Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Hoa hoàng điệp trước ngõ


Lẻ loi,
Về lại quê xưa, vắng bóng xưa,
Hoàng hoa hương điệp hoá như thừa...
Niềm riêng ấp ủ hoài chưa nói,
Một mình lặng lẽ ngắm sao thưa !

Hương điệp dần phai theo gió bay,
Tình vẫn là tình không đắm say.
Giấc mơ không đạt chừ mơ mộng...
Nhung nhớ giờ đây thêm đắng cay !!
NM

Hoa hoàng điệp trước ngõ
Phải chăng giấc mộng mãi mãi không bao giờ đạt được mới chính là giấc mộng đẹp nhất?
Từ đầu hẻm tôi đã ngửi thấy mùi hương thoang thoảng của hoa hoàng điệp. Bao mùa trăng tròn khuyết, bao mùa mưa nắng, cây hoa vẫn đứng sừng sững giữa trời. Những cánh hoa trải khắp ngõ phố, vỉa hè tạo thành một tấm thảm hoa vàng vô cùng đẹp mắt và lãng mạn. Sắc vàng dịu êm ánh lên trong nắng khiến lòng tôi mang nhiều cảm xúc bâng khuâng. Xốc ba lô trên vai, tôi chậm rãi bước, tránh giẫm lên những bông hoa dưới gót chân. Hằng năm, khi ve kêu gọi hè, hoàng điệp lả lướt theo gió rụng xuống đầy đường, không phải màu tím thuỷ chung của bằng lăng cũng không thắm đỏ như màu phượng vĩ học trò, hoàng điệp dịu dàng gợi nhiều cảm xúc lắng đọng về thời gian và dĩ vãng.
Tôi xa nhà đã ba năm rồi, nay xuất ngũ trở về, cảnh vật quê nhà vẫn không có gì thay đổi. Vẫn là con ngõ cổ kính rụng đầy hoàng điệp khi hạ sang, vẫn là con đường lát gạch bát tràng, vẫn là những bức tường loang lổ phủ đầy rêu. Bây giờ là buổi chiều, ánh nắng hanh hao xuyên qua vòm cây nhảy nhót theo hướng gió. Mùi lá non xanh rờn, mùi hương nồng đượm phảng phất trong không khí.
Tôi thường mơ thấy cỗ máy thời gian. Trong giấc mơ, nó không hề quay trở lại. Mà bay đi rất cao, rất xa. Lắm lúc, giây phút tôi tỉnh táo, tôi vẫn cứ nhìn mãi vào không trung. Cứ cho rằng nó sẽ xuất hiện mang tôi trở về ngày xưa đó, ngày tôi và Nhi lang thang nhặt hoa ép khô, ngày mà chúng tôi vô tư tắm mưa cùng nhau, ngày mà chúng tôi chơi trò cô dâu chú rể và hứa chừng nào lớn lên sẽ lấy nhau. Ngày ấy còn đâu? Và Nhi… ở đâu?
Nhi là hàng xóm của tôi. Cây hoa nằm giữa cổng rào nhà tôi và nhà Nhi nên có lần hai đứa cãi nhau chỉ vì phân định cây hoa thuộc về nhà nào. Không ai chịu thua ai, ai cũng muốn giành phần thắng về phía mình. Cuối cùng, Nhi bảo đợi khi hoa rụng xem thử hoa bay về phía nào thì cây hoa thuộc về người ấy. Tôi để ý và thấy lần nào gió cũng thổi những cánh hoa bay về phía nhà Nhi nhiều hơn. Được dịp, Nhi chống nạnh, phồng má bảo tôi thua rồi nhé. Tôi là con trai, không thèm chấp nhất chuyện nhỏ nhặt. Sau lần ấy chúng tôi vẫn thân thiết như xưa. Chẳng biết từ bao giờ nụ cười của Nhi cùng những bông hoa vàng óng in đậm trong tâm trí tôi. Có lúc trong giấc ngủ tôi mơ thấy Nhi đứng dang tay xoay tròn, ngửa cổ đón những cánh hoa rớt xuống bờ môi mình. Hoa rơi trên tóc, trên vai Nhi. Cảnh tượng ấy tựa như một bức tranh mỹ lệ.
Ngang qua nhà Nhi, tôi nhìn vào. Nơi ô cửa ướp nắng vàng và lộng gió, Nhi vẫn thường vẫy tay chào mỗi khi trông thấy tôi đạp xe qua. Ảo ảnh làm mắt tôi nhòe đi. Khung cửa vắng hoe. Nắng cũng hư ảo, buồn man mác.
Đẩy nhẹ cánh cửa rào bằng gỗ mà nó vẫn kêu cót két, tôi bước vào trong sân, cởi dép để ngoài và đi chân trần lên từng bậc tam cấp. Nhà cửa yên ắng quá, không một tiếng động ngoại trừ tiếng gió rì rào dưới bóng râm. Tôi đặt ba lô xuống tràng kỷ, ngó quanh. Mọi vật dụng trong nhà vẫn để ở vị trí cũ, đều do một tay tôi sắp xếp. Tôi ghét sự thay đổi. Từ ngày ấy cho đến tận hôm nay, những cây nến vẫn nằm yên ở bậu cửa sổ. Những tờ tạp chí vẫn đặt ở một góc trên chiếc bàn con, chỉ khác một điều chúng bám đầy bụi. Tôi cầm một quyển lên, thổi mạnh. Bụi bay tứ tung. Khoảnh khắc ấy tôi có cảm giác những hạt bụi kia như những tia nắng lấp lánh.
Tôi cất tiếng gọi mẹ nhưng người chào mừng tôi trở về không phải là bà mà là con mèo lông xám tôi nuôi khi còn có Nhi. Con mèo nay đã già lắm rồi, không còn đủ sức để mà leo trèo nữa. Nó dụi đầu vào chân tôi, y hệt ngày trước. Tôi cúi xuống bế nó lên, vuốt ve. Ba năm, chỉ có nó vẫn ở bên tôi, chỉ có nó là không quên tôi. Còn người tôi mong ngóng, muốn nghe một tiếng cười giòn tan, muốn nghe một giọng nói lanh lảnh mà chẳng thấy đâu. Nếu Nhi còn ở con phố này, biết tôi về chắc chắn Nhi sẽ qua thăm ngay, nhà hai đứa sát cạnh nhau cơ mà với lại Nhi chiều nào cũng ngồi ban công đọc sách lẽ nào không thấy tôi từ ngoài ngõ vào…
***
Tôi bước ra vườn thấy mẹ đang loay hoay tưới rau. Từ ngày tôi đi cả vườn rau vẫn xanh mát. Từng cọng rau, từng chiếc lá bông cải mẹ tôi chăm bón ngày một tươi tốt. Tôi cảm động đến ứa cả nước mắt, chạy lại gần ôm chầm lấy mẹ. Mẹ tôi giật mình buông cả thùng tưới, xoay người lại lắc mạnh vai tôi. Ánh mắt không giấu niềm xúc động, chẳng nói nên lời. Trên gương mặt mẹ xuất hiện những nếp nhăn, gian nan cực nhọc nuôi tôi khôn lớn đã cướp đi xuân xanh của mẹ nhưng nhìn mẹ tôi vẫn trẻ trung như ngày nào.
- Con đã ăn uống gì chưa? Mấy năm qua con có bệnh tật ốm đau gì không? -  Mẹ âu yếm hỏi tôi. Dù giờ đây tôi đã cao lớn, khoẻ mạnh nhưng trong mắt mẹ, tôi mãi là đứa trẻ con mà thôi.
Tôi vừa đỡ mẹ vào trong nhà vừa kể cho mẹ nghe những gì tôi học được từ môi trường quân đội. Những giờ phút tập luyện vất vả, khổ cực biết bao nhiêu nhưng cũng nhờ vậy mà tôi từng bước trưởng thành, hoàn thiện bản thân như ngày hôm nay.
- Vừa xuống xe là con về nhà ngay, có gì ăn không mẹ? - Tôi xoa xoa cái bụng đói meo của mình.
- Có đấy, con đi rửa mặt, nghỉ ngơi một lát rồi mẹ dọn cơm lên cho. - Mẹ tôi giục, đẩy vai tôi.
Tôi cười hi hi.
- Con lớn rồi, có còn là cậu bé tinh nghịch như ngày xưa nữa đâu, mẹ xem giờ con đã là người đàn ông lực lưỡng rồi đấy, có thể báo hiếu cho mẹ được rồi.
Tuy nói vậy, tôi vẫn nghe lời mẹ ra sau nhà đến bên giếng nước trong veo, múc từng gàu rửa mặt. Những giọt nước mát lành cuốn trôi hết bụi bặm và những ưu tư trong lòng. Tôi cúi nhìn xuống giếng, thấy bóng mình chập chờn lay động. Một mảnh trời trong xanh in bóng xuống dòng nước cùng vô số những cánh hoa vàng rực.
Tôi đứng thẳng người, hoài niệm. Tất cả những hình ảnh thuở ấu thơ ùa về trong tâm trí tôi. Dù mấy năm qua tôi sống xa nhà nhưng tôi có cảm giác như mình chưa hề rời khỏi quê nhà. Phong cảnh vẫn im ắng và cô tịch như lúc xưa. Vườn rau vẫn thơm ngát. Mẹ tôi vẫn hiền lành và chu đáo.
Ráng chiều đỏ ối rơi xuống thềm nhà. Những đóa hoa sớm nở đầy cành. Trên bàn, ngọn đèn nhỏ được thắp lên. Con mèo già cuộn tròn mình trong bếp lò, bộ lông của nó dính đầy tro. Mỗi lần nhìn cảnh ấy và những lần nhìn mẹ nấu ăn bên ngọn lửa hồng, lòng tôi bình yên quá đỗi. Ngôi nhà yên lành bao giờ cũng làm tôi thảnh thơi, cực nhọc và muộn phiền dường như đã bị bỏ lại sau lưng. Nơi ấm áp ấy luôn mở rộng đón chào tôi, nơi có người mẹ hiền hậu yêu thương tôi vô bờ bến.
Mẹ tôi lấy chiếc quạt giấy phủi đi mấy hạt bụi còn vương trên phản và xếp lại chăn gối. Tôi để mặc mẹ làm những công việc ấy vì mẹ nói mẹ hạnh phúc khi được chăm sóc, lo lắng cho tôi còn tôi hạnh phúc khi được mẹ vỗ về. Tôi cảm thấy mình như trở về những năm tháng bé dại.
- Con nghỉ một lát, cơm canh sẽ có ngay thôi.
Mẹ xuống bếp. Tôi ngả lưng xuống phản, duỗi thẳng hai chân, lòng dịu lại. Ngoài ô cửa sổ, vòm trời rộng lớn. Tận cùng chân trời có ánh nắng cuối ngày lướt bay đi. Nhánh điệp vàng rung rinh trước làn gió nhẹ. Tôi khẽ nhắm mắt, hít hà hương hoa bay vào. Năm năm tháng tháng, hoa còn đó, nở rồi tàn, tàn rồi nở. Tháng tháng năm năm người khác xưa, người đến rồi đi. Hoàng điệp năm nay vắng bóng một người nên hoa buồn lẻ loi.
Tôi nằm úp mặt vô tường, lim dim mắt. Nghe tiếng bước chân của mẹ, tôi giả vờ ngủ. Mẹ lấy chăn đắp lên người tôi, bật quạt xua đuổi muỗi. Tôi nằm im, không động đậy, mắt cay cay. Bao lâu rồi tôi mới được mẹ săn sóc như ngày thơ bé? Dù không xoay người lại nhìn tôi vẫn biết mẹ đang ở bên cạnh. Tôi không dám hít thở, lặng yên cảm nhận từng cử chỉ quan tâm của mẹ cho đến khi mẹ đi ra, tiếng dép nhỏ dần, tôi mới bật dậy, khóe mắt ướt nhòe tự bao giờ.
Ăn bữa cơm xong thì trời tối hẳn. Triệu vì sao đua nhau nở trắng xóa khắp bầu trời. Tôi mở cửa phòng mình. Mọi thứ được xếp gọn gàng. Căn phòng giản đơn với một ánh đèn nhỏ, một tủ sách, một cái giường và một chiếc bàn. Tôi mở ngăn kéo, bên trong là những bông hoa điệp ép khô đã biến đổi màu. Tôi nâng lên một cánh hoa khô khốc. Hơi ấm của Nhi vẫn còn đọng lại trên tay.
Tôi bước ra ngoài phòng khách thấy mẹ đang vá áo. Những chiếc áo có đôi chỗ rách, sút chỉ, bạc màu nhưng mẹ vẫn giữ cho đến tận bây giờ, chỉ là không biết tôi có còn mặc vừa không nữa.
Ngồi xuống bên chiếc bàn, tôi hỏi mẹ về Nhi. Mẹ tôi ngừng tay, ngước lên nhìn tôi bằng ánh mắt đượm buồn. Mẹ thở dài.
- Nhi nó lấy chồng được hơn nửa năm rồi con à!
Chuyện này cũng không có gì là quá bất ngờ. Trở về cố hương, không còn nhìn thấy bóng dáng mảnh khảnh tung tăng chạy nhảy ngoài ngõ, không còn được nghe giọng cười khúc khích quen thuộc là tôi biết Nhi đã không còn ở con phố này nữa rồi.
Tôi rót một cốc trà, thế nào lại để trà tràn ra ngoài ly. Mẹ tôi nhắc nhở.
- Ấy, con phải cẩn thận chứ. - Về chuyện của Nhi, mẹ tôi nói tiếp, giọng đều đều xen lẫn tiếc nuối. - Con bé bị ép hôn. Ba mẹ nợ nần chồng chất, Nhi buộc phải gả đi nơi xa. Cuộc hôn nhân như thế làm sao mà hạnh phúc.
Tôi hớp một ngụm trà. Trà có vị nhàn nhạt. Vầng trăng khuyết in trên rèm cửa. Tôi bước ra vườn. Giữa hai thân cây, có treo một chiếc võng, tôi nằm xuống đó, lặng lẽ thu nhặt lại những mảnh vụn tháng năm bên người, hương hoa điệp vàng ủ trong tay áo đã phai gần hết. Đêm nay một mình tôi bầu bạn với ánh trăng. Đời người vui buồn ly hợp. Trăng cũng vơi đầy tỏ mờ. Xưa nay khó vẹn tròn. Nếu nhắm mắt lại chúng ta sẽ tìm kiếm điều gì ở bản thân? Còn trái tim tôi tìm lại những kỷ niệm tuổi trẻ ngày xưa.
***
"- Chúng ta thi nhau xem ai nhặt hoàng điệp rơi nhiều hơn.
- Được thôi.
Một tuần sau, Nhi đưa tôi xem quyển vở cô ấy ép đầy những cánh điệp vàng. Hoa đã khô và chuyển sang màu nâu sẫm. Tôi cầm lên một cánh hoa, vò nhẹ. Tiếng vụn vỡ giòn tan trong lòng bàn tay.
Những đêm tối, chúng tôi nằm trên mái nhà ngắm sao giăng đầy trời.
- Hy vọng mai này chúng ta có thể mãi mãi như vầy.
- Cuộc sống không tồn tại hai chữ "mãi mãi" đâu Nhi à. Có chăng chúng ta nên trân trọng những khoảnh khắc hiện tại là được rồi.
- Chúng ta cứ hy vọng đi, cuộc sống luôn luôn cần hai chữ "hy vọng" mà."
Nhi nói đúng, chúng ta sống là phải biết hy vọng. Nhưng Nhi đi lấy chồng rồi, hy vọng có ích gì nữa đây.
"Mấy tháng sau, tôi lên đường nhập ngũ. Nhi tiễn tôi ở bến xe, lòng bịn rịn không muốn rời. Tôi cũng vậy.
- Vinh phải bình an trở về nhé.
- Ừ, Nhi cũng phải hứa là đợi Vinh nhé. Chúng ta còn rất nhiều điều chưa thực hiện cùng nhau.
- Nhi sẽ đợi mà."
Là Nhi thất hứa hay tại tôi ngây ngô, ngốc nghếch khi tin vào những lời hứa trẻ thơ?
- Vinh!
Tiếng mẹ gọi cắt đứt mạch suy nghĩ trong tôi. Vội bước vào nhà, tôi hỏi mẹ có chuyện gì. Bà trao cho tôi lá thư Nhi viết trước lúc rời quê hương. Dưới ánh sáng của những vì sao, tôi mở phong thư ra đọc. Nét chữ nghiêng nghiêng, mềm mại. Đúng là nét chữ của Nhi. Tôi thất vọng khi Nhi chẳng nói gì nhiều, cô chỉ viết vài dòng ngắn gọn, đại khái cô bảo tôi rằng hãy quên cô đi, đừng chờ đợi một người đã cũ. Tôi buông lá thư, nén tiếng thở nhè nhẹ. Cơn gió thoảng qua, đưa hương hoa bay ngang qua mũi. Phải chăng giấc mộng mãi mãi không bao giờ đạt được mới chính là giấc mộng đẹp nhất?
  Quách Thái Di (Ngọc Vy)
 
  Nắng mai dần trải sân trường,
     Ngắm hoa giản dị sắc hương dịu dàng..!
   Hoa vàng dẫu chẳng cao sang,
Tình hoa lãng mạn vô vàn yêu thương
      NM

Nhìn cánh điệp rơi 

Từ bàn giáo viên, nhìn qua khung cửa sổ, từng cánh điệp vàng cứ chốc chốc lại lặng lẽ rơi trong gió. Vậy là một mùa hè nữa đã trở về, và tôi đã kết thúc một năm đứng lớp đầy vất vả, như một người đưa đò cần mẫn chở bao học trò sang sông để đến với bến bờ tri thức. Hoa điệp nở, hoa điệp rụng mang cho tôi bao cung bậc cảm xúc về những ngày đã qua...  

