Thứ Ba, 14 tháng 5, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Rồi cũng như gió bay

Kỷ niệm mùa Phật Đản 2019 với tấm lòng cảm tạ

Những bài hát về Phật giáo

Để Gió Cuốn Đi

Bình yên,
Tâm bình yên tìm con đường Giác ngộ,
Giữa sóng đời ta vượt khỏi bến mê...
Vui gì hơn khi biết được nẻo về,
Nương theo gió vui chơi miền cực lạc
NM

Rồi cũng như gió bay

Đời người, đến một lúc nào đó cũng sẽ như gió bay. Không hình hài, không níu giữ được, tan ra giữa cuộc đời bề bộn này. 
Con gái lớn nhà ông Hai đi tu rồi, nghe đâu xuất gia ở một chùa nào đó trong Nam. Đang yên đang lành lại đi tu, chắc là làm ăn thất bại hay buồn tình duyên nên muốn dứt duyên đời. Ở xóm nhỏ thanh bình này, mấy hôm nay bỗng trở nên xào xáo bởi chuyện đó. Họ đồn đoán, thêm thắt, phán xét theo hướng nghiêm trọng hóa vấn đề. Tính ông Hai vốn bỏ ngoài mình miệng lưỡi thế gian, còn bà Hai thì không sao tránh khỏi những gợn lòng.
Bà Hai đi đâu về, ống quần còn ghim mấy hoa cỏ may. Bà quăng cái nón cời, rồi ngồi bệt xuống nền nhà tủi hờn:
- Con người ta lớn lên thì dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, con mình thì đi vô chùa ở, để miệng đời quở ngày quở đêm!
Ông Hai ngồi trầm ngâm kéo từng hơi thuốc lá bên ấm trà mới châm. Ông lúc nào cũng vậy, chậm rãi và suy tư. Không thấy ông Hai nói gì, bà Hai lẳng lặng vào nhà nấu cơm, khói bếp thơm nồng xộc lên căn nhà già nua như chính tuổi tác của ông bà. Khói bay lờn vờn trong nhà, rồi luồn qua từng kẽ ngói, tan biến giữa thinh không. Bữa cơm trưa hôm đó thật mặn, bởi được chan thêm bao lời gièm pha của miệng đời. Ngay cả việc đưa tay xới cơm, bà Hai cũng kèm theo tiếng thở dài, nghe xiêu vẹo và mòn mỏi. Ông Hai cứ cặm cụi ăn, vừa buông chén xuống thì ông buông một câu thản nhiên:
- Không ai thương mình bằng cơm thương, cơm thương nên mới cho mình ăn được ngon! Ăn mà thở dài khác gì tự làm mình khổ!
- Số tui với ông khổ, con cái toàn chọn điều không như ý! - Bà Hai trút câu than vãn, sau khi nuốt miếng cơm nặng oằn trôi qua cuống họng.
- Là không như ý bà, hay không như ý thiên hạ?
Bà Hai lặng thinh, nhưng sắc mặt vẫn buồn man mác. Rõ ràng là không vừa ý thiên hạ, họ gièm pha, nên bà phiền lòng. Xong bữa cơm trưa, ông Hai ra nằm trên cái võng mắc phía dưới hiên, tay phẩy phẩy cái quạt mo cau, nói vọng ra chỗ bà Hai ngồi rửa chén:
- Họ nói con mình thất bại, nên vô chùa trốn tránh. Họ đâu có biết đó là con đường giác ngộ, không phải đường cùng!
Bà Hai nghe tất thảy những lời ông nói, nhưng làm sao bà hiểu hết mớ câu từ của một người đọc sách, một tú tài như ông. “Con đường giác ngộ” sao? Một cụm từ có ngữ nghĩa quá xa vời, so với một người quanh năm chỉ biết mùi chua của đất phèn như bà. Trong xóm, ông Hai nổi tiếng là người hiểu biết. Thời trẻ, ông đi nhiều nơi, học cao hiểu rộng. So với những người cùng thời, ông thuộc dạng có tri thức. Nhưng thời thế đưa đẩy, ông an phận làm một lão nông. Ông Hai có cái thú đọc sách, chiêm nghiệm kinh Phật. Hễ rảnh rỗi ông lại kê cái ghế ra hiên ngồi, đặt một ấm trà kế bên, từ tốn lật từng trang. Khi ông đọc sách, mặt ông tĩnh lặng như mặt hồ buổi sớm xuân.
Sợ bà Hai vẫn chưa hiểu, ông nhốm người dậy, nói thêm:
- Bà cứ rầu vậy, sao con đường tu tập của con bà thành tựu được? Họ nói chi kệ họ, cứ coi như gió thoảng qua tai!
Bà Hai im lặng, chẳng biết sự im lặng của bà là đã tường tận hay là sự miễn cưỡng chấp nhận. Đối với con cái, bà không hoạch định ra điều gì cả. Chọn lối đời nào cũng được, miễn bình an và đủ đầy. Tu tập là điều con bà phát nguyện từ nhỏ, là niềm tin tôn giáo mãnh liệt, là kết quả của chuỗi ngày nghe ông Hai nói nhiều về Phật pháp. Và hơn hết, đó căn duyên. Thật ra, hạnh phúc được định nghĩa dưới nhiều dạng, mỗi người có chuẩn mực hạnh phúc khác nhau, miễn họ cảm thấy bằng lòng với thực tại là được. Ông bà Hai xem chọn lựa của con mình là lối đi hạnh phúc, nhưng người đời lại lo xa quá, họ cứ cho đó là bất hạnh.
*
