Thứ Năm, 9 tháng 8, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Sợi tơ nhện

Hình và bóng
Ta nợ ngàn năm, duyên trăm năm !!
Tơ trời trói buộc dẫu xa xăm...
Tiếc thương mộng tưởng hoài nhung nhớ,
Cứ ngỡ se tơ, kết sắt cầm...

Gió đưa cây cải khuất tăm,
Rau răm ở lại khóc thầm vấn vương.
Cây cao bóng đỗ bên đường,
Cây nhìn thương bóng, bóng nương mặt trời !
Chiều về mang gió lã lơi,
Quay nhìn tìm bóng, bóng thời nơi đâu ?!
Trăm năm một cuộc bể dâu,
Cây theo gió đỗ khi nao bóng về ?!
Duyên xưa giữ trọn lời thề,
Sát na hạnh phúc, cận kề bên nhau
NM

Con Nhện ở Miếu Quan Âm
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.
Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lòng lắm. Lúc rời miếu, ngài vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhện trên xà.
Phật dừng lại, hỏi nhện: “Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Được không?”
Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: “Thế gian cái gì quý giá nhất?”
Nhện suy ngẫm, rồi đáp: “Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi!”. Phật gật đầu, đi khỏi.
Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, Phật tính của nhện đã mạnh hơn.
Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: “Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng?”
Nhện nói: “Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là “không có được” và “đã mất đi” ạ!”
Phật bảo: “Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi.”
Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.
Lúc đó Phật tới, ngài hỏi: “Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa: Thế gian này cái gì quý giá nhất?”
Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: “Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi.”
Phật nói: “Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!”
Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.
Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.
Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.
Châu Nhi nói với Cam Lộc: “Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?”
Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: “Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng?”. Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.
Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế.
Châu Nhi bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp.
Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng: “Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi.” Nói đoạn rút gươm tự sát.
Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: “Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi.
Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi, thế gian này cái gì là quý giá nhất?”
Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật: “Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”
Vừa nói xong, Phật đã đi mất, linh hồn Châu Nhi quay lại thân xác, mở mắt ra, thấy thái tử Chi Thụ định tự sát, nàng vội đỡ lấy thanh kiếm…
“Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”
Trong suốt đời ta, sẽ gặp hàng nghìn hàng vạn loại người.
Theo Nghethuatsong
 Ác nghiệp
Nhuỵ vàng sen toả ngát hương,
Đứt đường tơ khiến đôi đường khổ đau...
Tưởng chừng sẽ được lên cao,
Vì chưng ác nghiệp rơi vào tối tăm !
NM
 Sợi Tơ Nhện
 Tác giả Akutagawa Ryunosuke sinh năm 1892 (Meiji/Minh Trị năm thứ 25) ở Irifune-cho, Kyobashi-ku, Tokyo bây giờ đổi thành Chuo-ku. Cha có nông trại nuôi bò để lấy sữa. Lúc mới đầy bảy tháng thì mẹ phát cuồng, nên được thân quyến bên ngoại, gia đình người anh của mẹ nhận về nuôi. Năm lên 10 thì mẹ ruột mất trong bệnh viện người điên. Năm 12 tuổi mới chính thức lấy họ ngoại là Akutagawa. Ông mất năm 1927. 
Vào được Đông Kinh Đế Quốc Đại học nay là Đông Kinh Đại học (Tokyo Daigaku), Ông cùng với bạn học là Kikuchi Kan, Kumei Masao những cây bút nổi tiếng đương thời tích cực hợp tác lập văn đàn và sáng tác. Năm 1916 Ông viết truyện ngắn Hana (Cái Mũi), được đại văn hào Natsume Soseki khen không tiếc lời, tháng 9 cùng năm sáng tác truyện Imogayu (Cháo khoai). Năm sau đó 1917, Ông cho in tập Rashomon (La Sinh Môn) gom góp một số truyện ngắn nổi tiếng, tự đó tạo được một chỗ đứng riêng trong văn đàn Nhật bản. Ông là một trong những cây bút đại diện cho văn học Nhật thời đại Taisho (Đại Chính). Ngày nay một giải thưởng văn chương rất có uy tín mang tên Ông, phát hàng năm cho cây bút nào với sáng tác có giá trị văn học cao. 
Tác phẩm Sợi tơ nhện được sáng tác vào năm 1918 cho tạp chí Văn Nghệ Thanh thiếu niên Akai Tori (Con Chim đỏ). Trong những năm tiếp theo Ông rất tích cực sáng tác truyện ngắn cho Thanh thiếu niên chẳng hạn như Majutsu (Ảo thuật 1919), Toshishun (Đỗ tử Xuân 1920)., Torokko (Chiếc xe goòng 1922) , Sennin (Ông tiên 1922) v.v...
1
Xin kể, đây là câu chuyện xảy ra trên Cực Lạc. Một bữa nọ, Đức Thích Ca một mình lững thững đi dạo bên hồ sen. Những đóa sen trong hồ nở trắng toát, đẹp như ngọc. Từ giữa nhụy vàng một hương thơm ngào ngạt khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền.  
Xin thưa, trên Cực Lạc lúc đó đúng vào buổi sáng. 
Đức Thích Ca dừng lại bên cạnh hồ sen. Xuyên qua giữa những lá sen phủ khắp mặt hồ, Đức Phật chợt đưa mắt nhìn xuống dưới. 
Xin thưa, bên dưới hồ sen lại chính là đáy của địa ngục. Nước hồ trong vắt như thủy tinh. Đây là sông Tam Đồ, đấy là những hòn núi đầy kim. Cảnh tượng ở dưới trông rõ mồn một như được soi gương. 
Dưới địa ngục, cảnh gã Kandata cùng với các tội nhân khác đang quằn quại rên siết, lọt vào mắt Phật. 
Tên Kandata này là một tên trùm trộm cướp. Cả đời, y làm đủ chuyện độc ác, cướp của, đốt nhà, giết người không gớm tay. Duy chỉ một lần, y cũng làm được một việc thiện. Vâng, đó là chuyện vào một buổi nọ, tên ác ôn này đang đi trong rừng sâu, bỗng y thấy một con nhện bò bên vệ đường. 
Y liền giở chân lên định dẫm chết con nhện, nhưng y nghĩ  "Không, không, nó tuy chỉ là một con vật nhỏ bé, nhưng nó cũng có một sinh mệnh, nỡ nào ta lại giết đi, như thế thì tội nghiệp cho nó quá". Nghĩ vậy y bèn thôi, không giết con nhện. 
Đức Thích Ca nhìn cảnh địa ngục, nhớ lại chuyện tha không dậm chết con nhện của tên Kandata. Để ứng báo cho cái việc thiện ấy của y, Đức Phật nghĩ nếu đuợc thì cũng muốn cứu vớt tên này ra khỏi cảnh địa ngục. May thay lúc ấy, Đức Phật nhìn bên cạnh, thấy trên một lá sen xanh như cẩm thạch, một con nhện trên Cực Lạc đang giăng tơ, những đường tơ óng ánh, đẹp như bạc. 
Đức Phật bèn vươn tay nhẹ vớt một sợi tơ nhện và xuyên qua giữa những đóa hoa sen trắng như ngọc, buông thẳng tuốt xuống địa ngục.
Xin thưa, dưới địa ngục, tên Kandata cùng với những tội nhân khác đang lặn hụp trong ao máu, lúc nổi lúc chìm.  
Mà tứ bề thì tối mịt. Trong cái cõi âm u ấy, nếu đâu đó có cái gì hiện ra, thì đó lại chính là những mũi kim nhọn hoắt của các hòn núi đầy kim dưới địa ngục, lóe ánh sáng trông thật là khủng khiếp, ghê rợn. Hơn thế, cả vùng lặng ngắt như nằm trong huyệt mộ, chốc chốc chỉ nghe thấy vọng tiếng thở dài khe khẽ của các tội nhân. 
Xin thưa, ai mà đã sa xuống dưới địa ngục này, thì phải chịu đủ thứ cực hình đau đớn, còn sức đâu nữa để mà khóc thành tiếng. 
Cho nên dù lúc sinh tiền Kandata là tên cường đạo, thì nay giỏi lắm cũng chỉ giãy giụa, sặc sụa trong ao máu không khác gì một con ếch sắp chết mà thôi. 
Nhưng xin thưa, trong lúc lặn hụp ấy, Kandata bất giác ngước mặt nhìn trời. Ô kìa trong cái cõi u minh tối mịt, xa tít từ trên trời cao, một sợi tơ nhện màu bạc như một tia sáng, lóng lánh thật mỏng, len lén buông xuống nhè nhẹ như không muốn cho ai hay, ngay trên đầu của mình. 
Khi Kandata nhận ra điều này thì trong bụng mở cờ. Nếu bám được sợi tơ nhện này mà leo miết lên thì chắc có lẽ sẽ thoát được địa ngục. 
Ơ này, không biết chừng có thể vào được cả chốn Cực Lạc. Như vậy thì từ nay khỏi bị đuổi trèo lên núi đầy kim nhọn, hết phải bị bắt lặn hụp trong ao máu nữa. 
Nghĩ vậy, Kandata liền đưa hai tay níu chặt lấy sợi tơ nhện và cố hết sức mà leo lên, lên cao hơn. 
Xin thưa, y vốn là tên cường đạo, nên chuyện như vầy thì xưa nay y đã từng quen thuộc. 
Nhưng xin thưa, khoảng cách giữa địa ngục và Cực Lạc thì xa đến hàng ngàn vạn dậm, dù có muốn gấp cũng chẵng dễ gì mà có thể thoát ngay được. Kandata ra sức leo một mạch thì thấm mệt, kiệt sức, không tài nào leo nổi nữa, dù chỉ một gang. 
Không cách nào hơn, Kandata đành đeo cứng sợi tơ ở giữa chừng, định nghỉ một lát để lấy lại sức. Y đưa mắt nhìn xuống phía dưới xa lắc. 
Thì ra, đã không hoài công leo, cái ao máu mới hồi nào đây, y đã lặn hụp trong đó thì nay, không biết tự hồi nào đã chìm mất trong bóng tối phía bên dưới. Cả những ngọn núi đầy kim sáng lờ mờ khủng khiếp kia, cũng đã khuất ở phía dưới chân của y rồi. Cứ như thế này mà leo miết lên thì không biết chừng chuyện ra khỏi được địa ngục không phải là không được 
Kandata quấn sợi tơ nhện vào cả hai tay, đã mấy năm rồi từ ngày sa xuống địa ngục, y không hề thốt ra nổi một lời, nay bỗng to tiếng cười "Được rồi, chắc được rồi ". 
Nhưng bất đồ y nhận ra, ơ kìa phía dưới sợi tơ nhện, không biết bao nhiêu là tội nhân cứ nối nhau, hết lòng cố leo lên theo y, đông như kiến. 
Thấy vậy Kandata vừa hoảng vừa lo. Y đờ người ra, miệng há hốc, mắt đảo quanh. 
Y nghĩ thầm, sợi tơ nhện này mong manh như thế, một mình y đeo không thôi cũng không biết chừng bị đứt, thế thì làm sao mà chịu cho nổi sức nặng của cả chừng ấy người. 
Nếu lỡ mà sợi tơ này bị đứt giữa chừng, thì toi hết công đã leo được đến đây, và chính y cũng sẽ rớt trở lại địa ngục. Không thể được. 
Nhưng ngay cả trong khoảnh khắc ấy, từ dưới ao máu tối mịt, hàng trăm, hàng ngàn tội nhân khác, lúc nhúc nối tiếp nhau bò lên, cố bám lấy sợi tơ nhện mong manh sáng, leo lên trên thành một hàng dài. 
Kandata liền hét to. 
- Ê bọn bây, sợi tơ nhện này của tao. Bọn bây đã xin phép ai mà dám leo lên đây. Xuống hết! Xuống hết! 
Chính ngay lúc đó. 
Sợi tơ nhện cho đến giây phút ấy chẳng sao cả, bỗng đột nhiên đứt phựt một tiếng, ngang từ trên chỗ tên Kandata đang đeo. 
Và như thế, tên Kandata chẳng còn bám víu vào đâu được. Trong chớp mắt y rớt lộn ngược, người y cắt gió quay vòng như một con vụ, rớt tuột xuống trong bóng tối. 
Xin thưa sau đó, giữa bầu trời không trăng không sao, chỉ còn lại một sợi tơ cụt ngủn của con nhện trên Cực Lạc, lòng thòng óng ánh sáng, rất mong manh.
3
Đức Thích Ca ngự bên hồ sen trên Cực Lạc, nhìn rõ mọi chuyện, mãi cho đến lúc tên Kandata chìm nghỉm trong ao máu như một tảng đá. Đức Phật như có vẻ buồn, lại lững thững cất bước đi.  
Vì cái tâm không có một chút từ bi, chỉ muốn một mình thoát khỏi địa ngục, mà Kandata đã bị quả báo rớt trở lại địa ngục, dưới mắt Đức Phật, là cả một điều bi đát thảm thương. 
Thế nhưng, trên Cực Lạc sen trong hồ vẫn nở như không có chuyện gì xảy ra . 
Những đóa hoa sen trắng như ngọc, đài hoa lay nhẹ bên chân Phật. Từ giữa nhụy vàng ngào ngạt một hương thơm khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền. 
Xin thưa, lúc đó trên Cực Lạc đã gần đến đúng Ngọ.
Akutagawa Ryunosuke 
Người dịch   :  Đinh văn Phước


