Lẻ loi,
Về lại quê xưa, vắng bóng xưa,
Hoàng hoa hương điệp hoá như thừa...
Niềm riêng ấp ủ hoài chưa nói,
Một mình lặng lẽ ngắm sao thưa !
Hương điệp dần phai theo gió bay,
Tình vẫn là tình không đắm say.
Giấc mơ không đạt chừ mơ mộng...
Nhung nhớ giờ đây thêm đắng cay !!NM
Hoa hoàng điệp trước ngõ
Phải chăng giấc mộng mãi mãi không bao giờ đạt được mới chính là giấc mộng đẹp nhất?
Từ đầu hẻm tôi đã ngửi thấy
mùi hương thoang thoảng của hoa hoàng điệp. Bao mùa trăng tròn khuyết,
bao mùa mưa nắng, cây hoa vẫn đứng sừng sững giữa trời. Những cánh hoa
trải khắp ngõ phố, vỉa hè tạo thành một tấm thảm hoa vàng vô cùng đẹp
mắt và lãng mạn. Sắc vàng dịu êm ánh lên trong nắng khiến lòng tôi mang
nhiều cảm xúc bâng khuâng. Xốc ba lô trên vai, tôi chậm rãi bước, tránh
giẫm lên những bông hoa dưới gót chân. Hằng năm, khi ve kêu gọi hè,
hoàng điệp lả lướt theo gió rụng xuống đầy đường, không phải màu tím
thuỷ chung của bằng lăng cũng không thắm đỏ như màu phượng vĩ học trò,
hoàng điệp dịu dàng gợi nhiều cảm xúc lắng đọng về thời gian và dĩ vãng.
Tôi xa nhà đã ba năm rồi, nay xuất ngũ trở
về, cảnh vật quê nhà vẫn không có gì thay đổi. Vẫn là con ngõ cổ kính
rụng đầy hoàng điệp khi hạ sang, vẫn là con đường lát gạch bát tràng,
vẫn là những bức tường loang lổ phủ đầy rêu. Bây giờ là buổi chiều, ánh
nắng hanh hao xuyên qua vòm cây nhảy nhót theo hướng gió. Mùi lá non
xanh rờn, mùi hương nồng đượm phảng phất trong không khí.
Tôi thường mơ thấy cỗ máy thời gian. Trong
giấc mơ, nó không hề quay trở lại. Mà bay đi rất cao, rất xa. Lắm lúc,
giây phút tôi tỉnh táo, tôi vẫn cứ nhìn mãi vào không trung. Cứ cho rằng
nó sẽ xuất hiện mang tôi trở về ngày xưa đó, ngày tôi và Nhi lang thang
nhặt hoa ép khô, ngày mà chúng tôi vô tư tắm mưa cùng nhau, ngày mà
chúng tôi chơi trò cô dâu chú rể và hứa chừng nào lớn lên sẽ lấy nhau.
Ngày ấy còn đâu? Và Nhi… ở đâu?
Nhi là hàng xóm của tôi. Cây hoa nằm giữa
cổng rào nhà tôi và nhà Nhi nên có lần hai đứa cãi nhau chỉ vì phân định
cây hoa thuộc về nhà nào. Không ai chịu thua ai, ai cũng muốn giành
phần thắng về phía mình. Cuối cùng, Nhi bảo đợi khi hoa rụng xem thử hoa
bay về phía nào thì cây hoa thuộc về người ấy. Tôi để ý và thấy lần nào
gió cũng thổi những cánh hoa bay về phía nhà Nhi nhiều hơn. Được dịp,
Nhi chống nạnh, phồng má bảo tôi thua rồi nhé. Tôi là con trai, không
thèm chấp nhất chuyện nhỏ nhặt. Sau lần ấy chúng tôi vẫn thân thiết như
xưa. Chẳng biết từ bao giờ nụ cười của Nhi cùng những bông hoa vàng óng
in đậm trong tâm trí tôi. Có lúc trong giấc ngủ tôi mơ thấy Nhi đứng
dang tay xoay tròn, ngửa cổ đón những cánh hoa rớt xuống bờ môi mình.
Hoa rơi trên tóc, trên vai Nhi. Cảnh tượng ấy tựa như một bức tranh mỹ
lệ.
Ngang qua nhà Nhi, tôi nhìn vào. Nơi ô cửa
ướp nắng vàng và lộng gió, Nhi vẫn thường vẫy tay chào mỗi khi trông
thấy tôi đạp xe qua. Ảo ảnh làm mắt tôi nhòe đi. Khung cửa vắng hoe.
Nắng cũng hư ảo, buồn man mác.
Đẩy nhẹ cánh cửa rào bằng gỗ mà nó vẫn kêu
cót két, tôi bước vào trong sân, cởi dép để ngoài và đi chân trần lên
từng bậc tam cấp. Nhà cửa yên ắng quá, không một tiếng động ngoại trừ
tiếng gió rì rào dưới bóng râm. Tôi đặt ba lô xuống tràng kỷ, ngó quanh.
Mọi vật dụng trong nhà vẫn để ở vị trí cũ, đều do một tay tôi sắp xếp.
Tôi ghét sự thay đổi. Từ ngày ấy cho đến tận hôm nay, những cây nến vẫn
nằm yên ở bậu cửa sổ. Những tờ tạp chí vẫn đặt ở một góc trên chiếc bàn
con, chỉ khác một điều chúng bám đầy bụi. Tôi cầm một quyển lên, thổi
mạnh. Bụi bay tứ tung. Khoảnh khắc ấy tôi có cảm giác những hạt bụi kia
như những tia nắng lấp lánh.