Ông Hai còn có cái thú trồng cây, trồng hoa. Người ta thường nói, vĩnh cửu màu xanh lá cây. Xem việc trồng cây là niềm vui, ấy hẳn là một người có tâm hồn tao nhã. Bà Hai cho đó là việc thừa, nên hay cằn nhằn. Ngược đời, dạo này bà lại có thói quen giúp ông chăm sóc cây trong vườn. Bà dửng dưng hơn với những lời nói thiệt hơn của thiên hạ. Có lẽ, khi đã xế tuổi, người ta bắt đầu thích dựa vào những điều dung dị để sống. Ngoài việc đồng áng, chăm sóc khu vườn là niềm vui của ông bà. Hôm trước đi chợ huyện, ông bà mua được hai cây cam sành miền Nam mang về trồng ngay đầu ngõ. Rải rác trong vườn, trồng khoảng chục gốc bưởi da xanh. Cây lựu đỏ ngay góc sân, được chiết ra thành nhiều cây, vì sợ mùa bão gió quật trốc gốc thì sẽ mất giống. Bà còn tỉ mỉ giúp ông vặt hết lá cây mai già, để ủ sức cho kịp ra hoa.
Khu vườn vì thế mà xanh ngát, có trái chua trái ngọt và hoa lá bốn mùa. Buổi trưa, gió nồm đông luồn qua kẽ lá, nghe lào xào như ru. Thi thoảng, thấy được đôi thằn lằn rượt nhau trên thân cây xoài, nghe cả tiếng con kỳ nhông chạy lộp bộp trên lớp lá khô khi trông thấy dáng người, vài con chim vờn nhau khi tranh ăn mấy trái lựu chín… Rất bình yên!
Có hôm, đang ngồi nghỉ dưới tán cây xoài, ông Hai triết lý:
- Bà thấy không? Đầu tư tâm tư cho loài vô thức như cây cối, lại được thảnh thơi. Quá chú trọng vào miệng lưỡi thiên hạ, chỉ làm mình phiền não!
Bà Hai chỉ “ờ ờ” cho có, chứ chẳng hiểu ý ông là mấy. Mà bà cũng không cần hiểu cặn kẽ, bà chỉ cần cảm nhận được sự an yên là được rồi.
*
Ở miền quê này, người ta chỉ làm hai vụ mùa, vụ đông - xuân và hè - thu. Không làm vụ thu - đông, vì đây là thời gian mưa bão nhiều, có làm cũng chỉ mất mùa. Thời gian ấy là mùa đất nghỉ, đất chẳng phải vắt kiệt phù sa để nuôi cây trồng. Người nông dân bắt đầu buông việc đồng áng, đây cũng là mùa mà mồ hôi được quyền ráo trên vai họ.
Ông Hai mất, vào một mùa đất nghỉ như thế.
Ông ra đi rất nhanh, nhẹ nhàng và trầm lặng như chính cuộc đời ông. Ông không có một dấu hiệu bệnh tật nặng nào để lường trước được. Ông bảo mệt, lên giường nằm nghỉ. Rồi bảo đừng nói gì thêm nữa, cũng đừng khóc. Lúc đó bà Hai hốt hoảng la lên, thì ổng đã ra đi, mãi mãi. Tai biến ấy mà, đã đến thì trở tay chẳng kịp.
Mấy mẹ con bà Hai chít khăn tang trắng xóa. Bà ứa nước mắt, đứa con gái lớn nắm chặt tay bà: “Má đừng khóc, để người ra đi được thanh thản!”. Đó là đám tang không có tiếng khóc tang thương, người ở lại không bò lê tiếc nuối người đã mất. Mẹ con bà Hai bình thản như một cách chấp nhận quy luật tự nhiên, dẫu buồn đến tận cùng. Cây cối trong vườn cũng được cột tang để tưởng nhớ người trồng, gió vẫn thổi qua khu vườn, xào xạc như ru người vừa nằm xuống.
*
Sau cái ngày ông Hai về với đất, đứa con gái thứ đi làm xa dọn về ở hẳn với bà Hai. Có hôm, bà ra chợ, nghe người đời xào xạc: “Ổng mất bất tử quá, bệnh vài bữa nửa tháng để con cháu chăm sóc trả hiếu rồi hễ đi!”, “Chồng mất, cha mất mà mẹ con nhà bả không ứa nổi một giọt nước mắt nào!”…
Bà đạp xe về. Suy nghĩ của bà khác họ, bà vẫn thường nghe lúc trước ông Hai nói “sinh, trụ, dị, diệt” - đã là một cơ thể sống thì theo quy luật tự nhiên, con người ta phải già úa và mất đi. Mất vì tuổi già, khác mất vì tai ương. Mất trong thanh thản, khác mất trong bệnh tật vật vã. Sự ra đi nào cũng đáng buồn, nhưng phải đón lấy như một lẽ dĩ nhiên. Đến giờ phút đó, quan trọng là phần tâm linh được yên ổn. Bây giờ, bà chẳng biết phải làm gì, ngoài việc tự an cái tâm cho mình bằng những điều ngày xưa ông hay nói với bà.
Sắp vào tháng bão, bà Hai ra vườn chặt bớt mấy nhánh cây để gió không quật trốc gốc, khu vườn trông trống trải hẳn ra. Buổi trưa nằm ở võng, bà không còn nghe tiếng gió luồn qua kẽ lá. Gió cứ rít thông thốc qua khu vườn trống hoác, trôi tuột qua lòng bà, không đọng lại thứ gì. Đời người, đến một lúc nào đó cũng sẽ như gió bay. Không hình hài, không níu giữ được, tan ra giữa cuộc đời bề bộn này.