 
Mong manh,
Mong manh tơ nhện buông mành,
Vấn vương lòng thiếp, tình anh lỡ làng...
Lá rơi theo gió thu vàng,
Anh giờ miên viễn theo ngàn lá bay.
Ta thà thân nhện đắng cay,
Hơn là vướng bận đắm say kiếp nầy.
"Độc tình" muôn thuở là đây,
Người đi tìm mãi ai người tri âm ?!
Cô đơn sống kiếp âm thầm,
Đắng cay cam chịu ngàn năm một mình !
NM

Nhện

Tò vò mà nuôi con nhện, 
Đến khi nó lớn nó quên nhau đi. 
Tò vò ngồi khóc tỉ ti, 
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào? 
(Ca dao)
Hồ sen gợn sóng, hương sen thơm ngát, vòm không tràn ngập hơi sương. Nhện lim dim đôi mắt, bám chặt lấy sợi tơ lòng, thiêm thiếp mê đi. Trong mơ, nó tìm được kiếp cũ - kiếp người. Nhưng nó là ai? Là một văn sĩ, là một thiếu nữ nơi thôn ổ hay là một nhà chính trị? Nó không hề nhớ, nó chỉ biết mình từng là người. Nhện thấy sao mà đau đầu quá, tìm lại mình sao mà khó khăn.
Dưới vòm cây, bỗng có tiếng chân người sẽ sàng bước đến ven hồ, chàng vô tình chạm phải chiếc mạng mới giăng, đánh động giấc mơ của Nhện, làm nó phải vội vàng trèo lên cao ẩn nấp. Nhện còn nhớ ngày ấy nó cũng ngủ quên như thế, không hề phòng bị, suýt nữa thì bị thằng bé sống ở đầu phố tóm được để làm mồi cho chim. Thấy không, con người đáng sợ lắm, ngay từ khi còn bé họ đã là những ác quỷ tí hon. Nhện giương đôi mắt ngái ngủ nhìn kẻ nọ, bỗng thấy những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của chàng.
Mùa sen năm ngoái, chàng trai này đã đưa người yêu đến đây, họ ngồi nghỉ chân dưới cội cây và ngắm hoa nở. Chàng đọc cho nàng nghe những bài thơ về tình yêu, về lẽ sống, về hoài bão tuổi trẻ và chốn an bình trong tâm linh của nhân loại. Chàng ca ngợi vẻ đẹp của nàng, đàn cho nàng và ngắm nhìn nàng.
“Tôi chỉ là một khách tình si 
Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể. 
Mượn lấy bút nàng Ly tao, tôi vẽ, 
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca”*
Cô gái là một thiếu nữ được nuôi dạy tử tế, sống trong sự bao bọc của gia đình, luôn mở đôi mắt to tròn ra lắng nghe, thi thoảng trên khóe môi lại nở một nụ cười rạng rỡ khoe đôi má lúm phớt màu thanh xuân.
- Anh ơi, xin hãy đọc nữa đi - Cô gái thôi thúc, ngả đầu vào vai nhà thơ.
Chàng thấy trái tim mình như đang ca hát và cất lời ngâm những lời thơ lấp lánh trang kim.
“Với Nàng Thơ tôi có đàn muôn điệu, 
Với Nàng Thơ tôi có bút muôn màu”**
Thời gian như nước trôi, sen năm trước tàn rồi, nàng thơ năm ấy đã đi đâu để riêng mình người lẻ bóng? Sao người lại tiều tụy thế kia? Lòng người lẽ nào lại mỏng đến vậy sao? Nhện rón rén bò xuống gần hơn, giơ sợi tơ lên ngắm nghía. Chàng trai sẽ không trở lại nữa, thi sĩ đã biến mất trên đời, trả lại tuổi tráng niên nhiệt huyết. Đáy hồ sen đã giam cầm vô số linh hồn tự nghìn xưa, những kẻ ấy chỉ mong được kết duyên với Phật, khi tái sinh sẽ được ngồi trên bồ đoàn. Nhện bật cười, họ nào hay rằng niết bàn kia nào có trên đời, họ cũng không biết rằng tất thảy đều hèn nhát trốn tránh thế gian.
Nhện cười khanh khách, bò vòng quanh rút hết tơ lòng. Chữ nghĩa làm con người điên loạn, những kẻ vướng phải nó là những kẻ đáng thương, sao phải đày đọa thế. Hở đời? Nhện nom thấy cô gái của mùa hoa thập thò nấp sau rặng liễu, vẫn đôi mắt cũ trong ngần ngân ngấn sầu bi. Những người phụ nữ có đôi mắt như thế thường khổ, bạc mệnh. Nàng chạy tới, ánh nhìn vuốt ve khuôn mặt bình thản đang chìm dần về miên viễn của người yêu, cười nụ và thì thầm:
- Xin anh, xin anh hãy chết để lòng em được sống.
Nhện vò đầu bứt tai. Tại sao cứ phải làm khổ nhau đến thế! Cô gái đã bỏ đi từ lâu, đi với vết thương chẳng bao giờ khép miệng. Rồi một mai, khi trái gió giở giời, nó sẽ làm loạn lên, hành hạ nàng đến chết đi sống lại, đó là thứ độc không thể giải - Độc tình.
Nước dềnh lên cuốn phăng đàn kiến đương chạy lụt, bao gia đình tan cửa nát nhà, ly tán khắp nơi. Chúng bám được vào lá sen, ngơ ngác nhìn nhau, chúng đang ở đâu? Nhà ở đâu?
Tiếng thanh la, chũm chọe, kèn tây, kèn tàu vang lên inh tai ở phía bên kia hồ. Ếch cụ ngồi trên lá sen, nheo nheo cặp mắt híp, phồng miệng ồm ồm bảo:
- Thế là “ông cụ” đi rồi.
Nhện rút thêm một sợi tơ, thả mình xuống sát mặt hồ, lồm ngồm bò lên trên đầu Ếch cụ, nó đau đáu:
- Nhanh thật, không quá ba hôm để chui vào quan tài.
- Ông ấy chết đói - Ếch cụ nói - Đám con cháu để ông già chết đói, khốn nạn thật.
- Ông ấy chưa tìm được quê… - Nhện mơ màng nghĩ về ngày xa.
Ông lão là một kẻ tha hương, mất gốc theo đúng nghĩa của nó. Quê ông ở đâu? Ông là ai? Ngoại trừ con sông khắc sâu vào lòng từ khi còn là một đứa trẻ non nớt thì ông còn nhớ được gì? Chiến tranh, chiến tranh đã cày nát biết bao mảnh đời như thế.
“Nhện ơi, tao còn nhớ con sông Trà Lý chảy xiết, năm nào cũng có xác người trôi về đấy, nó đã dìm chết bao nhiêu kiếp người, bao nhiêu ký ức” - Vẫn thấp thoáng vị rượu tràn ly đêm trăng cũ. Người tri âm đã đi, rút tơ lòng làm chi?
“Tao già rồi, vô dụng rồi. Con cháu tao sẽ đánh thuốc cho tao chết như đánh bả một con chó. Nhưng cũng không trách được, con chó sống còn có ích chứ lão già này sống chỉ tổ chật đất chật đai, tốn cơm tốn gạo” - Ông lão ngoẹo đầu, bưng mặt khóc hu hu - “Nhện ơi, rồi thì ông với mày, trên đời này chỉ ông với mày thôi”.
Sông Trà Lý còn chảy không? - Nhện lơ đãng nghĩ.
- Đời buồn - Ếch nói.
Nhện gật đầu:
- Buồn mà đẹp, buồn mới đẹp.
Tò Vò bay qua, hỏi:
- Đời cơ bản là buồn, phải thế không? Hả Nhện?
Nhện ngồi thu lu, mặt buồn thỉu buồn thiu:
- Trăm năm xương nát thành tro…
Nhện nói xong và khóc. Ai nghe được ta? Ai hiểu lòng ta? Nhện ngồi tỉ ti. Nào, trút hết nước mắt đi. Con Nhện hát vang, buồn ru lòng mình. Nhện nhớ ra, nó từng là một văn sĩ, nó từng được đi chu du khắp thế gian. Trăm năm, ai người tri âm?
Tò Vò thủ thỉ thù thì:
- Nhện ơi, tìm kiếp trước mà chi. Làm người nhục, khổ lắm. Thân Nhện đã đắng cay, đã biết về đâu mà còn mong làm người?
Ai nghe được ta? 
Ai hiểu lòng ta? 
Ta khóc cho mình, ta hát cho mình, 
Ta viết riêng mình, thế thôi.
Trấn Thiên - Hiên Đà Giang 9.6.2015.
  Quỳnh Phạm
Con nhện và khu rừng 
Cơn gió đời thổi qua khu rừng trần thế. Cây bồ đề xào xạc. Lá vàng rơi xuống đất. Một chiếc lá bồ đề lượn lờ rồi rơi vào cái mạng nhện. 