Cây điệp vàng trong sân trường trồng từ lâu lắm rồi. Có lẽ, ngoài hoa phượng, hoa bằng lăng thì hoa điệp gắn bó với lứa tuổi học trò nhiều nhất. Nhìn khung cảnh trường yên ắng, có vài tiếng chim kêu, màu vàng của điệp cứ không ngừng bay bay trong gió, tạo nên một khung cảnh hết sức lãng mạn cho bức tranh ngày hè ở trường tôi. Và dù là học sinh hay giáo viên, nếu xa trường, xa lớp vẫn khắc khoải lắm về cây điệp vàng già nua ấy. Nhớ từng cánh điệp như ngàn con bướm nhỏ xíu đậu trên sân trường, trong những ngày đầu hè yên


Những cành cây gầy gộc vươn mình trong nắng, trong gió rồi đến hẹn lại lên, cây điệp lại bung nở những chùm hoa tươi rói. Hoa điệp không được ưu ái như hoa phượng hay hoa bằng lăng. Bởi lũ học trò thường thích ép những cành hoa phượng vĩ thành hình cánh bướm, hay vô vàn hình hài khác vào trong sách, trong vở. Còn hoa bằng lăng thì chúng thi nhau hái từng chùm, từng chùm cài lên tóc, lên giỏ xe một cách điệu đà. Hoa điệp thì ít khi nào chúng đụng tới, vì hoa điệp nở cao chót vót, nếu cánh hoa có rơi thì chúng vô tình giẫm chân qua lại, hay ngồi dưới gốc điệp ăn quà vặt, đọc sách, nói cười. Nhưng khi xa trường, quay về thăm trường cũ thì đứa nào cũng mân mê, thích chụp hình dưới gốc điệp. 
Màu vàng của hoa điệp không phải là màu tàn úa, mà đó là màu của sức sống mãnh liệt. Màu vàng của hoa điệp luôn gợi nhớ trong tâm trí của mỗi người. Không riêng gì ở trường tôi, một số thành phố lớn cũng trồng xen kẽ hoa điệp vàng với những loại cây xanh khác. Và mỗi khi mùa hoa điệp về, phố phường như khoác lên một chiếc áo màu vàng ươm, nổi bật trong vô số sắc xanh của các loài cây khác. 
Hoa điệp gắn với tôi thật nhiều kỷ niệm. Bao mùa thi trôi qua cùng với bao mùa điệp vàng, rồi bao thế hệ học trò đã xa trường. Chiếc ghế đá dưới gốc điệp vẫn ngẩn ngơ theo dòng thời gian. Khi những tia nắng đầu ngày lấp ló qua cửa sổ, và những tiếng ve báo hiệu mùa sang, cây điệp vẫn bung nở, những chùm hoa tươi rói, gọi tiếng chim về làm tổ. 
Giữa cái thế giới sắc màu ấy. Màu trắng của áo dài, màu xanh xanh của lá, màu đỏ của phượng vĩ, màu bảng đen phấn trắng, màu của những giọt nắng cuối ngày... Màu nào cũng mang vẻ đẹp riêng, nhưng tôi vẫn yêu nhất là cái màu của hoa điệp vàng. 
Tuy không có giá trị về mặt kinh tế, nhưng hoa điệp thường mang cho người ta bao cảm xúc khó tả. Tôi còn nhớ những năm tháng nghèo của thời sinh viên, trong căn phòng trọ chật chội của bọn con gái chúng tôi, lúc nào cũng có lọ hoa “hỗn hợp”, tức là vừa hoa điệp, hoa lau, hoa phượng, hoa bằng lăng cắm trên chiếc bàn học nhỏ nhắn. Hoa không có mùi thơm, chỉ có một sắc vàng, nhưng đủ để mang lại sự rực rỡ cho căn phòng. 
Những cánh điệp vàng chỉ cần một cơn gió thổi qua, lại lả tả rơi như một cơn mưa hoa. Trong nắng vàng, hoa điệp như vàng hơn. Tuy trong sân trường có vẻn vẹn một cây điệp vàng, không nhiều như bao nơi khác, cũng không tạo nên những cung đường hoa điệp lãng mạn, nhưng chỉ cần nhìn vài cánh điệp rơi ngoài khung cửa, tôi cảm thấy thời gian sao trôi nhanh quá. 
Phải chăng rồi đến một lúc nào đó, tôi sẽ cảm nhận được sự ngắn ngủi, cũng như mong manh của một kiếp người. Như những chùm hoa điệp vàng kia, lặng lẽ nở, lặng lẽ làm đẹp cho đời, rồi những cơn gió đến mang cánh điệp đi. Loài hoa không hương, chỉ giản dị một màu vàng, nhưng nó khéo gieo vào lòng người một nỗi nhớ không nguôi. 
Và ngoài kia, thêm vài cánh điệp rơi, mặc cho ánh nắng mai đang trải dần trên sân trường... 
Thân Thị Thanh Trâm

Điệp vàng lại nở
Có những mùa hoa điệp vàng không nở,
Gió vẫn bay trong nắng thắm lung linh...
Sắc hoa vàng mong đợi quá mong manh,
Bao hi vọng tưởng chừng như tuyệt vọng

Những kỷ niệm, bao tâm tình lắng đọng,
Trao cho nhau với tất cả thâm tình,
Sắc hoa vàng bừng nở giữa bình minh.
Trong nắng ấm xiết bao tình thân ái

