tính bỏ đi đâu nữa hay sao? Chị cười, anh khùng hả? ở đây với bỏ đi có khác gì nhau? Anh Tư thở dai thườn thượt.
    Đủ năm triệu, chị kêu anh Tư chở tới bệnh viện mắt, chị cười, tui phải mổ để thấy đường mà làm ăn, hổng lẽ mới tuổi nay chịu mù sao? Ai đi chịu vô duyên vậy?
    Anh Tư bỏ hết mấy mối đưa đón khách, vào thăm nuôi chị ở bệnh viện. Mổ xong một ngày chị đã được về nhà. Nhưng anh Tư không cho chị làm gì hết, anh bảo khi nào tháo băng đi rồi muốn làm gì thì làm, giờ để tui làm. Chị hỏi anh Tư sao không lập gia đình đi, bốn mươi rồi, anh là người biết chăm sóc gia đình và chăm sóc rất tốt. Anh hỏi lại chị "liệu có ai lấy tui không?", chị nói nhanh "sao lại không lấy?", "thật chứ?", sau câu hỏi có vẻ vui mừng của anh thì chị giật mình, biết mình lỡ lời.
    Một buổi sáng, đi bộ ra chợ, chị nghe người ta í ới gọi tên mình, hóa ra người quen. Là ông bún bò Huế và chị bánh mì. Chị hồ hởi hỏi thăm người này người kia, hỏi giờ họ sống ra sao? Ai cũng có vẻ hạnh phúc và vừa lòng với những gì họ đang có. Họ hỏi chị và anh Tư xe ôm sao rồi? Chị hỏi sao là sao? Chị bánh mì cười giòn "giả đò hoài, về sống chung cho rồi, hai người thuê hai nhà chi cho tốn?" Chị lại cười.
    Họ, một người đàn ông nghèo, bốn mươi tuổi, chạy xe ôm, một người con gái lỡ thì, sống nhờ thuốc và không biết còn bao nhiêu ngày đời mình kết thúc, bán hàng tạp hóa, hàng ngày cứ ra vào lo lắng cho nhau. Ai cũng mong họ về sống chung với nhau. Nhưng họ chỉ cười. Biết làm sao?  

Nguyễn Anh Đào

Lỡ Chuyến đò Ngang - Giao Linh

Đò Ngang - Thiên Trường 

   Gió Thổi Bên Sông - Phi Nhung

Gọi đò..

Dẫu vững tay chèo, khua tan sóng,
Nhưng luôn nhớ mãi một dòng sông....
Thuở ta đầy ắp niềm mơ ước,
Người đã giúp ta thoả ước mong !!

Quay tìm bến cũ , con đò nhỏ,
Cất tiếng gọi đò như thuở xưa !
Bóng người xiêu đỗ trên sông vắng,
Tiếng gọi đò ơi, bỗng nghẹn lời....

Cho dù đi bốn phương trời,
Bến trong, bến đục khắp nơi nơi....
Vẫn muốn quay về tìm bến cũ,
Cất tiếng gọi đò - "Ơi, đò ơi".....!!!

NM 



   