 Lưu Huyên
Giọt nước.
Cùng là nước tự trên trời rơi xuống,
Có giọt buồn mà cũng có giọt vui...
Sáng mùa đông sông theo lũ tràn về,
Nắng yếu ớt không đủ làm sông ấm !

Giữa bộn bề ta âm thầm gieo hạt,
Rồi tuỳ duyên hạt sẽ nẩy mầm cao...
Dẫu mùa Đông hoa vẫn nở xôn xao,
Hoa lấp lánh giữa màu xanh của cỏ.
NM

Những hạt mưa

Sông Hiên chảy từ thượng nguồn núi Phun. Năm nào cũng thế, mùa thu nước sông trong vắt còn mùa đông thì nước đục ngầu. Mưa lũ từ thượng nguồn xối xả, cây cối đua nhau kéo về. Lá khô, củi mục, lau lách đều nằm lại ở lưu vực sông Hiên. Cả đất đá trên núi Phun cũng về nằm dưới vực sông. Cạnh khúc sông uốn cong hình trăng lưỡi liềm có cây đa cổ thụ, bên dưới cây đa là ngôi chùa của thầy Huệ Châu.
Gọi là chùa chứ thực ra chỉ là ngôi miếu nhỏ, thầy Huệ Châu dựng lên đằng sau chùa một túp lều nhỏ để coi sóc chùa. Thầy hơn ba mươi tuổi, mặt mày thanh tú và giọng nói trầm ấm. Chùa ở cạnh làng, sáng sớm thầy đi cày với dân, trưa ăn cơm nhà họ. Cứ như thế, nhà nào có việc thầy làm giúp. Hiếm khi người ta thấy thầy tụng kinh niệm Phật. Chỉ thấy thầy thắp nhang, đêm rằm Vu lan thấy thầy cắt hoa hồng ngoài vườn vào lễ. Hương hoa hồng thơm dịu dàng. Khu vườn quanh chùa toàn trồng hoa hồng đủ màu sắc, trai gái lúc yêu nhau thường hò hẹn ở đây, cô dâu chú rể chụp ảnh ngoại cảnh cũng ở đây. Ai cũng bảo rằng ngồi ở chùa ba mươi phút chợt thấy lòng thanh thản. Yêu đương trò chuyện ở đây là hạnh phúc đến tận đời. Ai đau yếu đến đây vài ngày ngồi ngửi hương hoa hồng tự dưng lành bệnh.
Cứ thế, người ta đồn đoán đủ điều nên ngày càng đông người đến chùa. Thầy Huệ Châu phải tất bật nhiều hơn. Khi không lại trở nên bận bịu, ngay cả sự chào hỏi khách đến lễ chùa thôi cũng đã hết nhiều thời gian. Chùa không bỏ hòm công đức, không nơi đặt hoa quả. Chỉ độc nhất bát nhang, tượng Phật và chiếc lọ hoa. Khách đến viếng chùa nâng lọ hoa lên làm cái án đằn tiền. Chẳng mấy chốc cái lọ hoa nghiêng rồi đánh vỡ, hoa hồng rớt trên nền gạch, nước loang cả một đám.
Đầu tháng Tám có người đàn bà tên Duyên, người ta hay gọi là Duyên Việt kiều. Không biết cơ sự do đâu hay sự tình cờ, chị Duyên mang đến chùa toàn là lọ hoa. Có hết thảy gần 20 cái. Chị đặt một góc ở chùa rồi vào thắp nhang. Chị ngỏ lời góp công đức xây chùa lớn nhưng thầy Huệ Châu khất lại. Thầy nói, tiền công đức thời gian rồi thầy ban phát cho người dân cả. Chùa thì cần lắm nhưng ở làng còn nhiều người khổ. Trẻ con chưa đủ áo ấm mặc vào mùa đông, người già không đủ chăn để đắp những lúc tiết trời lạnh giá. Thôi thì chị có lòng từ bi thì hãy giúp họ. Việc này được đáp ứng, trong làng ai có khó khăn gì đều được tháo gỡ, về cơ bản đã xong, giờ đến việc xây chùa. Thầy Huệ Châu lại nói, cái khổ trần gian mênh mông lắm, không chỉ ở làng này mới có khổ… Hiểu được lời thầy, chị Duyên đem tất cả của cải đi bố thí. Hơn năm sau thì chị trở lại chùa với đôi bàn tay trắng. Ngày ngày chị trồng hoa hồng, lúc đi làm ruộng cùng người dân. Sự thể có thế thì chẳng nói để làm gì, sau chín tháng mười ngày chị đẻ ra một đứa bé trai. Đêm rằm trăng sáng, tiếng khóc trẻ thơ cất lên ở chùa. Người làng rọi pin đến chùa thì thấy thầy Huệ Châu ẵm đứa bé. Mọi người nhìn nhau, nhìn thầy Huệ Châu rồi nhìn chị. Chẳng ai nói được câu nào. Thầy Huệ Châu mỉm cười nhìn đứa bé. Rồi nói với chị Duyên.
– Chị hãy nghỉ ngơi, đứa bé mạnh khỏe.
– Thầy ơi! Có khi con lại mang đến điều tiếng cho thầy…
– Trong tâm niệm của ta, nếu có chắc gì dứt ra đã được mà không có vận vào cũng chẳng xong. Con nghỉ ngơi đi.