Điệp vàng bừng nở ngày mai,
Sắc tươi màu nắng có phai bao giờ ?!
NM
  
Có một mùa hoa điệp không nở
Một buổi trưa tôi đang thiu thiu ngủ trên chiếc võng ngoài sân sau nhà thì vợ tôi khệ nệ bê một cái bao tải to đi tới. Vợ vừa thở dốc vừa lay tôi dạy. Mất giấc tôi liền cáu gắt với vợ nhưng chiếc bao tải kia cũng làm tôi thấy tò mò. Vợ tôi bảo có một người tự xưng là xe ôm vừa chở nó đến nhà tôi, trên bao có dán một tờ giấy ghi đầy đủ họ tên và địa chỉ của tôi nữa. Nhìn thấy nét chữ mảnh mai, dứt khoát đó tôi đã nhận ra ngay người gửi.
***
Vợ tôi hí hửng mở bao ra xem. Nào là măng đắng tươi, măng khô, củ mài, rau bò khai, rau ngót rừng, rau sắng và mấy thứ hoa quả rừng khác nữa. Thêm vào đó còn có một cái hộp nhỏ được bọc cẩn thận, vợ tôi hồi hộp mở ra xem thì thấy hai chai mật ong rừng và ít thịt gà gác bếp. Mùi vị của đại ngàn như sộc vào mũi tôi. Món quà từ núi rừng này lại một lần nữa đưa tôi vượt thời gian về lại với thời trai trẻ đầy nhiệt huyết của mình. Ngoài hai mươi, sau khi nhận được bằng tốt nghiệp tôi và vài người bạn cùng khoa được phân về công tác ở trên Tây Bắc. Tôi đã có hai năm gian khó ở Mường Phay cái bản Thái nhỏ nằm sâu mãi trong bốn bề mây núi. Mỗi mùa xuân đến lại ngập trong sắc hoa Ban nở trắng trời. Những cánh rừng, những con suối, những nếp nhà sàn, những nụ cười, những điệu múa, khúc dân ca làm lòng người say đắm nào đâu dễ quên. Ở đó có những con người mà tôi không bao giờ có thể quên được. Đó là Phài mối tình dang dở nhưng đẹp dịu dàng của tôi. Đó là mẹ Lán, người phụ nữ của núi rừng đã luôn coi tôi như con trai hồi tôi còn ở nhà ông bà. Đó là ông Bôn, trưởng bản Mường Phay luôn đêm ngày mong ước có điện về bản. Đó là những người học trò nhỏ của tôi, những người từng mong có đôi cánh bay vượt đại ngàn... và đó là người anh, người bạn, người đồng nghiệp yêu quý, ông thầy giáo tên là Lành ấy, cũng chính là người đã gửi cho tôi những thức quà này.
Sau khi tôi về dưới xuôi công tác tôi chỉ thư từ cho anh Lành được một đôi lần. Đến khi anh lập gia đình và tôi cũng thế thì hầu như chúng tôi bặt tin nhau hẳn. Những ngày ấy tôi cũng phải chuyển công tác liên tục, vợ con nheo nhóc khiến tôi phải tạm chôn cất những kỷ niệm cũ sang một bên. Gần hai mươi năm sau tôi được cơ quan cử về miền rừng công tác trong nửa tháng, đến lúc ấy bao nhiêu ký ức xưa chợt đổ ào về trong tôi như một cơn mưa giữa đại ngàn. Người đầu tiên tôi nhớ đến lúc ấy là anh Lành, người đã luôn che chở cho tôi, dạy bảo tôi hồi còn trẻ cái thời còn nông nổi. Không biết giờ anh đã ra sao rồi, có còn ở Mường Phay nữa không, tôi nhất định phải tìm gặp anh trong chuyến công tác này. Ngày trở lại ấy tôi hoàn toàn bị bất ngờ. Sau hai mươi năm cái bản nhỏ như lột xác hoàn toàn. Từng nếp nhà sàn khang trang lợp mái ngói đỏ tươi rạng ngời lên trong nắng, điện, đường, trường trạm đủ cả. Mường Phay cũng đông đúc hơn xưa nhiều, bản được mở rộng và chia thành ba bản nhỏ cũng đều gọi là Mường Phay hết nhưng thêm số vào sau để phân biệt. Đáng mừng hơn là ngôi trường nhỏ mà ngày xưa tôi công tác đã được xây dựng lại thành hai tầng khang trang ở ngay đầu bản.
Hai mươi năm đã trôi qua, nhưng hình như không có ai là không nhận ra tôi. Mẹ Lán đã mất, Phài đi lấy chồng xa, một vài học trò nữ của tôi cũng đi lấy chồng xa hết cả rồi. Một vài trò nam thì đang đi làm ăn xa hoặc đi bộ đội, đi học còn đâu mọi người vẫn ở Mường Phay cả. Ông trưởng bản Bôn giờ đã ngoài 60, ước mơ của ông nay đã thành hiện thực rồi. Tôi nóng lòng muốn biết tin về anh Lành, chẳng thấy anh ấy ở Mường Phai nữa thì phải. Trong bữa cơm thân tình ở nhà ông Bôn tôi mới có dịp hỏi. Người Mường Phay của hai mươi năm trước hầu như không ai là không biết đến thầy giáo Lành cái tên anh giống y như tính cách, đó là một ông thầy giáo hiền lành như bụt vậy. Ngày tôi mới đến Mường Phay, anh Lành đã ở đó được năm năm trời. Anh là một trong những người đầu tiên từ dưới xuôi lên Mường Phay dạy học. Anh Lành có một khuôn mặt hiền hậu, chất phác tính tình lại vui vẻ hài hước nên dân bản quý lắm. Các học trò người H'mông từ các bản xa xuống Mường Phay học gọi thầy là Giàng A Lành, những học trò người Thái thì gọi anh là thầy Cầm Bạc Lành... dù tên thật của anh là Nguyễn Ngọc Lành. Chúng đặt tên cho anh như thế vì vô cùng yêu quý anh. Lành cũng nói được cả tiếng Thái và tiếng H'mông nên được dân bản thêm yêu quý. Sau giờ học anh thường vào nhà học sinh thăm các em và giúp các gia đình trồng ngô, lúa hái củi. Lành cũng là người đưa ra sáng kiến dẫn nước từ khe suối về tận nhà cho những người dân trong bản. Ngày xưa, rất nhiều thầy cô từ miền xuôi lên Mường Phay dạy học thường hay bỏ về vì cảnh núi rừng âm u, tĩnh mịch làm cho họ thấy sợ và buồn chán. Và nếu không có anh Lành chắc tôi cũng chẳng trụ lại ở Mường Phay đến tận hai năm trời mà không về thăm nhà lấy một lần.
Ông Bôn bắt đầu kể về anh Lành một cách say sưa hơn sau khi đã ngà ngà say. Sau khi tôi rời Mường Phay được khoảng hai, ba năm gì đó thì anh Lành lấy vợ. Vợ anh cũng là giáo viên tiểu học, cùng quê anh từ dưới xuôi lên Mường Phay công tác. Lấy nhau xong hai vợ chồng anh cất tạm một ngôi nhà nhỏ gần trường với sự giúp đỡ của dân bản. Hai vợ chồng anh rất chăm chỉ và tháo vát, ngoài giờ dạy trên lớp hai anh chị làm kinh tế cũng rất tích cực. Anh chị phát quang những mảnh đất trống quanh trường trồng rau, mua lợn gà trong bản về nuôi. Vốn mát tay anh chị trồng cây gì, nuôi con gì chúng cũng đều lớn lên khỏe mạnh, tươi tốt cả. Khốn nỗi, trồng được, nuôi được nhưng anh chị lại chẳng biết bán cho ai. Chợ ở ngoài thị trấn thì xa quá. Theo lời ông Bôn kể, dạo ấy không ai còn lạ gì cái cảnh người thầy giáo gầy nhom gánh từng gánh rau, có khi gánh cả con gà, con lợn trèo đèo, lội suối đi xuống chợ thị trấn bán.
Khoảng hơn mười năm trước, Mường Phay bắt đầu có điện, rồi đường cũng bắt đầu được khai mở. Một trường cấp hai được mở ở trung tâm xã cách bản cũng không xa. Tôi vẫn nhớ cách đây hai mươi năm trụ sở ủy ban nhân dân xã nằm thọt lỏm trong rừng hoa Điệp vàng, cũng nghèo nàn, xơ xác mặc dù gọi là trung tâm. Vợ anh Lành được chuyển ra dạy học ở đó. Lúc ấy anh chị cũng có với nhau được hai mặt con, một gái, một trai. Anh liền chuyển nhà ra gần trung tâm xã để vợ đỡ phải đi lại vất vả. Ở đó gần thị trấn hơn nên anh chị cũng có điều kiện phát triển kinh tế hơn là ở trong bản. Anh Lành cũng mua đất ở trong Mường Phay và mấy bản gần đó để làm trang trại, không chỉ làm giàu cho mình anh Lành còn giúp dân bản làm ăn, thoát khỏi đói nghèo nữa. Mấy năm trước vợ chồng anh đã cất được ngôi nhà to lớn, khang trang ngay cạnh ủy ban nhân dân xã. Rồi mua được một cái ô tô để đi, anh là một trong những người được coi là giàu nhất xã. Nghe đến đây tôi thấy vô cùng vui mừng cho anh Lành và cả gia đình anh. Một người như anh xứng đáng được hưởng thành quả tốt đẹp như thế.
Cũng đến đây, ông Bôn thở dài não nề và nói:
"Cái đời này nhiều lúc cũng buồn thầy ạ, nhiều cái mình chẳng ngờ được ấy".
Nói xong, ông lại đưa chén rượu lên đánh ực một cái. Tôi lo lắng hỏi ông, không biết là có chuyện gì. Nhìn mặt ông và nghe những gì ông nói tôi bỗng thấy có dự cảm không hay về đoạn cuối của câu chuyện về anh Lành. Rồi ông Bôn cũng chần chừ kể tiếp.
"Vào đúng dịp này năm trước, gần đến cái Tết cơm mới đó. Dân bản định mở hội to vì cái bản giờ nó cũng ấm no rồi. Sau khi họp bàn thì bản cần đến hai cái loa to, dăm cái vại rượu cần mới và nhiều thứ linh tinh nữa cho lễ hội. Nhiều cái ở chợ thị trấn không có bán phải lên tận trên chợ thị xã mua mới được. Khổ cái nỗi đường thì xa quá, mà chẳng ai biết mua được hết chừng ấy thứ cả. Đúng dịp bản cũng mời thầy giáo Lành về họp bản cùng. Thầy đã nhận đi mua hộ mấy thứ đó, vì thầy có ô tô lại thông thạo đường thị xã. Cả bản vui mừng giao trọng trách ấy cho thầy. Bản cũng cử một người đi với thầy cùng mua. Đó là thằng Pán, bí thư chi Đoàn thanh niên bản đó. Hôm đó có cả con gái thầy là sinh viên học trên cao đẳng tỉnh cùng đi nữa. Đến cái đoạn đường ở ngã từ Đồi Hống qua chỗ thị trấn đó thì. Thì có một gia đình người Xá gì đó đèo nhau đi xuống dưới chợ, hôm đấy cũng đang có chợ phiên. Nghe nói mất tay lái hay thế nào mà..." đến đây ông Bôn nghẹn ngào "tôi cũng chẳng tin nổi vào cái tai mình. Một người cẩn thận như thầy Lành lại có thể gây ra tai nạn làm chết cả nhà người ta. Xe máy đèo bốn người thì chết ba. Mỗi cô vợ còn sống nhưng bị thương nặng, đứa con trong bụng cũng mất.
Công an đến bắt thầy đi, gia đình nạn nhân cũng phạt vạ thầy lớn lắm. Vợ chồng thầy cũng đã cố gắng đền tội sao cho đúng nhất. Thầy phải bán cái ô tô đi để nộp tiền phạt, khoảng thời gian đó người ta cũng không cho thầy dạy học nữa. May thay người vợ của người lái xe máy còn sống. Sau hai tháng trời nằm viện cô ta đã khỏe mạnh trở lại và chính con gái thầy phải bỏ học đến viện chăm sóc người đó. Đến khi người đó khỏi thì bị nhà chồng bắt lấy em trai chồng theo tục nối dây ở bản đó đấy. Cô ta không đồng ý. Tiền bồi thường của nhà thầy Lành cho gia đình cô ta cũng bị bên nhà chồng lấy hết mà không cho cô đồng nào. Hôm người ta xét xử thầy Lành, dân bản Mường Phay cũng kéo đi xem đông lắm. Chính cô vợ người lái xe máy đứng lên nói rằng, hôm đó chồng cô ta đã uống rượu rất say trước khi lái xe chở theo người vợ đang mang bầu và đứa con trai nhỏ xuống chợ phiên. Xe của chồng cô đi quá tốc độ và hầu như chính nó đã đâm thẳng vào xe của thầy Lành. Về phía thầy thì chẳng có ai làm chứng, thằng Pán bảo đi cùng thầy nhưng nghe nói đến thị trấn nó bị đau bụng nên không đi nữa. Sau đó thầy Lành được trở về, năm đấy thầy không đi dạy học nữa. Không ai nhìn thấy thầy cười suốt một thời gian dài.
Về sau thì thầy nhận người phụ nữ chết chồng, chết con trong vụ tai nạn với xe ô tô của thầy làm con nuôi. Khi cô ta đi bước nữa thầy còn đứng ra tổ chức hôn lễ cho vì bố mẹ cô ta cũng không còn ai cả. Mấy nay thầy Lành sống lặng lẽ hơn, nhà thầy ở sau trụ sở ủy ban nhân dân xã đó. Nó cũng nằm trong um tùm những cây hoa Điệp như lâu năm chẳng tỉa tót gì. Thầy vẫn tốt với mọi người, bao nhiêu học sinh từ bản xa đến học thầy đều cho ở trọ nhà thầy không mất tiền. Vợ chồng thầy lo cho chúng từng bữa ăn giấc ngủ. Ai cũng bảo chắc thầy ân hận vì những chuyện đã qua lắm. Thầy ấy buồn chắc cũng vì con gái nữa, sau vụ tai nạn lần ấy, con gái thầy cũng bị mắc bệnh lạ. Nó hay sợ sệt đủ thứ, đêm về hay mơ xấu. Không ăn ngủ được, biết vậy thầy cúng ở bản mình cũng xuống cúng cho đấy", và ông Bôn lại thở dài, uống thêm chén rượu nữa, ông kể tiếp "tôi cũng không tin thầy Lành lái cái ô tô đâm chết người ta. Hôm ấy thầy cúng ở bản về có nói thầm với tôi rằng. Con gái thầy đang chịu hạn vì tội lớn từng gây ra. Tôi không biết nữa thầy ạ, nhưng có lẽ hôm đó không phải thầy Lành lái xe ô tô đó đâu."
Ông Bôn kể đến đây, lòng tôi như thắt quặn lại. Ngày tôi biết anh Lành, anh còn không dám giết một con gà dù được dân bản biếu làm thịt. Thường thịt thà ai nấu cho anh mới ăn chứ không bao giờ trực tiếp anh làm, anh không dám đi xem cảnh người ta mổ lợn, mổ trâu, không dám ăn cả tiết canh vì sợ máu me. Và cũng vì anh thương các con vật lắm. Nuôi chúng để bán đi chắc việc anh cũng chẳng muốn làm mấy nhưng vì cuộc sống thì đành phải chịu. Các trang trại của anh nghe nói cũng trồng nhiều hơn nuôi. Vậy mà... cái vụ tai nạn ấy chắc nó ám ảnh anh lắm. Chẳng biết là anh hay là ai đã lái xe nhưng dù gì vụ việc đó cũng liên quan đến anh, làm sao anh hết được buồn phiền và cảm giác tội lỗi. Tôi chỉ muốn về thăm anh ngay trong ngày hôm ấy. Có lẽ anh rất cần một người bầu bạn lúc này.
Tôi đến thăm gia đình của anh trong một buổi chiều cuối hạ. Đúng như lời kể của dân bản, ngôi nhà ba tầng khang trang của anh nằm thọt lỏm giữa rừng Điệp, sau trụ sở ủy ban xã. Có nhiều cây Điệp không to lắm hình như nó mới được trồng cách đó có vài năm thôi. Đang trong thời gian nghỉ hè nên trong nhà anh chẳng thấy bóng dáng học sinh nào. Tôi đi bộ từ đầu đường vào nhà anh, đến gần cổng thì thấy một cô gái trẻ tầm mười tám, đôi mươi đang quét những bông hoa Điệp vàng rụng đầy ngoài sân. Tôi mở cổng bước vào, thấy tôi cô gái liền bỏ luôn cây chổi xuống và chạy ào vào trong nhà. Tôi thoáng chút giật mình, đang định gọi thì một người đàn ông gầy gò xuất hiện. Tôi thấy nước mắt mình rưng rưng, ngày xưa tôi cũng gầy gò như thế. Nhưng giờ thì đã phát tướng và tăng hơn 10 ki lô gam so với hai mươi năm trước đây. Còn anh Lành, trông anh còn có vẻ gầy hơn cả khi xưa. Tôi nhớ lại, ngày xưa giữa mùa đông lạnh cắt da cắt thịt của Mường Phay, tôi lên cơn sốt anh đã thức trắng đêm chăm sóc cho tôi. Nhường cho tôi chiếc chăn ấm của anh. Vào một mùa lũ cách đây hai mươi năm về trước, tôi cùng anh xuống thị trấn lấy sách vở về cho học sinh. Lúc đi qua một con suối to để vào bản tôi sẩy chân ngã, không biết bơi dòng nước cứ thế cuốn tôi đi. Anh Lành liền chạy theo tôi, vừa chạy anh vừa la hét kêu cứu, may thay tôi vớ được một cái cành cây bên bờ suối vừa đổ xuống. Lúc cành cây sắp không chịu được sức chảy của dòng suối thì anh Lành kịp đến, một tay anh nắm lấy tay tôi. Tay kia thì nắm vào cái cây nhỏ trên bờ để khỏi bị tuột xuống. Khi nhìn thấy cái cây nhỏ sắp bật rễ lên tôi bảo anh hãy buông tay tôi ra không cả hai anh em sẽ bị lũ cuốn đi mất. Anh Lành vẫn không chịu buông, lúc ấy tôi thấy dòng nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt anh. Mọi hy vọng được sống, được trở về xuôi với ba mẹ dường như đã tiêu tan. May thay lúc ấy có vài người dân bản đi qua, họ đã giúp chúng tôi lên bờ. Sau những ngày ấy, tôi nguyện có chết cũng không được quên anh Lành. Thế mà hai mươi năm qua, vì cuộc sống mưu sinh, vì những ngày cứ vào rừng ra biển dạy học tôi đã không đến thăm anh được một lần.
Anh nhận ra tôi ngay, tôi chạy lại ôm chầm lấy anh, một giọt nước mắt của tôi rơi xuống vai anh. Hai anh em ngồi hàn huyên tâm sự sau hai mươi năm xa cách. Anh vẫn hiền lành từ tốn như xưa. Tóc anh bạc gần trắng hết cả, nét u buồn luôn ẩn hiện sau đôi mắt sâu. Chúng tôi ngồi uống trà ngoài hiên, hình như Lành đã biết tôi biết được khá nhiều chuyện về anh trong hai mươi năm qua nên anh chẳng kể lể gì nhiều, chỉ hỏi thăm vợ con tôi đôi chút. Chị nhà anh và thằng con trai út hôm đó đang đi vắng, còn cô con gái vì sợ người lạ nên nó không dám ra chào tôi. Tôi hỏi:
"Cháu tên gì anh?"
"Ngọc Điệp" – anh trả lời.
Chúng tôi lại lặng im vừa uống trà vừa ngắm những bông hoa Điệp vàng rụng ngoài sân. Chợt đôi mắt anh Lành dừng lại hồi lâu chỗ cái chổi và đám hoa Điệp quét dở ngoài sân. Rồi anh buồn rầu nói.
"Năm ấy, có mấy cây hoa Điệp quanh nhà chẳng nở hoa và cô con gái Ngọc Điệp cũng chẳng cười nữa, dù tôi đã cố gắng làm tất cả..."
Vậy là lại một năm nữa đã trôi qua kể từ chuyến công tác ấy. Mỗi lần nhớ đến anh Lành tôi lại thấy tim mình như thắt lại. Đang lặng đi trong bao hồi tưởng về quá khứ, vợ tôi chợt kêu lên:
"Có một lá thư nữa này mình ơi!"
Tôi mở thư của anh Lành ra đọc, trong thư anh viết rằng chỗ măng rau, hoa quả là vợ chồng anh gửi. Còn mật ong rừng và thịt gà gác bếp là của ông cựu trưởng bản Bôn. Anh cảm ơn tôi vì vài tháng trước đã gửi cho anh mấy cuốn sách nói về cách chữa bệnh trầm cảm cho cô con gái lớn của anh. Giờ đây tình hình của nó đã khá hơn rồi. Anh còn viết ở cuối thư: "Có lẽ những mùa hoa Điệp ở nhà tôi sẽ thật sự nở rộ vào ngày mai thôi, tôi yêu màu hoa ấy chú ạ, vì đó là màu của nắng mai, màu của sự sống mãnh liệt, và nó cũng là tên của con gái tôi, đứa con đầu lòng mà tôi hằng yêu quý nhất."
Hoa Thược Dược

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Bướm đêm

Hoa bướm đêm
Một chút gì rực rỡ,
Một thoáng dáng kiêu sa.
Em khác chi nào những doá hoa...
Bao nhiêu ong bướm mơ màng đến,
Em vẫn là em nét mặn mà !

Vô thường là cõi tạm,
Sao lòng cứ bâng khuâng !
Em xa rồi xa mãi,
Bao giờ ta được gần ?...
Trong giấc mơ trẻ dại,
Thương nhớ hình bóng cha,
Nơi quán Vô thường ấy
Là tình yêu thiết tha !!
NM