Mạng nhện thủng một lỗ lớn.

Con nhện bé nhỏ lại cặm cụi vá lại chỗ thủng.
Gió thu lại nổi lên. Lá bồ đề lại rơi rụng. Cái màng nhện lại rách. Và con nhện nhỏ bé lại cặm cụi vá lại...vá lại...cứ thế...cứ thế...Mùa thu vẫn còn dài. ..gió thu vẫn còn thổi...mưa thu vẫn còn rơi...và con nhện vẫn còn vá lại cái nhà của nó.

Con nhện chuyển sang làm tổ dưới gốc bụi trúc già.  Nó chăm chỉ giăng lưới. Những sợi tơ mỏng manh kết dính với nhau khéo léo thành cái màng xinh xinh rung rinh trong cơn gió nhẹ.
Cơn gió đời thổi qua khu rừng trần thế. Bụi trúc quân tử xào xạc. . . .xào xạc. . . Lá vàng rơi xuống đất. Một chiếc lá trúc lượn lờ rồi rơi vào cái mạng nhện.
Mạng nhện thủng một lỗ lớn.
Con nhện bé nhỏ lại cặm cụi vá lại chỗ thủng.
Gió thu lại nổi lên. Lá trúc lại rơi rụng. Cái màng nhện lại rách. Và con nhện nhỏ bé lại cặm cụi vá lại...vá lại...Cứ thế...cứ thế...Mùa thu vẫn còn dài. ..gió thu vẫn còn thổi...mưa thu vẫn còn rơi...và con nhện vẫn còn vá lại cái nhà của nó.
Trong khu rừng sinh thái này. Cây bồ đề vẫn to lớn hiên ngang, thẳng vút lên trời cao, xoả bóng mát từ bi che phủ khắp một vùng rộng lớn và rừng trúc quân tử vẫn xanh mướt, rỗng lòng, thẳng đứng, vút mãi lên trời cao, thi gan cùng mưa nắng. Còn con nhện bé nhỏ ngày qua ngày, vẫn cứ vá lại cái mảnh đời thủng của nó...Vá lại...vá lại...như một điệp khúc buồn vô thức từ cội nguồn.
Ngày kia con nhện đã già. Nó đã mệt mõi với việc vá lại mảnh đời mong manh của nó!
Nhìn khắp khu rừng. Nó chợt nhận ra, cây nào dù to lớn và linh thiêng tới đâu đi nữa, cũng đều có lá rụng khi mùa thu tới. Cho nên dù nương dưới bóng cây gì, thì rồi nó cũng phải vá lại cái lỗ thủng của cuộc đời mình không thể khác !
Thế rồi, nó bèn bỏ ra giữa trời, không có cây gì che phủ bên trên để làm tổ. Từ đó, nó tự do giữa trời và đất. Không phải vá lại cái màng nhện mong manh của nó mỗi khi có gió về trên khu rừng nhân thế.
Cũng vậy, này Cỏ May, những người đang truy tầm chân lý như ông. Hãy tự do giữa trời và đất. Đừng chấp, đừng trụ vào một Tướng Trạng hay bất kỳ Ngã nào. Cho dù là Đại Ngã hay Ngã Linh Thiêng đi nữa. Vì tự thân việc ấy là mất tự do và do vậy sẽ không giải thoát được.