Duyên nằm nghiêng mặt về phía sau vách, nước mắt chảy như nước mưa.
Đứa bé càng lớn càng giống thầy Huệ Châu. Điều ấy khiến những nghi ngờ của người sống quanh chùa thêm có cơ sở. Rằng thầy Huệ Châu chính là cha của đứa bé. Thời gian sau thì Duyên biến mất, không ai biết chị đi đâu, hỏi thầy Huệ Châu đâm ra bất tiện. Cánh đồng làng giờ có thêm một chú tiểu tên là Phước Huệ. Cậu bé lớn nhanh, thông minh sắc sảo nhưng lại ham chơi. Ngày ngày cậu ta ra đồng bắt dế, có hôm cậu đi dọc triền sông ngắm hoa chuồn chuồn. Nhiều đêm trăng sáng, Phước Huệ ngủ ngay trên triền sông khiến thầy Huệ Châu phải vất vả đi tìm. Năm tròn 18 tuổi, Phước Huệ đã trở thành một chàng trai đẹp mã và nhiều cô gái mê. Trong đám con gái, Phước Huệ chọn Tần. Cô gái không xinh đẹp nhưng lại đôn hậu. Việc chọn vợ của Phước Huệ, thầy Huệ Châu không cấm, thầy bảo rằng tùy duyên.
Đám cưới Phước Huệ được tổ chức bằng tiệc nhỏ, thầy Huệ Châu làm chủ hôn. Phía đằng gái cũng neo người. Tần mồ côi từ nhỏ, cô ở với dì ruột. Thêm lần nữa sự kiện đám cưới diễn ra giữa chú tiểu Phước Huệ ngày nào với gái làng khiến sự việc người đàn bà tên Duyên đẻ trong chùa lại được xào xáo. Chuyện đến tai thầy Huệ Châu, thầy chỉ mỉm cười. Nhiều điều không nên cố tránh, cứ để nó đến, nhận nó rồi nó sẽ qua đi. Thầy nghĩ thế. Thầy chỉ muốn lo cho Phước Huệ có một mái ấm gia đình. Trong nhân gian, lót tổ yêu thương cũng như đúc tượng Phật, khó khăn đấy nhưng dễ dàng cũng tại đấy. Cốt ở tại mình. Có điều, đúc tượng Phật chỉ cần con người và chiếc khuôn thì việc lót tổ yêu thương cần đến hai con người. Tức nó di động cả hai bên, biến đổi cả hai bên và lắm lúc nhọc nhằn cả hai bên. Dù sao, Phước Huệ sống và biết yêu thương là việc tốt. Đó là điều thiện. Cứ gieo hạt bồ-đề sẽ nảy mầm cây bồ-đề. Còn cây bồ-đề có sống được không, to lớn không đó còn tùy duyên nữa.
Chị Duyên trở về, một bước xuống xe lộng lẫy. Thầy Huệ Châu không ngoái đầu nhìn lại. Đứng nhìn thầy hồi lâu, chị cảm thấy nghẹn ngào.
– Thầy, qua bao năm tháng chắc thầy đã khổ vì con, vì con của con…
Thầy Huệ Châu vẫn lần tràng hạt niệm, dạo này sức khỏe thầy không được tốt. Cơn hen suyễn kéo dài khiến thầy sụt cân trầm trọng. Cũng vì sự việc thầy ốm nên khách viếng chùa ít đi. Người ta bảo chùa của thầy Huệ Châu hết phước huệ rồi, không thiêng nữa. Có lẽ từ ngày người đàn bà đẻ trong chùa nên Phật mới bỏ đi. Nhân gian là thế, như chuyện ong tìm mật hoa, thậm chí còn mù mờ hơn, cái nghiệp này còn nặng. Chỉ có người làng là họ vẫn đến chùa như thường. Người bưng cho thầy bát cháo, người mang canh rau. Đến thì mùa đông, gió thốc tháo thổi từ bờ sông vào hun hút khiến bệnh thầy thêm nặng. Phước Huệ và Tần đi đâu không ai rõ, chỉ thấy là không còn ở chùa, cũng không còn ở làng. Mọi người hỏi, thầy Huệ Châu chỉ nói rằng: Thực ra, đời người không phải chuyện đến đi, lúc ở đây Tần là cô gái tốt và Phước Huệ là chàng trai tốt. Chỉ có bấy nhiêu, làm sao biết Phước Huệ ở phương trời nào. Thật khổ cho thầy Huệ Châu. Dính vào người đàn bà, rồi đến lượt Phước Huệ. Giờ người đàn bà xuất hiện giàu sang phú quý, không biết Phước Huệ sau này xuất hiện như thế nào. Người ta nói chuyện giàu có mã. Không cứ ăn ở phúc đức lại có tiền, cũng không cứ gì ăn ở thất đức lại hái ra tiền. Chung quy thế, cái “mã” này nó nằm trong tưởng tượng. Cũng chẳng hiểu thế nào. Thầy Huệ Châu cũng không hỏi đến chuyện chị Duyên đi đâu, làm gì thời gian qua. Thầy chỉ rót trà mời.
– Chị uống đi, trà sen vẫn còn nóng đấy.