BƯỚM ĐÊM
Khi còn nhỏ, tôi rất hay theo mẹ đến nhà hát lớn để xem ba biểu diễn. Ông là một nhạc công chơi violon trong giàn nhạc giao hưởng lớn ở Thành phố. Có thể nói đối với ông, âm nhạc là cả cuộc đời. Cái thứ thanh âm khi réo rắt, khi du dương, trầm lặng ấy ám ảnh tôi cả trong những giấc mơ thơ dại khi nép mình nơi góc cửa nhìn ba chơi violon trong ánh sáng mờ nhạt ban chiều bên khung cửa sổ. Là một mình trong cái thế giới đầy huyền hoặc, chỉ riêng ba mà có lẽ tôi không bao giờ chạm tới được. Cũng vì lẽ đó, tôi ấn tượng mạnh với những người làm công việc liên quan đến âm nhạc, dù sau này tôi chọn cho mình một lối đi riêng, hoàn toàn tách biệt với thế giới của những điệu nhạc không lời.
1- Tôi làm trong một công ty quảng cáo, chuyên thiết kế ý tưởng và nhận nhiệm vụ quảng bá sản phẩm của các doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng. Sếp của tôi là một ông chủ cực khó tính nhưng lại cực dễ gần. Nghe có vẻ như khá ngược ngạo nhưng sự thật là vậy. Để làm được công việc này không chỉ đòi hỏi nhân viên phải nhanh nhẹn, hoạt bát mà còn phải có trí tưởng tượng, khả năng quan sát và thẩm mĩ cao. “Ngoài ra còn phải có cá tính nữa”- cái giọng khàn khàn quen thuộc của sếp lại vang lên, tôi phải nín lắm mới không khỏi bật cười ra thành tiếng. Có lẽ vậy mà ngày đầu tiên bước chân vào văn phòng, tôi đã không giấu nỗi sự ngỡ ngàng trước hàng loạt những cái tện kì quặc từ những người cộng sự: Tép Riêu, Bão biển, Dâu tây, Rêu Phong, Ninja… Lẫn trong số vô vàn nickname kì lạ, trò chơi và kế hoạch chẳng giống ai ấy là cái tên Bướm đêm, tưởng như rất đỗi bình thường nhưng lại mang đến cho tôi cái cảm giác tò mò và thôi thúc đến lạ như cái thời còn bé lén ba đem cây violon ra chơi, mà mãi đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết tại sao. Có thể là định mệnh. Hoặc chẳng là gì cả.
  1. Tên em là Hạ Chi, nhẹ nhàng, xinh đẹp, bí ẩn nhưng lạnh lùng như chính cái tên Bướm đêm. Ngoài khả năng làm việc không mệt mỏi và bề ngoài ưa nhìn, em còn là chủ nhân của hàng tá những ý tưởng và kế hoạch độc đáo, được sếp cực kì tin cậy. Có thể nói em đang đứng ở vị trí mà bất cứ cô gái nào đều thèm muốn nhưng tỉ lệ thuận với những thứ ấy là sự lạnh lùng đến đáng sợ. Đôi lúc tôi lại tự hỏi liệu ngoài công việc ra còn có thứ gì khác quan trọng với em khi hầu như em không hề tỏ ra quan tâm đến bất cứ một vấn đề nào khác mà các cô gái đều yêu thích. Chẳng mua sắm hàng tháng ở Plaza. Chẳng xem tạp chí thời trang. Đặc biệt lại chẳng ưa những lời đường mật có thể giết chết 99% loài ruồi. Bằng chứng là lời tỏ tình có cánh của một bậc đàn anh nổi danh là đào hoa trước mặt toàn thể các anh em trong công ty đã được đáp lại bằng một vẻ mặt thản nhiên cùng câu trả lời cũng thản nhiên nốt: “Xin lỗi anh, nhưng dầu anh có nói hàng vạn lần như thế nữa thì câu trả lời vẫn chỉ có một. Em không cần anh và cũng không cần bất kì ai bảo vệ và chăm sóc”. Nhiều khi lén nhìn em trong giờ làm việc tôi cũng chỉ biết thở dài. Dường như bức tường bao bọc quanh em quá lớn. Nó dày và kiên cố đến nỗi không có chút ánh sáng nào có thể lọt vào. Vì đơn giản câu trả lời vốn dĩ cũng chỉ có một. Em là bướm đêm. Loài bướm chỉ xuất hiện mỗi khi đêm về…
Bướm đêm: Sky. Ngày mai đem cho tôi xấp tài liệu chuẩn bị cho mẫu quảng cáo loại trà xanh mới nhé.
Sky: Sáng mai phải không? Mấy giờ?
Bướm đêm: Uk . Đúng 8 giờ nhé. Cậu biết đó tôi không thích mấy người lề mề.
Sky: Nếu xét ra anh lớn hơn em một tuổi đấy. Đáng lẽ ra em phải gọi anh là anh chứ nhỉ?
Bướm đêm: Cậu bắt đầu học cách xét đoán người khác từ bao giờ thế? Cậu sinh tháng 12, tôi sinh tháng 1. Tại sao người ta lớn hơn nhau cả chcu5 tháng mà vẫn xưng hô bạn bè đấy thôi. Tôi không thích phải gọi những người chỉ lớn hơn mình một hoặc hai tuổi bằng anh đâu.
Sky: Em cũng biết ngày sinh anh đấy à? Lạ nhỉ? :))
Bướm đêm: Cậu không biết à? Tôi là người xét duyệt cậu vào công ty này trước khi hồ sơ được đưa lên cho sếp. Với lại hình như nãy giờ tôi đã thông báo những điều cần biết cho cậu rồi. Tôi out đây. Nhớ đúng giờ đấy.
Sky: Khoan đã. BUZZ!
Bao giờ cũng vậy. Cuộc trò chuyện của chúng tôi chỉ là những mẩu đối thoại vụn vặt chưa đầy 5 phút và chỉ được gói gọn trong hai từ: Công việc. Lúc nào cũng là em mở đầu với công thức: “Ngày mai…” hay “Nhớ đem cho tôi….”, “Cuộc họp bắt đầu lúc…”. Còn tôi sẽ đảm nhận phần kết thúc với hai từ Khoan đã thay cho The end. Phũ phàng. Lạc lõng. Nó đem lại cho người ta cái cảm giác như thể khi vừa kịp nhìn thấy thiên đường thì đã rơi tõm xuống dưới chín tầng mây. Không đau nhưng chơi vơi lắm…
3.  Một chiều mưa nhẹ.
Phần còn lại của bản phác thảo ý tưởng cho dòng điện thoại cảm ứng mới phải được nộp gấp vào sáng mai bó chân tôi lại phòng làm việc đến quá giờ làm. Không gian thật yên ắng. Đâu đó ngoài trời mưa vẫn rơi nhẹ. Từng cơn gió thoảng qua khẽ mang theo cái không khí lành lạnh len lỏi qua khung cửa sổ chạm đến tận sâu trong da thịt. Thật hiếm hoi những khoảnh khắc được ở một mình như thế này. Vớ vội chiếc áo khoác, tôi lững thững bấm nút thang máy xuống tầng dưới, định bụng sẽ đi đâu đó xả stress trước khi quay lại làm nốt phần cuối cùng. Em ở đó. Vẫn dáng người thanh mảnh, vẫn mái tóc xoăn nhẹ bồng bềnh, giơ tay đón chiếc taxi nào đó đi ngang. Không hiểu sao ngay lúc đó, có một động lực nào thôi thúc, tôi bám theo em cho đến một quán café nhỏ nhắn mang tên Vô thường ở trên đường Văn Cao. Bướm đêm trút bỏ lớp vỏ ngoài màu đen tuyền u tối để khoác lên mình bộ cánh màu thiên thanh giữa màn đêm tĩnh mịch. Ở đây, lần đầu tiên sau bao tháng trời làm việc, tôi tìm thấy một góc khác trong em, dịu dàng, chất chứa những điều mà tôi không thể nào hiểu được vào trong đôi mắt sâu thẳm đượm buồn. Chọn một chỗ ngồi khuất, tôi lặng lẽ gọi một ly café đen, vừa để lòng mình thư giãn và hòa mình vào tiếng violon khi du dương, da diết đã ám ảnh tôi suốt quãng tuổi thơ khờ dại. Không phải là cô bạn đồng nghiệp lạnh lung được sếp tin cậy và nhân viên mới, mà đơn giản chỉ là một nhạc công và vị khách xa lạ thích được thưởng thức tiếng đàn lay động lòng người giữa những lo toan, bộn bề cuộc sống…
Kể từ ngày đó, tôi có thói quen đến Vô thường mỗi khi tan ca. Sự xuất hiện đột ngột của tôi có phần làm em hơi ngạc nhiên nhưng rồi em chỉ mỉm cười đáp lại. Nụ cười hiếm hoi của một bướm đêm lạnh lùng. Khi thì một nhành hoa, khi thì một cốc café sữa nóng kèm theo một vài dòng nhắn nhủ trên tờ giấy nhỏ trước khi tôi ra về. Thảng hoặc vài lần tôi nhìn thấy niềm vui dù rất nhỏ ánh lên trong đôi mắt em qua những cái nhếch môi bất chợt. Đó chỉ là tôi đoán vậy thôi chứ thật sự em có vui hay không thì tôi không tài nào biết được. Nhưng dù sao tôi vẫn thích nghĩ thế, tự an ủi rồi mỉm cười với chính mình một cách thật ngốc xít theo cách khả thi nhất mà một tên con trai nửa cổ điển nửa hiện đại như tôi có thể làm được cho em- Một con bướm đêm đúng nghĩa chỉ thật sự xuất hiện vào ban đêm để rồi khi ánh bình minh bắt đầu ló dạng đó là lúc bướm ta biến mất nhường chỗ cho những loài sinh vật khác khoác lên mình bộ áo rực rỡ dưới ánh mặt trời…
Có lẽ vì vậy mà em bớt thờ ơ với tôi hơn dù ở công ty hay ở Vô thường tuy chưa bao giờ em nói là chấp nhận sự có mặt của tôi trong cuộc sống của mình. Em vẫn thế, vẫn dựng một bức tường dày kiên cố với tất cả mọi người như một lẻ hiển nhiên dù đôi lúc tôi vẫn tự hỏi tại sao em lại làm như vậy. Nhưng dường như tôi mặc nhiên chấp nhận điều ấy mà không đòi hỏi bất cứ một câu trả lời nào. Vì tôi chỉ cần có một chỗ đứng dù rất nhỏ nhoi thôi, ở bên cạnh em những lúc em cần, được ngồi hàng giờ không lo âu suy nghĩ ở Vô thường để nghe em chơi nhạc, được nhìn thấy cái nhếch môi hài lòng mỗi khi nhận được một mòn đồ gì đó từ tôi. Mọi thứ cứ diễn ra đều đều và yên ả như thế. Vẫn là những mẩu đối thoại vụn vặt về công việc. Không tin nhắn yêu thương. Không cùng nhau đi xem một bộ phim nào đó ở rạp. Cũng không quán xá la cà. Chỉ thi thoảng cùng ăn phở hay cơm sườn ở một quán cơm bình dân ngoài phố vì em thích được ngắm từng dòng người vội vã trên đường. Thi thoảng đi chung thang máy, bâng quơ gọi cho nhau lúc giữa trưa rồi thì ậm ừ vì công việc. Chỉ bấy nhiêu thôi mà nó khiến tôi cứ suy nghĩ mãi về cái thứ tình cảm lơ lửng cứ như áng mây trôi hoài vô định. Duy chỉ có một lần em đề nghị tôi chở về, chắc em mệt, tôi cứ thấy như thể em muốn nói gì đó nhưng rồi lại thôi ngoài câu chuyện bình thường về loài sinh vật xuất hiện về đêm:
-          Bách nè!
-          Ừ! Em mệt hả? – Chúng tôi vẫn gọi nhau ngược ngạo thế.
-          Có muốn nghe một câu chuyện không?
-          Ừ! Hiếm khi anh nghe em kể chuyện – Tôi cười toe, vừa đưa tay chỉnh lại kiếng chiếu hậu.
-          Có một con bướm đêm luôn khoác bên ngoài bộ cánh mỏng. Nó luôn cố gắng hết sức để dẫn đầu đàn để chứng tỏ cho mọi người thấy nó mạnh mẽ. Vì nó phải thật mạnh mẽ mới có thể một mình đi hết quãng đường dài phía trước. Một mình mà không có ai cả. Nó thay đổi và nó phải làm lại từ đầu sau cú va chạm đầy đau đớn với các loài khác để sinh tồn. Nhưng rồi một ngày nó gặp một con bướm khác muốn cùng đi với nó. Nhưng nó không thể. Vì nó chỉ có thể đi một mình…
-          Vì sao?
-          Vì nó chỉ có thể đi một mình chứ sao nữa.
Em phá lên cười. Lần đầu tiên tôi thấy em cười to thế. Câu trả lời không ăn nhập gì với câu hỏi nhưng tự nhiên tôi lại thấy vui, cũng không định vặn vẹo lại em thêm nữa. Gió cứ thổi đừng đợt vào mặt. Tôi cảm nhận được đâu đó vòng tay em ôm ngang lấy tôi một vgiây rồi vội vàng rụt lại. Ít ra giữa màn đêm mờ mịch, tôi còn tìm thấy một tia hy vọng. Rằng với em tôi không hẳn chỉ là một người bạn bình thường… 
4. Chuyện tôi với em bỗng trở nên thân hơn không tránh khỏi tai mắt của các “nhân vật tai tiếng” kiêm “loa phóng thanh” trong công ty. Có đứa còn mạnh dạn vỗ vai tôi “Sky. Mày được lắm!”. Nhưng không được bao lâu bầu không khí bỗng trở nên nặng nề đến đáng sợ. Mọi người đều lờ tôi sang một bên. Khi chắc hẳn bắt gặp một ánh nhìn từ xa của một bạn đồng nghiệp thì ngay lập tức khi tôi quay lại, mọi thứ dường như lại đi vào quỹ đạo của nó. Tôi ngơ ngẩn chẳng biết chuyện gì cho đến một hôm tình cờ nghe được một đoạn đối thoại cắt ngang trong nhà vệ sinh:
–        Ninja. Nghe tin gì chưa?
–        Tin gì là tin gì?
–        Thì chuyện của nhỏ Bướm đêm đó!
–        À! Vụ nó với thằng Sky lâu rồi mà.
–        Không phải. Tao mới nghe được tin khác kìa. Mày có biết tại sao nhỏ lại lạnh thế không?
–        Thì tại nó vốn thế chứ sao. Cái thằng này hỏi lạ.
–        Không. Tao nghe nói nó bị.. đồng tính mày ạ.
–        Đồng tính?
–        Suỵt. Nói nhỏ chứ.
Tôi suýt nữa không kìm được tức giận để lao ra ngoài đánh cho tụi nó một trận ra trò. Đồng tính? Nhảm nhí! Nếu em là người như thế, chắc hẳn trong buổi tối hôm đó em đã không xử sự như vậy. Tôi đã tự nhủ với mình như thế. Tất cả chỉ là một trò đùa.
-          Mày lấy cái tin đó ở đâu thế? Có bằng chứng gì không mà đồn bậy bạ vậy mậy? Nhỏ mà nghe báo cáo với sếp lại mất tình cảm anh em với nhau.
-          Chính xác 100%. Không những lanh mà nhỏ còn tránh tiếp xúc với mọi người nữa. Mỗi lần lỡ đụng chạm đến nhỏ là y rằng nhỏ la oai oái. Ở đời mà mậy, ai biết được bản chất người ta ra sao. Huống hồ gì như tụi mình làm mới có mấy năm. Mà tao nghe nói mấy rài nhỏ cũng nghe rồi mà không có phản ứng gì, chắc là…
Tôi lao thẳng ra ngoài bỏ mặc hai thằng bạn đứng như trời trồng. Hôm đó, tôi đến Vô thường và về sớm hơn thường lệ. Suốt quãng đường dài, thứ thanh âm réo rắt của violon và những lời nói ban nãy cứ lẫn lộn, đan xen nhau. Nắng nhạt dần trên con dài thẳng tắp