Tưởng Vậy - KCDS
 
Kẹt Trong Tơ Nhện
Hàng tuần lênh đênh trên biển đã khiến Markus thấy mệt mỏi, hắn mừng biết bao khi được đặt chân lên đất liền. Con đường dẫn từ bờ biển đá đỏ trơn trượt, khi hắn phải dè chừng từng bước chân. Những thân cây cong queo hai bên đã bị quật ngã, những vết rạch đen thui rỉ ra dòng nhựa vàng, như thể một con vật hoảng loạn nào đã cào rách chúng ra vậy. Ánh sáng mờ nhạt tỏa ra giữa hàng cây, nhảy múa như những đốm lửa ma trơi lập lòe nơi đầm lầy, dẫn dụ những linh hồn sơ sểnh tới sự diệt vong. Trên những cành cây treo thứ gì đó trông như một mái vòm bằng lụa xác xơ, Markus mất một lúc mới nhận ra chúng là mảnh mạng nhện.
Dương xỉ mọc đầy hai bên đường, rung rinh với chuyển động của những sinh vật ẩn hình đang len lỏi qua rừng. Có lẽ lũ chuột trên tàu đã đi theo hắn. Markus chưa từng thấy con nào, ngoài một thân thể lông lá đen xì vụt qua và âm thanh móng vuốt cào vào gỗ. Hắn không nghĩ rằng âm thanh đó nghe như thể một con chuột có quá nhiều chân hơn bình thường.
Không khí trên đảo nặng hơi ẩm, quần áo và ủng của hắn bám đầy hơi nước. Hắn đưa cục sáp thơm lên mũi, nhưng cũng không xua bớt đi được mùi hôi thối của hòn đảo. Nó nhắc hắn nhớ đến mùi những hố mai táng ngoài tường thành Noxus khi gió biển thổi chúng vào. Nghĩ về quê nhà, hắn chợt thấy khó chịu. Buổi tiệc trong hầm mộ sâu dưới thành phố quả là kích thích, phần thưởng cho cuộc theo dấu biểu tượng cánh hoa đen bí mật. Trong ngôi mộ cổ u ám, hắn cùng những kẻ sùng đạo khác tập hợp lại.
Cô ta chờ ở đó.
Hắn ngước lên, hy vọng nhìn thấy người phụ nữ đã dùng lời lẽ đưa biết bao người đến nơi này. Hắn nhìn thấy một bóng hình mặc đồ bằng lụa đỏ thắm thoáng hiện, uyển chuyển bước đi trước khi sương mù tràn vào giữa hàng cây che khuất đi tầm nhìn. hắn run lên trước những lời thuyết giảng của vị thần cổ xưa của cô ta, và quá đỗi vui mừng khi hắn và ba mươi người khác được chọn gia nhập đoàn hành hương. Thật giống một cuộc phiêu lưu, họ leo lên một con thuyền lớn vào giữa đêm, tên lái thuyền đội mũ trùm lẳng lặng đưa nó ra khơi. Tuy nhiên, rời xa Noxus quá lâu cũng dần ăn mòn hứng thú của hắn.
Markus dừng chân và quay đầu nhìn dọc con đường. Những người đồng hành của hắn đờ đẫn đi qua, như đàn gia súc tiến dần vào lò mổ. Họ bị sao thế? Tên lái thuyền đi phía sau, áo choàng bay phấp phới, lướt trên đường như thể chân không chạm đất. Một nỗi sợ chợt dâng lên trong lồng ngực Markus khi hắn nghĩ mình phải tiến lại gần sinh vật ghê tởm ấy.
Hắn quay đi, và thấy mình đối mặt với cô ta.
“Elise…” hắn nghẹn lời. Bản năng thúc giục hắn đẩy cô ta ra và bỏ chạy khỏi nơi đáng sợ này, nhưng vẻ đẹp hắc ám mê hồn của cô ta ngăn hắn làm thế. Cảm giác nó vút qua nhanh đến nỗi hắn còn chắc mình có thực sự cảm thấy vậy không.
“Markus,” cô ta nói, mỗi âm tiết lại gợn lên một niềm vui chạy dọc sống lưng hắn. Vẻ đẹp của cô ta khiến hắn sững sờ. Khuôn mặt góc cạnh, sắc sảo, bao phủ bởi mái tóc đỏ rực rỡ. Đôi môi căng mọng và đôi mắt tỏa ánh hào quang hắc ám kéo hắn vào sâu hơn trong tấm lưới với những lời hứa hẹn thần tiên. Một tấm áo choàng đỏ thắm, cài một cái trâm có tám ngạnh, trùm quanh bờ vai cô ta. Nó khẽ lay động, dù chẳng có làn gió nào thổi qua.
“Có chuyện gì sao, Markus?” cô ta hỏi. Giọng nói xua tan mọi nỗi sợ trong hắn. “Tôi cần anh thật an tâm. Anh có an tâm không, Markus?”
“Có, Elise,” hắn trả lời. “Tôi đang rất an tâm.”
“Tốt. Tôi sẽ không vui đâu nếu anh không an tâm khi chúng ta đã đến rất gần rồi.”
Ý nghĩ làm cô ta không vui khiến Markus hoảng sợ, hắn quỳ vội xuống đất, run rẩy.
“Tôi có thể làm tất cả vì cô,” hắn nói.
Cô ta nhìn xuống và mỉm cười. Trong thoáng chốc, Markus nghĩ mình thấy một thứ gì đó dài, mỏng và bóng loáng xuất hiện dưới lớp áo choàng. Chuyển động thật kỳ quái và phi tự nhiên, nhưng hắn không quan tâm. Cô ta đặt ngón tay lên cằm hắn và kéo hắn đứng lên. Mạch máu nơi cổ hắn đập thình thịch, nhưng hắn lờ nó đi và bước theo cô ta.
Hắn cứ thế tiến tới, mọi suy nghĩ trong đầu biến mất như làn khói trước gió, tất cả trừ việc làm cô ta hài lòng. Cây thưa dần và con đường kết thúc trước một vách đá khắc ký hiệu khí tượng – thời gian làm mắt hắn nhức nhối. Một hang động âm u dưới chân vách đá, trông như cái hàm ghê gớm của một con quái vật. Markus thấy một thoáng kinh hoàng lướt qua người hắn.
Elise bảo hắn đi vào, và hắn không thể kháng cự.
Bên trong hang tối và ngột ngạt, tựa như đang ở trong lò mổ vậy. Giọng nói trong thâm tâm hét lên giục hắn bỏ chạy, chạy khỏi chốn này xa nhất có thể, nhưng đôi chân phản bội vẫn đưa chủ nhân vào sâu hơn. Một giọt chất lỏng rơi từ trên cao xuống má hắn, cơn đau bỏng rát bất chợt khiến hắn giật nảy người. Nhìn lên trần hang, hắn thấy những hình dạng nhợt nhạt treo bên trên, lắc lư theo một nhịp điệu điên cuồng. Trên bề mặt của tấm lưới mới dệt, một khuôn mặt người gào thét trong câm lặng khi nó dần siết chặt lại.
“Đây là đâu?” hắn hỏi, tấm màn che phủ nhận thức của hắn biến mất.
“Ngôi đền của ta, Markus ạ,” Elise đáp, cô ta cởi bỏ áo choàng. “Đây là hang ổ của nhện thần.”
Hai cặp chân dài mọc ra từ sau lưng cô ta; thon dần thành những cái vuốt sắc như dao cạo. Chúng nâng Elise lên trong bóng tối phía sau cô ta. Ánh sáng yếu ớt trong hang phản chiếu trên tám đôi mắt lấp lánh.
Sinh vật lông lá và đầy vảy kia đã đập tan ảo mộng cuối cùng về Elise của Markus, hắn chạy trối chết ra cửa hàng trong tiếng cười man dại của cô ta. Những sợi tơ phóng vào tảng đá bên cạnh hắn. Chúng dính như keo, làm bước chân hắn chậm lại. Hắn nghe tiếng chân nhện lách cách đuổi theo. Một thứ gì đó sắc nhọn cắm phập vào vai hắn. Markus khuỵu xuống, chất độc tê liệt lan khắp người và cầm tù hắn trong chính cơ thể của mình.
Một bóng đen xuất hiện, hắn thấy tên lái thuyền câm lặng giang rộng cánh tay. Bộ áo trùm đổ xuống, và Markus kinh hoàng khi biết đó không phải một con người, mà là một đàn nhện tạo thành hình người. Cả ngàn con tràn lên người hắn, chui vào miệng hắn, tai hắn.
Elise tiến lại gần. Cô ta không còn xinh đẹp, thậm chí không còn là con người. Khuôn mặt sáng lên một cơn đói cuồng bạo không bao giờ có thể thỏa mãn. Con nhện thần khổng lồ nhấc Markus lên bằng một móng chân sắc nhọn.
“Giờ ngươi phải chết, Markus ạ,” Elise nói.
“Tại sao…?” hắn cố gắng nói trong cơn hấp hối.
Elise mỉm cười, một nụ cười đầy răng nanh nhọn như mũi kim.
“Để ta có thể sống.”
ST


         

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Hoa hoàng điệp trước ngõ


Lẻ loi,
Về lại quê xưa, vắng bóng xưa,
Hoàng hoa hương điệp hoá như thừa...
Niềm riêng ấp ủ hoài chưa nói,
Một mình lặng lẽ ngắm sao thưa !

Hương điệp dần phai theo gió bay,
Tình vẫn là tình không đắm say.
Giấc mơ không đạt chừ mơ mộng...
Nhung nhớ giờ đây thêm đắng cay !!
NM