Chị Duyên khóc. Sự độ lượng của thầy Huệ Châu đã vượt ra khỏi biên giới của sự được mất, của sự cho nhận. Chị nói, trong chậm rãi, nước mắt và đớn đau.
– Sau bao nhiêu chuyện, thầy không hỏi vì sao con mang thai? Vì sao con bỏ đi và vì sao con trở về ư?
– Cái đó tùy duyên, nếu chị thấy cần phải nói tự khắc chị sẽ nói.
– Con đã bị người ta cưỡng bức. Con đã không thấy mặt người đàn ông đó. Đêm hôm đó, ngay sau chùa. Con đã gọi thầy nhưng không thấy thầy đâu. Con chỉ còn chừng này, đó là tang chứng…
Chuỗi hạt được đưa ra, từng hạt rời rạc được gói kỹ trong chiếc khăn vải màu vàng. Thầy Huệ Châu đón lấy. Thầy nhìn một lúc rồi nói với người đàn bà.
– Đây là chuỗi hạt của ta.
– Thầy ơi, con lạy thầy.
– Nó có cũ đến đâu, có mốc meo thì ta vẫn nhận ra đó là chuỗi hạt của mình.
Chị gục đầu xuống đất. Thầy Huệ Châu vẫn tiếp tục niệm Phật. Tiếng mõ bắt đầu cất lên, từng tiếng một, rất buồn. Lúc này đây, chị đã lui về phía sau rồi đi ra bến sông. Mùa đông, hoa chuồn chuồn vẫn nở. Từ thượng nguồn cho đến cuối con sông, hoa cỏ xanh rờn. Màu vàng của hoa lấp lánh trong màu xanh của cỏ. Một lúc sau, thầy Huệ Châu xuống theo. Thầy cũng đi dọc con sông đến nửa thì thầy cắt ngang dòng. Thầy lội sang phía bên kia sông, nước rất buốt nhưng thầy vẫn bình thản. Chị cố chạy theo, bì bõm, nhăn nhúm, xuýt xoa.
– Thầy ơi, thầy đang ốm cơ mà…
– Ta sẽ đi tìm Phước Huệ về cho con. Nó ở bên kia sông…
Sáng mùa đông, nước sông xanh lấp lánh. Những giọt nắng yếu ớt không đủ làm ấm nước sông. Phía bên kia sông, thấp thoáng trong rặng cây xanh là ngôi chùa rất khang trang. Thầy Huệ Châu bước vào, theo sau là chị. Đi đến giữa điện thì chị chợt nhận ra người đàn ông giống thầy Huệ Châu đến lạ.
– Thầy ơi, đây là Phước Huệ ư?
– Đây là con trai của cha ta. Phước Huệ ở đâu có lẽ người này biết.
Nói xong thầy Huệ Châu lấy chuỗi hạt đặt vào tay người đàn ông. Thầy ngược sông trở về. Mấy hôm sau thì thầy mất. Người làng tập hợp nhau làm đám cho thầy. Hôm lễ tang, Phước Huệ cũng có mặt ở đó, người đàn ông cũng có mặt. Người làng trầm trồ, ở đâu ra tới ba người giống hệt nhau như ba hạt giống từ một quả. Đám đưa, mộ thầy Huệ Châu được chôn trên ngọn đồi, ở đây có thể nhìn bao quát cả mấy làng, có thể nhìn thấy rõ dòng chảy của con sông. Chị chợt nghĩ, nhìn trần gian lắm chỉ thêm khổ thầy. Phải chăng??? Không phải thế, không lý nào chuỗi hạt đó là của thầy. Thế tại cơ sự nào khiến thầy nói vậy. Chị vẫn nhớ, dùng dằng đôi co với người đè mình xuống bến sông chị đã giựt đứt chuỗi hạt. Không lý nào…
Trên ngọn đồi, gió thổi thốc tháo lật tung mớ tóc đã chải kỹ của chị. Chị cứ đứng nhìn trân trối đám nhang đang cháy trên mộ thầy Huệ Châu. Lúc sau, người đàn ông đến gần chị, giọng nói đặc quánh của một người chưa đủ già.
– Chuỗi hạt đó là của cha tôi. Cha tôi đã trao lại cho anh trai tôi, đó là vật gia truyền. Và anh tôi đã đưa nó cho tôi, mong tôi gìn giữ…
– Thầy có gìn giữ nó không?
– Tôi đã không gìn giữ được nó. Tôi đã đánh mất nó từ hai năm nay, vì sợ anh trai tôi buồn lòng nên tôi đã không nói ra điều đó.
– Thầy nói thật lòng chứ?
– Người xuất gia không được nói dối nửa lời.
Sư thầy chẳng nói thêm gì. Thầy xuống núi và ngược sông trở về chùa lặng lẽ. Hôm đó trời mưa rất to, mưa được một lúc thì nước sông Hiên vồn vực nước. Giữa dòng củi mục, lau sậy, cây cối đua nhau đùn về. Chị ngước mắt lên trời, quá nhiều giọt nước giống nhau chẳng thể nào đếm nổi. Nó thi nhau chảy xối xả vào mắt. Cũng lạ, có lúc nước lại trở nên bỏng rát.
Hoàng Hải Lâm
 