Tôi cất tiếng gọi mẹ nhưng người chào mừng
tôi trở về không phải là bà mà là con mèo lông xám tôi nuôi khi còn có
Nhi. Con mèo nay đã già lắm rồi, không còn đủ sức để mà leo trèo nữa. Nó
dụi đầu vào chân tôi, y hệt ngày trước. Tôi cúi xuống bế nó lên, vuốt
ve. Ba năm, chỉ có nó vẫn ở bên tôi, chỉ có nó là không quên tôi. Còn
người tôi mong ngóng, muốn nghe một tiếng cười giòn tan, muốn nghe một
giọng nói lanh lảnh mà chẳng thấy đâu. Nếu Nhi còn ở con phố này, biết
tôi về chắc chắn Nhi sẽ qua thăm ngay, nhà hai đứa sát cạnh nhau cơ mà
với lại Nhi chiều nào cũng ngồi ban công đọc sách lẽ nào không thấy tôi
từ ngoài ngõ vào…
Tôi bước ra vườn thấy mẹ đang loay hoay
tưới rau. Từ ngày tôi đi cả vườn rau vẫn xanh mát. Từng cọng rau, từng
chiếc lá bông cải mẹ tôi chăm bón ngày một tươi tốt. Tôi cảm động đến ứa
cả nước mắt, chạy lại gần ôm chầm lấy mẹ. Mẹ tôi giật mình buông cả
thùng tưới, xoay người lại lắc mạnh vai tôi. Ánh mắt không giấu niềm xúc
động, chẳng nói nên lời. Trên gương mặt mẹ xuất hiện những nếp nhăn,
gian nan cực nhọc nuôi tôi khôn lớn đã cướp đi xuân xanh của mẹ nhưng
nhìn mẹ tôi vẫn trẻ trung như ngày nào.
- Con đã ăn uống gì chưa? Mấy năm qua con có bệnh tật ốm đau gì không? - Mẹ âu yếm hỏi tôi. Dù giờ đây tôi đã cao lớn, khoẻ mạnh nhưng trong mắt mẹ, tôi mãi là đứa trẻ con mà thôi.
Tôi vừa đỡ mẹ vào trong nhà vừa kể cho mẹ
nghe những gì tôi học được từ môi trường quân đội. Những giờ phút tập
luyện vất vả, khổ cực biết bao nhiêu nhưng cũng nhờ vậy mà tôi từng bước
trưởng thành, hoàn thiện bản thân như ngày hôm nay.
- Vừa xuống xe là con về nhà ngay, có gì ăn không mẹ? - Tôi xoa xoa cái bụng đói meo của mình.
- Có đấy, con đi rửa mặt, nghỉ ngơi một lát rồi mẹ dọn cơm lên cho. - Mẹ tôi giục, đẩy vai tôi.
Tôi cười hi hi.
- Con lớn rồi, có còn là cậu bé tinh
nghịch như ngày xưa nữa đâu, mẹ xem giờ con đã là người đàn ông lực
lưỡng rồi đấy, có thể báo hiếu cho mẹ được rồi.
Tuy nói vậy, tôi vẫn nghe lời mẹ ra sau
nhà đến bên giếng nước trong veo, múc từng gàu rửa mặt. Những giọt nước
mát lành cuốn trôi hết bụi bặm và những ưu tư trong lòng. Tôi cúi nhìn
xuống giếng, thấy bóng mình chập chờn lay động. Một mảnh trời trong xanh
in bóng xuống dòng nước cùng vô số những cánh hoa vàng rực.
Tôi đứng thẳng người, hoài niệm. Tất cả
những hình ảnh thuở ấu thơ ùa về trong tâm trí tôi. Dù mấy năm qua tôi
sống xa nhà nhưng tôi có cảm giác như mình chưa hề rời khỏi quê nhà.
Phong cảnh vẫn im ắng và cô tịch như lúc xưa. Vườn rau vẫn thơm ngát. Mẹ
tôi vẫn hiền lành và chu đáo.
Ráng chiều đỏ ối rơi xuống thềm nhà. Những
đóa hoa sớm nở đầy cành. Trên bàn, ngọn đèn nhỏ được thắp lên. Con mèo
già cuộn tròn mình trong bếp lò, bộ lông của nó dính đầy tro. Mỗi lần
nhìn cảnh ấy và những lần nhìn mẹ nấu ăn bên ngọn lửa hồng, lòng tôi
bình yên quá đỗi. Ngôi nhà yên lành bao giờ cũng làm tôi thảnh thơi, cực
nhọc và muộn phiền dường như đã bị bỏ lại sau lưng. Nơi ấm áp ấy luôn
mở rộng đón chào tôi, nơi có người mẹ hiền hậu yêu thương tôi vô bờ bến.
Mẹ tôi lấy chiếc quạt giấy phủi đi mấy hạt
bụi còn vương trên phản và xếp lại chăn gối. Tôi để mặc mẹ làm những
công việc ấy vì mẹ nói mẹ hạnh phúc khi được chăm sóc, lo lắng cho tôi
còn tôi hạnh phúc khi được mẹ vỗ về. Tôi cảm thấy mình như trở về những
năm tháng bé dại.
- Con nghỉ một lát, cơm canh sẽ có ngay thôi.
Mẹ xuống bếp. Tôi ngả lưng xuống phản,
duỗi thẳng hai chân, lòng dịu lại. Ngoài ô cửa sổ, vòm trời rộng lớn.
Tận cùng chân trời có ánh nắng cuối ngày lướt bay đi. Nhánh điệp vàng
rung rinh trước làn gió nhẹ. Tôi khẽ nhắm mắt, hít hà hương hoa bay vào.
Năm năm tháng tháng, hoa còn đó, nở rồi tàn, tàn rồi nở. Tháng tháng
năm năm người khác xưa, người đến rồi đi. Hoàng điệp năm nay vắng bóng
một người nên hoa buồn lẻ loi.