Hoa hoàng điệp trước ngõ
Phải chăng giấc mộng mãi mãi không bao giờ đạt được mới chính là giấc mộng đẹp nhất?
Từ đầu hẻm tôi đã ngửi thấy mùi hương thoang thoảng của hoa hoàng điệp. Bao mùa trăng tròn khuyết, bao mùa mưa nắng, cây hoa vẫn đứng sừng sững giữa trời. Những cánh hoa trải khắp ngõ phố, vỉa hè tạo thành một tấm thảm hoa vàng vô cùng đẹp mắt và lãng mạn. Sắc vàng dịu êm ánh lên trong nắng khiến lòng tôi mang nhiều cảm xúc bâng khuâng. Xốc ba lô trên vai, tôi chậm rãi bước, tránh giẫm lên những bông hoa dưới gót chân. Hằng năm, khi ve kêu gọi hè, hoàng điệp lả lướt theo gió rụng xuống đầy đường, không phải màu tím thuỷ chung của bằng lăng cũng không thắm đỏ như màu phượng vĩ học trò, hoàng điệp dịu dàng gợi nhiều cảm xúc lắng đọng về thời gian và dĩ vãng.
Tôi xa nhà đã ba năm rồi, nay xuất ngũ trở về, cảnh vật quê nhà vẫn không có gì thay đổi. Vẫn là con ngõ cổ kính rụng đầy hoàng điệp khi hạ sang, vẫn là con đường lát gạch bát tràng, vẫn là những bức tường loang lổ phủ đầy rêu. Bây giờ là buổi chiều, ánh nắng hanh hao xuyên qua vòm cây nhảy nhót theo hướng gió. Mùi lá non xanh rờn, mùi hương nồng đượm phảng phất trong không khí.
Tôi thường mơ thấy cỗ máy thời gian. Trong giấc mơ, nó không hề quay trở lại. Mà bay đi rất cao, rất xa. Lắm lúc, giây phút tôi tỉnh táo, tôi vẫn cứ nhìn mãi vào không trung. Cứ cho rằng nó sẽ xuất hiện mang tôi trở về ngày xưa đó, ngày tôi và Nhi lang thang nhặt hoa ép khô, ngày mà chúng tôi vô tư tắm mưa cùng nhau, ngày mà chúng tôi chơi trò cô dâu chú rể và hứa chừng nào lớn lên sẽ lấy nhau. Ngày ấy còn đâu? Và Nhi… ở đâu?
Nhi là hàng xóm của tôi. Cây hoa nằm giữa cổng rào nhà tôi và nhà Nhi nên có lần hai đứa cãi nhau chỉ vì phân định cây hoa thuộc về nhà nào. Không ai chịu thua ai, ai cũng muốn giành phần thắng về phía mình. Cuối cùng, Nhi bảo đợi khi hoa rụng xem thử hoa bay về phía nào thì cây hoa thuộc về người ấy. Tôi để ý và thấy lần nào gió cũng thổi những cánh hoa bay về phía nhà Nhi nhiều hơn. Được dịp, Nhi chống nạnh, phồng má bảo tôi thua rồi nhé. Tôi là con trai, không thèm chấp nhất chuyện nhỏ nhặt. Sau lần ấy chúng tôi vẫn thân thiết như xưa. Chẳng biết từ bao giờ nụ cười của Nhi cùng những bông hoa vàng óng in đậm trong tâm trí tôi. Có lúc trong giấc ngủ tôi mơ thấy Nhi đứng dang tay xoay tròn, ngửa cổ đón những cánh hoa rớt xuống bờ môi mình. Hoa rơi trên tóc, trên vai Nhi. Cảnh tượng ấy tựa như một bức tranh mỹ lệ.
Ngang qua nhà Nhi, tôi nhìn vào. Nơi ô cửa ướp nắng vàng và lộng gió, Nhi vẫn thường vẫy tay chào mỗi khi trông thấy tôi đạp xe qua. Ảo ảnh làm mắt tôi nhòe đi. Khung cửa vắng hoe. Nắng cũng hư ảo, buồn man mác.
Đẩy nhẹ cánh cửa rào bằng gỗ mà nó vẫn kêu cót két, tôi bước vào trong sân, cởi dép để ngoài và đi chân trần lên từng bậc tam cấp. Nhà cửa yên ắng quá, không một tiếng động ngoại trừ tiếng gió rì rào dưới bóng râm. Tôi đặt ba lô xuống tràng kỷ, ngó quanh. Mọi vật dụng trong nhà vẫn để ở vị trí cũ, đều do một tay tôi sắp xếp. Tôi ghét sự thay đổi. Từ ngày ấy cho đến tận hôm nay, những cây nến vẫn nằm yên ở bậu cửa sổ. Những tờ tạp chí vẫn đặt ở một góc trên chiếc bàn con, chỉ khác một điều chúng bám đầy bụi. Tôi cầm một quyển lên, thổi mạnh. Bụi bay tứ tung. Khoảnh khắc ấy tôi có cảm giác những hạt bụi kia như những tia nắng lấp lánh.
Tôi cất tiếng gọi mẹ nhưng người chào mừng tôi trở về không phải là bà mà là con mèo lông xám tôi nuôi khi còn có Nhi. Con mèo nay đã già lắm rồi, không còn đủ sức để mà leo trèo nữa. Nó dụi đầu vào chân tôi, y hệt ngày trước. Tôi cúi xuống bế nó lên, vuốt ve. Ba năm, chỉ có nó vẫn ở bên tôi, chỉ có nó là không quên tôi. Còn người tôi mong ngóng, muốn nghe một tiếng cười giòn tan, muốn nghe một giọng nói lanh lảnh mà chẳng thấy đâu. Nếu Nhi còn ở con phố này, biết tôi về chắc chắn Nhi sẽ qua thăm ngay, nhà hai đứa sát cạnh nhau cơ mà với lại Nhi chiều nào cũng ngồi ban công đọc sách lẽ nào không thấy tôi từ ngoài ngõ vào…
***
Tôi bước ra vườn thấy mẹ đang loay hoay tưới rau. Từ ngày tôi đi cả vườn rau vẫn xanh mát. Từng cọng rau, từng chiếc lá bông cải mẹ tôi chăm bón ngày một tươi tốt. Tôi cảm động đến ứa cả nước mắt, chạy lại gần ôm chầm lấy mẹ. Mẹ tôi giật mình buông cả thùng tưới, xoay người lại lắc mạnh vai tôi. Ánh mắt không giấu niềm xúc động, chẳng nói nên lời. Trên gương mặt mẹ xuất hiện những nếp nhăn, gian nan cực nhọc nuôi tôi khôn lớn đã cướp đi xuân xanh của mẹ nhưng nhìn mẹ tôi vẫn trẻ trung như ngày nào.
- Con đã ăn uống gì chưa? Mấy năm qua con có bệnh tật ốm đau gì không? -  Mẹ âu yếm hỏi tôi. Dù giờ đây tôi đã cao lớn, khoẻ mạnh nhưng trong mắt mẹ, tôi mãi là đứa trẻ con mà thôi.
Tôi vừa đỡ mẹ vào trong nhà vừa kể cho mẹ nghe những gì tôi học được từ môi trường quân đội. Những giờ phút tập luyện vất vả, khổ cực biết bao nhiêu nhưng cũng nhờ vậy mà tôi từng bước trưởng thành, hoàn thiện bản thân như ngày hôm nay.
- Vừa xuống xe là con về nhà ngay, có gì ăn không mẹ? - Tôi xoa xoa cái bụng đói meo của mình.
- Có đấy, con đi rửa mặt, nghỉ ngơi một lát rồi mẹ dọn cơm lên cho. - Mẹ tôi giục, đẩy vai tôi.
Tôi cười hi hi.
- Con lớn rồi, có còn là cậu bé tinh nghịch như ngày xưa nữa đâu, mẹ xem giờ con đã là người đàn ông lực lưỡng rồi đấy, có thể báo hiếu cho mẹ được rồi.
Tuy nói vậy, tôi vẫn nghe lời mẹ ra sau nhà đến bên giếng nước trong veo, múc từng gàu rửa mặt. Những giọt nước mát lành cuốn trôi hết bụi bặm và những ưu tư trong lòng. Tôi cúi nhìn xuống giếng, thấy bóng mình chập chờn lay động. Một mảnh trời trong xanh in bóng xuống dòng nước cùng vô số những cánh hoa vàng rực.
Tôi đứng thẳng người, hoài niệm. Tất cả những hình ảnh thuở ấu thơ ùa về trong tâm trí tôi. Dù mấy năm qua tôi sống xa nhà nhưng tôi có cảm giác như mình chưa hề rời khỏi quê nhà. Phong cảnh vẫn im ắng và cô tịch như lúc xưa. Vườn rau vẫn thơm ngát. Mẹ tôi vẫn hiền lành và chu đáo.
Ráng chiều đỏ ối rơi xuống thềm nhà. Những đóa hoa sớm nở đầy cành. Trên bàn, ngọn đèn nhỏ được thắp lên. Con mèo già cuộn tròn mình trong bếp lò, bộ lông của nó dính đầy tro. Mỗi lần nhìn cảnh ấy và những lần nhìn mẹ nấu ăn bên ngọn lửa hồng, lòng tôi bình yên quá đỗi. Ngôi nhà yên lành bao giờ cũng làm tôi thảnh thơi, cực nhọc và muộn phiền dường như đã bị bỏ lại sau lưng. Nơi ấm áp ấy luôn mở rộng đón chào tôi, nơi có người mẹ hiền hậu yêu thương tôi vô bờ bến.
Mẹ tôi lấy chiếc quạt giấy phủi đi mấy hạt bụi còn vương trên phản và xếp lại chăn gối. Tôi để mặc mẹ làm những công việc ấy vì mẹ nói mẹ hạnh phúc khi được chăm sóc, lo lắng cho tôi còn tôi hạnh phúc khi được mẹ vỗ về. Tôi cảm thấy mình như trở về những năm tháng bé dại.
- Con nghỉ một lát, cơm canh sẽ có ngay thôi.
Mẹ xuống bếp. Tôi ngả lưng xuống phản, duỗi thẳng hai chân, lòng dịu lại. Ngoài ô cửa sổ, vòm trời rộng lớn. Tận cùng chân trời có ánh nắng cuối ngày lướt bay đi. Nhánh điệp vàng rung rinh trước làn gió nhẹ. Tôi khẽ nhắm mắt, hít hà hương hoa bay vào. Năm năm tháng tháng, hoa còn đó, nở rồi tàn, tàn rồi nở. Tháng tháng năm năm người khác xưa, người đến rồi đi. Hoàng điệp năm nay vắng bóng một người nên hoa buồn lẻ loi.
Tôi nằm úp mặt vô tường, lim dim mắt. Nghe tiếng bước chân của mẹ, tôi giả vờ ngủ. Mẹ lấy chăn đắp lên người tôi, bật quạt xua đuổi muỗi. Tôi nằm im, không động đậy, mắt cay cay. Bao lâu rồi tôi mới được mẹ săn sóc như ngày thơ bé? Dù không xoay người lại nhìn tôi vẫn biết mẹ đang ở bên cạnh. Tôi không dám hít thở, lặng yên cảm nhận từng cử chỉ quan tâm của mẹ cho đến khi mẹ đi ra, tiếng dép nhỏ dần, tôi mới bật dậy, khóe mắt ướt nhòe tự bao giờ.
Ăn bữa cơm xong thì trời tối hẳn. Triệu vì sao đua nhau nở trắng xóa khắp bầu trời. Tôi mở cửa phòng mình. Mọi thứ được xếp gọn gàng. Căn phòng giản đơn với một ánh đèn nhỏ, một tủ sách, một cái giường và một chiếc bàn. Tôi mở ngăn kéo, bên trong là những bông hoa điệp ép khô đã biến đổi màu. Tôi nâng lên một cánh hoa khô khốc. Hơi ấm của Nhi vẫn còn đọng lại trên tay.
Tôi bước ra ngoài phòng khách thấy mẹ đang vá áo. Những chiếc áo có đôi chỗ rách, sút chỉ, bạc màu nhưng mẹ vẫn giữ cho đến tận bây giờ, chỉ là không biết tôi có còn mặc vừa không nữa.
Ngồi xuống bên chiếc bàn, tôi hỏi mẹ về Nhi. Mẹ tôi ngừng tay, ngước lên nhìn tôi bằng ánh mắt đượm buồn. Mẹ thở dài.
- Nhi nó lấy chồng được hơn nửa năm rồi con à!
Chuyện này cũng không có gì là quá bất ngờ. Trở về cố hương, không còn nhìn thấy bóng dáng mảnh khảnh tung tăng chạy nhảy ngoài ngõ, không còn được nghe giọng cười khúc khích quen thuộc là tôi biết Nhi đã không còn ở con phố này nữa rồi.
Tôi rót một cốc trà, thế nào lại để trà tràn ra ngoài ly. Mẹ tôi nhắc nhở.
- Ấy, con phải cẩn thận chứ. - Về chuyện của Nhi, mẹ tôi nói tiếp, giọng đều đều xen lẫn tiếc nuối. - Con bé bị ép hôn. Ba mẹ nợ nần chồng chất, Nhi buộc phải gả đi nơi xa. Cuộc hôn nhân như thế làm sao mà hạnh phúc.
Tôi hớp một ngụm trà. Trà có vị nhàn nhạt. Vầng trăng khuyết in trên rèm cửa. Tôi bước ra vườn. Giữa hai thân cây, có treo một chiếc võng, tôi nằm xuống đó, lặng lẽ thu nhặt lại những mảnh vụn tháng năm bên người, hương hoa điệp vàng ủ trong tay áo đã phai gần hết. Đêm nay một mình tôi bầu bạn với ánh trăng. Đời người vui buồn ly hợp. Trăng cũng vơi đầy tỏ mờ. Xưa nay khó vẹn tròn. Nếu nhắm mắt lại chúng ta sẽ tìm kiếm điều gì ở bản thân? Còn trái tim tôi tìm lại những kỷ niệm tuổi trẻ ngày xưa.
***
"- Chúng ta thi nhau xem ai nhặt hoàng điệp rơi nhiều hơn.
- Được thôi.
Một tuần sau, Nhi đưa tôi xem quyển vở cô ấy ép đầy những cánh điệp vàng. Hoa đã khô và chuyển sang màu nâu sẫm. Tôi cầm lên một cánh hoa, vò nhẹ. Tiếng vụn vỡ giòn tan trong lòng bàn tay.
Những đêm tối, chúng tôi nằm trên mái nhà ngắm sao giăng đầy trời.
- Hy vọng mai này chúng ta có thể mãi mãi như vầy.
- Cuộc sống không tồn tại hai chữ "mãi mãi" đâu Nhi à. Có chăng chúng ta nên trân trọng những khoảnh khắc hiện tại là được rồi.
- Chúng ta cứ hy vọng đi, cuộc sống luôn luôn cần hai chữ "hy vọng" mà."
Nhi nói đúng, chúng ta sống là phải biết hy vọng. Nhưng Nhi đi lấy chồng rồi, hy vọng có ích gì nữa đây.
"Mấy tháng sau, tôi lên đường nhập ngũ. Nhi tiễn tôi ở bến xe, lòng bịn rịn không muốn rời. Tôi cũng vậy.
- Vinh phải bình an trở về nhé.
- Ừ, Nhi cũng phải hứa là đợi Vinh nhé. Chúng ta còn rất nhiều điều chưa thực hiện cùng nhau.
- Nhi sẽ đợi mà."
Là Nhi thất hứa hay tại tôi ngây ngô, ngốc nghếch khi tin vào những lời hứa trẻ thơ?
- Vinh!
Tiếng mẹ gọi cắt đứt mạch suy nghĩ trong tôi. Vội bước vào nhà, tôi hỏi mẹ có chuyện gì. Bà trao cho tôi lá thư Nhi viết trước lúc rời quê hương. Dưới ánh sáng của những vì sao, tôi mở phong thư ra đọc. Nét chữ nghiêng nghiêng, mềm mại. Đúng là nét chữ của Nhi. Tôi thất vọng khi Nhi chẳng nói gì nhiều, cô chỉ viết vài dòng ngắn gọn, đại khái cô bảo tôi rằng hãy quên cô đi, đừng chờ đợi một người đã cũ. Tôi buông lá thư, nén tiếng thở nhè nhẹ. Cơn gió thoảng qua, đưa hương hoa bay ngang qua mũi. Phải chăng giấc mộng mãi mãi không bao giờ đạt được mới chính là giấc mộng đẹp nhất?
  Quách Thái Di (Ngọc Vy)
 
