Thứ Ba, 29 tháng 5, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Cây bàng lá đỏ


Đất đỏ màu lá,
Tàu dừng lại sân ga đầy lá đỏ,
Thoáng hồn xưa về lại với người xa...
Những toa tàu ô cửa chợt mở ra,
Lòng giao động như cây vừa trút lá !

Năm tháng trôi qua, ngỡ quên ngỡ lạ,
Đoá hồng vàng còn thắm buổi bình minh ?!
Trên sân ga chiều lá đỏ, một mình...!
Luôn trông ngóng người năm xưa trở lại !!

Hình vẫn đi và bóng thì xa mãi,
Cơn gió chiều xua lá đỏ bay bay...
Kỷ niệm xưa ghi nhớ phút chia tay,
Người ở đó phương trời xa, xa thẳm!
NM

Minh họa: PHÚ NGUYỄN
Cây bàng lá đỏ
Bưu điện nơi tôi làm việc nằm bên một ga xép. Đó là một nhà ga cũ kỹ, nghèo nàn với một dãy nhà cấp bốn sơn tường vàng xỉn, mái ngói phủ đầy rêu và bụi. Giữa sân ga có một cây bàng. Tôi thích nó nhất vào mùa đông. Khi mùa đông thổi những cơn gió lạnh ù ù qua cánh đồng trống hoác trơ rạ trắng sau sân ga, nó trầm ngâm đứng nhìn những hành khách uể oải, mỏi mệt vội vã mua một vài món hàng khi tàu dừng trong chốc lát.
Cây bàng không đỏ lá rải rác suốt mùa đông. Nó lặng lẽ và tinh nghịch giấu những chùm quả chín vàng dành dụm được suốt mùa thu trong tán biếc. Đột nhiên, vào một ngày cuối năm, khi những đám mây giấu mình trong màn trời xám ngoét, những đàn chim chiều thảng thốt kêu ngang trời, những đoàn tàu hối hả xình xịch chở khách ngược bắc, xuôi nam về quê. Cây bàng bắt đầu cựa mình, những chiếc lá thầm thì với gió, vàng lốm đốm, đỏ dần, cho đến một buổi sáng nó đỏ rực như một bông hoa khổng lồ, kiêu hãnh, lộng lẫy trước bao con mắt trầm trồ ngưỡng mộ. Cây bàng đứng đó, những chiếc lá đỏ mong manh run rẩy. Cho đến một hôm, không hề hẹn trước, một cơn gió lớn ào qua. Cả cây bàng thoắt rùng mình và ào ào trút lá. Dường như chỉ trong một khoảnh khắc, những chiếc lá đỏ ối chao trên mặt đất và thân cây trơ trụi, bẽ bàng. Tôi hụt hẫng, nuối tiếc.
Thiên đã đến vào một chiều như vậy. Chuyến tàu bắc nam như thường lệ ghé vào ga xép trong chốc lát. Thiên trẻ trung trong áo thun trắng, quần Jean xanh dương đứng giữa sân nhìn đăm đăm đám lá bàng đỏ ối trên nền gạch.
“Chị bán cho một con tem”.
Thiên nhìn tôi lơ đãng, cũng lơ đãng yêu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên vì một hành khách trên tàu hỏi mua tem. Bình thường chỉ có người trong làng mua tem, gửi đi và nhận về những bức thư. Còn hành khách trên tàu, họ đến và đi ở hai thành phố lớn nhất nước, họ chẳng mấy khi có nhu cầu mua một con tem ở ga xép tỉnh lẻ.
“Sao không quét lá đi hả chị?”.
“Không quét vội, vì tiếc lắm!”.
Tôi nghĩ đó là một câu hỏi vô bổ, cũng trả lời một cách hững hờ vô bổ. Khi nhìn Thiên bước chân trên đám lá bàng đỏ ối, tôi đã ước mình có thể vẽ một bức tranh: Một thanh niên đang bước trên lá đỏ, trước mặt anh ta là những ô cửa toa tàu mở ra những khoảng trời thăm thẳm xa xôi...
Tôi nhận được thư của Thiên hai tuần sau đó: “Mình không biết bạn tên là gì, đành gửi theo địa chỉ nơi bạn làm việc. Mình là Thiên, học mỹ thuật trong thành phố Hồ Chí Minh. Bạn có hỏi là ở Hà Nội cũng có trường Mỹ thuật, sao phải lặn lội đi học xa thế không? Ừ, đó là một câu chuyện rất dài.
Đã hai năm rồi mình về nhà ăn Tết vào những ngày cuối cùng của năm. Năm ngoái mình đã đi qua và nhìn thấy cây bàng trong sân ga chỗ bạn. Khi đó nó đỏ rực như một bó lửa khổng lồ. Bạn đã bao giờ nhìn thấy phong cảnh nào đó khiến bạn nghẹn thở như khi gặp người tình chưa? Nó đẹp tuyệt vời bạn ạ! Đẹp đến nỗi khi nhìn thấy nó qua ô cửa toa tàu, tim mình nghẹn lại. Và năm nay mình lại quyết tâm trở về vào đúng ngày đó, mình hy vọng sẽ lại được chiêm ngưỡng nó kiêu hãnh như thế. Nhưng có vẻ như mình đã đến muộn. Tiếc thật đấy!”.
“Bạn đã đến muộn khoảng vài phút gì đó. Khi nó rụng hết lá một chốc, mình thấy bạn từ trên tàu bước xuống. Có thể bạn lỗi hẹn, cũng có thể nó không chờ được bạn” - Tôi đã viết lại cho Thiên như thế.
Trong những bức thư sau, tôi kể cho Thiên nghe về cây bàng. Thiên bảo vạn vật thú vị lắm. Hồi trước Pauxtopxki có một cây đèn không chao lạ lùng. Ông ấy đặt nó trên bàn làm việc. Nó tắt không phải chỉ vì riêng một rung động nhỏ nhất của không khí, mà thậm chí vì một cái nhìn chăm chú. Chỉ cần mải suy nghĩ và nhìn đăm đăm vào nó là ngay lập tức nó bắt đầu kêu lép bép một cách thảm hại, nhấp nháy, nhấp nháy rồi lặng lẽ tắt ngấm. Đến nỗi ông ấy phải tránh không dám nhìn nó đấy.
Tôi từng có một người bạn trai. Chúng tôi cùng là con nhà nghèo, bằng tuổi nhau, cùng học một lớp, ngồi chung một bàn và đi về chung chiếc xe phượng hoàng đen cũ. Mỗi ngày đi học qua ga xép, chúng tôi ngắm nhìn những con tàu ghé vào sân ga trong chốc lát, hành khách bước xuống mua vài thứ quà vặt, có khi chẳng mua gì, đơn giản chỉ để vươn vai và hít thở bầu không khí còn trong trẻo từ cánh đồng làng đưa lại. Trước đây, vào mùa hạ, thanh niên làng tôi thường kéo nhau ra đường ray ngồi chơi hóng mát. Khi có tín hiệu tàu về, họ dạt xuống sát mép ruộng, thích thú nhìn con tàu lao qua sầm sập. Biết bao con tàu đã đi qua làng, biết bao thanh niên làng cũng từ ga xép mà tỏa đi khắp mọi miền đất nước.
Suốt mấy năm trời tôi không thể nào quên buổi chiều mùa đông chăn trâu trên cánh đồng làng vi vu gió. Khi con tàu rầm rập lao về phía ga xép. Hùng, bạn tôi mải đuổi theo con sáo nhỏ cậu ấy nuôi, đã bị cuốn vào đoàn tàu và mãi mãi tuổi mười hai, không bao giờ lớn nữa.
Tôi đã mơ thấy Hùng trở lại thăm tôi vào đúng đêm sau buổi chiều Thiên bước xuống sân ga. Vẫn giọng nói của Hùng, vẫn niềm vui sôi nổi của tuổi mười hai, nhưng vóc dáng và gương mặt Hùng lại là Thiên, Hùng bảo đang học mỹ thuật. Hôm nào đó sẽ vẽ tặng tôi bức tranh về cây bàng lá đỏ...
Tôi xao động nhiều ngày với ý nghĩ ngớ ngẩn rằng. Liệu có thể linh hồn Hùng đã mượn hình hài của Thiên và trở về trong buổi chiều đó hay không? Liệu có thể nào chàng trai xa lạ kia là hiện thân của người bạn tôi đã mất?
Cho đến khi tôi nhận được thư của Thiên.
Tôi viết thư kể cho Thiên nghe về Hùng và cái chết đau buồn tuổi mười hai của cậu ấy. Tôi kể về khoảnh khắc kinh hoàng vô tận khi người bạn thân nhất của mình như một cánh chim lỡ nhịp bay và gió cuốn đi không thể nào cưỡng lại... nhưng không kể về giấc mơ đó.
Thiên viết thư cho tôi đều đặn. Phần lớn những bức thư chỉ kể về những việc cậu ấy làm, những gì cậu ấy nghĩ, những nơi cậu ấy đi và cả về một người con gái cậu ấy nhớ. Những bức thư, những kể lể đó hệt như một trang nhật ký bỏ ngỏ.
Tôi đã nhớ mong đến tê dại lòng mình những bức thư của Thiên...
Thiên gửi cho tôi cuốn “Bông hồng vàng và bình minh mưa” của Pauxtopxki”. Khi Pauxtopxki kể về những con tàu chở ông đi qua những miền đất lạ của nước Nga xa xôi, phong cảnh qua ô cửa toa tàu đẹp đến nỗi tim Thiên thắt lại. Thiên tưởng như mình là Pauxtopxki, có thể nhào qua ô cửa đó và ôm lấy những làng mạc, những cánh đồng, những dòng sông như ôm một người tình lâu ngày xa cách. Tôi đã đọc đến mỏi mòn những con chữ đó, rồi không hiểu vì sao một hoài niệm xa xôi, một khát vọng mơ hồ, mênh mang nào đó cứ luẩn quẩn trong lòng. Tôi day dứt, muốn bứt chạy khỏi ga xép, khỏi miền ký ức u buồn về người bạn thân đã mất. Và tôi cứ ngẩn ngơ nhìn những đoàn tàu dừng lại trong chốc lát, nghĩ những ô cửa kia đang mở ra những khung trời thăm thẳm xa xôi. Tôi hy vọng khuôn mặt sáng ngời của Thiên ló qua ô cửa và vẫy gọi.
Tôi không có nhiều chuyện để kể cho Thiên ngoài nỗi buồn thông thường của một cô gái trẻ với công việc đơn điệu ở một ga xép tỉnh lẻ. Cô ấy đã từng không còn ngưỡng mộ những con tàu đi từ sau cái chết của người bạn trẻ. Nhưng một hôm nào đó, những khát vọng về chuyến đi từ xưa trong cô trỗi dậy, và cô vội che đậy nó đi như đó là tội lỗi.
Tôi đành kể cho Thiên nghe về cây bàng. Về người lính trẻ làng tôi đã trồng nó trước khi lên tàu đi chiến đấu. Người lính đó đã trở về làng sau chiến tranh, lập gia đình và hạnh phúc. Cây bàng của anh vẫn đứng đó như chứng nhân của những chia ly và đoàn tụ. Lẽ ra tôi có thể bịa đặt rằng người lính ấy đã hy sinh. Như thế tàn nhẫn quá. Để làm gì, có thể đưa Thiên về vẽ cây bàng lá đỏ hay không?
Tôi đi về qua khoảng giữa cánh đồng, nơi trước đây Hùng tử nạn, nghĩ về một kiếp người mong manh trong bao la vũ trụ, nghĩ đến cây bàng trong sân ga, nghĩ đến cây đèn không chao của Pauxtopxki. và nghĩ nhiều đến một câu hát cũ: “Cho những con tàu đi mang bao yêu thương xuôi về bến đợi...”.
Tôi vẫn nhận được thư Thiên kể về những nơi mà cảnh đẹp khiến trái tim cậu ấy thắt lại... Tôi vẫn mơ về Hùng với vóc dáng và khuôn mặt Thiên.
Năm đó, cây bàng đỏ rực lá suốt một thời gian dài hơn thường lệ. Mỗi cơn gió nhẹ dù chỉ đủ lay một phiến lá cũng làm lòng tôi se thắt. Tôi phập phồng lo sợ nó sẽ khiến cây bàng trút toàn bộ những phiến lá đỏ tuyệt đẹp trước khi con tàu đưa Thiên trở lại.
...Những con tàu lần lượt dừng ở sân ga...
Khi con tàu cuối chiều rời đi, cây bàng lập tức rùng mình trút lá.
Lá ào ào rụng như những hạt mưa khổng lồ đỏ ối.
Thiên không trở lại.
Vào mùa xuân, sau kỳ nghỉ Tết, tôi nhận được một món quà. Đó là một bức lụa mầu vẽ cây bàng đỏ rực bên những ô cửa toa tàu. Những ô cửa toa tàu mở ra những khoảng trời xa xôi.
Và Thiên ở đó.
Phạm Thanh Thuý 