Tôi nằm úp mặt vô tường, lim dim mắt. Nghe
tiếng bước chân của mẹ, tôi giả vờ ngủ. Mẹ lấy chăn đắp lên người tôi,
bật quạt xua đuổi muỗi. Tôi nằm im, không động đậy, mắt cay cay. Bao lâu
rồi tôi mới được mẹ săn sóc như ngày thơ bé? Dù không xoay người lại
nhìn tôi vẫn biết mẹ đang ở bên cạnh. Tôi không dám hít thở, lặng yên
cảm nhận từng cử chỉ quan tâm của mẹ cho đến khi mẹ đi ra, tiếng dép nhỏ
dần, tôi mới bật dậy, khóe mắt ướt nhòe tự bao giờ.
Ăn bữa cơm xong thì trời tối hẳn. Triệu vì
sao đua nhau nở trắng xóa khắp bầu trời. Tôi mở cửa phòng mình. Mọi thứ
được xếp gọn gàng. Căn phòng giản đơn với một ánh đèn nhỏ, một tủ sách,
một cái giường và một chiếc bàn. Tôi mở ngăn kéo, bên trong là những
bông hoa điệp ép khô đã biến đổi màu. Tôi nâng lên một cánh hoa khô
khốc. Hơi ấm của Nhi vẫn còn đọng lại trên tay.
Tôi bước ra ngoài phòng khách thấy mẹ đang
vá áo. Những chiếc áo có đôi chỗ rách, sút chỉ, bạc màu nhưng mẹ vẫn
giữ cho đến tận bây giờ, chỉ là không biết tôi có còn mặc vừa không nữa.
Ngồi xuống bên chiếc bàn, tôi hỏi mẹ về Nhi. Mẹ tôi ngừng tay, ngước lên nhìn tôi bằng ánh mắt đượm buồn. Mẹ thở dài.
- Nhi nó lấy chồng được hơn nửa năm rồi con à!
Chuyện này cũng không có gì là quá bất
ngờ. Trở về cố hương, không còn nhìn thấy bóng dáng mảnh khảnh tung tăng
chạy nhảy ngoài ngõ, không còn được nghe giọng cười khúc khích quen
thuộc là tôi biết Nhi đã không còn ở con phố này nữa rồi.
Tôi rót một cốc trà, thế nào lại để trà tràn ra ngoài ly. Mẹ tôi nhắc nhở.
- Ấy, con phải cẩn thận chứ. - Về chuyện của Nhi, mẹ tôi nói tiếp, giọng đều đều xen lẫn tiếc nuối. - Con bé bị ép hôn. Ba mẹ nợ nần chồng chất, Nhi buộc phải gả đi nơi xa. Cuộc hôn nhân như thế làm sao mà hạnh phúc.
Tôi hớp một ngụm trà. Trà có vị nhàn nhạt.
Vầng trăng khuyết in trên rèm cửa. Tôi bước ra vườn. Giữa hai thân cây,
có treo một chiếc võng, tôi nằm xuống đó, lặng lẽ thu nhặt lại những
mảnh vụn tháng năm bên người, hương hoa điệp vàng ủ trong tay áo đã phai
gần hết. Đêm nay một mình tôi bầu bạn với ánh trăng. Đời người vui buồn
ly hợp. Trăng cũng vơi đầy tỏ mờ. Xưa nay khó vẹn tròn. Nếu nhắm mắt
lại chúng ta sẽ tìm kiếm điều gì ở bản thân? Còn trái tim tôi tìm lại
những kỷ niệm tuổi trẻ ngày xưa.
***
"- Chúng ta thi nhau xem ai nhặt hoàng điệp rơi nhiều hơn.
- Được thôi.
Một tuần sau, Nhi đưa tôi xem quyển vở
cô ấy ép đầy những cánh điệp vàng. Hoa đã khô và chuyển sang màu nâu
sẫm. Tôi cầm lên một cánh hoa, vò nhẹ. Tiếng vụn vỡ giòn tan trong lòng
bàn tay.
Những đêm tối, chúng tôi nằm trên mái nhà ngắm sao giăng đầy trời.
- Hy vọng mai này chúng ta có thể mãi mãi như vầy.
- Cuộc sống không tồn tại hai chữ "mãi mãi" đâu Nhi à. Có chăng chúng ta nên trân trọng những khoảnh khắc hiện tại là được rồi.
- Chúng ta cứ hy vọng đi, cuộc sống luôn luôn cần hai chữ "hy vọng" mà."
…
Nhi nói đúng, chúng ta sống là phải biết hy vọng. Nhưng Nhi đi lấy chồng rồi, hy vọng có ích gì nữa đây.
"Mấy tháng sau, tôi lên đường nhập ngũ. Nhi tiễn tôi ở bến xe, lòng bịn rịn không muốn rời. Tôi cũng vậy.
- Vinh phải bình an trở về nhé.
- Ừ, Nhi cũng phải hứa là đợi Vinh nhé. Chúng ta còn rất nhiều điều chưa thực hiện cùng nhau.
- Nhi sẽ đợi mà."
Là Nhi thất hứa hay tại tôi ngây ngô, ngốc nghếch khi tin vào những lời hứa trẻ thơ?
- Vinh!
Tiếng mẹ gọi cắt đứt mạch suy nghĩ trong
tôi. Vội bước vào nhà, tôi hỏi mẹ có chuyện gì. Bà trao cho tôi lá thư
Nhi viết trước lúc rời quê hương. Dưới ánh sáng của những vì sao, tôi mở
phong thư ra đọc. Nét chữ nghiêng nghiêng, mềm mại. Đúng là nét chữ của
Nhi. Tôi thất vọng khi Nhi chẳng nói gì nhiều, cô chỉ viết vài dòng
ngắn gọn, đại khái cô bảo tôi rằng hãy quên cô đi, đừng chờ đợi một
người đã cũ. Tôi buông lá thư, nén tiếng thở nhè nhẹ. Cơn gió thoảng
qua, đưa hương hoa bay ngang qua mũi. Phải chăng giấc mộng mãi mãi không
bao giờ đạt được mới chính là giấc mộng đẹp nhất?