  Buổi party cuối năm.
Những ánh đèn màu rực rỡ của Deja Vu, nhà hàng kiểu pháp sang trọng gần ngay bên bờ hồ. Âm nhạc du dương, trầm lắng của một điệu Valse nào đó bất chợt vang lên, đem lại bầu không khí nhẹ nhàng, thư thái lạ. Bướm đêm xuất hiện với bộ đầm trắng muốt, chỉn chu và lộng lẫy tựa như những nàng công chúa bước ra từ truyện cổ tích. Hôm nay là một ngày đặc biệt. Đối với tôi là  vậy. Đứng dựa lưng vào góc tường, tôi khoan khoái nhấp từng ngụm Champagne dài, vừa đưa mắt dõi theo hình dáng em từ xa. Một lần nữa giai điệu Valse lại vang lên, phá vỡ những cuộc trò chuyện rôm rả và đưa mọi người vào quỹ đạo. Nắm tay em giữa không gian rộng lớn chỉ chìm trong ấm nhạc, chúng tôi để từng bước chân di chuyển thật êm, thật nhịp nhàng trên nền nhạc nhẹ. Hơi rượu từ đâu còn vương lại phảng phất trong từng hơi thở phả vào không gian nay chỉ còn là những đốm sáng nổi bật lên giữa màn đêm mờ mịch:
-          Hôm nay em thật đẹp, Bướm đêm ạ!
-          Sky, cậu cũng biết nịnh đấy à? – Đôi môi đỏ mộng khẽ nhếch lên.
-          Dạo gần đây anh có nghe một số tin đồn không hay về em…
-          Tôi không có gì để giải thích cả.
Chân tôi lỡ mất một nhịp. Câu trả lời của em thật sự làm tôi bối rối.
-          Vậy là sao? Anh không hiểu.
-          Cậu hiểu hay không cũng được. Nhưng tôi đã nói rồi tôi không có gì để giải thích cả.
Trong hơi men ngà ngà say, tôi không chắc là mình đã ôm lấy em và hôn. Nụ hôn đầu đời của một thằng con trao lần đầu tiên nếm vị ngọt bùi của thứ tình yêu đầu đời. Mãnh liệt đến lạ lùng với thứ tình cảm ngay từ đầu đã không có gì là chắc chắn. Con bướm đêm nhỏ bé ngất ngây với cảm giác và cú va chạm bất ngờ nhưng cố sức giẫy giụa thoát khỏi vòng tay mạnh bạo của chàng trai trước mặt bằng một cú đẩy người và một cái tát thật mạnh. Ánh sáng đèn phụt lên. Có tiếng xù xì to nhỏ lẫn những gương mặt còn vẹn nguyên nỗi tò mò. Trong cơn say váng vất, bản tính tự trọng và kìm nén của tôi từ đâu trỗi dậy, tôi không còn nhớ là mình đã gạt phắt các chén đũa được bày trên bàn xuống đất và hét lên rằng:
-          Cô nói đi! Tại sao vậy? Tại sao cô lại đối xử với tôi như thế? Chẳng lẽ bao nhiêu ngày qua cô không có chút tình cảm nào với tôi sao?
-          Sky! Cậu say rồi. Ai đó đưa cậu ta về ngay đi trước khi cậu ta phá tan bữa tiệc này.
-          Không. Tôi không say. Tránh ra. Tại sao cô không nói? Hay cô sợ điều mình sắp nói ra. Rằng cô không thể như một lần cô đã nói với tôi hay cô muốn nói cô là một con less như mọi người đồn đại?
Những gương mặt thảng thốt cùng vài tiếng “Ồ” khe khẽ xuất hiện. Mọi thứ như chìm vào khoảng không im lặng. Trong một khoảnh khắc, em đẩy tôi ra và lao thật nhanh ra ngoài. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ ánh mắt ấy. Đôi mắt có những ánh nhìn vụn vỡ, long lanh tựa như một viên đá bỗng chốc lọt tõm xuống đáy hồ tĩnh lặng.
Em không đến Vô thường, cũng không đến công ty làm việc nữa. Sếp nhận được mail xin thôi việc của em trong niềm luyến tiếc và một cái thở dài. Dù sếp có đồng ý hay không thì em vẫn sẽ đi, để lại trong lòng tôi một khoảng trống và hàng tá những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Không ai biết em đi đâu, cũng chẳng ai nhận được tin tức gì. Những tin nhắn offline và email không reply trong vô vọng. Cho đến một buổi tối lạnh, tôi bất ngờ nhận được thông báo có mail mới, tựa đề ngắn gọn chỉ hai chữ Bướm đêm, mang theo niềm hi vọng mong manh và lời xin lỗi đắng ngắt từ sâu thẳm đáy lòng.
Gửi Sky, bầu trời của tôi! 
Khi cậu nhận được bức mail này, có lẽ tôi đã đi xa lắm rồi. Trước khi gõ những dòng này, tôi đã suy nghĩ rất lâu về những điều mình đang nói nhưng cuối cùng, tôi nghĩ mình phải làm một điều gì đó hoặc chí ít là nói ra những điều trong lòng để sau này sẽ không phải hối tiếc. 
Từ khi gặp cậu, có lẽ cuộc sống của tôi đã thay đổi. Kể từ cái giây phút bắt gặp ánh mắt của cậu ở Vô thường, tôi đã nghĩ  đó là một định mệnh. Định mệnh của một con bướm đêm vốn đã bị buộc mình trong cái vỏ do chính mình tự tạo ra  để rồi chính cậu là người kéo nó ra khỏi cái vỏ an toàn đó. Những hành động của cậu, tuy rất đơn giản thôi nhưng không hiểu sao nó đem lại cho tôi cái cảm giác kì lạ mà trước đây tôi chưa hề gặp ở bất cứ chàng trai nào. Có lẽ cậu giống tôi, yêu thứ âm thanh da diết, réo rắt của violon, của những bản nhạc không lời vốn được viết bằng nỗi buồn và thứ tình cảm chân thành. Tối hôm đó, tôi mệt lắm, muốn vòng tay ôm cậu thật chặt nhưng lại sợ nó vượt qua giới hạn của mình. Nói đúng hơn tôi sợ không ngăn nổi mình yêu cậu. Cậu là một người con trai tốt nên cậu xứng đáng có được người con gái tốt hơn tôi và yêu cậu hơn gấp trăm lần. Những cơn đau đầu bất chợt và số phận buộc bởi sợi chỉ mỏng mang tên Căn bệnh thế kỉ, lỗi lầm của một thời tuổi trẻ bồng bột, không cho phép tôi làm điều đó. Không thể tiếp xúc quá thân mật với nhiều người. Không thể hôn cậu quá sâu và cùng cậu đi đến cuối con đường. Bữa tiệc hôm đó, tôi biết đã đến lúc mình phải rẽ sang một hướng khác trước khi mọi chuyện đi quá xa. Tôi không biết mình còn bao nhiêu thời gian nữa, càng không muốn cậu vì tôi mà chịu liên lụy. Và câu trả lời cuối cùng vẫn là tôi không thể… 
Hãy quên tôi đi. Sống thật tốt và hạnh phúc nhé. 
Dù biết không còn là gì nữa, tôi vẫn muốn nói với cậu, dù chỉ một lần: Em yêu anh… 
Bướm đêm 
Hạ Chi
***
Rất nhiều năm sau đó tôi vẫn luôn nghĩ về em như một thói quen khó bỏ. Vẫn đến Vô thường mỗi khi chiều về để tìm kiếm trong những tiếng đàn xa lạ  hình bóng em của ngày xưa, con bướm đêm có đôi mắt đượm buồn. Trong tiếng violon réo rắt giữa ánh nắng chiều le lói, tôi bỗng nhớ đến lời ba nói năm nào: Cuộc sống của mỗi người cũng giống như những bản nhạc, có lúc thăng, lúc trầm, khi buồn, khi vui, có mở đầu rồi cũng có kết thúc. Nhưng nó khác với cuộc đời ở chỗ chúng ta có thể chọn lựa để được nghe những âm thanh vui hay buồn. Nhưng cuộc đời vốn dĩ thì không được lựa chọn…”
PHONG HY

Trở về
Giờ thì em đã vu quy,
Như lời hẹn ước ra đi hôm nào...
Hàng ngàn cánh bướm xôn xao,
Mừng ta hội ngộ bên nhau trọn đời !
Ngỡ rằng trong đạo một thời,
Vô ưu nở trắng xoá lời thề xưa...
Những ngày nắng sớm chiều mưa,
Sớm khuya kinh kệ vẫn chưa quên người
Thôi thì trả hết nợ đời,
Trở về hoàn tục xa rời thiền môn !!
NM
Tháng tư mùa bướm bay
Thanh soi vào mắt bướm, nhè nhẹ đọc câu thơ của người đồng đội năm nào. Đám mây trắng nõn sà xuống vòm lá, nắng hừng lên sáng cả một khoảng trời. Hàng ngàn cánh bướm vẫy vẫy vút bay lên. Gió rừng xào xạc. (Truyện ngắn của H'LINH NIÊ)
 Ngôi chùa nhỏ tít trên đỉnh núi. Con đường đất hẹp, quanh co, gập ghềnh, lổn nhổn đá gan gà. Bạch đàn phủ kín từ chân lên tới đỉnh, cây chưa thành cổ thụ nhưng đủ độ râm mát và có chỗ cho các loài chim làm tổ. Sớm sớm, chiều chiều, hàng trăm loài chao chác tranh cãi, liệng vòng, lá khô rụng đầy, mỗi bước đi tiếng lá vỡ giòn tan xao xác.
Mấy năm trước, sau khi tốt nghiệp Học viện Phật giáo, sư thầy Thanh đã trồng thêm hai cây ngọc lan và mộc liên. Thân cây còn thấp nhưng đã ra hoa lứa đầu. Hoa mộc liên muôn muốt trắng, hương vô ưu thoang thoảng, man mát thanh tịnh…
Nhìn những bông hoa trắng muốt, người sãi già bần thần. Lần nào sư thầy cũng dặn bà đôi câu trước khi đi, thậm chí còn nói cả ngày đi, ngày về, ít ra thì cũng là khoảng ấy, khoảng ấy. Vì chí ít bà cũng là dì ruột của sư thầy. Còn lần này... Không biết sư thầy đi lúc nào? Đi đâu? Bao giờ về? Hình như có một nỗi niềm nào đó trong chuyến đi này, một nỗi mơ hồ nào đó mà bà đôi khi thoảng thấy trong mắt người tu hành. Tưởng rằng sư thầy đã quên hẳn những năm chiến tranh…
*
*     *
Trường Sơn.
Chiến dịch phối thuộc giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, cánh bộ binh hành quân theo sự dẫn đường của một cô gái giao liên người dân tộc bản địa. Nước da cô nâu hồng, mượt mà màu quả bồ quân, gương mặt thanh tú như nét khắc trên các khối tượng gỗ trầm tư cắm quanh những khu nhà mồ đầy cây cỏ hoang trong vùng. Ánh nhìn của cô thì trong veo tựa mắt một con nai nhỏ, váy thổ cẩm đầy hoa văn đã bạc, ngắn ngang bắp đùi nâu, chân đi đôi dép cao su vô cùng lanh lẹ. Bộ đội đã hành quân ba ngày, đây là trạm giao liên cuối cùng của vùng bán sơn địa. Tiểu đội trưởng Thanh quần cắt ngắn ngang gối, đi ngay sau cô giao liên, không may anh dẫm phải đuôi một con rắn độc mốc thếch đang bò ngang qua đường mòn, bị nó mổ một phát đau điếng. Cô gái giao liên nhanh nhẹn dừng lại, vẫy tay ra hiệu cho cả đoàn quân cứ tiến, rồi ngồi ngay xuống, lấy dải băng thổ cẩm buộc tóc làm garo phía trên chỗ rắn mổ. Cô bình thản cúi xuống hút hết máu bầm ngay chỗ vết cắn, nhổ đi. Thao tác diễn ra nhanh chóng, Thanh chưa kịp bình tâm thì cô gái đã đứng dậy. “Xong rồi, đi tiếp thôi.” Thanh chớp thấy nụ cười có hai lúm đồng tiền sâu rất duyên của cô gái, chưa kịp cảm ơn, cô đã vụt chạy băng lên đầu hàng quân, mớ tóc dài và dày bới gáy rất khéo. Hình như cô gái vừa đi vừa kết tóc nên đến lúc bộ đội tạm dừng, đã thấy hai bím tóc dài búi gọn lại thành nắm như hai trái đào bên tai trông rất ngộ nghĩnh.
Thanh trở lại nhiều lần vùng bán sơn địa đó để chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Anh cũng có nhiều dịp được gặp lại cô gái “của mình” như tự gọi. Tỉnh đội Kon Tum lại cho Y Van Ly đưa đường đi thực địa. Giữa họ đã hình thành một tình cảm thân thiết hơn mức bình thường. Đêm hoàn thành nhiệm vụ điều nghiên, Y Van Ly đưa Thanh ra ven bờ suối giữa rừng xà nu. Trăng ngờm ngợp xiên chéo qua đám cành thông lá nhọn. Thanh vơ một đám lá khô rụng dày làm chỗ ngồi. Mùi nhựa, mùi lá, thơm hăng hăng quẩn quanh thật dễ chịu.Y Van Ly kể cho Thanh nghe phong tục bó củi hứa hôn của làng. Các cô gái phải đi kiếm củi để dưới gầm sàn từ khi ngực mới nhú, cho tới khi đếm đủ một trăm bó:
- Anh có bắt em nộp củi không?
- Anh biết lấy củi về để đâu?
- Ơ! Củi là để nấu ăn ngày cưới đấy.
- Vậy à?
Con mắt trăng biếc xanh tò mò. Không gian mờ tỏ huyền hoặc. Suối đuổi nhau cười cợt trêu chọc, trượt qua những tảng đá lớn, róc rách, róc rách thóc mách. Ánh mắt Y Van Ly long lanh đong đầy sóng trăng. Tiếng tắc kè một mình báo nắng mưa, nôn nao va vào bóng trăng, vỡ ra từng mảnh trên mặt suối. Thanh bỗng thấy mình bồng bềnh trong một màn sương, anh xiết chặt lấy Y Van Ly trong tiếng rì rầm của núi rừng...
Trong trận mở cửa đánh đồn Plei Ki, Thanh dẫm phải một quả mìn, bị thương ở đùi. Y Van Ly và đồng đội cáng anh đến trạm phẫu tiền phương. Dẫu bịn rịn và nước mắt lưng tròng, cô vẫn phải rời anh để về ngay đơn vị, vì vết thương khoét sâu vào gần hết phần mềm phía trên bắp đùi, Thanh phải chuyển ra tuyến sau. Hai người mất liên lạc  từ đó...
*
*     *
Chuyến xe đò Bắc - Nam vẫn nổ máy, đến cuối đèo Lò Xo thì đã sang chiều. Nắng rừng đại ngàn nghiêng hết về phía vực mà đường hừng hực nóng. Một người lính quân phục cũ, ba lô cũ, chiếc mũ tai bèo chụp trên đầu cũng bạc hết màu cỏ, bước xuống xe. Lúc dừng ăn cơm trưa trên đường, khi nghe người cựu chiến binh dặn nhớ cho xuống chỗ Đèo Lò xo, bác tài, cũng là một cựu lính xế Trường Sơn, ái ngại:
- Từ đó đến chỗ có làng của người thiểu số còn tới bốn năm cây số nữa đấy.
- Tôi biết! Chiến trường cũ mà. Thắp hương cho các bác cựu chiến binh bị đổ xe mấy năm trước xong, tôi tự đi tiếp được. Ngày trước luồn rừng còn không lạc, huống hồ bây giờ đường nhựa thẳng tắp, thênh thênh thế này. Tôi là cựu lính trinh sát đấy.
- Chiều mai tôi lại ngang qua đường này, anh có cần tôi đón ở đâu không?
- Cám ơn anh! Tôi còn phải ở đây lâu.
Dường như đã quen với những người lính đến thắp hương nơi chiếc xe đổ của các cựu chiến binh năm nào, bác tài vẫy tay chào rồi tiếp tục cho xe lăn bánh.
Tháng Tư.
Cái nóng giao mùa ở cao nguyên làm lũ sâu bướm trong bộng bừng tỉnh, cựa quậy cắn thủng kén chui ra. Chúng hóa thành ngàn vạn cánh bướm vàng rợp trời. Vũ điệu của lũ bướm dập dềnh lượn vòng tròn, khi thành một vệt chéo dài, lúc lại là một đường cong mềm mại. Đôi lần chúng sà xuống đậu kín vạt hoa cỏ. Bước chân đánh động khiến bầy bướm tung cánh vụt bay lên ào ào, quạt một luồng gió vào mặt mát rượi. Thanh lấy chiếc đĩa nhựa ai đó để sẵn trong am nhỏ bên đường, cẩn thận dùng mảnh báo lau sạch, bày biện số hoa quả mua ở chỗ nghỉ ăn trưa, đặt lên. Bó hương Bắc chính hiệu anh mang theo trong suốt chặng đường từ Bắc vào Nam (các bác đều từng ngụ ở Hà Nội mà) hương thơm rất sâu mà không gắt, toả khói nghi ngút trong bóng hoàng hôn rừng vắng lặng:
- Xin vong linh các bác phù hộ cho tôi tìm được cô ấy. Tôi có lỗi vì đã hơn ba mươi năm, nay mới trở lại. Nhưng đó là việc ngoài ý muốn...
Tuần hương thứ hai đã vạc một nửa, bỗng bùng bùng ngọn lửa. Vái ba vái, đội lại mũ, anh xốc ba lô lên vai, rảo chân trên đường chiều.
Đã ba ngày. Thanh phát huy hết các bài học và kinh nghiệm lính trinh sát để tìm những con đường giao liên và làng cũ của Y Van Ly mà không thấy. Khắp nơi mênh mông cà phê, cà phê được tưới muộn nên hoa trắng cũng nở muộn. Hương đặc trong gió như có thể dùng dao mà cắt ra từng miếng. Cao su hàng nối hàng, lộc xanh nõn lao xao tít trên ngọn. Chỗ này là xưởng chế biến mủ cao su rộng mênh mông, máy chạy ầm ầm, mùi thum thủm theo gió loang khắp vùng. Chỗ kia là văn phòng công ti cà phê, nhà tầng ốp đá granite, cửa kính sáng loang loáng. Trong làng chỉ thấy toàn áo quần xanh công nhân treo đầy dây phơi. Nhà gạch, nhà tầng nối nhau. Đường nhựa thẳng tắp.
Trở ra lộ sau một ngày nữa lui tới. Thanh theo bậc cấp lên bờ đường cao, ghé vào cái quán tựa lưng vào vách đồi, một bên hàng ăn, một bên bán tạp hoá, gọi li cà phê đá mà quên uống. Cái lạnh trong li rìn rịn tan chảy thành dòng trên mặt bàn. Thanh thẫn thờ ngó mông ra đường. Ngày xưa nơi đây là đường mòn, hai bên toàn rừng già. Làm gì có phố xá với đèn cao áp sáng choang thế này. Nhưng hơn ba mươi năm rồi, đổi thay là phải. Ngày ấy chỉ có người Xơ Đăng với bộ đội. Nay những nơi anh qua toàn dân kinh tế mới. Nghe nói chính quyền vận động bà con người dân tộc các làng dời rừng, bỏ làm rẫy, xuống thung lũng học cấy lúa nước. Biết làng em bây giờ chuyển đi đâu? Chiều cao nguyên xuống nhanh như ai trút, sương mù màu tím nhạt từ rừng xa ùa ra bàng bạc cả thị trấn. Cảnh và người ảo ảo, mông lung trong sương.