Tiếng chổi khuya,
Đêm đêm tiếng chổi khua vang,
Biết bao nhiêu chiếc lá bàng gom đi....
Tuổi thơ nào có biết gì,
Ngỡ bàng không rụng lá vì thần tiên !
NM

Cây bàng không rụng lá

Phố tôi tên thật không phải là phố "Cây Bàng". Nhưng bọn trẻ con chúng tôi lại cứ thích đặt tên phố theo nhận xét của mình. Chẳng hiểu những đứa khác đã nghĩ thế nào; riêng tôi, tôi gọi thế là bởi phố tôi có một cây bàng.
Ai đã trồng cây bàng ấy, tôi không rõ. Chỉ biết rằng bây giờ cây đã to lắm rồi. Đến mùa quả chín, một mùi thơm ngòn ngọt lờ lợ tỏa ra, lên mãi tận gác ba, gác tư.
Nhưng cây bàng này thật chẳng có gì là đặc biệt. Vỏ nó xù xì, lá nó hung hung và dày như cái bánh đa nướng. Tán bàng xòa ra giống mấy cái ô nối tiếp nhau ba, bốn tầng. Cây bàng hiền lành như một người ít nói. Dưới gốc, người ta hay dựa xe đạp và có khi đứng tránh mưa nhỏ. Tôi cũng không để ý đến cây bàng lắm. Chắc là tại nó mọc ở mặt hè, còn tôi, tôi ở mãi trên gác. Song, đến một ngày nọ (là ngày bao nhiêu, tôi quên mất rồi) khi tôi đã biết suy nghĩ, tôi mới nhận ra được một điều rất lạ: "Cây bàng này không rụng lá".
Thế thì tài thật. Đã có lần, tôi đứng chờ ở dưới gốc khá lâu mà chẳng thấy có cái lá nào rụng xuống cả. Tôi nhớ rằng, cách đây ít lâu, cây bàng trụi thùi lụi, cành đâm dọc đâm ngang, có bói cả ngày cũng không ra một cái lá nào. Vậy thì bấy nhiêu lá đã biến đi đâu?
Lạ xiết bao khi một lần tôi thoáng trông thấy một chiếc lá bàng vừa rời cành, chao xuống gốc. Tôi vội vàng chạy hết bốn mươi tư bậc thang xuống đến nơi, thì chẳng thấy chiếc lá nào trên mặt đường hết cả...
Sực nhớ tới câu chuyện "Quả táo vàng" mà tôi đã đọc trong sách, tôi ngờ rằng có lẽ phải dùng gậy vàng, giả bạc để chọc và hứng mới lấy được cái lá bàng ấy chăng? Hẳn khi lìa cành, lúc chạm phải mặt đất là chiếc lá biến ngay đi?
Tuy rất ham đọc truyện cổ tích, nhưng tôi chưa có thể tin ngay rằng chiếc lá bàng kia đã chui vào trong lòng đất.
Vậy thì cái lá ấy nó có rụng không?
Tôi đem chuyện đó hỏi bố tôi. Bố tôi là một thầy giáo, hẳn bố tôi biết rõ hơn tôi nhiều điều.
Nghe tôi kể xong, bố tôi hơi nhíu đôi lông mày, từ từ đứng dậy.
- Nào, con ra đây.
Hai bố con tôi cùng đứng ngoài hành lang, nhìn xuống đường phố. Cây bàng như ngủ yên dưới bầu trời thoang thoảng ánh trăng non...
- Lúc này là tám giờ, con ạ...
Tôi không hiểu bố tôi nói "tám giờ" để làm cái gì. Chỉ biết rằng, độ vài chục phút nữa là tôi đi ngủ. Hôm nay có thể vì câu chuyện cây bàng này mà tôi sẽ thức lâu hơn.
Bố tôi nói tiếp:
- Con có thể thức đến mười rưỡi được không?
- Được ạ.
Tôi chưa kịp nghĩ gì thêm thì bố tôi lại chậc lưỡi:
- Thôi, con cứ ngủ đi rồi bố gọi.
Thấy vậy, tôi càng lạ về chuyện tại sao bố tôi đã bảo tôi thức, rồi lại bảo tôi ngủ. Tôi định bụng cứ thức để chờ. Nhưng rồi, tôi buồn ngủ và định là... ngủ tạm thôi. Trong nhà, lúc này chỉ còn có một mình bố tôi ngồi chấm bài. Tôi đoán mãi không ra những điều bí mật gì đây mà bố tôi chưa cho tôi biết...
Thế rồi, tôi ngủ thật.
Tôi đã ngủ như thế nào, chỉ có hai hàng mi của tôi rõ mà thôi. Lúc bố gọi tôi dậy, thì trời vừa mưa xong. Mưa mùa hè, thường là hay đột ngột vậy.
Bố tôi bảo tôi mặc quần dài vào rồi đi xuống gác.
Trời đã khuya khuya, quãng gần mười một giờ rồi thì phải.
Xuống tới mặt đường, tôi đứng sững lại. Trước mặt tôi, những chiếc lá bàng nằm la liệt trên đường phố như những cái quạt mo lung linh ánh điện. Thật là lạ, lá rơi nhiều thế này mà đến sáng mai, tuyệt không còn một cái! Xa xa... đâu tận cuối phố, tôi nghe thấy tiếng chổi tre khua loạt soạt. Từ nãy, bố tôi chỉ đứng yên. Tôi ngước nhìn, dò hỏi. Bố tôi nói khẽ:
- Con có nghe thấy gì không?
- Có ạ. Tiếng chổi tre.
- Đó, những chiếc lá sẽ đi theo cái chổi tre ấy đấy...
Cùng lúc, tôi nhìn thấy hai bác công nhân mặc áo khoác xanh, miệng đeo khẩu trang trắng, đang vừa đi vừa quét đường phố và cúi nhặt những chiếc lá rơi bỏ vào thùng rác có bánh xe...
Tôi vụt hiểu tất cả: vì sao cây bàng không rụng lá.
°
Sớm hôm sau, tôi đi học. Khi qua những cây bàng, tôi thấy đường phố vẫn sạch trơn.
Khác với mọi lần, buổi nay tới lớp, tôi bước chầm chậm để nhìn được kỹ những cây bàng. Cây bàng có rụng lá. Những cái lá ấy không chui vào trong lòng đất mà được các bác công nhân của thành phố quét sạch, mang đi. Thế ra, khi tôi ngủ rồi, vẫn có người làm việc. Nếu không, nếu không có người làm việc trong đêm, quét những cái lá rụng ấy đi, thì thành phố sẽ ngập lá bàng...
Từ trên cây, một chiếc lá nhẹ nhàng chao xuống. Chiếc lá vừa chạm đất, tôi vội nhặt ngay lên bỏ vào thùng rác. Tôi vụt nhớ ra cái lần tôi chạy hết bốn mươi tư bậc thang để đuổi theo chiếc lá mà không thấy.
Cầm chiếc lá trong tay, tôi hiểu rằng tôi không phải là đứa trẻ đầu tiên đã nhặt lá rơi cho sạch sẽ đường phố. Và, chắc chắn rằng, tôi cũng không phải là đứa cuối cùng.
Tôi không có chổi tre để quét đường phố. Nhưng tôi rất sẵn sàng làm công việc đó để quét hết những chiếc lá rơi cho thành phố của tôi đẹp đẽ. Và, còn để cho những đứa trẻ nào đấy, cũng bằng tuổi tôi, ngỡ rằng cây bàng không rụng lá... 
Phong Thu
   