Quách Thái Di (Ngọc Vy)
Nắng mai dần trải sân trường,
Ngắm hoa giản dị sắc hương dịu dàng..!
Hoa vàng dẫu chẳng cao sang,
Tình hoa lãng mạn vô vàn yêu thương
NM
Nhìn cánh điệp rơi
Từ bàn giáo viên, nhìn qua khung cửa sổ, từng cánh điệp vàng cứ chốc chốc lại lặng lẽ rơi trong gió. Vậy là một mùa hè nữa đã trở về, và tôi đã kết thúc một năm đứng lớp đầy vất vả, như một người đưa đò cần mẫn chở bao học trò sang sông để đến với bến bờ tri thức. Hoa điệp nở, hoa điệp rụng mang cho tôi bao cung bậc cảm xúc về những ngày đã qua...
Cây điệp vàng trong sân trường trồng từ lâu lắm rồi. Có lẽ, ngoài hoa phượng, hoa bằng lăng thì hoa điệp gắn bó với lứa tuổi học trò nhiều nhất. Nhìn khung cảnh trường yên ắng, có vài tiếng chim kêu, màu vàng của điệp cứ không ngừng bay bay trong gió, tạo nên một khung cảnh hết sức lãng mạn cho bức tranh ngày hè ở trường tôi. Và dù là học sinh hay giáo viên, nếu xa trường, xa lớp vẫn khắc khoải lắm về cây điệp vàng già nua ấy. Nhớ từng cánh điệp như ngàn con bướm nhỏ xíu đậu trên sân trường, trong những ngày đầu hè yên
Những cành cây gầy gộc vươn mình trong
nắng, trong gió rồi đến hẹn lại lên, cây điệp lại bung nở những chùm hoa
tươi rói. Hoa điệp không được ưu ái như hoa phượng hay hoa bằng lăng.
Bởi lũ học trò thường thích ép những cành hoa phượng vĩ thành hình cánh
bướm, hay vô vàn hình hài khác vào trong sách, trong vở. Còn hoa bằng
lăng thì chúng thi nhau hái từng chùm, từng chùm cài lên tóc, lên giỏ xe
một cách điệu đà. Hoa điệp thì ít khi nào chúng đụng tới, vì hoa điệp
nở cao chót vót, nếu cánh hoa có rơi thì chúng vô tình giẫm chân qua
lại, hay ngồi dưới gốc điệp ăn quà vặt, đọc sách, nói cười. Nhưng khi xa
trường, quay về thăm trường cũ thì đứa nào cũng mân mê, thích chụp hình
dưới gốc điệp.
Màu vàng của hoa điệp không phải là màu
tàn úa, mà đó là màu của sức sống mãnh liệt. Màu vàng của hoa điệp luôn
gợi nhớ trong tâm trí của mỗi người. Không riêng gì ở trường tôi, một số
thành phố lớn cũng trồng xen kẽ hoa điệp vàng với những loại cây xanh
khác. Và mỗi khi mùa hoa điệp về, phố phường như khoác lên một chiếc áo
màu vàng ươm, nổi bật trong vô số sắc xanh của các loài cây khác.
Hoa điệp gắn với tôi thật nhiều kỷ niệm.
Bao mùa thi trôi qua cùng với bao mùa điệp vàng, rồi bao thế hệ học trò
đã xa trường. Chiếc ghế đá dưới gốc điệp vẫn ngẩn ngơ theo dòng thời
gian. Khi những tia nắng đầu ngày lấp ló qua cửa sổ, và những tiếng ve
báo hiệu mùa sang, cây điệp vẫn bung nở, những chùm hoa tươi rói, gọi
tiếng chim về làm tổ.
Giữa cái thế giới sắc màu ấy. Màu trắng
của áo dài, màu xanh xanh của lá, màu đỏ của phượng vĩ, màu bảng đen
phấn trắng, màu của những giọt nắng cuối ngày... Màu nào cũng mang vẻ
đẹp riêng, nhưng tôi vẫn yêu nhất là cái màu của hoa điệp vàng.
Tuy không có giá trị về mặt kinh tế, nhưng
hoa điệp thường mang cho người ta bao cảm xúc khó tả. Tôi còn nhớ những
năm tháng nghèo của thời sinh viên, trong căn phòng trọ chật chội của
bọn con gái chúng tôi, lúc nào cũng có lọ hoa “hỗn hợp”, tức là vừa hoa
điệp, hoa lau, hoa phượng, hoa bằng lăng cắm trên chiếc bàn học nhỏ
nhắn. Hoa không có mùi thơm, chỉ có một sắc vàng, nhưng đủ để mang lại
sự rực rỡ cho căn phòng.
Những cánh điệp vàng chỉ cần một cơn gió
thổi qua, lại lả tả rơi như một cơn mưa hoa. Trong nắng vàng, hoa điệp
như vàng hơn. Tuy trong sân trường có vẻn vẹn một cây điệp vàng, không
nhiều như bao nơi khác, cũng không tạo nên những cung đường hoa điệp
lãng mạn, nhưng chỉ cần nhìn vài cánh điệp rơi ngoài khung cửa, tôi cảm
thấy thời gian sao trôi nhanh quá.
Phải chăng rồi đến một lúc nào đó, tôi sẽ
cảm nhận được sự ngắn ngủi, cũng như mong manh của một kiếp người. Như
những chùm hoa điệp vàng kia, lặng lẽ nở, lặng lẽ làm đẹp cho đời, rồi
những cơn gió đến mang cánh điệp đi. Loài hoa không hương, chỉ giản dị
một màu vàng, nhưng nó khéo gieo vào lòng người một nỗi nhớ không nguôi.