  Bến đò xưa hoang vắng
- Đò ơi! Đò... Ò... Ò...
    Đứng bên nầy sông nhìn sang bến đò năm cũ nhạt nhòa sương khói, tôi cất tiếng gọi đò. Âm thanh "đò" kéo dài vang vọng trên dòng sông gợn sóng rồi lịm tắt trong buổi chiều cuối năm se lạnh.
    - Đò ơi!
    Tôi định lấy giọng gọi tiếp thì một người đàn ông đang đứng trên bãi dâu cạnh đó, lên tiếng:
    - Đò giang đâu nữa mà gọi. Chú em muốn sang sông cứ đi thêm quãng nữa sẽ có cầu. Bến đò đã bãi bỏ lâu rồi.
    Theo sự chỉ dẫn của người đàn ông tốt bụng, tôi đi dọc triền sông một đỗi nữa gặp chiếc cầu xi măng khỏe khoắn níu chặt đôi bờ thưa thớt mấy bụi tre già đang run rẩy và những khóm cừa tàu soi mình trên nước biếc.
    Sang bên kia sông, tôi hết sức ngỡ ngàng, làng xóm bây giờ rất khác xưa, suýt nữa tôi không còn nhận ra.
    Con đường liên thôn liên xã đỏ quạch màu đất bazan với hàng trụ bằng tre khẳng khiu ruỗng mục móc đầy dây dẫn điện bùng nhùng rối rắm xẻ dọc làng Nhơn Hạnh ra làm hai nửa, nửa nào cũng xám xịt trống huếch, thiếu hẳn màu xanh tươi mát của vườn cây, của lũy tre làng đã bị triệt hạ để lấy chỗ xây nhà bán đất. Dọc theo con đường mới mở còn lồi lõm ổ gà, sống trâu là hai dãy nhà lợp tôn móc ngói; lấn ra, thụt vào; mới cũ, to nhỏ, cao thấp khác nhau; nhớp nháp bụi đường. Thị tứ mới toanh, nghèo nàn, nham nhở nhưng lúc nào cũng đầy ắp những âm thanh ồn ào náo nhiệt tỏa ra từ các quán cà phê, quán nhậu bình dân, hàng trò chơi điện tử...
    Giữa buổi chiều quê ồn ào sôi động bởi những âm thanh của chốn thị thành, bỗng có tiếng võng đưa kẽo kẹt với lời ru khắc khoải nghe xa vắng mơ hồ như từ trong thẳm sâu quá khứ.
    Làng Nhơn Hạnh bình yên, êm ả đã bị làn sóng văn minh đẩy lùi vào quên lãng!
    Quê tôi miền trung dụ Làng Nhơn Hạnh nằm dọc dòng Kôn xanh biếc, tuy là quê cô nhưng với tôi có nhiều kỷ niệm.
    Tuổi thơ của tôi không được may mắn như bạn bè cùng trang lứa. Năm bốn tuổi, mẹ mất vì căn bệnh hiểm nghèo khi tuổi đời còn rất trẻ. Cha tôi sống trong cảnh nghèo túng quanh năm trên cái làng nhỏ của một huyện miền trung du bốn bề đất đai khô cằn sỏi đá và cứ mỗi hoàng hôn bảng lảng sương mù. Mặc dù vậy, ba tôi vẫn quyết tâm nuôi tôi ăn học để sau này có cuộc sống khá hơn. Năm tôi thi đỗ bằng tiểu học cũng là năm ba tôi sang Mỹ theo diện HỌ Cô tôi từ miền xuôi vượt hàng trăm cây số lên đón tôi về nuôi dưỡng. Ngày theo cô về xuôi, tôi không tránh khỏi luyến tiếc bùi ngùi vì phải xa làng, xa quê, xa mảnh đất trung du tuy nghèo nhưng ở đó, tôi đã trải qua thời thơ ấu.
    Cô tôi sống đạm bạc trong căn nhà tôn vách ván cạnh bến đò Trường Thi nhộn nhịp khách thương hồ, mặt hướng về dòng sông Kôn xanh biếc êm đềm với những con đò dọc, đò ngang sớm chiều khỏa nước. Nghe tin cô tôi vừa đón về một đứa cháu ruột, bạn bè hàng xóm đến chúc mừng thăm hỏi. Ai cũng bảo tôi thông minh, ngộ nghĩnh, rắn chắc, là chỗ dựa của cô tôi lúc tuổi già sức yếu. Cô tôi chỉ cười, không nói. Còn tôi, cứ trả lời nhát gừng mỗi khi có ai hỏi đến.
    Mấy tuần lễ đầu, tôi rất buồn vì lạ người lạ cảnh, vì nỗi nhớ cồn cào, da diết. Những buổi chiều, tôi thường ra ngồi bên quãng sông vắng dõi theo bóng chim chao liệng trên dòng nước rực đỏ ánh hoàng hôn. Đêm, chới với, đắm chìm trong hoài niệm. Mỗi lần nghe tiếng gọi đò văng vẳng giữa sương khuya từ phía bên kia sông vọng lại, tôi càng nhớ quê, nhớ ba tôi da diết. Cô tôi vẫn nhẫn nại ngồi cạnh tôi phe phẩy chiếc quạt lá dừa vỗ về an ủi bằng giọng buồn rười rượi như từ trong sâu thẳm nỗi khổ đau: "Con người ai cũng có số phận riêng. Phải biết vượt qua số phận bằng nghị lực của chính mình con ạ! Đừng buồn! Tất cả rồi sẽ qua đi". Tôi không hiểu gì lời cô nói nhưng tôi yêu quí cô biết ngần nào.
    Hồi ấy, cô rất chiều tôi, mỗi lần sang bên kia sông mua hàng họ về bán, cô thường đưa tôi theo. Có lần, ngồi trên chuyến đò sang sông, tôi hỏi cô:
    - Tại sao người ta gọi là bến đò Trường Thi hả cô?
    Như một giáo viên dạy sử, cô giảng giải cặn kẽ:
    - Dưới triều nhà Nguyễn, phía bên nầy sông có trường thi Hương, cung cấp hàng trăm cử nhân tú tài cho các tỉnh miền Nam Trung bộ. Cứ ba năm tổ chức một kỳ thi Hương. Gần đến ngày thi, sĩ tử các nơi mang lều chõng, nghiên bút đổ về đây đông như trẩy hội. Bà con trong vùng dựng lều quán bán hàng cơm, giấy bút dọc hai bên các ngả đường. Đò ngang qua lại tấp nập trên dòng sông Kôn phục vụ sĩ tử và các quan giám khảo ở Kinh đô vào. Từ đó, bến đò mang tên Trường Thị Gần bảy thập kỷ trường thi tồn tại và trên hai mươi kỳ thi Hương được tổ chức, phần lớn thủ khoa thuộc về tay sĩ tử Bình Định. Vì vậy, ở đây có câu ca còn truyền tụng:
    Uổng công các tỉnh đường xa
    Để cho Bình Định thủ khoa nhiều kỳ.
    Ông nội con cũng đậu đầu cử nhân kỳ thi Hương cuối cùng. Mãi đến khi việc học chữ Hán bị bãi bỏ, trường thi hoang phế dần rồi bị giặc Pháp đập phá, trường thi chỉ còn là những đống đất đá làm chứng tích. Bến đò Trường Thi vẫn tồn tại và là nguồn cảm hứng cho các thi nhân. Bài thơ Bến My Lăng nổi tiếng của nhà thơ Yến Lan ra đời cũng từ bến đò đầy gợi hứng nầy. Như chợt nhớ ra tôi chỉ là đứa bé vừa học xong tiểu học, cô cầm tay tôi, dặn dò - Con ráng học để sau này đỗ đạt như nội con ngày xưa.
    Thời son trẻ, cô dượng tôi sống rất hạnh phúc trên làng Nhơn Hạnh nằm dọc dòng Kôn xanh. Cô mở quán trên bến Trường Thi phục vụ khách thương hồ. Dượng tôi vừa dạy học vừa bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Người con trai duy nhất của cô dượng đang học cấp ba.
    Rồi chiến tranh diễn ra ác liệt trên quê hương cô dượng, khói lửa ngút trời, đạn bom xới tung đường thôn ngõ xóm. Dượng tôi mất vào một chiều giông gió bên dòng sông Kôn trong trận càn quét tàn bạo của địch. Bốn năm sau, người con trai của cô dượng cũng hy sinh trên mặt trận Tây Nguyên giữa mùa hè năm 72 rực lửa. Sự ra đi của đứa con trai yêu quí đã làm cho mái tóc cô bạc trắng, tinh thần suy sụp mặc dù lúc ấy tuổi chưa đến bốn mươi. Ngày toàn thắng, cả nước vang khúc khải hoàn, cô tiếp tục thân cò lặn lội ven bến sông xưa.
    Rồi tất cả cũng qua đi. Nỗi buồn của tôi đã nguôi dần theo tình thương của cô, theo dòng Kôn êm đềm với những chuyến đò ngang cần mẫn nối liền hai bờ lau lách. Làng Nhơn Hạnh êm ả chan chứa tình người giúp tôi tìm lại lứa tuổi hồn nhiên mà số phận đã cuốn trôi.
    Đầu năm học mới, cô đưa tôi vào học lớp sáu, cùng trường với chị Thưa. Chị Thưa ở cách nhà cô tôi một thửa vườn rộng. Ba chị làm y tế xã, mẹ mở hiệu may trên phố huyện. Tuổi thơ của chị là chuỗi ngày tràn đầy hạnh phúc. Tuy lớn hơn tôi năm tuổi nhưng chị vẫn đang theo học lớp 8 trường làng. Ở vùng quê, trẻ con học muộn là chuyện thường. Tính chị Thưa vui vẻ hồn nhiên. Vì vậy, mới gặp chị lần đầu mà tôi đã cảm mến. Còn chị, rất thương tôi sớm mang thân phận nghèo, côi cút. Chị thường xưng hô "chị em" với tôi rất thân mật. Tôi và chị Thưa học cùng buổi nên sáng nào chị cũng ghé lại rủ tôi đi học. Tan trường, cùng về. Thường những buổi tối, chị hay đến nhà tôi chỉ hộ mấy bài toán khó rồi nói chuyện với cô tôi trước lúc ra về, hoặc rủ tôi đi xem hát mỗi khi có đoàn cải lương nào đó ở Sài Gòn ra diễn trên nhà văn hóa xã. Những ngày nghỉ học, tôi cùng chị Thưa lên khu đồi sau lưng nhà chị hái sim chín và nhặt củi khô đem về đun bếp. Có hôm, cùng ra tận quãng sông vắng đợi con nước ròng, bày trơ cát nhặt những con hàu con hến. Thi thoảng, những kỳ lễ tết, cô đưa chúng tôi lên thành phố Quy Nhơn ngắm biển, mua hàng. Từ ngày quen thân chị Thưa, tôi vơi bớt nỗi buồn, việc học cũng có chiều hướng tiến bộ rõ rệt. Tôi quí chị Thưa lắm. Vắng chị thấy nhớ.
    Theo thông lệ, đầu tháng ba làng Nhơn Hạnh mở hội, người các nơi đổ về tưng bừng nhộn nhịp. Mới nửa chiều mà trống chầu đã nổi lên giòn giã, thôi thúc từ phía sân đình vọng lại. Hôm ấy, tôi đi học về đến nhà trời đã nhập nhoạng. Cơm nước xong xuôi, tôi háo hức đến rủ chị Thưa cùng dự hội làng. Dưới ánh trăng thượng tuần treo lơ lửng tận góc trời xa, chị Thưa nắm chặt tay tôi đi hết con đường làng rợp bóng rồi băng tắt qua mấy thửa ruộng dưa để kịp xem đoạn đầu vở tuồng "Đổng Trác hí Điêu Thuyền", vở tuồng Tàu mà cô tôi khen hay lắm. Đến một khoảng vắng, tôi bỗng kêu thét lên "ma" rồi quay lại ôm cứng lấy thân thể tròn trịa săn chắc, ấp mặt vào bộ ngực no tròn đầy gợi cảm của chị, thở dồn. Chị Thưa vòng tay âu yếm siết chặt lấy tôi nhận chìm trong hơi thở dịu ngọt dồn dập, gấp gáp của lồng ngực phập phồng rung rẩy, thoảng chút hương bưởi hương chanh tỏa ra từ mái tóc dài óng mượt của chị để rồi chỉ trong khoảnh khắc, nỗi sợ hãi tiêu tan, lòng tôi rộn lên cảm giác ngất ngây tê dại. Bất chợt, như bừng tỉnh cơn mê, chị khẽ đẩy tôi ra thở dài thảng thốt, cất giọng hổn hển:
    - Bù nhìn giữ dưa đấy em!
    Tôi ngơ ngác nhìn chị rồi lặng lẽ đi vào hội làng...
    Sau đêm hội làng không bao lâu thì ba tôi về làm thủ tục bảo lãnh cô cháu tôi sang Mỹ. Cô tôi dứt khoát không chịu rời bỏ quê hương xứ sở, mồ mả ông bà. Ba tôi cố thuyết phục nhưng vẫn không lay chuyển nổi ý chí của cô tôi. Riêng tôi, rất yêu cô, yêu da diết làng quê Nhơn Hạnh, yêu bến Trường Thi với những chuyến đò ngang ngày đêm cần mẫn nối lại đôi bờ, nhưng không phải vì vậy mà làm đảo lộn mọi lo toan tính toán của ba tôi.
    Trước hôm ra đi, tôi tìm chị Thưa để chào từ biệt. Tìm mãi rồi cũng gặp chị đứng lặng lẽ trên quãng sông vắng, mắt buồn thăm thẳm hướng về chuyến đò chiều khỏa nước trên dòng sông đỏ rực ráng hồng. Tôi khẽ khàng bước đến cạnh chị, giọng bùi ngùi:
    - Chị Thưa, sáng mai em đi...
    Không lên tiếng cũng không ngoảnh lại nhìn tôi, chị bỗng đưa tay ôm mặt nấc nghẹn, bờ vai run rẩy theo nhịp sóng lòng dâng cuộn... Lòng tôi cũng se lại. Bất chợt, như một cơn gió giật, chị quay lại ôm chầm lấy tôi, hôn tới tấp lên tóc lên cổ nhạt nhòa nước mắt rồi vụt chạy qua bãi dâu xanh ngắt, lồng lộng gió chiều.
    Đêm ấy, tôi cứ thao thức, trăn trở. Trước giờ phút ly hương sao mà buồn da diết!
    Tảng sáng hôm sau, chuyến đò đầu tiên trong ngày chỉ có ba con tôi và một nỗi buồn lặng lẽ rời xa bến. Trước mặt tôi, làng Nhơn Hạnh như bồng bềnh chao đảo trong sương sớm.
    Bất chấp con đò chòng chành, tôi bỗng đứng vụt lên gọi lớn:
    - Chị Thưa! Chị Thưa ơi!
    Trên bến Trường Thi, chị Thưa đang đứng vẫy tay chào từ biệt. Con đò vô tâm cứ lặng lẽ xa bờ. Nhìn hình ảnh chị Thưa khép dần rồi khuất hẳn trong làn sương tím, lòng tôi cứ thấy rưng rưng.
    Sau mười năm ăn học nước ngoài, tôi đã trở thành nhà khoa học có tên tuổi đang xin về Việt Nam công tác theo nguyện vọng của ba tôi. Ngày trở lại quê cô như một kẻ lãng du quay về làng cũ lần tìm kỷ niệm của một thời dĩ vãng.
    Bước vào cửa hiệu uốn tóc, tôi hỏi một cô gái còn non choẹt, mặc quần đùi bó sát, phô diễn cặp giò mốc thếch đang ngồi tự dũa gọt móng tay:
    - Em làm ơn chỉ giúp anh nhà chị Thưa.
    Cô bé giương mắt nhìn tôi lắc đầu:
    - Ở đây không có ai tên Thưa!
    Một giọng đàn bà từ phía sau tấm vải màn cũ kỹ đầy cáu bẩn:
    - Thưa là Ngọc Ánh đấy con.
    Cô bé "à" lên một tiếng rồi đứng lên bước ra khỏi cửa, sốt sắng:
    - Đó, cái nhà hai mê ở tận đầu hồi đó. Cô bé nheo mắt nhìn tôi ra vẻ giễu cợt - Anh muốn hát phải không?
    Đến nhà chị Thưa, thấy có tấm bảng nhỏ treo ngay ngắn trước cửa: "Phòng Karaoke vi tính". Tôi hồi hộp đưa tay gõ cửa khẽ khàng rồi chờ đợi nỗi vui mừng ập đến. Cánh cửa bật mở, âm thanh xập xình với giọng hát ồm ồm tuôn ra cùng lúc với cô gái xinh xắn hớt tóc tém, quần áo khêu gợi, mặt dày son phấn nhìn tôi dò xét. Trời ơi! Chị Thưa của tôi đây sao? Phép lạ nào đã thay đổi chị Thưa xinh đẹp hiền lành nhân hậu thành cô Ngọc Ánh mắt xanh mỏ đỏ, tay chân đầy móng vuốt? Trong lúc tôi đang hoang mang dao động thì chị vẫn vô tình nhoẻn miệng cười duyên như chị thường làm chiều khách:
    - Anh thông cảm, em đang tiếp các sếp trên huyện.
    Tôi định cất tiếng gọi chị thì chị tỏ lời an ủi:
    - Đừng buồn! Tối trở lại em sẽ lấy giá mềm hơn.
    Nói xong, cánh cửa khép kín, chị khuất hẳn sau lớp kính mờ để lại trong tôi một nỗi buồn thăm thẳm.
    Rời nhà chị Thưa, tôi lầm lũi đến bến đò ngày trước. Nhìn lại ngôi nhà của cô mà tim tôi đau nhói. Cô tôi mất cách đây năm năm. Ngày cô mất, ba tôi có về chịu tang. Riêng tôi, lúc ấy đang bận kỳ thi tốt nghiệp. Ngôi nhà từ đó thay đổi chủ. Bến đò Trường Thi bây giờ cỏ dại um tùm, phủ dày lau trắng. Cảnh cũ hoang vắng tiêu điều.
    Tất cả chỉ còn là kỷ niệm!
    Tôi đứng vào vị trí mà chị Thưa đã đứng tiễn tôi ngày xưa, lặng lẽ nhìn quãng sông chiều vỡ vụn ánh hoàng hôn. Hình như có tiếng gọi đò văng vẳng mơ hồ vọng về từ trong thẳm sâu ký ức
Trần Quang Lộc