 Về đi
Về đi, thôi hãy về đi nhé,
Tìm chốn làng quê thăm chốn xưa...!
Lá si từng chiếc rơi mưa,
Tình đời, cõi đạo vẫn chưa tìm về !?
NM 

Về đi !

Một năm nay, sư thầy về quê thường xuyên hơn, ít nhất mỗi tháng một lần. Ông cụ thân sinh của thầy đã già yếu lắm rồi. Trước ngày rời chùa, bao giờ thầy cũng thu xếp mọi việc, căn dặn đệ tử rồi mới an tâm xách túi vải màu lam thong dong bước ra cửa.
Những chuyến về quê thầy thường cho điệu Sanh đi cùng. Có lẽ tại điệu Sanh là chú tiểu nhỏ tuổi nhất trong các đệ tử nên được thầy cưng chiều hơn cả. Với lại thầy biết điệu Sanh vốn tính hiếu động, ở chùa mà vắng thầy thì thể nào điệu cũng bày trò quấy rầy các sư huynh hoặc khách hữu đến thăm viếng. Về quê, thầy nói cho điệu Sanh đi cùng vừa để chùa “yên”, cũng là để điệu ấy được tu. Điệu Sanh thắc mắc: “Tu là phải ở trong chùa, có Phật mới tu được chứ?” Thầy mỉm cười nhẹ, bao giờ điệu Sanh thắc mắc những điều như thế, thầy cũng chỉ cười mà không trả lời.
Ra đến cổng chùa, điệu Sanh lại hỏi: “Thầy ơi! Hôm qua con nghe các sư huynh nói đi tu là quên hết chuyện gia đình. Sao giờ thầy lại về quê?” Sư thầy dừng chân, yên lặng một lúc rồi lại mỉm cười hiền dịu và quay sang phía điệu: “Vậy điệu Sanh ở lại chùa, để thầy về quê một mình, nghe”. Nói xong thầy rảo bước đi. Điệu Sanh chạy theo cầm lấy vạt áo nâu. Thầy đưa tay lên xoa đầu điệu Sanh: “Thôi nhanh lên con, sắp tới giờ xe chạy rồi”.
Mất gần ba tiếng đồng hồ ngồi xe, sau đó hai thầy trò thả bộ chừng ba mươi phút mới tới được quê nhà của thầy. Con đường làng hai bên cỏ rợp lên, những bông cỏ dại nở màu vàng trắng tím khiến điệu Sanh thích thú. Đi một chặng, điệu Sanh cúi xuống hái hoa hoặc đuổi chụp cánh bướm vờn, rồi lại lon ton chạy theo thầy. Mỗi lần như thế, thầy lại mắng yêu: “Trên đường cứ mải hái hoa nghịch bướm thì chừng nào mới tới được”. Rồi như để điệu Sanh bớt nghịch, thầy kể chuyện cho điệu Sanh nghe. Mà điệu Sanh lại hay tò mò. Điệu Sanh hỏi: “Thầy ơi! Sao thầy lại đi tu? Có phải thầy cũng ghét cha mẹ như con không?”.
Sư thầy không trả lời. Nhưng câu hỏi đã khiến thầy như chạnh nhớ. Ký ức tưởng đã xa xăm chìm vào lãng quên.
*
Hồi mười tám tuổi, sư thầy lúc đó là chàng trai làng tên Khôi sức vóc, siêng năng.
Khôi thương cô Nguyệt cùng làng. Cô Nguyệt hiền lành, xinh xắn. Cả làng ai cũng khen hai người đẹp đôi. Đi làm đồng, lúc nghỉ giữa buổi thể nào Khôi cũng kéo Nguyệt lên trên triền cỏ ngồi tâm tình. Khôi khéo ăn nói, cả làng bảo thằng này đi cưa gái lắm đứa chết mê. Nhưng Khôi chỉ để ý đến Nguyệt. Biết tin hai người có tình cảm với nhau, ông giáo Tuệ, cha của Khôi, liền ngăn cấm.
Ông Tuệ chê nhà cô Nguyệt nghèo. Cha Nguyệt mất sớm. Song thân đằng ấy không đầy đủ. Không môn đăng hộ đối. Nguyệt còn có một chị gái, một em gái; nòi nhà toàn… cái. Mà Khôi là con trai duy nhất của ông giáo Tuệ, phải đẻ cháu đích tôn. Ông dõng dạc nói như phán: thằng Khôi nhà này không thể lấy con Nguyệt. Cấm!
Ông giáo Tuệ vốn là người nhất nhất nghi lễ. Biết cha mình “phong kiến” và nghiêm chỉnh, cộng với chút nông nổi tuổi trẻ, Khôi quyết chí bỏ làng đi vào Nam. Đi suốt một ngày chàng vẫn chưa hết buồn lòng, nhưng lại đói lòng, thế là Khôi tìm vào một ngôi chùa. Chàng ở lại chùa rồi xin xuống tóc. Tu luôn!
Ừ! Thầy đi tu có phải cũng vì ghét cha mẹ như điệu Sanh không?
*
Đến nhà rồi. Điệu Sanh ném mấy bông hoa dại mới ngắt lúc nãy, cùng thầy bước chậm vào ngõ. Cụ giáo Tuệ nằm trên giường ngó ra như thể ngóng đợi. Sư thầy mới bước qua cửa thì ông cụ Tuệ đã bật lời rền rĩ như mắng: “Về đi! Tu chi cho khổ”. Rồi cụ cố nghiêng người quay mặt vào tường. Sư thầy nhìn mọi người trong nhà và mỉm cười. Nụ cười thanh thoát của vị sư hai nhăm tuổi đạo.
Hai tháng sau, điệu Sanh lại theo sư thầy về quê. Thấy sư thầy gấp gáp chuẩn bị túi vải, điệu Sanh bớt hoang, dọc đường không nghịch hoa hay hỏi han nữa. Ông cụ Tuệ yếu hẳn đi, gầy rộc, nằm yên ắng. Cụ vẫy vẫy sư thầy tới, đưa tay kéo đầu thầy xuống và nói nhỏ vào tai, lần này không mắng. Cụ không còn sức mắng, hay là cụ đang năn nỉ? “Về đi! Lấy vợ. Cháu đích tôn”. Và sư thầy cũng không cười như lần trước nữa, dù chỉ là một nụ cười mỉm thật nhẹ.
Tu là để đạt đạo. Mà hiếu cũng là đạo. Hiếu đạo. Ngày xưa thái tử Tất Đạt Đa đã từng có vợ, sinh cháu cho phụ vương rồi mới đi tu để thành Phật. Vậy là Ngài trọn hiếu đạo.
Tu là đi. Về cũng là đi. Về đi! Tu, đi hoài liệu có tới cõi Phật? Nhưng về, ít nhất đối với sư thầy lúc này, về là sẽ tới... cõi người.
Sư thầy trầm ngâm nghĩ suy từ lúc ấy cho đến khi quay lại chùa. Trong thầy hai chữ về đi cứ thổn thức. Thầy như chìm vào cơn mê kiểu giấc mơ Trang Tử. “Không biết ta là sư thầy giữa cõi người? Hay ta là người thường lạc giữa cõi đạo?”
Đám tang cụ Tuệ tổ chức trọng thể. Đám làm cơm chay và theo nghi thức nhà Phật. Lễ nhập liệm, lễ cầu siêu… đều có các thầy trong giáo hội và đoàn sinh Phật tử tụng kinh. Đêm trước ngày di quan, mọi người đã đi nghỉ cả rồi, chỉ còn sư thầy ngồi trước bàn vong niệm kinh Sám Hối.
*
Thuở ấy tôi là điệu Sanh, nghịch ngợm bướng bỉnh, không yêu thương cha mẹ nên được gửi vào chùa tu để cải nghiệp. Tôi là con trai duy nhất của cha mẹ.
Đêm tôi ngồi trước thềm chùa, lá si rơi từng chiếc tán xuống sân.
Về đi!
      Về đi!
            Về đi!