Đổi dời,
Đâu rồi cảnh cũ ngày xưa,
Và đâu tình cũ ngây thơ hôm nào...
Ngày mưa lá rụng lao xao,
Bàng rơi sắc đỏ xiết bao u buồn !
Xoay vần sự thế sầu tuôn,
Thôi lau nước mắt xem thường gian nan...
Thu qua rồi đến Đông tàn,
Nhớ chi Xuân ấy riêng mang nỗi sầu !! 
NM

                  Cây bàng tuổi thơ
Chị được thừa hưởng từ mẹ mái tóc dài óng ả, nụ cười hiền hậu và những vần thơ xinh xinh cùng cả cái mác sinh viên khoa văn trường Tổng hợp. Thơ của chị không gửi đăng báo, chỉ viết cho bạn bè và người thân. Mỗi lần đọc xong những vần thơ dịu dàng ấy không biết nên buồn hay nên vui, thì cũng nắng, cũng mây, cũng gió… có lẽ là thứ cảm giác nhẹ nhàng kiểu như ta đang đứng ở sụ giao thoa giữa những cung bậc nhạt nhòa. Bởi vậy vui lên một chút cũng được hay buồn đi một tẹo cũng chẳng sao.
    Em không biết làm thơ. Với em thơ chỉ là trò chơi cút bắt của những ngôn từ đỏng đảnh mà em thì chưa bao giờ tập cho bản thân thói kiên nhẫn. Bù lại thỉnh thoảng truyện ngắn của em cũng được xuất hiện trên báo này báo nọ, đủ để lũ bạn có cớ bắt em mở hầu bao cho những khoản chi bất ngờ không được tính đến trong dự toán ngân sách. Theo truyền thống gia đình em cũng học tổng hợp nhưng lại ngành luật. Ước mơ được trở thành một vị thẩm phán đã đeo đuổi tuổi thơ của em.
    Gia đình chỉ có bốn người nhưng khoảng thời gian duy nhất để cả nhà sum họp đầy đủ chỉ dồn lại vào bữa cơm tối. Thì thời buổi kinh tế thị trường làm trong giờ, làm ngoài giờ, học trường chính, học trường phụ, thế mới mong đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Bố thông báo “Tối nay họp gia đình”. Em cười “Chính phủ vừa ra nghị quyết mới hả bố?”. Mẹ nhăn mặt “im nghe bố mày nói”. “Sang năm mẹ về hưu. Thôi cống hiến thế cũng đủ rồi. Tháng sau bố sẽ gọi thợ đến chặt cây bàng đi làm thêm gian ngoài cho mẹ mày bán hàng, chạy ra chạy vào có việc cũng đỡ buồn”. Chị thảng thốt “Chặt cây bàng hả bố?”. Lặng lẽ em đứng lên bước ra ngoài sân. Trăng đầu tháng chênh vênh như con thuyền độc mộc giữa biển sao lung linh. Tán lá bàng xanh mướt âu yếm xòa xuống. Em úp mặt, vòng tay quanh thân cây xót xa nghe những ngày thơ ấu vọng về.
    Ngôi nhà của em nằm trên con đường ngoại ô nghiêng nghiêng hàng xà cừ xao xác lá. Cả phố chỉ có duy nhất một cây bàng trước cửa nhà em. Cây bàng ấy bằng tuổi chị. Bố kể ngày chị đầy tháng bố đã xin nó về, hì hụi mất cả buổi chiều để trồng và dựng xung quanh hàng rào tre kiên cố. Cây hàng lớn lên là niềm kiêu hãnh của em. Nó đã gắn bó với tuổi thơ của chị và em, đã đi qua những nỗi buồn và chia sẻ những niềm vui con trẻ. Cũng dưới gốc bàng này em xúng xính trong chiếc áo lấy trộm của mẹ, đầu choàng khăn bóng bay của chị, loay hoay ôm chiếc chổi quét nhà giả làm hoa cô dâu trước ngực. Thằng Hà nhặt những bông hoa vàng dịu li ti rắc lên tóc em. Nó ghé vào tai em thì thầm giọng nghiêm trang “Thi này, khi lớn lên - thật đấy – tao sẽ cưới mày làm vợ”. Ngày ấy em mới năm tuổi. Hai năm sau gia đình Hà chuyển nhà. Nơi ở mới nghe đâu xa xôi lắm. Em không được làm nhân vật chính trong trò chơi cô dâu – chú rể nữa. Chị đùa “Thi bị mất chú rể rồi”. Nhưng trong em cây bàng vẫn mãi là nhân chứng cho lời tỏ tình thiêng liêng ấy.
    Giọng bố vang lên “Vào nhà đi con”. Em cắn môi “Không để cây bàng lại được hả bố?” “Thời đại kim tiền mà, mình không thể là ngoại lệ đứng ngoài guồng quay được. Rồi sẽ quen thôi”.
    Mẹ xin ở đâu về được một con mèo. Nó có bộ lông vàng mượt và chỉ nhỏ bằng hai nắm tay. Chị vui vẻ “may mà có con mèo. Dạo này nhà mình nhiều chuột quá”. Em nhìn con mèo run rẩy chui tít vào gầm giường đầy thất vọng “Kiểu này không khéo chuột nhà mình ra “chít” một cái mèo ngã lăn đùng. Sốc quá. Nhồi máu cơ tim luôn”. Mẹ gắt “Ăn nói hay nhỉ”. Em cười “nhà mình ấy hả, phải mua mèo rôbốt mới được”. Và dù không vồ được chú chuột nhắt nào, suốt ngày chỉ nằm dài phơi nắng nhưng chú miu vẫn giành được sự quan tâm, thương yêu của mọi người, dù sao nó cũng là thành viên nhỏ nhất trong gia đình. Bố bảo “Có nó cũng vui cửa vui nhà”. Mẹ gọi nó bằng “meo”, cái tên cúng cơm của họ nhà mèo. Chị nhất quyết kêu bằng “miu”, nghe thế mới dễ thương. Em kiếm được quả chuông nhỏ đeo vào cổ, mỗi khi nó chạy kêu leng reng khắp nhà và đặt tên cho nó là “Em lười”. Chị cười “Chẳng biết mèo lười hay Thi lười”. Em giận dỗi “Được rồi từ mai em sẽ chăm sóc cho nó” nhưng chỉ được vài ngày. Em Lười có vẻ quấn quít chị hơn. Em hay quên cho nó ăn, chỉ tại cái thời gian biểu của em không bao giờ chính xác. Mà mẹ vẫn bảo em là người thất thường đấy thôi.
    Em cầm cuốn sách làm văn trên tay giọng đều đều “hôm nay học bài nghị luận”. Học trò giở sách loạt xoạt, không thèm che đậy cái ngáp dài. “Em buồn ngủ à?”. “Thưa cô không ạ”. Em ngao ngán lấy hơi đọc một tràng “Nghị luận là…”. Học trò thò lấy tay di di lên mặt bàn. “Có hiểu cô vừa đọc gì không?”. Học trò gật đầu ngoan ngoãn “Thưa cô có ạ”. Em đặt sách xuống bàn thầm ngạc nhiên “Thế mà mình lại không hiểu mình đang đọc cái gì…”
    Nghỉ giải lao. Học trò có vẻ tỉnh táo hơn “Cô có thích học văn không?”. “Có chứ. Còn em?” “Em ghét cái môn này lắm, chẳng giúp được gì. Tại bố mẹ em cứ bắt học… mà cô học văn giỏi thế sao không học văn mà lại học luật?”. Không chờ em trả lời, học trò đã hí hững “À, em biết rồi. Học luật kiếm được nhiều tiền hơn phải không cô?”.
    Cho học trò nghỉ sớm 15 phút, em lấy xe đạp vòng quanh qua các dãy phố. Hà Nội của em thay đổi với tốc độ tên lửa. Đâu đâu cũng nhà cao tầng gắn những tấm kính đen xì. Báo chí ra sức kêu gọi tuyên truyền bảo tồn văn hóa dân tộc. Cơ chế thị trường mà. Vậy thì em còn tiếc cái cây bàng không sinh ra lợi nhuận ấy làm gì?