 

VN QD 15102015                                                                                                                    
Minh họa: Ngô Xuân Khôi
Chị chủ quán to béo người gốc Bắc, tính xởi lởi, sốt sắng chỉ chỗ, giục Thanh rửa mặt mũi chân tay rồi dọn một phần cơm nóng hổi. Chỉ vài câu hỏi han, chị đã biết mục đích chuyến đi của khách nên vui vẻ khuyên:
- Tối nay chú cứ ngủ lại đây. Nhà rộng, đủ chỗ. Ông xã tôi cũng là cựu chiến binh, hôm nay phải lên tỉnh tập huấn nên không có nhà. Nhưng ông nội thì có đấy. Cụ thế nào cũng giúp được anh. Cứ yên tâm. Cơm nước xong mời anh vào nhà trong uống trà, trò chuyện với cụ.
Ông cụ ngồi mà vẫn thấy rõ thân hình cao lớn. Ngoài tám mươi tuổi nhưng cụ vẫn mắt tinh, tai thính, giọng nói sang sảng, mái tóc bạc phơ như một vầng bông xoã dầy trên vai, khuôn lấy gương mặt nâu nét sắc như gỗ tạc. Hết hai xị rượu đế với mấy miếng cá thiều khô, ông cụ đã bắt đầu hứng khởi, kể:
- Du kích làng mình đánh nhau với Pháp với Mĩ giỏi nhất vùng này chớ. Hồi mình chỉ huy đâu có súng. Chỉ tên tẩm thuốc độc, hầm chông với bẫy đá thôi, tụi Pháp làm gì được đâu. Đánh Mĩ sau này du kích mới sướng, lấy AR15 của thằng Mĩ bắn chết Mĩ luôn... hà hà hà... Rồi cụ kể chuyện cứu một cán bộ:
- Mình đổ cả gùi cỏ khô lấp miệng cống từ sáng. Chiều đi lấy cỏ về, nó (cán bộ) giả vờ xin đi ngoài, chui xuống cống luồn ra nấp ở đó. Tối hù mình mới tới dỡ ra lôi lên. Nó còm như thằng nhỏ chưa tới mười mùa rẫy. Mình bỏ nó vô trong cái gùi. Mấy người thay nhau cõng về tận làng luôn. Nếu mình đừng giết mấy thằng chỉ huy Pháp đó, mình cũng được phong anh hùng như Núp chớ. Cấp trên nói mình vi phạm chính sách. Nhưng mình ghét thằng Pha lăng đó đốt cháy hết cả mấy làng, giết người bà con nhiều lắm, đâu có kể con nít, đàn bà. Giữ nó thì làm gì có bánh mì cho nó ăn. Ăn cơm mình tốn gạo, tốn củ mì, bắn bỏ cho xong... hà hà hà...
Không có chút oán giận nào trong tiếng cười sảng khoái của ông lão đẹp như tiên ấy.

Ối trời! Anh nhớ rồi. Trước mắt anh là cụ Mết, nhân vật huyền thoại cả thời chống Pháp lẫn chống Mĩ của người Xơ Đăng ở Kon Tum. Tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc học hồi phổ thông đây này. Phim Rừng Xà nu xem ngày chưa đi bộ đội nữa, đều có nhắc đến cụ. Hồi còn ở chiến trường Tây Nguyên, đơn vị anh luôn ao ước được phối hợp với du kích làng cụ Mết mà không có dịp. Đúng rồi. Hồi đó anh cũng nghe các thủ trưởng kể “nếu ông cụ đừng bắn mấy tên tù binh là chỉ huy lính Pháp thì cũng tập kết ra Bắc, rồi được phong anh hùng như bác Núp. Thành tích của cụ không kém gì ai đâu nhé.” Câu chuyện cụ vừa kể chính là chiến công cứu người tù chính trị bị giam ở ngục Đăk Glây, sau này là một nhà thơ, cán bộ cao cấp của nhà nước. Cụ Mết là người tổ chức thực hiện thành công cuộc giải cứu ấy. Cũng chính cụ là người chuẩn bị quần áo, giày mũ và lương thực vài ngày đường, rồi cử người đưa ông ấy luồn rừng giao cho chính quyền tỉnh Thừa Thiên.
- Cụ ơi, thế sau này, ông ấy có quay lại đây không ạ?
- Quay sao được. Cùng một mẹ cha mà chia hai miền. Đánh nhau với người Mĩ hai mươi mùa rẫy nữa chớ. Ổng sao tới  được? Ngày đó đâu có cho dùng tên thật đâu. Mình biết, vì nghe ổng kể lại chuyện trên radio đó thôi. 
- Sau năm 1975, ổng cũng không tới ạ?
- Ổng còn bận nhiều việc cho nhà nước, cho nhân dân chớ! Ổng làm việc to. Mình làm việc nhỏ. Nếu đã được phân công nhiệm vụ thì sống chết gì cũng phải làm cho được thôi.
Nụ cười hồn nhiên khiến gương mặt ông lão hồng hào hẳn lên. Câu chuyện của hai cựu chiến binh một già một trẻ suốt đêm không dứt. Thanh biết con trai cụ Mết, một bác sĩ người Xơ Đăng đi B đã cưới cô y sĩ quê Thái Nguyên trong căn cứ, nay nghỉ việc, mở quán này. Cụ Mết cũng biết chuyện Thanh đi tìm cô giao liên tên Y Van Ly.
*
*     *
Thanh giật mình. Cửa mở. Bàn tay ai mát lạnh chạm vào anh? Một thiếu phụ tóc dài và dày nắm lấy tay anh dắt đi. Hai người băng qua đường tiến sâu vào rừng thông. Trăng hạ tuần nhàn nhạt không thấy rõ mặt, cảm giác bình an khiến anh cứ lẳng lặng bước theo. Đi không biết bao lâu thì gặp một căn lều nhỏ. Người phụ nữ dừng lại, quay mặt về phía anh “Ôi! Y Van Ly!” Cô gái trẻ nhoẻn cười, ra hiệu đi tiếp. Róc rách suối. Xào xạc cây. Khoan nhặt tiếng tắc kè. Tiếng cồng chiêng âm âm lúc xa, lúc gần. Phía sau căn lều hiện lên một khoảng rừng trống. Một cây nêu cao vút và một đống lửa bập bùng. Có cây củi cháy hết, đổ gục xuống, ngàn vạn hạt  bụi than đỏ lừ vụt bốc tung lên như sao sa. Có nhiều người tụ tập quây thành vòng tròn rộng. Mỗi nhóm bốn năm người vây quanh một ghè rượu. Hàng chục ghè rượu. Chắc uống đã lâu nên thấy ai cũng gật gù. Hay thật, mình cũng say? Cả cây nêu, đống lửa lẫn mọi người, đều lơ lửng không chạm đất, nhẹ bỗng như có thể bay lên được. Y Van Ly kéo Thanh ngồi xuống bên một ghè rượu gần gốc cây thông đại cổ thụ. Một người, có lẽ là già làng, tóc bạc phơ, gương mặt hơi giống cụ Mết, thân thiện kéo đặt vào tay anh cần rượu. “Uống đi bộ đội. Ba cang. Năm cang nhé. Mừng bộ đội biết tìm về lại làng.” Thanh  uống. Ừ thì ba cang. Ừ thì năm cang. Anh tìm thấy em rồi Y Van Ly!
Rồi không biết từ lúc nào Thanh thấy mình ở giữa vòng xoang. Hàng trăm cô gái đeo những chiếc trống bọc da bò, khi nhún theo nhịp chiêng trống, khi nhảy vút bay lên khỏi mặt đất, ai cũng xinh đẹp, nhưng không ai xinh bằng Y Van Ly của anh. Họ đồng loạt tiến lên, lùi xuống trong một vũ điệu mê say vòng quanh đống lửa và cây nêu, nụ cười xinh như hoa mộc liên, gương mặt hồng lên dưới ánh lửa. Vẫn hai bím tóc dày như hai trái đào lớn bên tai. Lạ thật? Hàng mấy chục năm sao em không già đi chút nào? Thanh thoáng nghĩ rồi lại miên man cuốn theo nhịp chiêng trống và những bước chân của vòng múa. Bỗng chỉ còn có hai người nắm tay nhau cùng xoay đến chóng mặt trong một điệu luân vũ khác. Tóc Y Van Ly bung xõa ràng rịt quấn quanh người anh... “Ô. Sao đầu anh không có tóc  vậy?”...
- Dậy đi chú bộ đội! Ông nội nói sẽ đưa chú về làng đó!
Thanh giật mình. Bà chủ quán to béo lay mạnh vai anh.
- Ông nội cứ nằng nặc đòi đưa anh tới chỗ Y Van Ly. Nói để chờ ba các cháu về đưa đi cùng nhưng ông không chịu. Đi chầm chậm thôi nhé. Lâu rồi ông không đi xa khỏi thị trấn. Cho cả thằng cháu theo, có gì nó đỡ ông với anh.
- Mí thằng Lang không phải lo cho pá. Chân còn khỏe hung. Yang cho pá thêm sức khỏe để đi về làng với Thanh mà.
Thanh nghĩ mình vẫn đang trong đám hội. Nhưng cụ Mết ở đây, không phải ông già làng tóc bạc đặt tay anh vào cần rượu, cả chị chủ quán vui tính nữa. Mọi người đâu rồi? Anh dụi mắt ngồi bật dậy.
*
*     *
Cụ Mết dẫn anh đi trên con đường về làng đã trải nhựa gần hết. Thằng cháu nội bảo lấy xe máy đi cho nhanh nhưng ông cụ không chịu.
- Hồi kháng chiến ông đi bộ miết. Có sao đâu.
- Nhưng nội ơi, hồi đó làm gì có đường.
- Ơ! Xe máy chở ba người là phạm luật giao thông nhé.
Đi sớm nên trời mát. Thả sức ngắm bướm vàng tung tăng giỡn gió nữa. (Cái “món” bướm từng đàn, từng đàn thế này, cũng là một đặc sản của cao nguyên đó chớ!) Đã hết mùa gió lộng. Đủ để thoải mái tắm nắng vàng mà không sợ mệt mỏi. Gió lớt phớt nhẹ nhàng đùa cợt với người. Thằng cháu nghịch ngợm buộc vào đầu cây gậy một sợi dây và một mảnh giấy nhỏ, phất lên quanh đầu. Cả dây bướm dài lê thê kéo nhau  lượn theo mảnh giấy.
- Có ai ở Đăk Tơ Ra không biết Y Van Ly chớ! Nó làm giao liên. Dẫn giải phóng đi xuống Trà Mi an toàn. Lần nào cũng một mình một AK báng gập luồn rừng về cứ. Mĩ với biệt kích cũng sợ nó chứ đừng nói con thú trong rừng. Có nhiều cái giấy chính phủ và bộ đội khen lắm. Treo lên thì kín hết vách nhà sàn đó.
- Cô ấy lấy chồng bao lâu rồi cụ?
- Chồng nào mà lấy? Nhiều con trai trong làng ưng mang cườm qua đổi lấy bó củi kết đôi lắm. Nhưng nó đâu chịu ai. Chờ bộ đội giải phóng mà. Có hẹn nhau với bộ đội mày chớ gì nữa… 
Câu chuyện về người con gái giao liên có hai bím tóc trái đào “của anh” hiện dần mỗi lúc một rõ nét, theo từng bước chân của ba ông cháu. Hàng trăm lượt, bất kể ngày đêm. Nắng mưa. Bom giập. Pháo bầy. Đưa quân, đưa cán bộ lên xuống giữa miền núi và đồng bằng an toàn. Tỉnh đội đã định làm thủ tục tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua toàn miền cho Y Van Ly, nếu không có chuyến đò qua sông Pô Kô giữa mùa lũ quét năm ấy của trung úy A San...
Con suối mùa khô nước trong veo, xanh leo lẻo như lá cây rừng. Lội qua sông cũng được nhưng chỉ cần một cơn lũ đầu mùa, con sông bỗng biến thành con trăn khổng lồ, nuốt vào trong cái bụng phình to đục ngầu của nó hàng trăm cây gỗ, nhà cửa, người...
Quân đi vào mùa ấy đông nườm nượp. Sắp đánh lớn. Chiếc thuyền độc mộc, tài sản của gia đình A San mang theo phục vụ giao liên qua sông chỉ chở được tối đa là năm người. Bộ đội tràn xuống. Người nào cũng muốn leo lên thuyền sang trước. A San và Y Van Ly hét khản cổ không ai nghe. Bộ đội trên bờ xúm vào phụ đẩy thuyền ra giữa dòng... Lũ quét. Sóng lớn bất ngờ. Ba ngày sau làng Kon Rơ Ve gần thị xã Kon Tum vớt được mười lăm thi thể.
- Đây! Y Van Ly ở đây!
Cụ Mết bất ngờ ngoặt vào một cánh rừng nhỏ. Bóng cây dày tối thẫm. Khắp nơi rải rác những căn lều nhỏ, cái mới, cái đã rách nát, cái nào cũng trang trí bằng rất nhiều những sợi dây trắng, đỏ, đen buộc chung quanh mái. Dưới mỗi mái lều, gác trên những chiếc giá gỗ bắt chéo thấp lè tè gần sát mặt đất là nguyên những khúc gỗ dày, cưa một mảnh nhỏ làm nắp đậy. Nghĩa địa của làng. Thảo nào mà còn nhiều cây cổ thụ đến thế.
- Nó đó!
Họ đứng trước một căn lều cột đã gãy sập, mái lá mục nát ụp xuống ôm lấy mặt đất. Phủ kín ngôi mộ là vòm hoa lạc tiên khổng lồ. Những bông hoa nhỏ vòng trắng viền xanh như hàng ngàn cặp mắt tròn xoe ngước nhìn vòm lá rừng. Quả xanh mươn mướt, quả vàng lúc lỉu. Thằng cháu cụ Mết bóp mấy quả chín trong lòng bàn tay, hương thơm hoang dại lan lan trong gió.
Thanh cứng đơ như cây tượng gỗ cắm xuống đất, một lúc lâu mới từ từ ngồi xuống. Thanh mở ba lô bày ra trên mặt cỏ những bánh, kẹo, lon nước ngọt mua trong quán chị béo khi sáng, một bộ áo dài hoa đỏ và bộ quân phục còn nguyên màu rêu đặt cạnh bên lấy chai rượu trong vắt với hai chiếc li, Thanh chậm rãi rót rượu, thắp hương và lột chiếc mũ tai bèo xuống khỏi chiếc đầu không có tóc. Nắm hai bàn tay trước ngực, anh thủ thỉ:
 - Bộ áo dài này anh may ngay sau ngày xuất viện. Tưởng chỉ kiếm đủ tiền làm đám cưới là quay vào tìm em. Nào ngờ... lần mổ ruột thừa, bác sĩ cho biết vết thương đi quá sâu. Anh xin lỗi. Vì không muốn để em phải chịu thiệt thòi, đành im lặng suốt bao nhiêu năm qua. Nhưng trái tim anh chưa bao giờ phai mờ hình ảnh của em. Anh trở lại xin cưới em.
Thanh nâng cao hai chiếc li, chạm vào nhau. Cạch. Một li anh uống cạn. Một li tưới đều rượu lên vòm hoa lạc tiên. Anh rót hai li nữa:
- Xin cụ chứng dám cho đám cưới đơn sơ của hai chúng con.
Cụ Mết mỏi chân, ngồi bệt xuống đám cỏ. Bây giờ cụ đứng lên, ngửa cổ uống cạn một hơi. Cụ trao lại chiếc li, tháo chiếc vòng đồng trên tay, đeo vào cho Thanh:
- Thay mặt làng Xơ Đăng. Ta nhận bộ đội làm con rể.
Bó hương Hà Nội bùng lên, phần phật lửa. Mùi trầm ngan ngát lan tỏa trong không gian vắng lặng của trưa tháng tư. Hàng ngàn con bướm bỗng từ đâu tràn vào đầy rừng. Tung tăng, quay cuồng trong vũ điệu hoan lạc của tháng sinh sôi. Con bướm xanh đen lớn nhất, cánh ánh bạc, to như chiếc lá, sà xuống đậu trên vòm hoa lạc tiên, dương đôi mắt ngô ngố nhìn Thanh.
Giờ thì em đã vu quy. Như lời xưa hai đứa mình  hẹn ước(1)
Thanh soi vào mắt bướm, nhè nhẹ đọc câu thơ của người đồng đội năm nào. Đám mây trắng nõn sà xuống vòm lá, nắng hừng lên sáng cả một khoảng trời. Hàng ngàn cánh bướm vẫy vẫy vút bay lên. Gió rừng xào xạc.
*
*     *
Giáo hội cử người khác đến trụ trì ngôi chùa nhỏ trên núi. Người sãi già báo sư thầy đã rời chùa. Hoàn tục                                 
H'LINH NIÊ                                                                                                                                                                       