Hoàng Công Danh



Nhạc - Thơ - Văn Chào tháng năm

TA CÓ HẸN VỚI THÁNG 5

Chris Cornell - The Promise

Hứa với em
Hứa với em anh sẽ luôn tìm đến,
Trong tim em, trong giấc mộng bình thường.
Anh sẽ là tất cả những yêu thương...
Anh ấm áp cho tình thêm bền vững !

Hứa với em anh sẽ luôn tìm đến,
Khi em cần dù em rất xa anh...!
Tình đôi ta tha thiết lại mong manh,
Anh sẽ đến dẫu tường vi nở muộn
NM

Bản giao mùa mang tên tháng 5

Tôi không định nghĩa được tình yêu của mình dành cho Hạt dẻ. Như những đứa con trai khác, cảm xúc đôi khi thật không dễ để nói ra. Nhưng đã yêu thật thà thì tình cảm vẫn trao đi lặng lẽ như vậy.
Sẽ rất kỳ lạ vì câu chuyện này không phải bắt đầu từ tháng 5. Câu trả lời bạn có thể tìm thấy  ở đoạn cuối, khi chàng trai thật sự để vuột mất tình yêu của mình, là những cảm xúc trong trẻo, đầy da diết nhưng vẫn can đảm buông tay...
Đó là một buổi chiều mùa Xuân Odessa lạnh lẽo .Tuyết tràn ngập khắp nơi trong thành phố, nhìn sắc trắng thấy đẹp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã mười mấy năm của vùng Đông Âu dường như rõ nhất. Tôi bước lên chuyến xe cuối ngày, chọn ghế thứ hai gần cửa sổ. Những hành khách xung quanh đang chìm vào giấc ngủ sâu, máy đĩa phát nhạc rè rè trên nóc xe vẫn vang lên chậm rãi âm thanh của "The Promise" - "Tracy Chapman".
If you wait for me
Then I'll come for you
Although I've traveled far I always hold a place for you in my heart
If you think of me
If you miss me once in awhile
Then I'll return to you I'll return and fill that space in your heart. 
Đột nhiên, không hiểu sao tôi nhìn thấy một gương mặt rất quen thuộc .Từng ánh mắt của cô gái đó tựa hồ như chúng tôi đã biết nhau từ trước đây, rất lâu, tôi không rõ nhưng trong tiềm thức là vậy. Chiếc xe đi qua hai trạm dừng, tôi ngồi một tay chống cằm và cứ nhìn chăm chăm vào hình ảnh sau lưng ấy để rồi nghĩ về Hạt dẻ. Lạ lùng thay, những câu chuyện không đầu không cuối được chắp vá, thu gom từ ngày tháng cũ luôn mang lại cho tôi cảm giác nhẹ nhõm trên suốt chặng đường đi. Tới trạm, cửa xe mở ra, cô gái đó bước xuống. Không hiểu lấy can đảm từ đâu cho hành động ngớ ngẩn của mình, tôi đã đi theo cô ấy, dù đường về còn cả một quãng dài.
Hạt dẻ... tôi chỉ kịp thốt lên khi cô ấy nhìn ra khoảng không trước mặt.
Tôi gặp lại em ở một nơi xa xôi thế này, cảm giác hệt như có ai cầm túi hạt dẻ nóng nhét vào tay mình giữa tiết trời tê buốt của mùa Đông. Ấm áp và an yên lắm. Hạt dẻ bước một, tôi bước một. Hạt dẻ bước hai, tôi bước hai, cách đó một quãng thật xa, em có nhìn thấy tôi nhận ra tôi không vì rõ ràng đây là không hẹn mà gặp.
Cơn mưa chiều rả rích một khoảng trời thành phố. Những hạt mưa nhẹ tênh, như làn sương mờ giăng tơ vương vào áo người đi đường, vào bóng em cô độc .Tôi đưa tay lau vội những giọt nước, không biết là mưa hay nước mắt. Khi đó tôi chỉ muốn chạy đến bên em, hẳn nhiên bàn tay tôi sẽ ôm trọn lấy bàn tay em. Nhưng tôi lại không thể làm thế, bởi lẽ chúng tôi là những người yêu nhau chưa đủ dũng cảm, bởi tình cảm nặng sâu thì cũng giống như những hạt tinh thể muối, những điều mặn nồng chẳng dễ gì tan biến.
Bên kia đường, Hạt dẻ quay đi, bước ngược chiều gió với tôi. Cái bóng nhỏ xíu lướt qua hàng cây còn bám bụi trắng xóa ngủ quên trong mùa Đông dài.   
---                                                                 
Tôi và Hạt dẻ gặp nhau lần đầu tiên là vào mùa Thu, khi tôi vừa mở rộng phòng thu âm của mình thành Studio. M, cậu bạn thân nói sẽ giới thiệu cho tôi một người khi biết tôi cần một trợ lý .Tôi gật đầu. M cười lém lỉnh: "Đảm bảo cậu sẽ bất ngờ với cô bé này đấy".
Thế mà bất ngờ thật. Đó là Hạt dẻ. Nhỏ hơn tôi ba tuổi, là em kết nghĩa với M. Cô bé đáng yêu và dễ thương như một thiên thần. Dễ thương đến mức lần đầu tiên xuất hiện ở Studio, tôi chỉ muốn chạy đến nắm chặt đôi bàn tay hồng hồng, nhỏ xinh của em, cứ như thể tôi muốn được nhìn thấy em mỗi ngày vậy. Trong ánh mắt ngây ngô của Hạt dẻ, em đã đồng ý trở thành trợ lý cho tôi
Studio gồm một phòng thu âm, giờ thêm một tiệm ảnh tôi và M vừa mở rộng, nằm trên con đường sầm uất nhất thành phố với nhiều hàng quán sang trọng. Dù đang bận việc học ở trường Kiến Trúc nhưng Hạt dẻ vẫn dành thời gian vào mỗi buổi chiều để đến cửa tiệm phụ tôi những việc lặt vặt .Tôi có gia đình, ba mẹ và một đứa em trai mà rất ít khi về nhà. Không hiểu sao từ lúc Hạt dẻ có mặt ở đây, rồi thế giới của em vô tình chạm vào tôi thì tôi bắt đầu thấy mình gắn bó với nơi này hơn, những giờ về hầu như khá muộn. Hạt dẻ cũng quen dần công việc từ đó. Mỗi ngày đi qua tiệm ảnh, tôi hay thích đứng nhìn em một chút bên ngoài khung cửa. Nhìn em nâng niu những bức ảnh tôi mới chụp, nhìn em sắp xếp lại bàn làm việc đang bừa bộn của tôi hoặc chỉ cần nhìn em tỉ mẩn chăm sóc chậu Tường Vi trên bệ cửa sổ, bất kỳ hình ảnh nào đều khiến tôi nhẹ nhàng và bình yên.
Em giống như một khung trời lặng lẽ mà tôi không biết có thể nào cho mình cái quyền được chạm tới.
Một ngày cuối tháng 8 lá rơi nhiều. Tôi vác máy ảnh lang thang khắp những con phố của Đà Lạt, là vì Hạt dẻ muốn về thăm quê còn tôi vừa nhận đơn đặt hàng album ảnh mới. Nhưng công việc gác qua một bên, tôi đang chở em thong dong phố xá. Chỉ có em và Đà Lạt bình yên. Mãi đến lần thứ ba này thì tôi thật sự bị Đà Lạt mê hoặc, như lời Hạt dẻ nói với tôi ngày hôm qua. "Nếu như nắng Phương Nam ấm áp và có thể hong khô tất cả thì nắng Đà Lạt sẽ làm anh an yên. Đà Lạt nhỏ nhưng tình người lớn lắm"”. Đúng là tình người lớn lắm. Tôi đã được nghe nói nhiều về người Đà Lạt và bây giờ tình yêu ấy lại bước ra từ câu chuyện của Hạt dẻ. Em đã không ngại ngần khi tôi thắc mắc.