    Em đạp xe về nhà, lo sợ vẩn vơ đến một ngày nào đó bọn trẻ con sẽ hỏi “Hà Nội mùa thu, cây bàng lá đỏ là gì hả cô?”.
    Ngoài sân chất ngất gạch cát, xi măng ngổn ngang. Bố bận rộn trông coi đám thợ thỉnh thoảng lại than thở “Đấy không có con trai khổ thế đấy, làm việc nặng nhọc không có ai đỡ đần cho”. Em bước vào nhà. Mẹ bận bịu bên đống nồi niêu xoong chảo. “Mẹ, cây bàng của con…”. Mẹ xua tay “Cho hết rồi. Cái cây đấy vô tích sự. Gỗ chỉ chẻ ra làm củi đun thôi”. Em đứng lặng. “Lên gác xem chị mày hôm nay làm sao ấy - mẹ hạ giọng – hình như buổi sáng nhận được thư. Chắc là của thằng Trung”.
    Chị đứng ngoài ban công. Em Lười cuộn tròn ngủ ngon lành trên gối. Em đứng sau lưng chị, bàng hoàng nhận ra khoảng trống cây bàng để lại. Cả một khoảng không gian như chới với Chị quay lại. Mắt đỏ hoe. Em dè dặt “Chị vừa nhận được thư bên Sydnây gửi về?”. Chị ngồi xuống giường ôm chú miu vào lòng, giọng mệt mỏi “Thi, chị muốn ngủ một chút”.
    Buổi tối, bố cẩn thận lấy tiền ra đếm rồi đút vào phong bì. “Bố đi họp về?” “Họp hành gì, chuẩn bị đi cống nạp thì có”. Mẹ lạch xạch xếp bát đĩa vào mâm “Lúc nãy có mấy anh bên giao thông công chính lại cả phường nữa…”. “Mình có giấy phép cơi nới nhà cửa rồi mà”. “Muốn gây khó dễ cho mình thì thiếu gì lý do”. Em hùng hổ “Bố không phải đi đâu cả. Việc mình làm đúng pháp luật. Nếu cần con viết đơn khiếu nại ngay”. Bố cười “Luật nào cũng không bằng luật phong bì. Trong khi chờ giải quyết khiếu nại người ta đình chỉ thi công công trình lại chẳng hóa hỏng bỏng không à? Thôi con cứ học đi, vào đời sẽ thấy muôn hình vạn trạng chẳng sách vở nào dạy đâu”.
    Em hậm hực bỏ ra ngoài sân. Lần đầu tiên cảm thấy mình bất lực… hụt hẫng. Trước kia mỗi lần bực bội em thường ngồi dưới gốc cây bàng, tựa đầu vào vỏ cây xù xì, nâu đen của thời gian.
    Ngày mẹ khai trường cho cửa hàng kinh doanh thập cẩm đủ thứ từ sách vở đến đường sữa, mì ăn liền thì cũng là ngày em xin nghỉ dạy ở trung tâm gia sư. Không phải vì em không còn tìm thấy tình yêu trong văn học, cũng không phải vì chưa bao giờ phụ huynh học trò thực sự tôn trọng em như cô giáo mà chỉ vì em phải dành nhiều thời gian hơn cho công việc gia đình. Chị tốt nghiệp đồng nghĩa với thất nghiệp nay quay sang ngoại ngữ, tin học. Hơn nữa cái gian hàng thập cẩm của mẹ lúc nào cũng cần nhân công. Nhưng dù sao em cũng không quen được với hình ảnh mẹ đon đả mời khách, bận rộn tính toán sau cái ngăn kéo đựng tiền treo lủng lẳng ổ khóa Việt Tiệp xinh xinh. Ngày trước, tủ của bố mẹ không bao giờ phải dùng đến khóa. Bố an ủi “Bán hàng đủ mọi loại khách mẹ phải cẩn thận chứ”. Mặc dù đã luôn tự nhắc nhở phải thích nghi với hoàn cảnh nhưng em vẫn không khỏi chạnh lòng khi bữa cơm tối vắng người này, người kia (thì chưyện hàng họ, tiền nong có bao giờ chừa giờ cơm để không đến đâu). Lâu rồi, chị không viết được vần thơ nào. Ở nhà thỉnh thoảng lại “What is wrong?” “Pardon? Not at all” làm em muốn điên đầu. Lâu rồi, mẹ không còn theo dõi “sự nghiệp văn chương” của em trên báo chí, không góp ý cho em điều này điều kia.
    Em ngỡ ngàng nhìn chị. Mái tóc đen dài óng ả nhường chỗ cho kiểu đầu Nhật tém ngang tai đang thịnh hành. Chị kéo em lên phòng thì thào “Hôm nay là ngày cưới của anh Trung đấy” “Cái gì?”. Chị cười, bình thản lôi ra một đống thư từ ngả màu, dúi vào tay em lá thư cuối cùng cách đây đã sáu tháng. Trang giấy hoen ố, đôi chỗ bị nhòe (nước mắt của chị?) chỉ vỏn vẹn một dòng “Đừng chờ anh nữa”. Em sững sờ “Đơn giản thế thôi ư? Ba năm yêu thương, bốn năm đằng đẵng thư từ, xa xôi cách trở là vậy chỉ thế là xong à?”. “Tuần trước mẹ anh Trung đến. Bác bảo Trung lấy một cô tóc vàng, mắt xanh và định cư ở bên ấy luôn… Thôi em giúp chị đem tập thư này đốt đi. Đầu tháng chị sẽ bắt đầu đi làm. Tất nhiên chỉ là nhân viên trực văn phòng chi nhánh của công ty giày dép thể thao của Đức”. Em thẫn thờ “Còn cái bằng cử nhân văn chương của chị?” rồi lại buông xuôi. Biết đâu như thế lại tốt hơn. Chị sẽ không còn thời gian để buồn phiền.
    Một tuần. Em Lười không về nhà ăn cơm. Em cuống cuồng. Mẹ gắt “Người không xong còn đâu thời gian lo cho mèo”. Bố góp ý “Nếu cái Thi thích thì mua con khác. Chắc là nó bị bắt bán cho quán tiểu hổ rồi”. Chị cười “Em Lười của Thi đi theo tiếng gọi của tình yêu thì có. Mà Thi cũng chọn cho mình một người trong đám trai đi không khéo thành bà cô đấy”. Em vênh mặt định nói “Chọn mẫu người như anh Trung hay như anh trưởng phòng bây giờ của chị?” Nhưng rồi lại thôi. Nào có ích gì đâu, chỉ đau lòng thêm.
    Em đứng trên ban công khóc òa – cho cả cây bàng tuổi thơ, cả những vần thơ của chị và cả em Lười, con mèo đã từng một thời được coi là thành viên nhỏ nhất trong gia đình. Bố đặt tay lên vai em “Cuộc sống mà con”. Em lau khô nước mắt. Em không có thói quen khóc trước mặt người thứ hai. “Mình không thể đứng ngoài guồng quay của xã hội đúng không bố?”.
    Tổng kết rút kinh nghiệm hóa ra em lại là người khó thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh. Có lẽ em sẽ không viết truyện ngắn nữa. Ngân sách sẽ không bị mất cân đối bởi những khoản chi bất ngờ và chép miệng giống hệt bố. “Thời đại kim tiền mà rồi sẽ quen thôi”.
 Lê Xuân Hoa



Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

Nhạc - Thơ - Văn - Tâm hồn tôi

Một chút tâm tình,
Chút tâm tình xin gởi người ở lại,
Hẹn ngày về khi vườn nhỏ ngát hương...
Tâm hồn tôi rực sáng ánh thiên đường,
Tôi tìm lại nơi tình yêu chớm nở !
NM

  Tâm hồn tôi
Tôi sẽ trở về gặp Nhu khi tâm hồn tôi là một khu vườn rực rỡ và ngát hương...