Người chèo đò năm xưa
Người chèo đò năm xưa,
Gieo vào tâm hồn trẻ...
Một món nợ thân tình,
Với tấm lòng hy sinh....
Giúp cây non cứng cáp.....

Hôm nay người quay lại,
Không chèo đò như xưa,
Nhưng tâm : nguồn tãi đạo,
Đầy cả một Thuyền Từ,
Đem trái tim vị tha,
Thực hành Bồ Tát đạo

Tất cả những con đò ,
Dù tháng ngày lênh đênh
Vẫn tìm nơi bến đỗ...
Bao con nước xuôi dòng,
Giữa trời đất mênh mông
Cũng quay về biển cả !!! 
 NM

 Người chèo đò năm xưa
Khi tôi trở lại quê nhà, thì chú Tư chèo đò không còn ở đó nữa. Bến đò ngang bên dòng sông nhỏ một thời tuổi thơ tôi thường qua lại đến trường, nay đã được thay thế bằng một cây cầu đúc chắc chắn.
Cảnh vật đã thay đổi nhiều. Chút mảnh hồn quê vẫn còn đó, nhưng người tôi muốn tìm thì bặt vô âm tín.
Chú Tư chèo đò ngày ấy là một thanh niên chất phác lực lưỡng. Chú rất có hiếu lại vui vẻ thân thiện với mọi người. Vì vậy mà ai cũng yêu mến, nhất là bọn trẻ chúng tôi, vốn là khách hàng đi đò mỗi ngày nên được chú luôn quan tâm hỏi han giúp đỡ.
Tôi vẫn thường đi đò chịu của chú. Nhà tôi thuộc loại nghèo nhất xóm. Ba mất sớm. Mẹ tảo tần bữa có bữa không cũng ráng lo cho anh em tôi ăn học. Một hôm chú Tư kêu tôi lại bảo:
- Này Thanh, từ nay chú cho cháu quá giang đi học. Cháu đừng ngại, ráng học thành tài, để còn lo cho mẹ cho em.
Tôi biết chú thường chở đám học trò nghèo qua sông miễn phí, nhưng vẫn thấy ngại ngùng:
- Cháu đi hoài sao được. Nhà chú cũng nghèo. Chú còn phải lo cho bà.
Ối chào! Chú có lấy thêm tiền của một vài đứa như cháu cũng đâu có giàu hơn. Cũng là tình làng xóm quê hương với nhau cả, giúp ai được chút nào thì giúp cháu à! Cháu cứ lo học và sống cho thật tốt. Mai này lớn lên còn giúp ích cho xã hội.
... Sau đó gia đình tôi theo người cậu trôi dạt về thành phố. Mải bận rộn với chuyện cơm áo học hành, trải qua một thời gian lâu tôi mới có dịp trở về thăm quê. Nhưng bến đò xưa không còn; Người chèo đò cũng thôi nghề đưa khách sang sông. Hỏi thăm thì làng xóm chỉ nói là từ ngày bà mẹ già mất đi, chú theo người bà con đi làm ăn xa, đâu tận miền Đông lận. Còn chính xác như thế nào cũng không ai biết rõ lắm.
Tôi cũng chẳng biết thực hư thế nào. Sự náo nức của tôi khi nhìn thấy làng quê mình sung túc giàu có, dường như vẫn thiếu vắng một điều gì. Mỗi lần bước qua cây cầu mới, lòng tôi cứ bồi hồi nhớ lại khoảng trời xanh thuở trước. Tôi đã mắc nợ chú suốt quãng đời tuổi thơ trên những chuyến đò ngang. Không gặp được chú, tôi biết mình mãi mãi làm một kẻ đi tìm…
“Làng mình năm nay cúng Họ lớn lắm, cháu về nhé”.
 Nhận bức điện tín của người bác ruột, tôi vội thu xếp trở về thăm quê lần nữa.
... Suốt ngày mệt nhoài vì lo cúng kiến, lễ lạy. Vừa định đi nghỉ thì nghe bác dâu tôi nói: - Thanh à! Cháu đi lên chùa nghe pháp không? Có thầy ở thành phố về giảng hay lắm. Mà này, bác nghe nói thầy là người làng mình đó, hình như là chú Tư chèo đò ngày trước. Chú đã đi tu, làm tới Đại đức giảng sư gì lớn lắm ở thành phố. Nay mới trở về thăm quê...
Tôi vùng ngồi dậy, đi theo mấy người anh em họ lên chùa. Trời đã tối, ánh trăng rằm soi tỏ con đường quê ngoằn nghèo đầy cát bụi. Mùi hương ngọc lan thoang thoảng từ những ngôi nhà cổ. Tiếng ếch nhái kêu rang cả cánh đồng. Tiếng hò ru con dịu dàng trong đêm vắng. Một khung cảnh làng quê thân quen là vậy, nhưng tâm trí tôi cứ nghĩ ngợi đâu đâu.
Chú Tư chèo đò đã bước sang một cuộc đời khác. Nếu vậy thì hay biết mấy. Có điều, không biết người có còn nhớ đến thằng bé Thanh thường hay đi đò thiếu của chú ngày trước hay không?
Khi chúng tôi tới nơi thì giảng đường đã đông đặc những người. Chắc hẳn đây là lần đầu tiên có vị thầy về quê giảng đạo, nên ai cũng muốn được nhìn được nghe người đồng hương của mình - nay là một vị đại đức rất đạo hạnh uy nghiêm nói chuyện. Vì đến trễ nên chúng tôi không thể vào được bên trong.
Ngồi ngoài, tôi cố lắng nghe từng giọng nói, âm điệu của người… Vẫn là chất giọng miền quê chơn chất trầm ấm, nhưng lời lẽ thì đầy vẻ sâu lắng hùng hồn cứ làm cho tôi thấy ngờ ngợ. Sau bài pháp ngắn nói về đạo lý làm người, vị giảng sư bỗng nói trở nên thân tình hơn:
- Ở đây, quý vị lớn tuổi một chút chắc là đã biết tôi hết rồi. Tôi từng là người chèo đò nơi dòng sông này của hơn mười lăm năm về trước. Từ ngày rời xa quê hương, tôi gặp nhân duyên được xuất gia học đạo. Hôm nay tôi mới có dịp trở về thăm quê nhà.
Thật là vui khi nhìn thấy xóm làng mình ngày càng phát triển. Và cũng thật cảm động với tấm lòng của quý vị đối với đứa con xa quê lâu ngày.
Tôi về đây, trước là viếng thăm làng xóm bà con. Sau nữa, là mong muốn đem ánh sáng của đạo từ bi gội nhuần nơi mảnh đất mà mình từng chôn nhau cắt rốn. Những gì mà tôi góp nhặt, trau dồi học tập qua bao năm tầm sư học đạo, tôi sẽ hướng dẫn trau dồi cùng quý vị; để chúng ta cùng tu tập, hành trì.
Ngày xưa tôi từng làm anh chèo đò đưa người vượt qua dòng sông đời ngắn ngủi, thì nay tôi cũng xin giữ vai trò của người lái đò để đưa mọi người vượt qua dòng sông sinh tử đến được bờ an vui giải thoát...
Thời thuyết pháp đã xong, mọi người kéo nhau ra về. Tiếng nói chuyện lao xao vang xa cả một vùng quê yên tịnh, ai cũng tỏ vẻ kính phục và mãn nguyện. Riêng tôi vẫn còn đứng chần chờ trước sân chùa. Bao nhiêu dự định muốn giải bày đã không cần thiết nữa. Người chèo đò đã vượt qua dòng sông sinh tử thì còn nghĩ gì đến món nợ ngày xưa. Chỉ có người mang nợ thì mãi ôm lòng khoắc khoải …
Có tiếng bước chân người đi đến. Tôi vội xoay qua định tránh sang một bên bỗng nghe tiếng gọi: Phải Thanh đó không? Thầy về hôm rày cứ hỏi thăm con hoài, nay mới gặp. Nghe nói con học hành đã thành đạt, và đang làm việc ở thành phố phải không?
Tôi cúi đầu chào thầy, cất tiếng lí nhí, không biết là do run sợ hay vì quá xúc động. Dạ….. con cũng mấy lần trở về quê... mong gặp lại chú …à…thầy. Không ngờ thầy đã trở thành một vị Đại đức. Cuộc đời đôi khi cũng lắm chuyện bất ngờ. Điều mà trước tiên… con muốn nói với thầy là…về món nợ ngày xưa…
Thầy cười lớn. Nụ cười chứa đựng biết bao sự bao dung và cởi mở chân tình:
- Ừ cuộc đời vẫn luôn chứa đựng những điều bất ngờ như vậy đó con à! Nếu cùng đi trên một chuyến đò thì cuối cùng chúng ta sẽ gặp nhau thôi. Còn món nợ năm xưa. Nào có đáng gì mà con phải bận tâm. Món nợ ấy thầy đã gởi lại cho con qua mấy lời nhắn nhủ. “Phải học cho tốt, để làm một con người tốt giúp ích cho gia đình, xã hội.”
Hôm nay thầy trò mình có duyên gặp lại nhau nơi quê nhà. Thầy cũng chỉ ước mong con luôn giữ vững được điều đó. Sống cho xứng đáng một con người, trước khi muốn làm những điều to lớn khác. Con đang làm việc ắt có điều kiện gần gũi với nhiều thành phần trong xã hội, thì phải biết giữ lòng mình cho trong sáng, chính trực. Đừng để miếng mồi danh vọng bạc tiền làm lu mờ tâm trí …
Dòng sông đời vừa rẽ sóng. Người chèo đò đưa chúng sinh vượt qua dòng sông sinh tử đã trở về quê xưa, sưởi ấm xóm làng qua tâm tình của người đồng hương, chia sẻ cuộc sống bằng trái tim vị tha của bậc Bồ tát.
Tôi lại mắc nợ người thêm một lần nữa. Món nợ ân tình suốt bao nhiêu năm ôm ấp bên lòng vẫn chưa trả được. Khi đi ngang qua chiếc cầu có thấp thoáng bóng dáng màu áo vàng giải thoát, tôi chợt nhận ra là mình cũng vừa bước sang một trang đời mới.
Từ phía bờ xa, con nước xuôi dòng đang quay về biển cả
Lam Khê


 
 
 
 
 
 
 
 
 

Hãy cứ trôi đi sông ơi....
Xin hãy trôi đi dòng sông xanh ,
Đừng lo phải sống kiếp độc hành.....
Đã có bên bờ tôi thúc giục,
Vậy thì xin hãy cứ trôi nhanh !!

Dòng sông nhỏ bé hãy trôi đi,....
Chỉ xin giữ lấy nét xuân thì,
Trôi theo dòng chảy tìm ra biển,
Vẫn giữ màu xanh, xanh mãi xanh !