Và ngoài kia, thêm vài cánh điệp rơi, mặc cho ánh nắng mai đang trải dần trên sân trường...
Thân Thị Thanh Trâm
Thân Thị Thanh Trâm
Điệp vàng lại nở
Có những mùa hoa điệp vàng không nở,
Gió vẫn bay trong nắng thắm lung linh...
Sắc hoa vàng mong đợi quá mong manh,
Bao hi vọng tưởng chừng như tuyệt vọng
Những kỷ niệm, bao tâm tình lắng đọng,
Trao cho nhau với tất cả thâm tình,
Sắc hoa vàng bừng nở giữa bình minh.
Trong nắng ấm xiết bao tình thân ái
Điệp vàng bừng nở ngày mai,
Sắc tươi màu nắng có phai bao giờ ?!
NM
Có một mùa hoa điệp không nở
Một buổi trưa tôi đang thiu thiu ngủ trên chiếc võng ngoài
sân sau nhà thì vợ tôi khệ nệ bê một cái bao tải to đi tới. Vợ vừa thở
dốc vừa lay tôi dạy. Mất giấc tôi liền cáu gắt với vợ nhưng chiếc bao
tải kia cũng làm tôi thấy tò mò. Vợ tôi bảo có một người tự xưng là xe
ôm vừa chở nó đến nhà tôi, trên bao có dán một tờ giấy ghi đầy đủ họ tên
và địa chỉ của tôi nữa. Nhìn thấy nét chữ mảnh mai, dứt khoát đó tôi đã
nhận ra ngay người gửi.
***
Vợ tôi hí hửng mở bao ra xem. Nào là măng đắng tươi, măng khô, củ
mài, rau bò khai, rau ngót rừng, rau sắng và mấy thứ hoa quả rừng khác
nữa. Thêm vào đó còn có một cái hộp nhỏ được bọc cẩn thận, vợ tôi hồi
hộp mở ra xem thì thấy hai chai mật ong rừng và ít thịt gà gác bếp. Mùi
vị của đại ngàn như sộc vào mũi tôi. Món quà từ núi rừng này lại một lần
nữa đưa tôi vượt thời gian về lại với thời trai trẻ đầy nhiệt huyết của
mình. Ngoài hai mươi, sau khi nhận được bằng tốt nghiệp tôi và vài
người bạn cùng khoa được phân về công tác ở trên Tây Bắc. Tôi đã có hai
năm gian khó ở Mường Phay cái bản Thái nhỏ nằm sâu mãi trong bốn bề mây
núi. Mỗi mùa xuân đến lại ngập trong sắc hoa Ban nở trắng trời. Những
cánh rừng, những con suối, những nếp nhà sàn, những nụ cười, những điệu
múa, khúc dân ca làm lòng người say đắm nào đâu dễ quên. Ở đó có những
con người mà tôi không bao giờ có thể quên được. Đó là Phài mối tình
dang dở nhưng đẹp dịu dàng của tôi. Đó là mẹ Lán, người phụ nữ của núi
rừng đã luôn coi tôi như con trai hồi tôi còn ở nhà ông bà. Đó là ông
Bôn, trưởng bản Mường Phay luôn đêm ngày mong ước có điện về bản. Đó là
những người học trò nhỏ của tôi, những người từng mong có đôi cánh bay
vượt đại ngàn... và đó là người anh, người bạn, người đồng nghiệp yêu
quý, ông thầy giáo tên là Lành ấy, cũng chính là người đã gửi cho tôi
những thức quà này.
Sau khi tôi về dưới xuôi công tác tôi chỉ thư từ cho anh Lành được
một đôi lần. Đến khi anh lập gia đình và tôi cũng thế thì hầu như chúng
tôi bặt tin nhau hẳn. Những ngày ấy tôi cũng phải chuyển công tác liên
tục, vợ con nheo nhóc khiến tôi phải tạm chôn cất những kỷ niệm cũ sang
một bên. Gần hai mươi năm sau tôi được cơ quan cử về miền rừng công tác
trong nửa tháng, đến lúc ấy bao nhiêu ký ức xưa chợt đổ ào về trong tôi
như một cơn mưa giữa đại ngàn. Người đầu tiên tôi nhớ đến lúc ấy là anh
Lành, người đã luôn che chở cho tôi, dạy bảo tôi hồi còn trẻ cái thời
còn nông nổi. Không biết giờ anh đã ra sao rồi, có còn ở Mường Phay nữa
không, tôi nhất định phải tìm gặp anh trong chuyến công tác này. Ngày
trở lại ấy tôi hoàn toàn bị bất ngờ. Sau hai mươi năm cái bản nhỏ như
lột xác hoàn toàn. Từng nếp nhà sàn khang trang lợp mái ngói đỏ tươi
rạng ngời lên trong nắng, điện, đường, trường trạm đủ cả. Mường Phay
cũng đông đúc hơn xưa nhiều, bản được mở rộng và chia thành ba bản nhỏ
cũng đều gọi là Mường Phay hết nhưng thêm số vào sau để phân biệt. Đáng
mừng hơn là ngôi trường nhỏ mà ngày xưa tôi công tác đã được xây dựng
lại thành hai tầng khang trang ở ngay đầu bản.
Hai mươi năm đã trôi qua, nhưng hình như không có ai là không nhận ra
tôi. Mẹ Lán đã mất, Phài đi lấy chồng xa, một vài học trò nữ của tôi
cũng đi lấy chồng xa hết cả rồi. Một vài trò nam thì đang đi làm ăn xa
hoặc đi bộ đội, đi học còn đâu mọi người vẫn ở Mường Phay cả. Ông trưởng
bản Bôn giờ đã ngoài 60, ước mơ của ông nay đã thành hiện thực rồi. Tôi
nóng lòng muốn biết tin về anh Lành, chẳng thấy anh ấy ở Mường Phai nữa
thì phải. Trong bữa cơm thân tình ở nhà ông Bôn tôi mới có dịp hỏi.