Ngôi nhà của bà nằm chênh vênh bên con sông chảy hiền và chung quanh là cây cối bùng nhùng vươn lên đón nắng. Tôi bước đến khoảng sân, có cảm giác gì đó thật êm dịu dưới bàn chân. Ở thềm, ông già lúi húi nhặt mớ rau rền đất với chiếc đài rọt rẹt bên cạnh đang phát chương trình những bài ca cách mạng.
Tôi vòng tay cúi chào ông. Ông đáp lại bằng một sự niềm nở, mừng vui như gặp lại đứa cháu xa quê lâu ngày mới trở về. Khóe mắt của tôi đã rưng rưng, lòng tôi đã nghèn nghẹn trong nỗi tủi. Bởi hình ảnh ông già đã khơi lên cả một khoảng trời ký ức về nội. Tôi sẽ mãi mãi có những ngày êm đềm nếu như nội không lặng lẽ rời xa tôi trong một chiều đông xơ xác. Điểm tựa cuối cùng là nội đã mất, tôi khác gì một con cá phải vùng vẫy giữa dòng chảy xiết.
Một vài khung cảnh hiện ra trước mắt tôi khiến tôi có cảm giác cuộc sống nơi này đìu hiu, ngày tháng sẽ trôi đi như một thước phim quay chậm. Nụ cười và ánh mắt của ông bà già sẽ thắp lên những ngọn đèn nhỏ cho căn nhà thêm sáng. Rồi giữa buổi chạng vạng buồn xo ấy, tôi đã nhìn thấy cô bé từ đầu ngõ. Cô bé lắc lư theo nhịp chân đạp xe, miệng nghêu ngao câu hát làm chiếc xe cũng tròng trành theo. Và lồng ngực của tôi cũng đang run lên, bồi hồi. Thấy tôi, khuôn mặt bầu bĩnh của cô bé đỏ ửng lên như trái đào chín. Cô bé dựng xe ở góc sân, ôm chiếc cặp chạy một mạch vào bếp, bà già đang ở đó.
Bữa cơm tối ấy có món cá rô đồng rán giòn, bát canh rau rền đất ngọt mát và đĩa dưa muối chua chua. Sau những hồi trống réo lên trong bụng, tôi ăn liền ba bát cơm, quên mất ánh mắt cô bé nãy giờ chăm chú nhìn tôi. Ăn xong, tôi chủ động đi rửa bát bởi tôi không muốn mình được tiếp đãi như một vị khách. Cô bé không ngại ngùng ngồi xuống:
- Anh để em rửa cho. Anh úp bát vào rổ nhé.
Cô bé tên Nhu, vừa vào lớp 10 được nửa tháng. Tôi và Nhu đều là những đứa trẻ lớn lên bằng tình yêu thương của ông bà. Bố mẹ Nhu đã mất khi Nhu còn rất bé, còn tôi, hai mươi tư tuổi vẫn không mảy may có một ký ức nào về họ. Nội tôi cũng chưa bao giờ nhắc đến khiến tôi luôn mơ hồ phỏng đoán đằng sau đó là một câu chuyện buồn. Những câu hỏi của tôi có thể làm nội day dứt và đau đớn. Vậy nên tôi đã giấu kín đi.
- Anh ở nhà em mấy ngày?
Câu hỏi của Nhu làm tôi bối rối. Một con đường mờ mịt bỗng hiện ra trong tâm trí tôi. Hay là trở lại túp lều ọp ẹp chiều nay? Rồi những khi thấy bà già ôm củi đi về, tôi sẽ trốn đâu đó cho đến khi bà già đi khuất.
- Anh cũng không biết nữa. Chắc là ngày mai.
- Nếu anh chưa vội thì ở lại thêm mấy hôm nữa. Ông bà sẽ vui lắm.
Tiếng “ờm” khe khẽ nơi cổ họng, tôi không biết Nhu nghe thấy hay không.
Đêm hôm ấy, tôi nằm ở gian nhà ngoài. Lạ giường, tôi không ngủ được nên lôi mấy cuốn sách trong ba lô ra gặm nhấm thời gian. Tài sản của tôi không có gì ngoài mấy cuốn sách ấy, tôi không nhớ đã đọc chúng bao lần nhưng mỗi lần đọc lại đều có thêm những cảm nhận mới. Như lúc này, khi tôi đang bộn bề với những nỗi lo cơm áo gạo tiền, mở trang sách ra, những con chữ vẫn cứ tự nhiên thấm vào khối óc tôi. Mấy cuốn sách cho tôi một cuộc sống khác, bình yên và nhẹ nhõm hơn đời thực của tôi.
- Anh ấy ở nhà mình lâu không ngoại?
Tiếng Nhu từ gian trong vọng ra. Hình như ngôi nhà này hiếm khi có khách đến chơi nên chăng cô bé muốn níu tôi lại thêm một vài ngày nữa. Câu hỏi của cô bé đã nhen lên trong lòng tôi một ngọn lửa ấm.
Những ngày sau đó, tôi và Nhu trở nên gần gũi hơn. Những buổi chiều Nhu đi cắt cỏ cho cá, tôi đều đi theo để gánh cỏ về. Cô bé lúc nào cũng ríu rít như một chú chim non. Cô bé kể những câu chuyện ở lớp trong mỗi bữa cơm, ông bà của Nhu bao giờ cũng hào hứng lắng nghe.
- Hôm nay cháu thấy mấy bạn nam rủ nhau đua xe sau khi tan học đấy bà ạ.
- Ấy chết, sao lại chơi trò nguy hiểm vậy.
- Cuộc đua không diễn ra đâu bà ơi. Các bạn ấy còn phải dắt bộ một quãng đường xa đấy ạ.
Nhu lại cười khì khì một cách lém lỉnh:
- Cháu đã xịt lốp xe mà.
- Bà già chau mày nhìn Nhu, lườm yêu:
- Cái con bé này.
Bây giờ đang là mùa sấu rụng. Đêm đêm, tôi thường nghe thấy sấu đồm độp trên sân, đồm độp trên cả những tấm ngói cũ. Buổi sớm mai sẽ đánh thức tôi dậy bằng tiếng ríu rít của Nhu nhặt sấu ngoài sân.
Thấy tôi, cô bé nheo mắt cười, đưa tay vẫy vẫy như gọi mời tôi hãy đến đó, cùng Nhu nhặt nhạnh những trái sấu mới đêm qua giã từ cây mẹ. Khuôn mặt Nhu lúc nào cũng tươi rói như một đóa phượng nở bung sắc thắm. Nắng đã lên, nhảy nhót trên đôi vai Nhu.
Chiều đó, khi tôi đang cùng ông già kéo cá ở ao, cô bé lớn hớn chạy ra. Từ bờ ao bên kia, cô bé réo lên:
- Anh cho em mượn một cuốn sách nhé!
Chưa kịp nghe tôi đáp hết câu, cô bé đã chạy đi nhanh như sóc.
Tối ấy, bà nấu canh cá dọc mùng ngon lắm. Một vài lá nghệ tươi làm nồi canh càng thêm đậm vị và thân thuộc. Nội tôi cũng thường nấu vậy. Những lần ra Hà Nội sau này, tôi ăn canh cá bao lần cũng không cảm nhận được cái mùi vị tuổi thơ đã thấm đẫm ký ức. Hóa ra vì thiếu lá nghệ. Tôi húp sì sụp bát canh, chợt nhận ra bữa tối nay thiêu thiếu thứ gì đó. Là tiếng ríu rít của Nhu. Cô bé thẫn thờ, đôi mắt đen láy không mở tròn, đôi bờ mi thi thoảng lại khẽ khàng chạm vào nhau như cánh bướm non.