Tôi vẫn bên bờ luôn dõi trông ,
Mong ngày sông đổ biển mênh mông....
Quên đi những tháng ngày cơ cực,
Chào đón bình minh với biển Đông !?
NM 
 












































 Buổi tối thứ Bảy, tôi cùng người bạn ngồi uống nước dừa bên bờ sông Tiền. Trời đứng gió nhưng dòng sông vẫn trôi miên man và phả hơi nước lên mát rượi. Bạn tôi dân Mỹ Tho nên anh rành phong cảnh nơi đây. Anh đang thao thao giảng cho tôi hiểu lai lịch con sông Tiền. Còn tôi nhìn dòng sông và cố hiểu nó trong im lặng.
    - Mời chú mua vé số.
    Người bạn tôi lắc đầu, xua tay với một cô bé bán vé số mặc áo sơ mi trắng quần xanh và anh tiếp tục nói về dòng sông. Cô bé đưa xấp vé số qua tôi.
    - Mời chú... dạ... mời thầy mua giúp em mấy tấm vé số.
    Tôi nhíu mày nhìn cô bé đứng trước mặt. Ðôi mắt em đen và ướt như dòng sông đêm. Tôi hỏi:
    - Tại sao em gọi tôi là "thầy"?
    - Dạ tại thầy có dạy em năm lớp mười.
    - Em nhận lầm rồi, tôi đâu có dạy em. Tôi mới ở Sài Gòn xuống đây chiều nay.
    - Dạ năm lớp mười em còn học ở Sài Gòn. Sau đó ba em chuyển công tác xuống đây, cả gia đình phải đi theo.
    - Em xuống đây bao lâu rồi?
    - Dạ mới hơn một năm.
    Tôi nhìn chăm khuôn mặt cô bé một lần nữa. Em e thẹn cúi gằm đầu, mái tóc ngắn che khuất hai má. Tôi cố nhớ xem em đã học lớp nào nhưng không nhớ nổi, nên hỏi:
    - Em tên gì?
    - Dạ... tên em... Mà thôi, thầy nhìn em còn không nhận ra, có nói tên thầy cũng không nhớ đâu.
    Tôi gõ gõ ngón tay lên đầu mình, cười nói:
    - Tôi xin lỗi. Các em quá đông tôi không nhớ hết. Ðể tôi mua giúp em hai tấm vé số.
    Tôi rút hai tấm vé số và đưa tiền cho em. Cô bé vẫn cúi đầu nói lí nhí "Cám ơn thầy" rồi em bước vội đi. Người bạn tôi lại tiếp tục nói về những trận thủy chiến của Nguyễn Huệ với quân Xiêm trên dòng sông này. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay: 10 giờ 35. Những cục đá trong hai ly nước dừa đều đã tan. Tôi nói người bạn đi về vì đã cảm thấy buồn ngủ.
    Ði ngang qua một nhà hàng ăn uống xây sát bờ sông, đèn điện thắp sáng choang và nhạc disco vang ra dồn dập, tôi thấy cô bé đứng trước cửa nhà hàng với hai người bạn. Em đang đưa tay lên chùi nước mắt, tôi vội bước đến hỏi:
    - Có chuyện gì vậy em?
    Cô bé ngước nhìn tôi, đôi mắt em đỏ hoe. Em lắc đầu, quay mắt đi và một người bạn của em nói:
    - Có một ông quá say rượu mua mười tấm vé số của nó rồi lên xe hơi đi luôn. Nó không dám về nhà sợ má đánh.
    Tôi móc túi lấy mười ngàn, nhét vào tay cô bé. Tôi vỗ vỗ vào vai em đang run lên.
    - Thôi đừng khóc nữa. Em về đi, khuya rồi.
    Tôi bước đi, người bạn bước theo nhăn nhó nói:
    - Ông chỉ lo chuyện bao đồng.
    Ðể quên chuyện đó đi, tôi cười hỏi:
    - Ông có biết sông Tiền dài bao nhiêu kilomét không?
    Người bạn tôi nhíu mày suy nghĩ.
    - À... à... để tôi nhớ lại coi...
    Buổi sáng chủ nhật, người bạn tôi bận việc nhà, tôi một mình đi dạo chơi trong thành phố. Tôi muốn vào thăm trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu nổi tiếng, nhưng vào ngày nghỉ cổng trường đóng kín, tôi nhìn qua hàng rào chỉ thấy khoảng sân rộng, những dãy nhà lầu và những tàn cây phượng lá xanh non.
    Ở đây mọi con đường hình như đều dẫn ra bờ sông nên đi loanh quanh một hồi, tôi đã đi đến chân cầu Bảo Ðịnh. Tôi vào ăn sáng ở một quán xây trườn ra mặt sông Tiền. Tôi ngồi gần cửa sổ mở ra mặt sông nước đục ngầu phù sa. Bờ bên kia gần chợ, các ghe chở trái cây đậu san sát để lên hàng.
    Người miền Nam vốn hào phóng và tô hủ tíu Mỹ Tho cũng vậy. Ðầy thịt, tôm và cá mực khiến tôi ăn không hết một tô. Tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê đen và nhìn dòng sông lấp lánh ánh nắng ban mai.
    - Mời chú hai, dì hai mua giúp con tấm vé số.
    Nghe tiếng quen quen, tôi quay đầu lại. Cô bán vé số tối hôm qua đang mời hai vợ chồng lớn tuổi ăn hủ tíu ở bàn bên. Ðợi người đàn bà mua vé số xong. Tôi gọi:
    - Này em.
    Cô bé nhìn tôi, cười e thẹn rồi em bước tới, đưa xấp vé số.