  Nắng mai dần trải sân trường,
     Ngắm hoa giản dị sắc hương dịu dàng..!
   Hoa vàng dẫu chẳng cao sang,
Tình hoa lãng mạn vô vàn yêu thương
      NM

Nhìn cánh điệp rơi 

Từ bàn giáo viên, nhìn qua khung cửa sổ, từng cánh điệp vàng cứ chốc chốc lại lặng lẽ rơi trong gió. Vậy là một mùa hè nữa đã trở về, và tôi đã kết thúc một năm đứng lớp đầy vất vả, như một người đưa đò cần mẫn chở bao học trò sang sông để đến với bến bờ tri thức. Hoa điệp nở, hoa điệp rụng mang cho tôi bao cung bậc cảm xúc về những ngày đã qua...  

Cây điệp vàng trong sân trường trồng từ lâu lắm rồi. Có lẽ, ngoài hoa phượng, hoa bằng lăng thì hoa điệp gắn bó với lứa tuổi học trò nhiều nhất. Nhìn khung cảnh trường yên ắng, có vài tiếng chim kêu, màu vàng của điệp cứ không ngừng bay bay trong gió, tạo nên một khung cảnh hết sức lãng mạn cho bức tranh ngày hè ở trường tôi. Và dù là học sinh hay giáo viên, nếu xa trường, xa lớp vẫn khắc khoải lắm về cây điệp vàng già nua ấy. Nhớ từng cánh điệp như ngàn con bướm nhỏ xíu đậu trên sân trường, trong những ngày đầu hè yên


Những cành cây gầy gộc vươn mình trong nắng, trong gió rồi đến hẹn lại lên, cây điệp lại bung nở những chùm hoa tươi rói. Hoa điệp không được ưu ái như hoa phượng hay hoa bằng lăng. Bởi lũ học trò thường thích ép những cành hoa phượng vĩ thành hình cánh bướm, hay vô vàn hình hài khác vào trong sách, trong vở. Còn hoa bằng lăng thì chúng thi nhau hái từng chùm, từng chùm cài lên tóc, lên giỏ xe một cách điệu đà. Hoa điệp thì ít khi nào chúng đụng tới, vì hoa điệp nở cao chót vót, nếu cánh hoa có rơi thì chúng vô tình giẫm chân qua lại, hay ngồi dưới gốc điệp ăn quà vặt, đọc sách, nói cười. Nhưng khi xa trường, quay về thăm trường cũ thì đứa nào cũng mân mê, thích chụp hình dưới gốc điệp. 
Màu vàng của hoa điệp không phải là màu tàn úa, mà đó là màu của sức sống mãnh liệt. Màu vàng của hoa điệp luôn gợi nhớ trong tâm trí của mỗi người. Không riêng gì ở trường tôi, một số thành phố lớn cũng trồng xen kẽ hoa điệp vàng với những loại cây xanh khác. Và mỗi khi mùa hoa điệp về, phố phường như khoác lên một chiếc áo màu vàng ươm, nổi bật trong vô số sắc xanh của các loài cây khác. 
Hoa điệp gắn với tôi thật nhiều kỷ niệm. Bao mùa thi trôi qua cùng với bao mùa điệp vàng, rồi bao thế hệ học trò đã xa trường. Chiếc ghế đá dưới gốc điệp vẫn ngẩn ngơ theo dòng thời gian. Khi những tia nắng đầu ngày lấp ló qua cửa sổ, và những tiếng ve báo hiệu mùa sang, cây điệp vẫn bung nở, những chùm hoa tươi rói, gọi tiếng chim về làm tổ. 
Giữa cái thế giới sắc màu ấy. Màu trắng của áo dài, màu xanh xanh của lá, màu đỏ của phượng vĩ, màu bảng đen phấn trắng, màu của những giọt nắng cuối ngày... Màu nào cũng mang vẻ đẹp riêng, nhưng tôi vẫn yêu nhất là cái màu của hoa điệp vàng. 
Tuy không có giá trị về mặt kinh tế, nhưng hoa điệp thường mang cho người ta bao cảm xúc khó tả. Tôi còn nhớ những năm tháng nghèo của thời sinh viên, trong căn phòng trọ chật chội của bọn con gái chúng tôi, lúc nào cũng có lọ hoa “hỗn hợp”, tức là vừa hoa điệp, hoa lau, hoa phượng, hoa bằng lăng cắm trên chiếc bàn học nhỏ nhắn. Hoa không có mùi thơm, chỉ có một sắc vàng, nhưng đủ để mang lại sự rực rỡ cho căn phòng. 
Những cánh điệp vàng chỉ cần một cơn gió thổi qua, lại lả tả rơi như một cơn mưa hoa. Trong nắng vàng, hoa điệp như vàng hơn. Tuy trong sân trường có vẻn vẹn một cây điệp vàng, không nhiều như bao nơi khác, cũng không tạo nên những cung đường hoa điệp lãng mạn, nhưng chỉ cần nhìn vài cánh điệp rơi ngoài khung cửa, tôi cảm thấy thời gian sao trôi nhanh quá. 
Phải chăng rồi đến một lúc nào đó, tôi sẽ cảm nhận được sự ngắn ngủi, cũng như mong manh của một kiếp người. Như những chùm hoa điệp vàng kia, lặng lẽ nở, lặng lẽ làm đẹp cho đời, rồi những cơn gió đến mang cánh điệp đi. Loài hoa không hương, chỉ giản dị một màu vàng, nhưng nó khéo gieo vào lòng người một nỗi nhớ không nguôi. 
Và ngoài kia, thêm vài cánh điệp rơi, mặc cho ánh nắng mai đang trải dần trên sân trường... 
Thân Thị Thanh Trâm

Điệp vàng lại nở
Có những mùa hoa điệp vàng không nở,
Gió vẫn bay trong nắng thắm lung linh...
Sắc hoa vàng mong đợi quá mong manh,
Bao hi vọng tưởng chừng như tuyệt vọng

Những kỷ niệm, bao tâm tình lắng đọng,
Trao cho nhau với tất cả thâm tình,
Sắc hoa vàng bừng nở giữa bình minh.
Trong nắng ấm xiết bao tình thân ái