Người Mường Phay của hai mươi năm trước hầu như không ai là không biết
đến thầy giáo Lành cái tên anh giống y như tính cách, đó là một ông thầy
giáo hiền lành như bụt vậy. Ngày tôi mới đến Mường Phay, anh Lành đã ở
đó được năm năm trời. Anh là một trong những người đầu tiên từ dưới xuôi
lên Mường Phay dạy học. Anh Lành có một khuôn mặt hiền hậu, chất phác
tính tình lại vui vẻ hài hước nên dân bản quý lắm. Các học trò người
H'mông từ các bản xa xuống Mường Phay học gọi thầy là Giàng A Lành,
những học trò người Thái thì gọi anh là thầy Cầm Bạc Lành... dù tên thật
của anh là Nguyễn Ngọc Lành. Chúng đặt tên cho anh như thế vì vô cùng
yêu quý anh. Lành cũng nói được cả tiếng Thái và tiếng H'mông nên được
dân bản thêm yêu quý. Sau giờ học anh thường vào nhà học sinh thăm các
em và giúp các gia đình trồng ngô, lúa hái củi. Lành cũng là người đưa
ra sáng kiến dẫn nước từ khe suối về tận nhà cho những người dân trong
bản. Ngày xưa, rất nhiều thầy cô từ miền xuôi lên Mường Phay dạy học
thường hay bỏ về vì cảnh núi rừng âm u, tĩnh mịch làm cho họ thấy sợ và
buồn chán. Và nếu không có anh Lành chắc tôi cũng chẳng trụ lại ở Mường
Phay đến tận hai năm trời mà không về thăm nhà lấy một lần.
Ông Bôn bắt đầu kể về anh Lành một cách say sưa hơn sau khi đã ngà
ngà say. Sau khi tôi rời Mường Phay được khoảng hai, ba năm gì đó thì
anh Lành lấy vợ. Vợ anh cũng là giáo viên tiểu học, cùng quê anh từ dưới
xuôi lên Mường Phay công tác. Lấy nhau xong hai vợ chồng anh cất tạm
một ngôi nhà nhỏ gần trường với sự giúp đỡ của dân bản. Hai vợ chồng anh
rất chăm chỉ và tháo vát, ngoài giờ dạy trên lớp hai anh chị làm kinh
tế cũng rất tích cực. Anh chị phát quang những mảnh đất trống quanh
trường trồng rau, mua lợn gà trong bản về nuôi. Vốn mát tay anh chị
trồng cây gì, nuôi con gì chúng cũng đều lớn lên khỏe mạnh, tươi tốt cả.
Khốn nỗi, trồng được, nuôi được nhưng anh chị lại chẳng biết bán cho
ai. Chợ ở ngoài thị trấn thì xa quá. Theo lời ông Bôn kể, dạo ấy không
ai còn lạ gì cái cảnh người thầy giáo gầy nhom gánh từng gánh rau, có
khi gánh cả con gà, con lợn trèo đèo, lội suối đi xuống chợ thị trấn
bán.
Khoảng hơn mười năm trước, Mường Phay bắt đầu có điện, rồi đường cũng
bắt đầu được khai mở. Một trường cấp hai được mở ở trung tâm xã cách
bản cũng không xa. Tôi vẫn nhớ cách đây hai mươi năm trụ sở ủy ban nhân
dân xã nằm thọt lỏm trong rừng hoa Điệp vàng, cũng nghèo nàn, xơ xác mặc
dù gọi là trung tâm. Vợ anh Lành được chuyển ra dạy học ở đó. Lúc ấy
anh chị cũng có với nhau được hai mặt con, một gái, một trai. Anh liền
chuyển nhà ra gần trung tâm xã để vợ đỡ phải đi lại vất vả. Ở đó gần thị
trấn hơn nên anh chị cũng có điều kiện phát triển kinh tế hơn là ở
trong bản. Anh Lành cũng mua đất ở trong Mường Phay và mấy bản gần đó để
làm trang trại, không chỉ làm giàu cho mình anh Lành còn giúp dân bản
làm ăn, thoát khỏi đói nghèo nữa. Mấy năm trước vợ chồng anh đã cất được
ngôi nhà to lớn, khang trang ngay cạnh ủy ban nhân dân xã. Rồi mua được
một cái ô tô để đi, anh là một trong những người được coi là giàu nhất
xã. Nghe đến đây tôi thấy vô cùng vui mừng cho anh Lành và cả gia đình
anh. Một người như anh xứng đáng được hưởng thành quả tốt đẹp như thế.
Cũng đến đây, ông Bôn thở dài não nề và nói:
"Cái đời này nhiều lúc cũng buồn thầy ạ, nhiều cái mình chẳng ngờ được ấy".
Nói xong, ông lại đưa chén rượu lên đánh ực một cái. Tôi lo lắng hỏi
ông, không biết là có chuyện gì. Nhìn mặt ông và nghe những gì ông nói
tôi bỗng thấy có dự cảm không hay về đoạn cuối của câu chuyện về anh
Lành. Rồi ông Bôn cũng chần chừ kể tiếp.