    - Mời thầy.
    Tôi lắc đầu, kéo chiếc ghế bên cạnh.
    - Em ngồi xuống đây. Tôi mời em ăn sáng.
    Cô bé ngần ngại ngồi xuống chiếc ghế nệm. Tôi gọi cho em một tô hủ tíu và một ly đá chanh. Trong khi chờ đợi, tôi hỏi:
    - Em tên gì?
    Cô bé lấy ngón tay gạch gạch lên mặt bàn rồi ngẩng đầu lên nói:
    - Em nói thầy đừng cười nghe. Em tên là Thanh Giang.
    - Tên em hay vậy mà em nói buồn cười.
    - Không phải vậy. Em có hỏi ba em tên đó nghĩa là gì. Ba em nói đó là tên một dòng sông nhỏ ở miền Trung, quê hương của ba em. Em sợ thầy cười vì trên đời này làm gì có "dòng sông xanh". Như sông Tiền đây nè, hôm thì nước đục ngầu hôm thì nước đen thui, có hôm nào nước trong xanh đâu.
    - Có chứ. Hôm nào trời đẹp, em thức dậy thật sớm sẽ thấy dòng sông nước trong xanh.
    - Ðâu có ai mua vé số lúc thật sớm mà thầy biểu em thức dậy.
    Người chủ quán bưng tô hủ tíu và ly đá chanh đặt trên bàn. Trong khi cô bé ăn hủ tíu, tôi khuấy đường trong ly đá chanh của em. Sức em thật khỏe, chỉ một loáng em đã ăn hết tô hủ tíu to đầy. Em cầm ly đá chanh và uống một hơi hết nửa ly. Tôi đốt một điếu thuốc hỏi:
    - Em đi bán vé số buổi sáng, buổi tối, vậy hàng ngày em đi học buổi chiều à?
    Cô bé lắc đầu.
    - Em nghỉ học rồi.
    - Ồ ! Sao vậy?
    - Em phải phụ giúp ba má nuôi ba em nhỏ.
    - Em hãy cố gắng đi học thêm lớp đêm.
    - Em bán vé số kiếm chưa đủ tiền chợ cho gia đình, tiền đâu mà đi học lớp đêm.
    Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
    - Em hãy đi học tiếp đi. Hàng tháng tôi sẽ gửi cho em một số tiền đủ để trả học phí.
    - Nhưng... lương thầy chưa đủ sống mà.
    - Tôi có đi dạy kèm Anh văn nên cũng đủ sống. Vậy em đừng ngại.
    - Cám ơn thầy. Nhưng học xong lớp 12 em cũng phải nghỉ học phụ giúp gia đình. Vậy em có học thêm một năm cũng chẳng được gì.
    - Hay em học thêm một nghề gì đó như cắt may chẳng hạn. Không lẽ em đi bán vé số hoài.
    Cô bé thở dài:
    - Em như dòng sông chết. Nó đâu có còn trôi tới biển được mà lo.
    Tôi nhăn mặt nói:
    - Sao lại dòng sông chết. Em là dòng sông xanh.
    Cô bé lắc đầu:
    - Ba em mới về thăm quê và cho biết dòng sông nhỏ ở làng em đã khô cạn vì qui hoạch làm thủy lợi đã rút hết nước của dòng sông. Dòng sông đó không còn trôi di nữa. Nó đã chết. Như em vậy.
    - Em đừng nghĩ ba láp. Em vẫn sống như răng đây nè.
    - Không phải vậy đâu. Nhiều khi cầm xấp vé số trong tay nhìn bạn bè đến trường, em có cảm tưởng mình như dòng sông chết.
    Cô bé cúi đầu xuống rồi ngước lên hỏi:
    - Bao giờ thầy về lại Sài Gòn?
    - Hai giờ chiều nay. Sáng mai tôi phải đi dạy sớm.
    Cô bé xòe xấp vé số ra nhìn rồi em rút một tờ đưa cho tôi.
    - Em xin tặng thầy.
    Tôi xua tay.
    - Thôi, em hãy giữ lấy mà bán. Tướng tôi dễ "trúng gió" chứ không dễ trúng số.
    - Thầy chê quà em tặng của em tầm thường? Thầy hãy đọc hai số cuối.
    Tôi cầm tấm vé số, đọc hai số cuối rồi cười nói:
    - Em muốn tôi đánh đề hai số này dễ trúng hơn.
    - Không phải vậy. Ðấy là tuổi của em.
    Tôi chẳng hiểu em muốn nói gì nhưng tôi cũng gấp tấm vé số lại bỏ vào túi và nói:
    - Cám ơn em. Trước khi về Sài Gòn, trưa nay tôi muốn mời em ăn cơm canh chua cá lóc ở quán cây me. Chắc em biết quán đó.
    Cô bé gật đầu.
    - Thầy đợi em được không?
    - Tôi chỉ có thể đợi em đến 1 giờ trưa. Sau đó tôi phải ra bến xe đò về Sài Gòn.
    - Thầy đợi em lâu hơn được không?
    Tôi cười.
    - Ðợi em bán hết xấp vé số à? Như thế chắc tôi phải nhịn đói về Sài Gòn.
    Cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi, nói:
    - Không phải vậy. Hãy đợi em đủ sức trôi đi.
    Nói xong, cô bé cầm xấp vé số bước ra khỏi quán. Em chạy băng qua đường, vào một quán cà phê đang đông người ngồi. Tôi nhìn theo em và thầm nói: Hãy trôi đi, dòng sông xanh nhỏ bé. Hãy trôi đi.
    Nhưng còn tôi? Tôi có giúp được gì cho dòng sông ấy trôi đi hay chỉ đứng yên trên bờ hò hét, thúc giục !
 