Điệp vàng bừng nở ngày mai,
Sắc tươi màu nắng có phai bao giờ ?!
NM
  
Có một mùa hoa điệp không nở
Một buổi trưa tôi đang thiu thiu ngủ trên chiếc võng ngoài sân sau nhà thì vợ tôi khệ nệ bê một cái bao tải to đi tới. Vợ vừa thở dốc vừa lay tôi dạy. Mất giấc tôi liền cáu gắt với vợ nhưng chiếc bao tải kia cũng làm tôi thấy tò mò. Vợ tôi bảo có một người tự xưng là xe ôm vừa chở nó đến nhà tôi, trên bao có dán một tờ giấy ghi đầy đủ họ tên và địa chỉ của tôi nữa. Nhìn thấy nét chữ mảnh mai, dứt khoát đó tôi đã nhận ra ngay người gửi.
***
Vợ tôi hí hửng mở bao ra xem. Nào là măng đắng tươi, măng khô, củ mài, rau bò khai, rau ngót rừng, rau sắng và mấy thứ hoa quả rừng khác nữa. Thêm vào đó còn có một cái hộp nhỏ được bọc cẩn thận, vợ tôi hồi hộp mở ra xem thì thấy hai chai mật ong rừng và ít thịt gà gác bếp. Mùi vị của đại ngàn như sộc vào mũi tôi. Món quà từ núi rừng này lại một lần nữa đưa tôi vượt thời gian về lại với thời trai trẻ đầy nhiệt huyết của mình. Ngoài hai mươi, sau khi nhận được bằng tốt nghiệp tôi và vài người bạn cùng khoa được phân về công tác ở trên Tây Bắc. Tôi đã có hai năm gian khó ở Mường Phay cái bản Thái nhỏ nằm sâu mãi trong bốn bề mây núi. Mỗi mùa xuân đến lại ngập trong sắc hoa Ban nở trắng trời. Những cánh rừng, những con suối, những nếp nhà sàn, những nụ cười, những điệu múa, khúc dân ca làm lòng người say đắm nào đâu dễ quên. Ở đó có những con người mà tôi không bao giờ có thể quên được. Đó là Phài mối tình dang dở nhưng đẹp dịu dàng của tôi. Đó là mẹ Lán, người phụ nữ của núi rừng đã luôn coi tôi như con trai hồi tôi còn ở nhà ông bà. Đó là ông Bôn, trưởng bản Mường Phay luôn đêm ngày mong ước có điện về bản. Đó là những người học trò nhỏ của tôi, những người từng mong có đôi cánh bay vượt đại ngàn... và đó là người anh, người bạn, người đồng nghiệp yêu quý, ông thầy giáo tên là Lành ấy, cũng chính là người đã gửi cho tôi những thức quà này.
Sau khi tôi về dưới xuôi công tác tôi chỉ thư từ cho anh Lành được một đôi lần. Đến khi anh lập gia đình và tôi cũng thế thì hầu như chúng tôi bặt tin nhau hẳn. Những ngày ấy tôi cũng phải chuyển công tác liên tục, vợ con nheo nhóc khiến tôi phải tạm chôn cất những kỷ niệm cũ sang một bên. Gần hai mươi năm sau tôi được cơ quan cử về miền rừng công tác trong nửa tháng, đến lúc ấy bao nhiêu ký ức xưa chợt đổ ào về trong tôi như một cơn mưa giữa đại ngàn. Người đầu tiên tôi nhớ đến lúc ấy là anh Lành, người đã luôn che chở cho tôi, dạy bảo tôi hồi còn trẻ cái thời còn nông nổi. Không biết giờ anh đã ra sao rồi, có còn ở Mường Phay nữa không, tôi nhất định phải tìm gặp anh trong chuyến công tác này. Ngày trở lại ấy tôi hoàn toàn bị bất ngờ. Sau hai mươi năm cái bản nhỏ như lột xác hoàn toàn. Từng nếp nhà sàn khang trang lợp mái ngói đỏ tươi rạng ngời lên trong nắng, điện, đường, trường trạm đủ cả. Mường Phay cũng đông đúc hơn xưa nhiều, bản được mở rộng và chia thành ba bản nhỏ cũng đều gọi là Mường Phay hết nhưng thêm số vào sau để phân biệt. Đáng mừng hơn là ngôi trường nhỏ mà ngày xưa tôi công tác đã được xây dựng lại thành hai tầng khang trang ở ngay đầu bản.
Hai mươi năm đã trôi qua, nhưng hình như không có ai là không nhận ra tôi. Mẹ Lán đã mất, Phài đi lấy chồng xa, một vài học trò nữ của tôi cũng đi lấy chồng xa hết cả rồi. Một vài trò nam thì đang đi làm ăn xa hoặc đi bộ đội, đi học còn đâu mọi người vẫn ở Mường Phay cả. Ông trưởng bản Bôn giờ đã ngoài 60, ước mơ của ông nay đã thành hiện thực rồi. Tôi nóng lòng muốn biết tin về anh Lành, chẳng thấy anh ấy ở Mường Phai nữa thì phải. Trong bữa cơm thân tình ở nhà ông Bôn tôi mới có dịp hỏi. Người Mường Phay của hai mươi năm trước hầu như không ai là không biết đến thầy giáo Lành cái tên anh giống y như tính cách, đó là một ông thầy giáo hiền lành như bụt vậy. Ngày tôi mới đến Mường Phay, anh Lành đã ở đó được năm năm trời. Anh là một trong những người đầu tiên từ dưới xuôi lên Mường Phay dạy học. Anh Lành có một khuôn mặt hiền hậu, chất phác tính tình lại vui vẻ hài hước nên dân bản quý lắm. Các học trò người H'mông từ các bản xa xuống Mường Phay học gọi thầy là Giàng A Lành, những học trò người Thái thì gọi anh là thầy Cầm Bạc Lành... dù tên thật của anh là Nguyễn Ngọc Lành. Chúng đặt tên cho anh như thế vì vô cùng yêu quý anh. Lành cũng nói được cả tiếng Thái và tiếng H'mông nên được dân bản thêm yêu quý. Sau giờ học anh thường vào nhà học sinh thăm các em và giúp các gia đình trồng ngô, lúa hái củi. Lành cũng là người đưa ra sáng kiến dẫn nước từ khe suối về tận nhà cho những người dân trong bản. Ngày xưa, rất nhiều thầy cô từ miền xuôi lên Mường Phay dạy học thường hay bỏ về vì cảnh núi rừng âm u, tĩnh mịch làm cho họ thấy sợ và buồn chán. Và nếu không có anh Lành chắc tôi cũng chẳng trụ lại ở Mường Phay đến tận hai năm trời mà không về thăm nhà lấy một lần.
Ông Bôn bắt đầu kể về anh Lành một cách say sưa hơn sau khi đã ngà ngà say. Sau khi tôi rời Mường Phay được khoảng hai, ba năm gì đó thì anh Lành lấy vợ. Vợ anh cũng là giáo viên tiểu học, cùng quê anh từ dưới xuôi lên Mường Phay công tác. Lấy nhau xong hai vợ chồng anh cất tạm một ngôi nhà nhỏ gần trường với sự giúp đỡ của dân bản. Hai vợ chồng anh rất chăm chỉ và tháo vát, ngoài giờ dạy trên lớp hai anh chị làm kinh tế cũng rất tích cực. Anh chị phát quang những mảnh đất trống quanh trường trồng rau, mua lợn gà trong bản về nuôi. Vốn mát tay anh chị trồng cây gì, nuôi con gì chúng cũng đều lớn lên khỏe mạnh, tươi tốt cả. Khốn nỗi, trồng được, nuôi được nhưng anh chị lại chẳng biết bán cho ai. Chợ ở ngoài thị trấn thì xa quá. Theo lời ông Bôn kể, dạo ấy không ai còn lạ gì cái cảnh người thầy giáo gầy nhom gánh từng gánh rau, có khi gánh cả con gà, con lợn trèo đèo, lội suối đi xuống chợ thị trấn bán.
Khoảng hơn mười năm trước, Mường Phay bắt đầu có điện, rồi đường cũng bắt đầu được khai mở. Một trường cấp hai được mở ở trung tâm xã cách bản cũng không xa. Tôi vẫn nhớ cách đây hai mươi năm trụ sở ủy ban nhân dân xã nằm thọt lỏm trong rừng hoa Điệp vàng, cũng nghèo nàn, xơ xác mặc dù gọi là trung tâm. Vợ anh Lành được chuyển ra dạy học ở đó. Lúc ấy anh chị cũng có với nhau được hai mặt con, một gái, một trai. Anh liền chuyển nhà ra gần trung tâm xã để vợ đỡ phải đi lại vất vả. Ở đó gần thị trấn hơn nên anh chị cũng có điều kiện phát triển kinh tế hơn là ở trong bản. Anh Lành cũng mua đất ở trong Mường Phay và mấy bản gần đó để làm trang trại, không chỉ làm giàu cho mình anh Lành còn giúp dân bản làm ăn, thoát khỏi đói nghèo nữa. Mấy năm trước vợ chồng anh đã cất được ngôi nhà to lớn, khang trang ngay cạnh ủy ban nhân dân xã. Rồi mua được một cái ô tô để đi, anh là một trong những người được coi là giàu nhất xã. Nghe đến đây tôi thấy vô cùng vui mừng cho anh Lành và cả gia đình anh. Một người như anh xứng đáng được hưởng thành quả tốt đẹp như thế.
Cũng đến đây, ông Bôn thở dài não nề và nói:
"Cái đời này nhiều lúc cũng buồn thầy ạ, nhiều cái mình chẳng ngờ được ấy".
Nói xong, ông lại đưa chén rượu lên đánh ực một cái. Tôi lo lắng hỏi ông, không biết là có chuyện gì. Nhìn mặt ông và nghe những gì ông nói tôi bỗng thấy có dự cảm không hay về đoạn cuối của câu chuyện về anh Lành. Rồi ông Bôn cũng chần chừ kể tiếp.