Sau bữa cơm, cô bé ôm cuốn sách ra ngoài sân ngồi đọc. Sợ chạm vào nỗi buồn của cô bé, tôi chỉ rón rén dõi theo từ phía sau. Bỗng con bé ôm mặt khóc, tôi hoảng hốt chạy ra.
- Em sao vậy, Nhu?
- Con Rùa chết rồi anh ơi.
Câu hỏi của tôi như ném thêm rơm vào đống lửa, Nhu nức nở lên. Tôi lơ ngơ một lúc mới sực nhớ ra con Rùa là nhân vật chính trong cuốn sách của tôi – một cô gái giàu lòng vị tha. Có lẽ cô bé mới đọc đến đoạn con Rùa bị dòng nước xiết cuốn trôi đi. Tâm hồn bé bỏng của Nhu dễ rung cảm quá đến độ tôi không nghĩ ai đó có thể bật khóc vì thân phận của một nhân vật.
- Em sẽ đọc tiếp chứ?
Cô bé đưa đôi mắt ầng ậc nước nhìn tôi, gật đầu đầy lưỡng lự.
Buổi sáng hôm sau, cô bé trả lại cho tôi cuốn sách, khuôn mặt trở lại tươi tắn như mọi ngày.
- Sao anh không nói với em là con Rùa vẫn chưa chết?
- Giống như khi em xem một bộ phim vậy. Sẽ không còn thú vị nếu em biết trước kết thúc của nó.
Nhu sẽ không thể buồn vui đến tận cùng với mỗi số phận và tôi tin những giọt nước mắt đêm qua sẽ khó lòng tuôn chảy nếu tôi nói cho em biết rằng con Rùa không chết đâu. Đó là “cái bẫy cảm xúc” mà tác giả dành tặng cho độc giả. Cô bé đã khóc vì buồn thương rồi cũng sẽ khóc vì hạnh phúc.
Nhu kể cho tôi nghe về anh chàng lớp 12 ngày nào cũng bỏ vào ngăn bàn của em một lá thư. Em chỉ đọc hai lá thư đầu tiên. Những lá thư sau đó, em không bao giờ mở ra nữa.
- Em có tò mò về anh chàng đó không?
- Em càng tò mò, hắn sẽ càng bám riết lấy em thôi. Bà em bảo đó là tình yêu bọ xít.
Con bé cười, lúng liếng đôi mắt tròn xoe.
Tôi sẽ mãi được ngắm nhìn đôi mắt trong veo của Nhu nếu buổi chiều hôm qua tôi không lén nhìn cô bé trong nhà tắm được bao quanh bằng những tấm mành tre lỗ chỗ khe hở. Tấm thân nõn nà của cô bé lồ lộ ra trước mắt như mời gọi những ý nghĩ nhơ nhuốc dấy lên trong tâm trí tôi. Ý nghĩ thôi thúc tôi tiến thêm vài bước. Như thể tôi đang lao xuống một con dốc thẳm mà phanh xe cũng trở nên vô dụng, tôi cứ thế bị đẩy đi.
Tiếng ông già quát chó ngoài ngõ khi bàn tay tôi vừa chạm vào tấm mành mỏng manh và yếu ớt khiến tôi giật thót. Tôi run sợ chạy vào nhà, ngồi thừ trên giường.
- Anh sao vậy? Anh ốm à? Trán anh đổ nhiều mồ hôi quá.
- Tôi đâm ra lúng túng, gạt tay cô bé ra khỏi trán.
- Anh không sao.
Những ngày sau đó, tôi cố gắng tự nhiên nhất khi nói chuyện với Nhu dù tôi vẫn không đủ can đảm nhìn vào đôi mắt thơ ngây của cô bé. Nhiều đêm tôi không ngủ được vì những ý định lầm lỗi cứ đeo bám tôi.
Những quả sấu già còn sót lại đã bứt mình rụng xuống. Tiếng đồm độp trên mái nhà cứ giẫm đạp lên cõi lòng non nớt của tôi. Gió khua lên từng hồi khô khốc. Đến lúc tôi phải rời xa Nhu, cô bé mà tôi nhận ra mình thương yêu khi đã muộn màng...
Tôi định sẽ lẳng lặng ra đi trong buổi chiều Nhu đi học. Nhưng trước khi đi, cô bé còn níu lại bằng cái nhìn tha thiết:
- Chiều nay, anh đi đón em được không?
Tôi đồng ý với cô bé. Đó sẽ điều cuối cùng tôi có thể làm cho Nhu, cho những lầm lỗi của mình.
Sân trường mỗi lúc một vắng hơn cho đến khi không còn một bóng người, tôi vẫn không thấy Nhu. Tôi đâm ra lo sợ. Tôi vội lao vào trường khi cánh cổng sắp sửa khép. Tôi như một kẻ điên dại chạy dọc khắp các dãy hành lang. Đến nhìn thấy Nhu đang giãy giụa như con cá mắc câu giữa ba thằng con trai lớn tồng ngồng, tôi ập vào chúng bằng những cú đấm mạnh bạo. Nhu lao đến ôm ghì lấy tôi nức nở, thoáng chốc vai áo của tôi đã ướt đẫm.
Trên đường về, Nhu ngồi sau xe, cô bé nắm chặt lấy vạt áo bên hông tôi. Cái áo co rúm lại chỗ tay Nhu và tôi cảm nhận được rõ rệt cái run rẩy của bàn tay nhỏ nhắn ấy đang chạm vào da thịt mình.
- May mà có anh.
Tiếng Nhu thỏ thẻ, thi thoảng còn sụt sùi khe khẽ. Tôi lặng người đi, đôi chân như rệu rã. Từ một kẻ suýt chút nữa cướp đi khoảng trời mơ mộng trong ngần của Nhu, tôi lại trở thành ân nhân. Điều đó khiến tôi càng thấy hổ thẹn và day dứt.
- Từ ngày mai anh sẽ không thể bảo vệ em nữa.
- Anh sẽ quay trở lại chứ?
- Ừ.
Tiếng “ừ” khó khăn lắm tôi mới nói ra được bằng cái giọng trầm lặng đến độ Nhu buộc phải hiểu đó không phải một lời hứa chắc chắn.
- Em sẽ nhớ anh nhiều lắm.
Từng câu nói của Nhu, từng tiếng thở của Nhu và cả tiếng nấc lên nơi lồng ngực của cô bé như sắp sửa vắt kiệt chút sức lực cuối cùng của tôi. Tâm can tôi đang giày xéo. Giá như tôi có thể vui vì tình cảm trong trẻo Nhu dành cho tôi thì chắc chắn tôi sẽ không ra đi lúc này, khi mà tình yêu thương của tôi cũng vừa chớm nở.
Tôi để lại tất cả những cuốn sách cho Nhu. Nhu đón nhận chúng như món quà của tôi. Cô bé từng bảo với tôi rằng, người yêu khu vườn văn học như tôi là người có tâm hồn đẹp. Những cuốn sách có thể làm đôi vai tôi thêm chùng chình bởi cõi lòng tôi đã đèo bòng quá nặng cho lỗi lầm quá khứ. Đến lúc tôi phải rời xa ngôi nhà nhỏ ẩn mình sau những hàng bạch đàn cao vút. Đến lúc tôi phải đi tìm bản ngã của mình và cái phần người mà tôi đã đánh mất ở đoạn đường đời nào đó.
Tôi sẽ trở về gặp Nhu khi tâm hồn tôi là một khu vườn rực rỡ và ngát hương.
Dương Hằng (baoquangbinh)
Kết quả hình ảnh cho Tỉnh mộng
Tỉnh mộng,
Miền ký ức giữ hoài theo năm tháng,
Gian nhà xưa, vạt cỏ đậu hoa vàng...
Chiếc xích đu, bậc thềm cũ thời gian,
Những hình ảnh em luôn hoài thương nhớ !