"Vào đúng dịp này năm trước, gần đến cái Tết cơm mới đó. Dân bản định
mở hội to vì cái bản giờ nó cũng ấm no rồi. Sau khi họp bàn thì bản cần
đến hai cái loa to, dăm cái vại rượu cần mới và nhiều thứ linh tinh nữa
cho lễ hội. Nhiều cái ở chợ thị trấn không có bán phải lên tận trên chợ
thị xã mua mới được. Khổ cái nỗi đường thì xa quá, mà chẳng ai biết mua
được hết chừng ấy thứ cả. Đúng dịp bản cũng mời thầy giáo Lành về họp
bản cùng. Thầy đã nhận đi mua hộ mấy thứ đó, vì thầy có ô tô lại thông
thạo đường thị xã. Cả bản vui mừng giao trọng trách ấy cho thầy. Bản
cũng cử một người đi với thầy cùng mua. Đó là thằng Pán, bí thư chi Đoàn
thanh niên bản đó. Hôm đó có cả con gái thầy là sinh viên học trên cao
đẳng tỉnh cùng đi nữa. Đến cái đoạn đường ở ngã từ Đồi Hống qua chỗ thị
trấn đó thì. Thì có một gia đình người Xá gì đó đèo nhau đi xuống dưới
chợ, hôm đấy cũng đang có chợ phiên. Nghe nói mất tay lái hay thế nào
mà..." đến đây ông Bôn nghẹn ngào "tôi cũng chẳng tin nổi vào cái tai
mình. Một người cẩn thận như thầy Lành lại có thể gây ra tai nạn làm
chết cả nhà người ta. Xe máy đèo bốn người thì chết ba. Mỗi cô vợ còn
sống nhưng bị thương nặng, đứa con trong bụng cũng mất.
Công an đến bắt thầy đi, gia đình nạn nhân cũng phạt vạ thầy lớn lắm.
Vợ chồng thầy cũng đã cố gắng đền tội sao cho đúng nhất. Thầy phải bán
cái ô tô đi để nộp tiền phạt, khoảng thời gian đó người ta cũng không
cho thầy dạy học nữa. May thay người vợ của người lái xe máy còn sống.
Sau hai tháng trời nằm viện cô ta đã khỏe mạnh trở lại và chính con gái
thầy phải bỏ học đến viện chăm sóc người đó. Đến khi người đó khỏi thì
bị nhà chồng bắt lấy em trai chồng theo tục nối dây ở bản đó đấy. Cô ta
không đồng ý. Tiền bồi thường của nhà thầy Lành cho gia đình cô ta cũng
bị bên nhà chồng lấy hết mà không cho cô đồng nào. Hôm người ta xét xử
thầy Lành, dân bản Mường Phay cũng kéo đi xem đông lắm. Chính cô vợ
người lái xe máy đứng lên nói rằng, hôm đó chồng cô ta đã uống rượu rất
say trước khi lái xe chở theo người vợ đang mang bầu và đứa con trai nhỏ
xuống chợ phiên. Xe của chồng cô đi quá tốc độ và hầu như chính nó đã
đâm thẳng vào xe của thầy Lành. Về phía thầy thì chẳng có ai làm chứng,
thằng Pán bảo đi cùng thầy nhưng nghe nói đến thị trấn nó bị đau bụng
nên không đi nữa. Sau đó thầy Lành được trở về, năm đấy thầy không đi
dạy học nữa. Không ai nhìn thấy thầy cười suốt một thời gian dài.
Về sau thì thầy nhận người phụ nữ chết chồng, chết con trong vụ tai
nạn với xe ô tô của thầy làm con nuôi. Khi cô ta đi bước nữa thầy còn
đứng ra tổ chức hôn lễ cho vì bố mẹ cô ta cũng không còn ai cả. Mấy nay
thầy Lành sống lặng lẽ hơn, nhà thầy ở sau trụ sở ủy ban nhân dân xã đó.
Nó cũng nằm trong um tùm những cây hoa Điệp như lâu năm chẳng tỉa tót
gì. Thầy vẫn tốt với mọi người, bao nhiêu học sinh từ bản xa đến học
thầy đều cho ở trọ nhà thầy không mất tiền. Vợ chồng thầy lo cho chúng
từng bữa ăn giấc ngủ. Ai cũng bảo chắc thầy ân hận vì những chuyện đã
qua lắm. Thầy ấy buồn chắc cũng vì con gái nữa, sau vụ tai nạn lần ấy,
con gái thầy cũng bị mắc bệnh lạ. Nó hay sợ sệt đủ thứ, đêm về hay mơ
xấu. Không ăn ngủ được, biết vậy thầy cúng ở bản mình cũng xuống cúng
cho đấy", và ông Bôn lại thở dài, uống thêm chén rượu nữa, ông kể tiếp
"tôi cũng không tin thầy Lành lái cái ô tô đâm chết người ta. Hôm ấy
thầy cúng ở bản về có nói thầm với tôi rằng. Con gái thầy đang chịu hạn
vì tội lớn từng gây ra. Tôi không biết nữa thầy ạ, nhưng có lẽ hôm đó
không phải thầy Lành lái xe ô tô đó đâu."
Ông Bôn kể đến đây, lòng tôi như thắt quặn lại. Ngày tôi biết anh
Lành, anh còn không dám giết một con gà dù được dân bản biếu làm thịt.
Thường thịt thà ai nấu cho anh mới ăn chứ không bao giờ trực tiếp anh
làm, anh không dám đi xem cảnh người ta mổ lợn, mổ trâu, không dám ăn cả
tiết canh vì sợ máu me. Và cũng vì anh thương các con vật lắm. Nuôi
chúng để bán đi chắc việc anh cũng chẳng muốn làm mấy nhưng vì cuộc sống
thì đành phải chịu. Các trang trại của anh nghe nói cũng trồng nhiều
hơn nuôi. Vậy mà... cái vụ tai nạn ấy chắc nó ám ảnh anh lắm. Chẳng biết
là anh hay là ai đã lái xe nhưng dù gì vụ việc đó cũng liên quan đến
anh, làm sao anh hết được buồn phiền và cảm giác tội lỗi. Tôi chỉ muốn
về thăm anh ngay trong ngày hôm ấy. Có lẽ anh rất cần một người bầu bạn
lúc này.