"Vào đúng dịp này năm trước, gần đến cái Tết cơm mới đó. Dân bản định mở hội to vì cái bản giờ nó cũng ấm no rồi. Sau khi họp bàn thì bản cần đến hai cái loa to, dăm cái vại rượu cần mới và nhiều thứ linh tinh nữa cho lễ hội. Nhiều cái ở chợ thị trấn không có bán phải lên tận trên chợ thị xã mua mới được. Khổ cái nỗi đường thì xa quá, mà chẳng ai biết mua được hết chừng ấy thứ cả. Đúng dịp bản cũng mời thầy giáo Lành về họp bản cùng. Thầy đã nhận đi mua hộ mấy thứ đó, vì thầy có ô tô lại thông thạo đường thị xã. Cả bản vui mừng giao trọng trách ấy cho thầy. Bản cũng cử một người đi với thầy cùng mua. Đó là thằng Pán, bí thư chi Đoàn thanh niên bản đó. Hôm đó có cả con gái thầy là sinh viên học trên cao đẳng tỉnh cùng đi nữa. Đến cái đoạn đường ở ngã từ Đồi Hống qua chỗ thị trấn đó thì. Thì có một gia đình người Xá gì đó đèo nhau đi xuống dưới chợ, hôm đấy cũng đang có chợ phiên. Nghe nói mất tay lái hay thế nào mà..." đến đây ông Bôn nghẹn ngào "tôi cũng chẳng tin nổi vào cái tai mình. Một người cẩn thận như thầy Lành lại có thể gây ra tai nạn làm chết cả nhà người ta. Xe máy đèo bốn người thì chết ba. Mỗi cô vợ còn sống nhưng bị thương nặng, đứa con trong bụng cũng mất.
Công an đến bắt thầy đi, gia đình nạn nhân cũng phạt vạ thầy lớn lắm. Vợ chồng thầy cũng đã cố gắng đền tội sao cho đúng nhất. Thầy phải bán cái ô tô đi để nộp tiền phạt, khoảng thời gian đó người ta cũng không cho thầy dạy học nữa. May thay người vợ của người lái xe máy còn sống. Sau hai tháng trời nằm viện cô ta đã khỏe mạnh trở lại và chính con gái thầy phải bỏ học đến viện chăm sóc người đó. Đến khi người đó khỏi thì bị nhà chồng bắt lấy em trai chồng theo tục nối dây ở bản đó đấy. Cô ta không đồng ý. Tiền bồi thường của nhà thầy Lành cho gia đình cô ta cũng bị bên nhà chồng lấy hết mà không cho cô đồng nào. Hôm người ta xét xử thầy Lành, dân bản Mường Phay cũng kéo đi xem đông lắm. Chính cô vợ người lái xe máy đứng lên nói rằng, hôm đó chồng cô ta đã uống rượu rất say trước khi lái xe chở theo người vợ đang mang bầu và đứa con trai nhỏ xuống chợ phiên. Xe của chồng cô đi quá tốc độ và hầu như chính nó đã đâm thẳng vào xe của thầy Lành. Về phía thầy thì chẳng có ai làm chứng, thằng Pán bảo đi cùng thầy nhưng nghe nói đến thị trấn nó bị đau bụng nên không đi nữa. Sau đó thầy Lành được trở về, năm đấy thầy không đi dạy học nữa. Không ai nhìn thấy thầy cười suốt một thời gian dài.
Về sau thì thầy nhận người phụ nữ chết chồng, chết con trong vụ tai nạn với xe ô tô của thầy làm con nuôi. Khi cô ta đi bước nữa thầy còn đứng ra tổ chức hôn lễ cho vì bố mẹ cô ta cũng không còn ai cả. Mấy nay thầy Lành sống lặng lẽ hơn, nhà thầy ở sau trụ sở ủy ban nhân dân xã đó. Nó cũng nằm trong um tùm những cây hoa Điệp như lâu năm chẳng tỉa tót gì. Thầy vẫn tốt với mọi người, bao nhiêu học sinh từ bản xa đến học thầy đều cho ở trọ nhà thầy không mất tiền. Vợ chồng thầy lo cho chúng từng bữa ăn giấc ngủ. Ai cũng bảo chắc thầy ân hận vì những chuyện đã qua lắm. Thầy ấy buồn chắc cũng vì con gái nữa, sau vụ tai nạn lần ấy, con gái thầy cũng bị mắc bệnh lạ. Nó hay sợ sệt đủ thứ, đêm về hay mơ xấu. Không ăn ngủ được, biết vậy thầy cúng ở bản mình cũng xuống cúng cho đấy", và ông Bôn lại thở dài, uống thêm chén rượu nữa, ông kể tiếp "tôi cũng không tin thầy Lành lái cái ô tô đâm chết người ta. Hôm ấy thầy cúng ở bản về có nói thầm với tôi rằng. Con gái thầy đang chịu hạn vì tội lớn từng gây ra. Tôi không biết nữa thầy ạ, nhưng có lẽ hôm đó không phải thầy Lành lái xe ô tô đó đâu."
Ông Bôn kể đến đây, lòng tôi như thắt quặn lại. Ngày tôi biết anh Lành, anh còn không dám giết một con gà dù được dân bản biếu làm thịt. Thường thịt thà ai nấu cho anh mới ăn chứ không bao giờ trực tiếp anh làm, anh không dám đi xem cảnh người ta mổ lợn, mổ trâu, không dám ăn cả tiết canh vì sợ máu me. Và cũng vì anh thương các con vật lắm. Nuôi chúng để bán đi chắc việc anh cũng chẳng muốn làm mấy nhưng vì cuộc sống thì đành phải chịu. Các trang trại của anh nghe nói cũng trồng nhiều hơn nuôi. Vậy mà... cái vụ tai nạn ấy chắc nó ám ảnh anh lắm. Chẳng biết là anh hay là ai đã lái xe nhưng dù gì vụ việc đó cũng liên quan đến anh, làm sao anh hết được buồn phiền và cảm giác tội lỗi. Tôi chỉ muốn về thăm anh ngay trong ngày hôm ấy. Có lẽ anh rất cần một người bầu bạn lúc này.
Tôi đến thăm gia đình của anh trong một buổi chiều cuối hạ. Đúng như lời kể của dân bản, ngôi nhà ba tầng khang trang của anh nằm thọt lỏm giữa rừng Điệp, sau trụ sở ủy ban xã. Có nhiều cây Điệp không to lắm hình như nó mới được trồng cách đó có vài năm thôi. Đang trong thời gian nghỉ hè nên trong nhà anh chẳng thấy bóng dáng học sinh nào. Tôi đi bộ từ đầu đường vào nhà anh, đến gần cổng thì thấy một cô gái trẻ tầm mười tám, đôi mươi đang quét những bông hoa Điệp vàng rụng đầy ngoài sân. Tôi mở cổng bước vào, thấy tôi cô gái liền bỏ luôn cây chổi xuống và chạy ào vào trong nhà. Tôi thoáng chút giật mình, đang định gọi thì một người đàn ông gầy gò xuất hiện. Tôi thấy nước mắt mình rưng rưng, ngày xưa tôi cũng gầy gò như thế. Nhưng giờ thì đã phát tướng và tăng hơn 10 ki lô gam so với hai mươi năm trước đây. Còn anh Lành, trông anh còn có vẻ gầy hơn cả khi xưa. Tôi nhớ lại, ngày xưa giữa mùa đông lạnh cắt da cắt thịt của Mường Phay, tôi lên cơn sốt anh đã thức trắng đêm chăm sóc cho tôi. Nhường cho tôi chiếc chăn ấm của anh. Vào một mùa lũ cách đây hai mươi năm về trước, tôi cùng anh xuống thị trấn lấy sách vở về cho học sinh. Lúc đi qua một con suối to để vào bản tôi sẩy chân ngã, không biết bơi dòng nước cứ thế cuốn tôi đi. Anh Lành liền chạy theo tôi, vừa chạy anh vừa la hét kêu cứu, may thay tôi vớ được một cái cành cây bên bờ suối vừa đổ xuống. Lúc cành cây sắp không chịu được sức chảy của dòng suối thì anh Lành kịp đến, một tay anh nắm lấy tay tôi. Tay kia thì nắm vào cái cây nhỏ trên bờ để khỏi bị tuột xuống. Khi nhìn thấy cái cây nhỏ sắp bật rễ lên tôi bảo anh hãy buông tay tôi ra không cả hai anh em sẽ bị lũ cuốn đi mất. Anh Lành vẫn không chịu buông, lúc ấy tôi thấy dòng nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt anh. Mọi hy vọng được sống, được trở về xuôi với ba mẹ dường như đã tiêu tan. May thay lúc ấy có vài người dân bản đi qua, họ đã giúp chúng tôi lên bờ. Sau những ngày ấy, tôi nguyện có chết cũng không được quên anh Lành. Thế mà hai mươi năm qua, vì cuộc sống mưu sinh, vì những ngày cứ vào rừng ra biển dạy học tôi đã không đến thăm anh được một lần.
Anh nhận ra tôi ngay, tôi chạy lại ôm chầm lấy anh, một giọt nước mắt của tôi rơi xuống vai anh. Hai anh em ngồi hàn huyên tâm sự sau hai mươi năm xa cách. Anh vẫn hiền lành từ tốn như xưa. Tóc anh bạc gần trắng hết cả, nét u buồn luôn ẩn hiện sau đôi mắt sâu. Chúng tôi ngồi uống trà ngoài hiên, hình như Lành đã biết tôi biết được khá nhiều chuyện về anh trong hai mươi năm qua nên anh chẳng kể lể gì nhiều, chỉ hỏi thăm vợ con tôi đôi chút. Chị nhà anh và thằng con trai út hôm đó đang đi vắng, còn cô con gái vì sợ người lạ nên nó không dám ra chào tôi. Tôi hỏi:
"Cháu tên gì anh?"
"Ngọc Điệp" – anh trả lời.
Chúng tôi lại lặng im vừa uống trà vừa ngắm những bông hoa Điệp vàng rụng ngoài sân. Chợt đôi mắt anh Lành dừng lại hồi lâu chỗ cái chổi và đám hoa Điệp quét dở ngoài sân. Rồi anh buồn rầu nói.
"Năm ấy, có mấy cây hoa Điệp quanh nhà chẳng nở hoa và cô con gái Ngọc Điệp cũng chẳng cười nữa, dù tôi đã cố gắng làm tất cả..."
Vậy là lại một năm nữa đã trôi qua kể từ chuyến công tác ấy. Mỗi lần nhớ đến anh Lành tôi lại thấy tim mình như thắt lại. Đang lặng đi trong bao hồi tưởng về quá khứ, vợ tôi chợt kêu lên:
"Có một lá thư nữa này mình ơi!"
Tôi mở thư của anh Lành ra đọc, trong thư anh viết rằng chỗ măng rau, hoa quả là vợ chồng anh gửi. Còn mật ong rừng và thịt gà gác bếp là của ông cựu trưởng bản Bôn. Anh cảm ơn tôi vì vài tháng trước đã gửi cho anh mấy cuốn sách nói về cách chữa bệnh trầm cảm cho cô con gái lớn của anh. Giờ đây tình hình của nó đã khá hơn rồi. Anh còn viết ở cuối thư: "Có lẽ những mùa hoa Điệp ở nhà tôi sẽ thật sự nở rộ vào ngày mai thôi, tôi yêu màu hoa ấy chú ạ, vì đó là màu của nắng mai, màu của sự sống mãnh liệt, và nó cũng là tên của con gái tôi, đứa con đầu lòng mà tôi hằng yêu quý nhất."
Hoa Thược Dược