Cánh bướm đỏ

Có nhiều người cho rằng cánh bướm chính là người dẫn lối để họ đến Âm Ty. Quả đúng như thế thật. Nhưng dẫn lối như thế nào, chỉ có người đã chết và người từng trải mới hiểu được. Ngoài kia, cánh bướm đỏ vẫn đang bay, chấp chới.
“…Vụ án về cái chết bí ẩn của cô nữ sinh tại phòng 505 kí túc xá trường đại học Nông Sản đã có kết luận. Sinh viên Đỗ Bảo Nguyên chết do nhiễm bụi phấn của loài bướm Huyết điệp, 1 loài bướm màu đỏ tươi vốn cư trú ở vùng núi cao mạn Bắc nước ta, thỉnh thoảng vẫn “đi lạc” xuống các khu vực khác. Hiện tại, kí túc xá đang tiến hành phun thuốc phòng trừ loài bướm này cũng như các loại côn trùng nguy hại khác để đảm bảo cho các sinh viên đang sống ở nơi này…”
Nguyên ngả người vào chiếc giường, mắt dán trân vào trần nhà, nơi có con bướm màu đen thẫm đang dán chặt mình vào. Nguyên cảm thấy mệt mỏi và xa lạ với thành phố ồn ào, náo nhiệt này. Cô quen và thích cuộc sống nơi làng quê yên ả hơn. Những đêm giật mình vì cơn ác mộng vu vơ, Nguyên tỉnh dậy, thấy sợ hãi thì ít, mà cô đơn thì nhiều. Cũng chẳng dám khóc vì sợ làm bạn cùng phòng giật mình, Nguyên chỉ dám len lén trở mình vào giấc ngủ. Trọ học xa nhà, nên Nguyên hiểu ai cũng có những bộn bề khó nhọc riêng. Nguyên chẳng dám làm phiền đến bạn bè.
Hôm nay ca làm thêm kết thúc sớm, Nguyên chạy vội về kí túc xá để nghỉ ngơi. Cô cảm thấy tuy vất vả một chút nhưng có thể đảm bảo cho gia đình Nguyên tiết kiệm được một phần chi tiêu dành cho cô. Gia đình cô cũng chẳng khá giả lắm.
Giấc ngủ chẳng thèm chập chờn mà nhanh chóng tìm đến với Nguyên. Cô cảm thấy mi mắt mình kéo sụp xuống. Thế nhưng, giấc ngủ chưa kéo dài được bao lâu thì Nguyên nghe có tiếng gõ cửa phòng mình. Cô cáu gắt trèo xuống từ tầng trên của chiếc giường tầng để mở cửa,miệng lẩm bẩm phòng chẳng còn ai hay sao mà đến nổi cô phải thức giấc mở cửa.
– 505 thay nước hay không? – Tiếng chị đổi nước uống cho tầng cô vang lên đều đều không cảm xúc, có chăng là một chút khó chịu vì mãi mới có người mở cửa.
– Dạ không ạ, em cám ơn chị. – Nguyên nhỏ nhặn đáp lại và đóng cửa, hằng mong có thể quay lại giấc ngủ còn dang dở.
Bỗng dưng Nguyên không hiểu sao căn phòng này lại tối như vậy. “Chắc là chưa có ai về.” Nguyên nhủ thầm rồi đi về giường. Nhưng Nguyên lúc này lại không hiểu sao giường mình có người nằm, chẳng lẽ có ai nhầm giường? Trong bóng tối, Nguyên căng mắt nhìn khuôn mặt của cô gái đang nằm trên giường mình. Đó không phải là khuôn mặt của bất kì người bạn cùng phòng nào của cô, cô thậm chí còn chưa trông thấy cô gái đó lần nào. Bỗng chốc, cô thấy hoang mang, cố tìm và bật công tắc đèn của phòng, để nhìn rõ xem đó là ai, nhưng sờ soạng mãi vẫn không thấy bảng công tắc đâu cả. Nguyên quay lại nhìn vào bức tường. Chỗ vốn dĩ là bảng công tắc giờ đây trống hoác. Bất giác Nguyên quay người khắp phòng tìm xem nó nằm ở đâu, chẳng lẽ cô nhớ nhầm? Cả căn phòng ngập trong bóng tối, chỉ thấy 1 con bướm phượng màu đen đang chấp chới bay mà chẳng thể thấy được gì nữa. Cô có cảm giác như cách bày trí của căn phòng không giống vời thường ngày lắm, dù rằng không hiểu vì sao Nguyên tin chắc rằng mình vẫn đang đứng trong phòng của mình. Con bướm phượng màu đen cứ bay dập dìu, đến gần chỗ Nguyên đứng. Cô đưa tay ra định đón lấy nó thì một cơn buồn ngủ ập đến. Nguyên lắc đầu rồi quay lại phía chiếc giường của mình, lại thấy 1 cô gái nữa trèo lên giường Cô gái này làm một đông tác gì đó mà Nguyên không thấy rõ, rồi cô đặt lên gối của cô gái mắt đang nhắm nghiền kia 1 vật bé xíu mà Nguyên không thể thấy được đó là gì. Không hiểu sao, Nguyên bỗng nghĩ, cô gái đang nằm trên giường của mình sẽ không bao giờ tỉnh dậy nữa…
Nguyên đảo mắt nhìn trần nhà, ánh đèn nê-ông đập thẳng vào mắt là cô thấy nhứt mắt. Nguyên đưa tay sờ lên ngực, nghe rõ tiếng quả tim đang đập thình thịch một cách vội vã, mồ hôi túa ra hệt như cô vừa kết thúc quãng đường đua 100m. Lại là giấc mơ đó. Kể từ ngày vào ở phòng này, thỉnh thoảng Nguyên lại mơ thấy giấc mơ đó, và tần suất mỗi ngày lại cứ tăng dần. Thêm vào đó là khung cảnh của giấc mơ càng lúc còn rõ nét hơn. Nếu như trước kia Nguyên chỉ lờ mờ thấy 1 màu đen thì nay, đến khuôn mặt của hai cô gái ấy, Nguyên có thể thấy một cách chi tiết, đến độ cô tin rằng, nếu có gặp họ, cô nhất định sẽ nhận ra. Nhưng Nguyên không hiểu ý nghĩa của giấc mơ này. Con bướm kia, nó ở đó để làm gì. Hết thảy những câu hỏi đó làm Nguyên rối trí, đến độ cô không để ý con bướm dán mình vào trần nhà đang vỗ đôi cánh đen sẫm, như thể nó vừa rời đi đâu đó trong một chốc. “Có lẽ mình nên đến gần thêm một chút.” Nguyên nhủ thầm trước khi cô bạn cùng phòng gọi cô dậy chuẩn bị cho buổi dạo khuya.
***
Sáng thứ 2, cả khu kí túc xá Nguyên đang ở xôn xao hẳn, mọi người chuẩn bị cho đợt phun thuốc diệt côn trùng để nghỉ Tết. Nguyên bỗng cảm thấy có chút thương cảm cho con bướm đang náu mình trên trần nhà. Con bướm yếu ớt ngoài việc vỗ cánh vô hại trong căn phòng này thì nó chưa hề làm đau ai cả. Nó đâu đáng phải chết trong căn phòng này. Nguyên kể suy nghĩ này cho Diệp nghe, nhỏ bạn cùng phòng mà Nguyên thân thiết hơn so với 4 người còn lại . Diệp nguýt dài:
– Tại mày không biết chứ côn trùng có con độc chết người đó.
Nguyên cảm thấy nghi ngờ về việc này, trước nay cô chỉ biết vài loài ong có thể đốt làm độc chết người chứ bướm thì toàn phấn hoa vô hại kia mà.
– Gần quê Chi có 1 loài bướm độc lắm. Cánh của nó chứa bụi phấn gây buồn ngủ, mà hít liên tục trong mấy giờ đồng hồ có thể chết thật đấy. – Chi ở dười giường nói vọng vào. – Nghe nói hồi đó kí túc xá trường mình có người chết vì loài bướm này nên cứ gần Tết mới phải phun thuốc diệt côn trùng đó.
– Giống như thuốc ngủ. – Nguyên nói khẽ.
-Dạo này tao thấy mày ngủ nhiều lắm đó Nguyên. – Diệp tinh nghịch.
Nguyên biết dạo gần đây đúng là cô ngủ nhiều thật, nhưng đó là vì cơn ác mộng buổi tối làm cô mất ngủ. Nguyên chẳng kể với ai về cơn mơ lạ lùng ấy, kể cả Diệp.
Nguyên kéo ghế rồi đứng trên ấy, cầm cây chổi huơ huơ cho con bướm trên trần nhà bay đi. Nguyên cảm giác mình không muốn nó chết mà không hiều vì sao. Con bườm lúc này mới lười nhác cất mình lượn môt vòng quanh phòng thì đúng lúc cửa phòng bật mở, chị quản lí Thu bước vào. Con bướm bỗng bay sượt qua mặt chị làm chị hét lên rồi lùi vào 1 góc. Nguyên và Diệp lại huơ huơ tay cho con bướm bay về phía ban công, rồi mất hút.
 -Chị có sao không? Con bướm thôi mà chị. – Diệp nhanh tay đỡ lấy chị Thu.
– Chị sợ bướm, à, côn trùng từ bé.
Khổng hiểu sao lúc đó Nguyên bỗng nghĩ chị Thu lúc bằng tuổi cô và chị Thu bây giờ, khuôn mặt không khác nhau là mấy dù rằng Nguyên chắc là mình chưa bao giờ gặp chị lúc chị bằng tuổi cô.
– 505 chuẩn bị nhé, năm phút nữa là sẽ bắt đầu phun thuốc đó.
Diệp quay người qua nói với Nguyên:
– Ê. Nguyên, vậy là con bướm của mày thoát kiếp nhé.
Nguyên chăm chú nhìn chị quản lí, không để ý lời Diệp nói mà chỉ ừ hử đáp lời, vì lúc nghe Diệp gọi tên cô, 1 tia hoảng loạn trong mắt chị Thu sượt vào Nguyên.
– Em cũng tên Nguyên à.
– Dạ, sao vậy chị. – Nguyên giật mình đáp lời chị.
– À, không. Người ta phun đến rồi đấy. – Chị Thu không trả lời Nguyên mà giục mọi người nhanh chóng ra ngoài.
Buổi tối kết thúc đợt phun thuốc chuẩn bị cho kì nghỉ Tết, Nguyên thở phào khi con bướm quay lại và trông nó không có vẻ gì là chịu ảnh hưởng của đợt phun thuốc. Đột nhiên, Nguyên tò mò muốn biết nó là loại bướm gì, sao nó có thể ở một nơi như vậy trong suốt gần 6 tháng. Cô mở máy tính và tìm hiểu một loạt thông tin, tập tính về loài bướm. Cô thoáng chút thất vọng vì không tìm thấy loài nào “có màu đen, chỉ bám lấy trần nhà” và “sống gần 6 tháng” cả. Mỗi khi nhìn thấy hình ảnh 1 con bướm phượng đen giống với nó, cô đều thất vọng ngay sau đó vì tập tính không giống. Bao nhiêu lần hụt như thế, Nguyên thôi tra xét con bướm đó là gì, cất máy tính rồi dịu dàng vỗ mình vào giấc ngủ.
Như mọi khi, giấc ngủ nhanh chóng đến. Lần này Nguyên quyết định bước đền gần một chút, đến độ thấy xác 1 con bướm màu đỏ bị vò nát đặt cạnh gối cô gái đang nhắm nghiền mắt. Lần này không còn là cảm giác mà Nguyên biết chắc rằng, cô gái ấy sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.
Nguyên mở mắt và nhìn đồng hồ, chỉ hơn 2h sáng. Cô thở dốc một chút, còn quả tim như đã quá quen với khung cảnh này nên chỉ đập nhẹ. Nguyên ngồi bật dậy, vớ lấy máy tính, tra cứu về loài bướm đỏ trong giấc mơ của cô. Rất nhanh chóng, trước mắt Nguyên là kết quả cuộc tìm kiếm. Huyết điệp, loài bướm “có đôi cánh màu đỏ và mang trên đó 1 lượng lớn bột an thần mà chỉ cần nó lượn lờ trong căn phòng này cũng đủ làm cho cả phòng ngủ say.” Còn nếu trong một khoảng thời gian dài hít thở không khí có lượng phấn này, cái chết là điều tất yếu. Nhưng Nguyên không hiểu 1 loài đặc thù của khu rừng hoang sơ lại có thể làm hại ai nếu nó không tiếp xúc với bất kì ai. Nhanh chóng, thắc mắc của cô được giải đáp khi nhìn thấy thông tin thích “du cư” từ loài bướm này cùng một số tai nạn mà nó gây ra. Có người chìm vào giấc ngủ hàng giờ liền mà đau thương nhất chính là tai nạn về cái chết của cô sinh viên trường Nông Sản do tiếp xúc với lượng bụi phấn ấy trong thời gian dài. Nguyên rùng mình nhớ lại giấc mơ, cô gái vò nát cánh bướm ấy, trông quen lắm.
Sáng hôm sau, Diệp thấy Nguyên dậy rất sớm vì cô không biết là Nguyên không hề chợp mắt được chút nào. Nguyên nhớ lại lời Chi nói hôm trước mà hỏi Chi vu vơ. Nhanh chóng, Nguyên biết được vài thông tin cơ bản về vụ tử nạn của nữ sinh đó để tìm hiểu. Nguyên không biết sao mình lại muốn biết sự thật đến như vậy, có lẽ là vì giấc mơ của cô.
Thông tin về 1 cái chết sau cách nay gần 15 năm không phải là điều dễ có được. Nguyên thầm cảm ơn Internet đã phát triển và lưu lại hầu hết các thông tin. Lần theo những đường link cũ, cuối cùng, Nguyên cũng biết chính xác sự việc đó là gì.