Trở lại đây với tâm tình bỡ ngỡ,
Khung cảnh xưa ngày cũ vẫn còn đây...
Biết bao nhiêu mơ ước đã đắp xây,
Giờ bỗng thoắt bay về miền dĩ vãng !

Tiếng đàn kia xin gởi vào quên lãng,
Em không còn hối tiếc kỷ niệm xưa...
Bước ra về dưới hoa tím chiều mưa,
Lòng cay đắng nhận ra mình có lỗi !!
NM
Kết quả hình ảnh cho Tỉnh mộng
                 Chiêm bao
Những giấc mơ năm cũ, cô thấy mình đứng dưới giàn hoa giấy mang màu tím buồn rười rượi thả từ cổng nhà cũ kỹ. Trong chiêm bao, sẽ luôn luôn là bàn tay thô ráp của người đàn ông ấy luồn vào mái tóc cô, chạm nhè nhẹ như sợ chúng thức giấc.
Phía sau cánh cổng gỗ sắp mục nát, thứ duy nhất thu hút và đủ sức ám ảnh cô mãi đến tận sau này chính là tiếng guitar réo rắt mỗi khi chiều xuống. Khi cô buồn, tiếng đàn vang lên bập bùng như tiếng lửa nổ tí tách giữa đêm thinh lặng, thiêu những nỗi buồn thành tro bụi. Khi cô vui, tiếng đàn lại vang lên ríu ran như một đàn sẻ đang nhảy nhót xung quanh tán thưởng. Và trong ánh mắt đầy cảm hứng kia hướng về phía mình, cô thấy mình an nhiên, không một mảy may lo lắng.
Trong khoảnh sân gạch cũ được lấp xen kẽ bằng vạt cỏ đậu khoe những búp hoa vàng li ti, thứ mà cô muốn chạm đến nhiều nhất là chiếc xích đu bằng gỗ vát đã bị mối ăn vài chỗ. Sau khi cô đến chơi vài bận thì miếng gỗ mục đã được thay thế bằng hai chiếc vỏ xe hơi sơn màu xanh lam dễ chịu. Người đàn ông có đôi tay thô ráp ấy đụng đến thứ gì thì cũng hóa tinh tươm, đẹp đẽ, bay bổng. Chả trách vườn nhà chỉ có vài vạt hoa nhỏ mà lúc nào cũng ong bướm rập rờn. Ngôi nhà gỗ nhỏ, những bậc thềm cũ kỹ nhuộm màu thời gian, vài bụi chuối căng mẩy. Khung cảnh chẳng có gì tươi tắn nếu không nhờ tiếng đàn kỳ lạ kia. “...Và nếu thiếu vắng một người con gái, anh sẽ không hình dung nổi nếu ngày nào đó nơi này vắng em”.
Cô cũng không hình dung nổi ngày mà cô khoác lên mình chiếc áo cưới lộng lẫy, xinh đẹp như một nàng công chúa bước ra từ câu chuyện cổ tích, hoàng tử tới đón nàng lại không phải là anh. Bóng anh khuất dần sau vòm hoa tím, khi đoàn xe đưa dâu bóng loáng lướt êm qua hẻm nhỏ, mang theo tiếng hò reo phấn khích của lũ trẻ tinh quái. Đêm tân hôn, cô ngồi bó gối bên cửa sổ, cố nghe một thanh âm thân thuộc nào đó có thể len lỏi theo mình lên tận thành phố hào nhoáng xa lạ này không. Không có bất cứ mối liên hệ nào với chốn cũ, ngoài mùi hương bưởi cô đã gội đầu sáng nay, trước khi tết tóc.
Cô ngồi nhìn chồng thật lâu, sợ rằng mình sẽ quên mất gương mặt ấy ngay khi thức giấc. Đứa bạn thân nói, chồng mày cứ như diễn viên điện ảnh, lại giàu, mày đúng là có số hưởng. Lúc đó, cô hoàn toàn không tìm ra được một đường nét nào gọi là hoàn hảo trên gương mặt chồng. Chỉ thấy những góc vát mạnh mẽ của anh hiện lên, khuất lấp gần hết khuôn mặt kia. Tâm trí cô, từ buổi đó chếnh choáng mãi không thôi.
Cô như người say rượu, thứ rượu mạnh mà chưa có phương thuốc nào giã được. Tình yêu của chồng cũng chỉ là thứ nước hoa xịt vào người cô mỗi sáng, rồi chúng cũng nhanh chóng theo gió tan loãng ngay trong ngày. Đứa con trai kháu khỉnh cũng chỉ là niềm vui bất chợt, những niềm vui len lỏi đâu đó trong một mớ muộn phiền ngày nào cô cũng cố gắng nhặt ra từng chút.
Mười năm rồi, đêm nào cô cũng mơ về đôi tay đó và tiếng đàn đầy ám ảnh. Có đêm cô hoảng hốt kêu gào khi thấy mình chạy chân trần về thăm nơi cũ. Không có thảm cỏ hoa nào chào đón cô, không có đôi tay nào dang ra mời gọi, không có một thanh âm nào rõ ràng ngoài tiếng xích đu rền rĩ trong đêm hoang lạnh. Cô lục tung mọi ngóc ngách trong căn nhà nhỏ, gọi tên anh trong vô vọng. Gọi đến khi giọng cô nứt ra, rơi vụn giữa đêm thâu...
Mười năm, chưa khi nào cô thôi cảm giác mình bị bỏ rơi, hụt hơi chạy theo một lực hút vô hình nào đó, từ phía bóng tối thâm u phía trước. Có cảm giác như bóng tối chưa bao giờ chịu thỏa hiệp với cô.
Mười năm. Lòng chưa thôi hoang lạnh.
Nếu dùng cả tuổi thanh xuân để yêu một ai đó, điều chúng ta nhận lại được là gì? Có phải là thứ tình yêu đích thực mà người ta đền đáp lại hay chính ta phải trả giá cho những cuộc yêu điên dại bằng quãng đời buồn bã sau này?
Cô không trả lời được câu hỏi đó. Không ai có thể trả lời cô được.
Ngày xưa, tại sao đôi bàn tay ấy không cố níu giữ cô bên mình? Tại sao anh không thể gói ghém cho cô những giấc mơ trọn vẹn? Tại sao?
Cô phải đi tìm lời giải đáp. Cô nói với chồng việc mình phải về quê một chuyến. Chồng không bao giờ can thiệp vào những quyết định của cô, anh luôn luôn cho cô một khoảng trời tự do, đến mức cô thấy mình trở nên lạc lõng. Anh biến cô từ lọ lem thành một bà hoàng, lộng lẫy, yêu kiều trong mớ nhung lụa buồn thảm. Anh chiều chuộng cô tới mức, những hôm tiếp khách quá say, anh còn biết kê sẵn thau ngay chân giường và dặn cô để sáng dậy anh tự dọn lấy. Nhưng lần này, anh khẽ nắm tay cô, dịu dàng bảo:
- Anh sẽ đi cùng em. Vì có thể, sẽ lâu lắm chúng ta mới về nơi đó thêm lần nữa.
Chồng nói với cô về những dự định phía trước. Chẳng bao lâu nữa, anh sẽ đưa mẹ con cô ra nước ngoài định cư. Có rất nhiều việc phải chuẩn bị, nhưng tất cả đã sẵn sàng. Cô không khỏi ngạc nhiên, anh lấy sức đâu ra mà làm nhiều việc đến thế? Làm vậy để làm gì?
- Em đừng lo gì hết, chỉ là anh muốn tương lai vợ con mình phải tốt đẹp hơn thôi!
***
Họ dừng xe ngay đầu cái chợ chồm hổm nho nhỏ nhưng lúc nhúc những người và ra rả những cuộc ngã giá bán mua. Cô bảo chồng lái xe đến quán cà phê gần đó đợi mình. Cô muốn tự mình tìm về chốn cũ.
Có tiếng thau rổ va vào nhau leng keng, nhộn nhạo nơi góc chợ. Giọng khản đục của một bà cụ khi bị mấy người đi dẹp chợ hùng hục giằng mất mẹt rau trên tay bà khiến cô chú ý. Bà cụ nắm lấy vạt áo người đàn ông cao lớn bế cái bụng phệ đang nhón chân bước lên xe.
- Chú ơi, làm ơn, thương tui với!
- Tui thương bà rồi ai thương tui? Ngày nào mấy người cũng bày đầy ra đường nên tụi tui mới phải đi dọn dẹp như vầy nè, mệt thấy mồ chứ bộ sướng lắm hả?
- Nhưng mà tui bưng mẹt rau đi lòng vòng bán, chứ có ngồi chỗ nào đâu mà chú nói tui chiếm lòng đường? Hốt đồ của tui là mấy chú bậy lắm!
Người bán trứng gần đó vội vàng bế rổ trứng nhón chân chạy.
- Xứ này là vậy đó cô. Họ nuôi sống vợ con bằng công việc đó nên phải chịu, trách ai được cô ơi!
Biết vậy, nhưng bà cụ già cả rồi, ai lại nỡ làm như vậy với bà. Cảm giác xót xa dâng lên trong cô mãi không nguôi. Buồn thay cho xứ mình, lòng người, nếu không rộng lượng với nhau một chút thì trách sao cuộc sống cứ chênh chao.
Cô men theo lối mòn vào ngôi nhà đó, tim như thắt lại, mọi thứ cứ ngỡ như ngày hôm qua. Và mùi ký ức vừa sực lên trên góc mũi. Bướm ong vẫn lả lướt trên mấy vạt hoa. Chiếc xích đu xem chừng đã mòn nhẵn, lặng thinh nơi góc sân. Người đàn bà tướng mạo thấp đậm, nước da ngăm đen đang ngồi bệt trên sàn nhà lựa đậu làm giá đỗ, quẹt vội ống tay áo vào cạp quần khi nghe tiếng khách lạ.
Khi nghe cô nhắc đến tên chồng, người đàn bà ấy hơi nhíu mày nghi ngại.
- Chồng tui đi làm rồi, chắc cỡ một tiếng nữa mới về. Cô ở chơi, hay có gì cần nhắn lại ảnh không?
Cô nhắn tin cho chồng, đón ly nước lá dứa thơm mát từ người đàn bà lam lũ. Cô không biết mình sẽ nói gì khi gặp người cũ, nhưng lòng bảo cô nên đợi, vì có thể sẽ không chắc cô còn được gặp anh thêm lần nào.
Cô xin phụ giúp người đàn bà nhặt giá đỗ, nhưng đã bị từ chối khéo léo.
- Đôi tay cô đẹp quá, không nên đụng vào những thứ này, hư tay hết. Phụ nữ xinh đẹp như cô, chắc là được chồng cưng lắm đây!
- Không phải như chị nghĩ đâu ạ!
- Giá như tôi có dung mạo xinh đẹp như cô thì hay quá! Nếu vậy thì cuộc đời tôi, dù có chồng cũng đâu mặn chát như bây giờ.
Một tiếng đồng hồ trôi qua là cả cuộc đời buồn bã của người đàn bà đó tua chậm qua trước mắt cô. Cô lảo đảo rời khỏi ngôi nhà, váng vất đau như người say nắng.
Người đàn bà đáng thương đó, có đáng như vậy không?
Có tiếng xe máy đỗ xịch trước cổng nhà khi cô vừa quay gót. Dáng người cao lớn, đôi tay mạnh mẽ ấy, và cái bụng phệ ục ịch kia... Tai cô ù đi, những âm thanh xô bồ trong khu chợ nhỏ lại ập về.
Cô ngả người lên vai chồng, thiếp đi suốt đoạn đường về. Mùi ký ức đã bấu lại bên đường. Mai, cô sẽ xịt nước hoa mỗi ngày, nói với chồng những câu yêu thương đã bỏ quên đâu đó. Chồng cô, can cớ gì phải nhận lãnh những lạnh nhạt dằn hắt từ người mình hết mực yêu thương...
Lỗi không ở ký ức, lỗi từ lòng người.
Trần Huyền Trang