Tôi đến thăm gia đình của anh trong một buổi chiều cuối hạ. Đúng như
lời kể của dân bản, ngôi nhà ba tầng khang trang của anh nằm thọt lỏm
giữa rừng Điệp, sau trụ sở ủy ban xã. Có nhiều cây Điệp không to lắm
hình như nó mới được trồng cách đó có vài năm thôi. Đang trong thời gian
nghỉ hè nên trong nhà anh chẳng thấy bóng dáng học sinh nào. Tôi đi bộ
từ đầu đường vào nhà anh, đến gần cổng thì thấy một cô gái trẻ tầm mười
tám, đôi mươi đang quét những bông hoa Điệp vàng rụng đầy ngoài sân. Tôi
mở cổng bước vào, thấy tôi cô gái liền bỏ luôn cây chổi xuống và chạy
ào vào trong nhà. Tôi thoáng chút giật mình, đang định gọi thì một người
đàn ông gầy gò xuất hiện. Tôi thấy nước mắt mình rưng rưng, ngày xưa
tôi cũng gầy gò như thế. Nhưng giờ thì đã phát tướng và tăng hơn 10 ki
lô gam so với hai mươi năm trước đây. Còn anh Lành, trông anh còn có vẻ
gầy hơn cả khi xưa. Tôi nhớ lại, ngày xưa giữa mùa đông lạnh cắt da cắt
thịt của Mường Phay, tôi lên cơn sốt anh đã thức trắng đêm chăm sóc cho
tôi. Nhường cho tôi chiếc chăn ấm của anh. Vào một mùa lũ cách đây hai
mươi năm về trước, tôi cùng anh xuống thị trấn lấy sách vở về cho học
sinh. Lúc đi qua một con suối to để vào bản tôi sẩy chân ngã, không biết
bơi dòng nước cứ thế cuốn tôi đi. Anh Lành liền chạy theo tôi, vừa chạy
anh vừa la hét kêu cứu, may thay tôi vớ được một cái cành cây bên bờ
suối vừa đổ xuống. Lúc cành cây sắp không chịu được sức chảy của dòng
suối thì anh Lành kịp đến, một tay anh nắm lấy tay tôi. Tay kia thì nắm
vào cái cây nhỏ trên bờ để khỏi bị tuột xuống. Khi nhìn thấy cái cây nhỏ
sắp bật rễ lên tôi bảo anh hãy buông tay tôi ra không cả hai anh em sẽ
bị lũ cuốn đi mất. Anh Lành vẫn không chịu buông, lúc ấy tôi thấy dòng
nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt anh. Mọi hy vọng được sống, được trở
về xuôi với ba mẹ dường như đã tiêu tan. May thay lúc ấy có vài người
dân bản đi qua, họ đã giúp chúng tôi lên bờ. Sau những ngày ấy, tôi
nguyện có chết cũng không được quên anh Lành. Thế mà hai mươi năm qua,
vì cuộc sống mưu sinh, vì những ngày cứ vào rừng ra biển dạy học tôi đã
không đến thăm anh được một lần.
Anh nhận ra tôi ngay, tôi chạy lại ôm chầm lấy anh, một giọt nước mắt
của tôi rơi xuống vai anh. Hai anh em ngồi hàn huyên tâm sự sau hai
mươi năm xa cách. Anh vẫn hiền lành từ tốn như xưa. Tóc anh bạc gần
trắng hết cả, nét u buồn luôn ẩn hiện sau đôi mắt sâu. Chúng tôi ngồi
uống trà ngoài hiên, hình như Lành đã biết tôi biết được khá nhiều
chuyện về anh trong hai mươi năm qua nên anh chẳng kể lể gì nhiều, chỉ
hỏi thăm vợ con tôi đôi chút. Chị nhà anh và thằng con trai út hôm đó
đang đi vắng, còn cô con gái vì sợ người lạ nên nó không dám ra chào
tôi. Tôi hỏi:
"Cháu tên gì anh?"
"Ngọc Điệp" – anh trả lời.
Chúng tôi lại lặng im vừa uống trà vừa ngắm những bông hoa Điệp vàng
rụng ngoài sân. Chợt đôi mắt anh Lành dừng lại hồi lâu chỗ cái chổi và
đám hoa Điệp quét dở ngoài sân. Rồi anh buồn rầu nói.
"Năm ấy, có mấy cây hoa Điệp quanh nhà chẳng nở hoa và cô con gái
Ngọc Điệp cũng chẳng cười nữa, dù tôi đã cố gắng làm tất cả..."
Vậy là lại một năm nữa đã trôi qua kể từ chuyến công tác ấy. Mỗi lần
nhớ đến anh Lành tôi lại thấy tim mình như thắt lại. Đang lặng đi trong
bao hồi tưởng về quá khứ, vợ tôi chợt kêu lên:
"Có một lá thư nữa này mình ơi!"
Tôi mở thư của anh Lành ra đọc, trong thư anh viết rằng chỗ măng rau,
hoa quả là vợ chồng anh gửi. Còn mật ong rừng và thịt gà gác bếp là của
ông cựu trưởng bản Bôn. Anh cảm ơn tôi vì vài tháng trước đã gửi cho
anh mấy cuốn sách nói về cách chữa bệnh trầm cảm cho cô con gái lớn của
anh. Giờ đây tình hình của nó đã khá hơn rồi. Anh còn viết ở cuối thư:
"Có lẽ những mùa hoa Điệp ở nhà tôi sẽ thật sự nở rộ vào ngày mai thôi,
tôi yêu màu hoa ấy chú ạ, vì đó là màu của nắng mai, màu của sự sống
mãnh liệt, và nó cũng là tên của con gái tôi, đứa con đầu lòng mà tôi
hằng yêu quý nhất."
Hoa Thược Dược