Vào những năm kí túc xá trường cô vừa xây xong, ở phòng 505 xảy ra 1 vụ án kì lạ. Buối sáng một ngày tháng giêng, chị quản lí như thường lệ đi lên kiểm tra phòng thì thấy cả phòng lúc này còn 3 người, vì gần Tết nên hầu như sinh viên đề đã về quê, vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Vốn khó tính nên chị không chấp nhận chuyện như vậy, liền gõ cửa căn phòng. Chị đập to đến mức cả dãy hành lang còn bao nhiêu người đều ùa ra ngoài để xem chuyện gì mà ồn như thế. Linh tính nghề nghiệp mách bảo chị có điều không ổn, chị liền dùng chìa khóa dự phòng để mở cửa bước vào phòng,cố gắng lạy 3 cố gái tỉnh dậy. Nhưng cả 3 đều năm yên bất động. Xe cứu thương nhanh chóng được điều đến để mang họ tới bệnh viện. Nhưng đau lòng thay, chỉ có 2 cô gái tỉnh lại, còn 1 cô mãi chìm vào giấc ngủ say. Người ta nhanh chóng phát hiện ra nguyên nhân của sự việc kì lạ này và kết luận chính loài Huyết điệp thích di cư đã mang đến tai họa thảm khốc này. Người ta khóa cửa phòng 505 và trong suốt 10 năm, dãy phòng tầng 5 không hề có người ở. Sau này, khi sự việc đã qua lâu và nhu cầu về phòng đã đòi hỏi ban quản lí cho sử dụng lại tầng 5 bao gồm cả phòng 505 đó. Và cũng chính vì lí do đó, mà cứ dịp cận Tết, cả kí túc xá lại tiến hành phun thuốc diệt côn trùng để đảm bảo nơi ở an toàn cho sinh viên.
Nguyên chăm chú xem lại ảnh chụp sự việc năm đó và nhận ra vài chuyện, vì sao chỉ có cô mơ thấy giấc mơ ấy mà không phải là ai khác. Bức ảnh chụp cô gái, nạn nhân tên Đỗ Bảo Nguyên, đôi mắt đang nhắm nghiền, cũng chính là cô gái nằm trên giường của Nguyên trong giấc mơ. Căn phòng 505 ngày đó cách bày trí khác với bây giờ nhưng cũ đủ nhận ra điểm giống với căn phòng của bây giờ. Nguyên có cảm giác giấc mơ đó đang ùa về dù Nguyên đang hết sức tỉnh táo. Cũng căn phòng này, trên chiếc giường này, cũng tên là Nguyên, đó có lẽ là lí do mà Nguyên có thể mơ thấy giấc mơ đó. Cô gái ra đi vào những ngày cận tết, nên càng gần đến ngày nghỉ Tết, Nguyên lại càng mơ thấy giấc mơ ấy nhiều hơn, và rõ nét hơn. Nhưng theo giấc mơ ấy, có người đế lên gối của Bảo Nguyên 1 con Huyết điệp chứ không đơn giản là 1 tai nạn.
Cuộn chuột xuống cuối trang, Nguyên thấy hình ảnh căn phòng được ghi lại không sót 1 chi tiết nào. Cửa sổ nơi giường Nguyên và ban công bị khép chặt. Bên kia phòng, cửa sổ nơi hai cô gái nằm, được mở toang, Nguyên lưu ý chi tiết này trước khi kinh hoàng nhìn tên của hai người vô tình có mặt trong phòng năm đó: Nguyễn Thị Anh Thư và Phạm Minh Thu. Phạm Minh Thu, quản lí kí túc xá hiện tại của Nguyên, cô thầm mong là người cùng tên.
Biết được bí ẩn này không làm cho cô thấy dễ chịu hay ngừng mơ về giấc mơ ấy mà trái lại, Nguyên càng bị cuốn vào giấc mơ đó. Cô thấy cô gái vò nát cánh bướm bỏ lên gối của Bảo Nguyên nằm rồi mở cửa số giường mình. Dựa vào vị trí giường của cô gái, Nguyên đoán đó là Thu. Giấc mơ cứ tái diễn đi tái diễn lại nhiều lần khiến Nguyên cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Lúc này quá quen với câu chuyện nên Nguyên thường đùa với con bướm hoặc ngồi im mà chờ cho nó kết thúc. Cô phân biệt được đó là mơ chứ không lẫn như ngày trước. Nguyên có cảm giác mình giống như 1 kẻ đồng lõa tham gia vào vụ án mưu sát này. Mỗi khi nghe loáng thoáng đâu đó có người nói:”mơ, bướm” hay “chết…”, cô đều giật mình. Cô biết mình đang nắm 1 bí mật mà không chắc nó có thật hay không hay chỉ là giấc mơ ảo giác. Nguyên trông mệt mỏi đến mức Diệp thương hại, cho là Nguyên bệnh.
Thế rồi Nguyên quyết định đi dò xét mọi thứ, làm sáng tỏ những gút mắc trong đầu mình.
Ngồi trà nước bâng quơ khiến Nguyên biết được Bảo Nguyên và Thu vốn là bạn thân. Từ ngày Bảo Nguyên mất, Thu đâm ra sợ bướm, có lẽ là ám ảnh. Và quan trọng hơn, Phạm Minh Thu năm đó chính là chị Thu quản lí tầng 5 của kí túc xá đại học Nông Sàn bây giờ.
Ngày càng dấn sâu vào sự việc năm đó, Nguyên càng trở nên rối trí. Chị Thu rõ ràng đã nói dối về thời điểm chị bắ đầu sợ con bướm. Giấc mơ ấy liệu có phải là sự thật? Nếu nó là giả thì sao lại cứ lẩn quẩn, chân thật đến thế, Nguyên nhìn thấy khuôn mặt của Bảo Nguyên từ trước khi tìm ra bài bào đó. Còn nếu nó là thật thì Thu làm thế có ý gì? Bao nhiêu nghi vấn cứ bám lấy Nguyên không dứt.
Việc 1 người đột nhiên tìm hiểu về 1 vụ án cách đây gần 15 năm không khỏi làm mọi người không chú ý. Nguyên bắt đầu bị điều tra và giải trình với ban quản lí nhưng cô chỉ một mực nói rằng mình không biết gì cả, chỉ là tò mò. Nhưng cô vẫn bị theo dõi sát sao khi đang thả những cánh bướm đỏ bằng giấy màu trong sân kí túc xá. Nguyên có cảm giác mọi chuyện cũng sắp kết thúc, cô thả con bướm bằng giấy màu đỏ xuống sân rồi bước vào phòng. Tối qua, trong giấc mơ, thay vì Nguyên vô hình và an toàn, chỉ cần chờ cho giấc mơ kết thúc thì lần này, Nguyên thấy sợ. Cô gái đang vò cánh bướm không chỉ trông thấy mà còn mỉm cười với Nguyên.
Tối 23 Tết, cả phòng về quê gần hết, chỉ còn Diệp và Nguyên ở lại. Nguyên không còn thấy sợ khi ở trong phòng 1 mình mà lại muốn gặp cô gái đã từng ngủ trên chiếc giường này, Bảo Nguuyên, để biết được sự thật. Nguyên có cảm giác, mọi chuyện đêm nay sẽ kết thúc nên từ chối đi cùng Diệp. Ngẩn ngơ ngắm con bướm một lúc, Nguyên bỏ xuống ra ban công ngắm 1 bầu trời không trăng, chỉ có sao.
Cửa phòng hé mở, Nguyên thoáng gọi:
– Về sớm thế.
Đáp lại lời Nguyên là tiếng của phòng khép lại. Bình thường Diệp mà vào phòng là sẽ liếng thoắng không ngừng. Không quay lại, Nguyên lại hỏi:
– Sao hôm nay mày hiền thế. – Lòng Nguyên chộn rộn.
Cô xoay người vào trong và giờ thì biết trong phòng lúc này không phải là Diệp mà là chị Thu, quản lí kí túc xá có chìa khóa riêng của các phòng.
– Chị chưa nghỉ ạ. – Nguyên mỉm cười.
– Em biết gì rồi? – Giọng chị Thu run run. – Sao em lại đi tìm hiểu về cái chết của Bảo Nguyên, em là gì của Nguyên.
– Em không quen ai tên Bảo Nguyên cả. – Nguyên trầm giọng, cơ hồ như cô đã biết câu trả lời cho câu hỏi bấy lâu nay của mình.
– Nói dối. – Giọng chi Thu hung hăng. – Đỗ Bình Nguyên, cái tên chỉ sai khác 1 chữ. Lẽ ra chị nên đoán được mà xếp em vào nơi khác.
– Tại sao ạ, chị đoán ra gì? – Nguyên vẫn dò hỏi.
– Ra cái gì, em giả vờ à. Nếu không phải, sao gần đây con bướm giấy màu đỏ cứ xuất hiện khắp nơi quanh chị?
Nguyên thở nhẹ, mấy ngày gần đây Nguyên vờ với mọi người và không nói với ai vì sao Nguyên làm thật nhiều con bướm bằng giấy màu đỏ rồi rải khắp nơi. Nguyên chắc rằng sẽ có con lọt vào tầm mắt chị Thu, và mọi chuyện sẽ sớm kết thúc.
– Bướm đỏ thì sao vậy chị, em chỉ có hứng mà.
– Em thôi vờ vịt đi. Bây giờ em muốn gì mới chịu kết thúc trò chơi thám tử của em?
– Vì sao? Em chỉ muốn biết vì sao. – Nguyên rắn giọng đáp.
– Chẳng vì sao hết, Em ngừng ở đây trước khi quá muộn. – Chị Thu khàn giọng, Nguyên nghe trong đó chút nhợt nhạt.
– Em sẽ không dừng lại tới khi nào em biết được chính xác cái gì đã xảy ra năm đó. – Nguyên kiên quyết, cô toan chạy ra ngoài để tìm một lối thoát, thầm trách sao mình không sớm làm như thế. Nhưng chưa kịp làm vậy, 1 bàn tay đã nắm lấy áo cô và ghì mạnh vào ban công. Nguyên cố gắn giãy giụa và hét to lên nhưng vô ích, hành lang ít người nên chẳng ai chú ý. Dường như khi một kẻ mất đi lí trí vì hoang mang thì có một sức mạnh ghê gớm, bàn tay chị Thu siết chặt lấy Nguyên như muốn hất cô xuống dưới sân. Càng lúc, Nguyên càng cảm thấy đuối sức, sắp không giữ được thân mình, cô buông tay ra, những con bướm làm bằng giấy màu đỏ bay chấp chới ngoài không trung.
Đột nhiên, Nguyên thấy một thứ gì đó đen sẫm bay vờn giữa cô và chị quản lí. Ban đầu chị Thu hung hăng gạt phăng nó đi nhưng khi Nguyên nhận ra đó là một con bướm màu đen cũng là lúc chị Thu bắt đầu mất đì tính hung hãn tấn công Nguyên mà thu về một góc, la hét kinh hoảng. Nguyên dựa hẳn vào ban công, người từ từ tụt xuống, thở lấy sức. Nguyên biết chắc cô gái trước mặt sẽ không thể nào tấn công mình được nữa vì cánh bướm đỏ chấp chới, cánh bướm đen dịu dàng bay đến bên chị làm chị điên loạn dần, chỉ còn có tiếng hét “Tránh xa tao xa”. Nguyên đoán mấy ngày nay cánh bướm đỏ của cô đã làm chị mất ăn mất ngủ, và giờ đây cánh bướm đen làm chị thêm loạn trí. Ám ảnh bởi chính cách thức giết người của mình nên chỉ còn biết gào thét, Nguyên biết điều đó nhưng cô không hề thấy 1 cô gái nữa đang đứng kế bên chị Thu, đôi mắt mỉm cười, 1 cái cười giễu cợt. Đêm nay, hai người bạn năm nào đã hội ngộ cùng nhau, chỉ là 1 trong 2 người đã phát điên vì cuộc hội ngộ này.
Mọi việc đã kết thúc trong đêm đó đúng như Nguyên dự đoán. Vì ganh tỵ với người bạn thân cùng phòng, cô gái tên Thu đã không cất công lặn lội về vùng quê xa mà tìm 1 đôi Huyết điệp, lại không ngại nguy hiểm mà để mình và cô bạn khác cùng chìm vào giác ngủ. Thu tính toán tất cả, đóng kín cửa sổ và ban công nơi gần giường Bảo Nguyên mà mở cửa sổ gần mình để đảm bảo rằng, kế hoạch này chỉ làm duy nhất 1 người bị tổn thương mà không hề hay biết về nỗi ám ảnh những cánh bướm của mình. Cô đã tính không sót chi tiết nào, đến độ người ta thương cảm cho cô gái vì mất đi một người bạn và phải mang nỗi sợ bướm từ ấy, chỉ là Thu tính sót 1 điều rằng người bạn mang tên Bảo Nguyên biết hết mọi việc và gần 15 năm sau, có 1 Bình Nguyên vô tình biết được bí mật này và mang nỗi ám ảnh của kẻ sát nhân để dồn kẻ đó vào chân tường sự thật. Đêm hôm ấy, giấc ngủ đến muộn hơn thường lệ nhưng cũng đủ cho hai cô gái tên Nguyên nói lời tạm biệt cùng nhau. Bảo Nguyên đã không nói gì, chỉ cảm thấy lòng nhẹ nhàng hơn rồi mất hút. Sáng ngày hôm sau, Nguyên thấy bên gối mình, xác con bướm đen đã hóa khô từ bao giờ, cô mang nó đi chôn cất cẩn thận. Đó là con bướm phượng màu đen.
***
“…Vụ án bí ẩn gần 15 năm trước bất ngờ có 1 kết thúc mới. Người ta điều tra ra nguyên nhân chết của Đỗ Bảo Nguyên nhưng kẻ sát nhân không phải giam mình trong chấn song công lí mà phải cả đời giam mình trong chấn song của lương tâm. Kẻ sát nhân đã hóa điên bởi chính nỗi ám ảnh ma mị của mình. Có lẽ ai cũng có 1 tâm ma trong lòng, để khi người ta làm điều gì sai phạm thì nó hiện hữu mà đeo bám làm kẻ đó mang theo ám ảnh cả đời. Đáng tiếc là nó không đủ để ngăn điều đáng tiếc xảy ra. Hành lang nới kẻ sát nhân giam mình chỉ văng vẳng mấy tiếng hét vô nghĩa cùng nụ cười ma mị của hắn khi đưa tay vào không trung mà lẩm bẩm:”Cánh bướm đỏ…””
Ngoài kia, cánh bướm đỏ vẫn bay, chấp chới.
Tử Hạ