Kết quả hình ảnh cho Tiếc Xuân

Anh đã thấy mùa xuân chưa

Tiếc Xuân
Xuân không còn nữa, Tết đã qua,
Đông xám làm phai nét mặn mà...
Đau đáu niềm riêng, bao kỷ niệm, 
Nhớ người năm cũ sao xót xa !
NM

  Nhớ ngang

 Sài Gòn đã trở lại nhộn nhịp, đông đúc, khởi động cho một vòng quay mới của đất trời. Tự dưng chị đâm nhớ ngang. Từ dạo sau tết không hiểu sao chị hay nhớ ngang như vầy.

Cái nhớ của người già là cái nhớ sau lưng. Mà cái sau lưng là cái đã qua rồi, qua lâu nữa là đằng khác nhưng chị có tật cứ hay nhớ tới nhớ lui cho nên nỗi nhớ của chị cái nào cũng cũ mèm, trầy xước, rệu rã...
Chị vào Facebook, nhắn tin: “Mập ơi, Mập à! Má nhớ quê quá”. Nó trả lời bằng cái mặt cười bự chảng. “Sao cười?”. “Vì có khi nào má không than nhớ một cái gì đó đâu”. “Nhưng má nhớ thật mà”. Lần này là cái mặt cười to hơn: “Có thật là nhớ quê không đó?”. Chị bỗng ngớ người ra. Ơ...! Lần đầu tiên chị thấy hoang mang, mơ hồ về nỗi nhớ của mình.
Thằng Mập là đứa hiểu chị nhất, bao dung với chị nhất, theo cái nghĩa vui vẻ chấp nhận mọi “thói hư tật xấu” của mẹ mà không kêu ca. Nó có thể kiên trì ngồi nghe chị kể lể, dông dài những nỗi nhớ mốc meo, xưa cũ bằng một giọng điệu rất mới và những giọt nước mắt tinh khôi.
“Hồi đó, má từ Sài Gòn theo chồng về quê, cái tết đầu tiên, má nhớ nhà, nhớ ông bà ngoại, nhớ dì và các cậu, nhớ bạn bè, nhớ cái xóm nhỏ ngoại ô mà má đã trải buồn vui suốt một thời thơ ấu. Nỗi nhớ lấn át cả tình yêu má dành cho bố. Giá như ngay khi ấy, được chọn lựa, má sẽ quyết định... về nhà. Nhiều cái tết sau nữa, má vẫn không được về nhà ngoại ăn tết. Nhưng nỗi nhớ của má đã khác. Má chọn bố và các con cho gần ba mươi cái tết không về quê ngoại”.
Nước mắt chị bắt đầu ứa ra. Lại một cái mặt cười bự chảng: “Sắp kể đến chuyện anh hai rồi đây!”. Đã bảo thằng Mập là đứa “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” má nhất mà. “Chỉ với một suy nghĩ duy nhất để anh con có thể vào đại học, má đã đẩy nó xa vòng tay má lúc nó mới lên mười. Năm đó, ông ngoại về rước anh hai lên Sài Gòn đi học.
Nhìn con đò khuất ngã ba sông, má đứt từng đoạn ruột. Đó là cuộc chia ly làm má đau đớn nhất, làm má day dứt và ân hận cho đến tận bây giờ. Sau đó là những năm tháng má sống trong triền miên nỗi nhớ các con. Hết anh hai tới chị ba tiếp tục đi học xa nhà. Mỗi mùa tết má càng thấm thía hơn giá trị của sự sum vầy”.
Vậy mà gần ba mươi năm sau, chị lại tự mình bày cuộc chia ly. Thằng Mập bé xíu lon ton theo má trở về Sài Gòn. Chị trở về. Xóm nhỏ ngoại ô đã thành thị tứ, các em lớn khôn thành đạt, ba mẹ đã tóc bạc da mồi, ngôi nhà nhỏ được cơi nới khang trang. Chị trở về “điền vào chỗ trống” cho ngôi nhà đủ đầy, ấm áp.
Nhưng bên cạnh niềm vui đoàn tụ ấy, một nỗi nhớ khác lại rền rĩ trong chị. Đó là nỗi nhớ ngôi nhà có ô cửa nhỏ nhìn ra một góc vườn, nhớ tiếng chim tíu tít rộn ràng mỗi sớm mai, nhớ tiếng gà xao xác khi trưa vắng, nhớ mùi khói bếp, nhớ tiếng con chim vịt gọi bạn buổi chiều về... Ban đầu chị cũng tưởng chỉ có thế. Hóa ra không phải.
Có những đêm thật dài, khi nỗi nhớ ràn rụa lẫn vào bóng đêm sâu thẳm, chị biết chị còn thao thiết nhớ... tiếng một người. Bởi vậy câu hỏi “có thật là nhớ quê không đó” kèm theo cái mặt cười bự chảng của thằng Mập vừa hiện ra làm chị thấy chột dạ (thằng Mập vẫn hay “đi guốc” trong bụng má). Thằng Mập bây giờ đã lớn, đã biết tự mình về thăm bố. Mỗi lần đi, nó hay trêu chị “có ai nhớ... “quê” hong ta. Mập cho quá giang”. Nó biết tỏng chị than nhớ quê thực ra là chị đang nhớ người.
Cái người mà chị cả đời lẽo đẽo đi theo, bất chấp tuổi thanh xuân, bất chấp tàn phai nhan sắc, bất chấp sự khác biệt về lối sống, suy nghĩ, khoảng cách nông thôn - thành thị, bất chấp mười mấy con người xa lạ mà chỉ qua một đêm, chị và họ bỗng trở thành người một nhà, bất chấp những lần chị bị họ ức hiếp mà anh không dám đứng về “phe” chị. Anh bỏ mặc chị một mình hứng chịu giông bão. Bỏ mặc chị cả khi chị bị cuộc đời băm vằm rã nát. Bỏ mặc chị loay hoay đối phó với bề bộn cuộc sống.
Ngày, chị ra đường kiếm tiền. Đêm về, chị đối mặt với hằm bà lằng công việc nội trợ. Khi làm cha, chị thiếu một chút mạnh mẽ, quyết đoán. Lúc làm mẹ, chị thiếu một chút mềm mỏng, dịu dàng. Vai nào chị cũng thiếu một chút. Không có vai nào là hoàn hảo. Cảm giác cô đơn, mỏi mệt, thất vọng, chán chường, cuộc sống nghèo túng, lẩn quẩn... khiến chị quyết định “xả vai”.
2 Vậy mà cũng đã hơn mười năm kể từ chị rời xa anh. Đêm giao thừa, khói hương trầm mặc, nến và hoa lung linh. Chị nhắm mắt, chắp tay trước ngực. Trong mênh mông vô thức, chị nghe có tiếng chân người giẫm lên lá khô xào xạc giữa vườn khuya - tiếng chân nghe cô độc quá. Chị thấy anh già nua, khắc khoải, ân hận, nhớ tiếc... đứng tựa ô cửa nhỏ trông ra một góc vườn - đêm ba mươi mịt mùng đen thẳm. Chị lâm râm cầu nguyện. Lời nguyện cầu bình an mang tên anh. Nước mắt chị ứa ra. Không qua mắt thằng Mập được. Chị tự thú “má nhớ quê!”. “Nhớ quê thì về thăm... quê. Mập chở má đi”.
3 Xe bon bon qua cầu. Tự dưng thằng Mập hỏi: “Má! Má còn yêu bố không? Nếu có cỗ máy ngược thời gian, má có... lấy bố không?”. Chị vòng tay qua bụng thằng Mập, áp mặt vào lưng nó, tính trả lời “không” nhưng kịp nhận ra cái bụng của nó sau mấy ngày tết xề xệ mỡ êm êm, nghe mùi mồ hôi lất phất quen thuộc của con, chị trả lời: “Má vẫn muốn y chang như vậy. Vì có y chang như vậy má mới đẻ ra ba đứa tụi con, mới đẻ ra thằng Mập của má chứ”.
Thằng Mập đưa tay bóp thật chặt bàn tay chị trên bụng nó. Xe xuống hết chân cầu, rẽ phải.
NGÔ THỊ THU VÂN



Kết quả hình ảnh cho hoa nhỏ màu tím