Đoàn Thạch Biền 

Nhớ con sông quê hương
Tế Hanh
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
*
Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng “miền Nam”
Tôi nhớ khôn nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết…
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương…
(1956)
 Bến sông quê
Nghề nghiệp và cuộc đời cho tôi đi rộng dài, dọc ngang đất nước. Đã gặp biết bao bến sông. Có bến sông buồn, có bến sông vui. Có bến sông gần, có bến sông xa. Mỗi bến sông dường như có tâm trạng riêng, nỗi niềm riêng, có uẩn khúc riêng, số phận riêng... Và, cuộc đời mỗi người đàn bà cũng vậy, giống như một bến sông.


 
 
 
 
Tôi là người từ thuở ấu thơ đến khi khôn lớn, đều sống nơi thành phố. Không hiểu sao suốt cuộc đời bị ám ảnh bởi những bến sông. Những bến sông có danh được con người bồi đắp. Và những bến sông vô danh, tình cờ mà được sinh thành. Dù có danh, vô danh, những bến sông làm nên nét duyên thầm không thể thiếu của những dòng sông.
Những bến sông hệt bức tranh thuỷ mặc. Có cây hoa gạo cháy đỏ suốt một góc trời. Có cây đa cúi mình tỏa bóng mát. Có những vạt cải “hoa vàng mấy độ”. Có vạt mùi thơm đâu thấy hoa, chỉ thấy hương, mùi thơm suốt không gian, thời gian. Những bến sông như những trang văn, chỉ một con đò nhỏ im lìm, đìu hiu trên sóng nước. Tiếng người đàn bà trẻ ru con u buồn như tiếng lòng goá phụ.
Bến sông đầu tiên tuổi thơ tôi gặp là bến Phà Đen, bên con sông Hồng. Hai cái tên khắc khổ và mộng mơ đối lập nhau, phản chiếu nhau, nhưng lại gắn bó cận kề nhau không thể thiếu. Những năm tháng ấy, chiến tranh đang rập rình đâu đó. Trời Hà Nội chốc chốc ì ầm tiếng máy bay, tiếng pháo cao xạ. Tiếng còi báo động, chốc chốc lại rú lên, náo loạn thành phố.
Chúng tôi, lũ trẻ 13 - 14 ngây thơ và khờ dại phải đi sơ tán. Cha tôi đưa tôi đến bến Phà Đen xuống ca nô về một vùng quê. Buổi chiều ấy, con sông Hồng bỗng cuộn đỏ phù sa, như đang phải chịu một nỗi đau không che giấu. Tôi, đứa con gái thành phố, vẫn còn thích chơi búp bê và mơ màng thế giới thần tiên của những câu chuyện cổ tích, lần đầu tiên xa nhà, xa vòng tay cha mẹ.
Bước xuống cầu tàu, nhìn lên bờ thấy cha, tôi bỗng oà khóc nức nở. Cha tôi đứng trên bến sông nhìn xuống. Gương mặt người đầy vẻ xót thương, chịu đựng khi thấy tôi khóc. Trong gia đình, tôi là đứa con cha phải lo lắng nhất vì yếu ớt, gai ngạnh nhưng cũng được cha yêu thương nhất bởi nhiều lẽ, dù tình yêu của cha với đứa con nào cũng là vô bờ bến.
Buổi chiều ấy, khi gắng lau nước mắt để cha khỏi buồn hơn, nhìn lên bờ, nơi cha đứng, tôi bỗng cảm nhận, bến Phà Đen hệt người mẹ lam lũ, chịu đựng. Những vệt than đen óng phủ đầy gương mặt bến sông. Tiếng còi ca nô cất lên tạm biệt, não nề. Khói bụi, khói than, khói ca nô lan toả. Mồ hôi lao động hay nước mắt âm thầm của người mẹ?
Để từ cái buổi chiều đó, bến sông như một sự đồng cảm, khiến tôi quyến luyến. Để từ đó, với tôi, mỗi bến sông mang bóng dáng một gương mặt đàn bà 
Năm tháng qua đi, nghề nghiệp cho tôi theo rộng dài, dọc ngang đất nước. Tôi đã gặp biết bao bến sông. Có bến sông buồn, có bến sông vui. Có bến sông gần, có bến sông xa. Mỗi bến sông dường như có tâm trạng riêng, có nỗi niềm riêng, có uẩn khúc riêng và có số phận riêng...
Có một bến sông tôi đã ngỡ ngàng và thích thú, bến sông nhỏ một miền quê. Bến sông nhỏ, và con phà – “bạn tình” của nó, cũng nhỏ. Nhỏ đến nỗi, mỗi chuyến qua sông, con phà chỉ chở được một chiếc ô tô. Ai đó, đã thú vị đặt tên là con phà “Chung thuỷ”.
Buổi sáng ấy, bước chân lên phà, quay lại nhìn, tôi có cảm giác gương mặt bến sông chăm chú dõi theo. Gió thổi rất nhẹ. Hơi thở đất trời hay chính hơi thở của bến sông, mang nỗi buồn vu vơ? Buổi chiều trở về, từ trên con phà “Chung thuỷ”, tôi không tin ở mắt mình. Vạt nắng chiều xiên xiên khiến gương mặt bến sông như hồng lên, thẹn thò, gương mặt người vợ trẻ mới cưới gặp chồng. Những bụi hoa xấu hổ đu đưa. Một chú cún con ở đâu chạy xổ ra, đứng trên bờ, vẫy đuôi mừng cuống quýt.
Nhưng ấn tượng nhất với tôi là bến sông miền quê quan họ ngày giáp Tết. Ồn ào, như “Gái thương chồng đương đông buổi chợ”, dù gió se se lạnh phả từ mặt sông. Trên bến, hàng dãy ô tô khách, ô tô tải, ô tô con xếp hàng. Hành khách, người đứng người ngồi, người xe máy, xe đạp, người đi bộ. Người nào người nấy hàng hoá, hành lý tất bật. Một vài chú gà trống, lợn con nằm trong những chiếc rọ tre, giương đôi mắt ngây thơ.
Tiếng chào nhau, tiếng trò chuyện huyên náo. Đâu đây, làn điệu quan họ “Ngồi tựa ý ...a... mạn thuyền...” của các liền chị nón thúng quai thao, xiêm áo mớ ba mớ bẩy, văng vẳng từ một bộ dàn cát xét cũ. Trên sông, chiếc phà lừng lững, vững chãi, cứ từ từ trôi xuôi cập bến. Tiếng còi phà cất gọi âu yếm, như từ trong vồng ngực khỏe khoắn, trầm ấm, yêu thương... Trên bờ, những đôi mắt hướng cái nhìn ngóng đợi. Tiếng cười giòn tan của mấy cô thanh nữ. Gương mặt bến sông rạng ngời, mặn nồng niềm hạnh phúc. Mặt đất mịn màng, ẩm ướt. Những vạt rau bắp cải cuộn tròn, xanh biếc màu xanh ngọc. Những vồng cải trổ hoa vàng bé xíu, mơn mởn, căng tràn nhựa sống chỉ chờ có người đến hái.
Năm tháng qua đi, cuộc sống ngày càng thay đổi. Những bến sông xưa cũ tôi gặp giờ cũng đổi thay nhiều. Có những gương mặt bến sông thoáng nét phôi pha. Bởi mưa gió của thời gian hay mưa gió trần gian? Có những bến sông, con phà quê vẫn mặn nồng, quấn quýt. Có những bến sông, con phà cỗi ngày nào đã hoá thân thành chiếc cầu sắt, cầu treo hiện đại vắt mình trên sóng nước. Người đi xuôi ngược, tấp nập thuận tiện hơn. Ai cũng mừng, đỡ phải lo tai nạn sông nước, phải chen chúc đợi chờ.
Tôi đã gặp lại một bến sông ngày ấy. Giờ, bên cạnh bến sông xưa, là một cây cầu sắt vươn dài. Đứng từ bến sông nhìn lên, cây cầu sắt hiên ngang, mạnh mẽ, ngạo nghễ dường bao. Như hối hả nối những bờ vui. Như hối hả tìm kiếm những niềm vui. Bên cây cầu sắt, bến sông trông mới “cũ kỹ”, “nhàm chán” làm sao. Tôi như đọc thấy trên gương mặt bến sông, sự nhẫn nại chen nỗi đau xa cách, xa lạ, ngay cả khi “họ” vẫn ngày ngày nhìn thấy nhau, trông thấy nhau, vẫn sống cạnh nhau.
Ngày ngày, chỉ có những đứa trẻ vô tư nô đùa trên bến sông. Những người đàn bà giặt giũ, vo gạo, thở than với nhau về phận đàn bà, về kiếp nhân sinh. Gương mặt bến sông lặng lẽ lắng nghe, như mỉm cười, suy ngẫm. Nhưng vào những ngày hè nóng bức, oi ả, cây cầu sắt bỗng giật mình chợt nhận ra, ai cũng chỉ vội vã đi qua thật nhanh dưới cái nắng chói chang, thiêu đốt. Có những lúc cầu vắng tanh vắng ngắt. Không chịu nổi nắng mưa và sự thờ ơ của con người, đây đó, trên thân cầu những vết hoen rỉ đã bắt đầu lộ ra...
Người ta lại tìm đến bến sông, như tìm thấy sự dịu mát, trong lành, yên ả. Trai gái yêu nhau, hò hẹn bên bến sông. Người già hóng mát tìm ra bến sông. Cây gạo nở hoa, và cây đa bến sông lại cúi mình lặng lẽ toả bóng mát, lặng lẽ chở che. Hoá ra, dù năm tháng phôi pha, dù vật đổi sao dời, dù mưa nắng khôn lường, bến sông vẫn chính là linh hồn, là nơi trú ngụ yên lành của dòng sông.
Và đời mỗi người đàn bà cũng vậy, là một bến sông.