- M không phải là anh trai của An đúng không?
Em tên Thiên An nhưng tôi chỉ quen gọi em là Hạt dẻ
-Vâng! Còn hơn thế nữa anh ạ, M vừa là người thầy, người anh, đôi khi là người bạn thân thiết nhất của An.
- Thế bố mẹ em đâu ?
- Bố mẹ An mất khi An 10 tuổi. Là M đưa An về nhà anh ấy, M và bố mẹ nuôi coi An như một thành viên trong gia đình và hết lòng thương yêu. An thấy mình thật hạnh phúc vì còn có thêm một người bạn như anh nữa.
Hạt dẻ đưa bàn tay ra nắm tay tôi, cái nắm tay siết chặt, bùi ngùi, làm tôi thổn thức.
- Anh cũng rất vui khi có một người bạn là An!
Tôi nhìn vào mắt em, tròn xoe, những giọt nước long lanh nơi đáy mắt, em chưa kịp lau đi, bỗng hóatrongveolạkỳ                                                                          Đà Lạt về đêm đẹp lộng lẫy, nhất là vào những ngày cuối Thu như vầy. Nên chẳng ai nỡ từ chối một đêm của người Đà Lạt thực thụ .Tôi gọi điện thoại cho Hạt dẻ, nói muốn cùng em đến một quán nào đó trông ra bờ Hồ, vậy là em dẫn tôi đến quán trà hoa giấy. Vì em đặc biệt thích trà. Ở nơi mà chỉ có sự mát dịu của khí trời và màu xanh mênh mông của vườn trà làm em lớn lên, tôi nghĩ chắc hẳn trà là nhân duyên đã cho em một gia đình thứ hai. Biết đâu trà cũng là nhân duyên để tôi gặp em. Bỗng dưng tôi nhớ cốc trà gừng ấm nóng mỗi chiều em để trên bàn làm việc của tôi, một cốc trà, rất giản dị nhưng nó làm tôi ấm áp khi lạnh, ngay cả cái tên của em - Hạt dẻ cũng gợi lên một điều gì đó, thân quen mà gần gũi lạ lùng.
Hạt dẻ áp vào má tôi cốc trà sen nóng hổi.
- Cho anh... !
Tôi mỉm cười thay lời cảm ơn của mình. Nếu không đi với Hạt dẻ, chắc tôi chẳng biết Đà Lạt có một quán trà ngon vậy. Nhấp một ngụm trà sen, cảm giác đầu tiên là vị thanh mát lan đến tận cổ, dễ chịu lắm. Nhưng tôi vẫn thích vị cay nồng của trà gừng, thích thiệt hay thích người pha trà nhỉ. Tôi cũng không rõ, chỉ biết thật lòng tôi muốn nói chuyện với Hạt dẻ nhiều hơn, muốn ngồi bên em và nhâm nhi từng góc một thành phố của em. Để được nghe em kể thêm nhiều câu chuyện khác nữa ở thành phố này.
Em ngả đầu vào vai tôi. Đây đúng là cảm giác an lành mà tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi cứ ngồi như thế, rất lâu, khi ngước lên nhìn bầu trời Đà Lạt trong vắt .Tôi nghĩ ngay đến việc hoàn tất album ảnhcủamình.                                                                                       
Hạt dẻ bước đi về phía bờ Hồ, còn tôi lấy máy ảnh từ túi xách tay ra chụp khung cảnh thành phố vừa thức dậy. Hôm nay là lần đầu tiên tôi có buổi hẹn với bình minh Đà Lạt. Mãi mê ngắm những vườn dâu tây xanh mướt, quả đỏ trĩu cành. Rong ruổi qua những đồi thông rì rào trước gió. Và lắng nghe tiếng phát thanh vang vọng trên cao. Công việc xong xuôi, tôi quay tìm Hạt dẻ, em vẫn ngồi bên bờ Hồ, nắng sớm chiếu lên những sợi tóc dài bay lấp lánh, chút mộc mạc thuần khiết này như một thứ ánh sáng dịu dàng làm tôi không rời mắt được, phải lén chụp lại. Vẻ đẹp của em trái hẳn với cuộc sống đầy xa hoa tấp nập ngoài kia mà khi nhìn vào ống kính khiến tôi thấy yên lòng.
- Xa Đà Lạt rồi em nhớ gì nhất?
Hạt dẻ thả viên sỏi xuống bờ Hồ, nheo mắt về một buổi chiều thành phố đang trôi đi.
- An nhớ nhiều lắm, mỗi thứ một chút gộp lại. Nhưng nhớ nhất là nắng Đà Lạt vì An từng nghe người ta nói rằng, nắng có thể hong khô tất cả, kể cả nỗi buồn.
- Thật vậy sao? - Tôi chợt mỉm cười, nhẹ nhàng áp môi mình vào mái tóc dài của Hạt dẻ. Đà Lạt đẹp là vì có em đấy, em biết không.
Buổi tối, Hạt dẻ rủ tôi về nhà ăn cơm. Mẹ em bận nấu nướng trong bếp, chỉ có bố em trò chuyện với tôi ở ghế sô pha, thỉnh thoảng bác trai cười lớn, giọng bác hào sảng mà ấm áp vô cùng. Đến giờ cơm, bác gái gắp thức ăn cho tôi, nem nướng, chả ram bắp... những món đặc trưng của người Đà Lạt. Bác cười nói, cứ tự nhiên coi đây như nhà của mình. Bác trai mời tôi một ly rượu.Nào, chúc mừng sự gặp gỡ của cháu và Hạt dẻ”. Tôi nhận ly rượu, bối rối cảm ơn bác. Bất giác tôi nhớ gia đình mình thiệt. Ở đây những con người lạ lẫm, những món ăn cũng lạ lẫm nhưng bầu không khí này tôi không thấy lạ lẫm chút nào.
Tôi không định nghĩa được tình yêu của mình dành cho Hạt dẻ. Như những đứa con trai khác, cảm xúc đôi khi thật không dễ để nói ra. Nhưng đã yêu thật thà thì tình cảm vẫn trao đi lặng lẽ như vậy.  
---                            
M gặp tôi ở Studio. Buổi chiều nắng hanh hao, chúng tôi ngồi vắt vẻo trên căn gác xép của tiệm ảnh, bên cạnh là một Velvet và một Mocha. M nhìn vào mắt tôi như đọc được suy nghĩ trong đó.
-Sao thế, có chuyện buồn à !
- Không, à mà có, làm thế nào để nhận ra một người đang thích mình nhỉ ?
- Không phải chứ. Đã có cô gái nào lọt dzô mắt xanh của cậu rồi hả .
Tôi phì cười, nhìn qua tấm kính tiệm ảnh lắng nghe nhịp thở thênh thang giữa phố phường bận rộn ngoài kia. M thúc tay tôi một cái.
- Thôi, không giỡn nữa. Cậu biết tin gì chưa, May về nước rồi.
- May!
- Ừ, May!
Tôi thở dài khi nghĩ về May, nàng là bạn gái cũ của tôi. Có lẽ vì nhận thức về tình cảm của chúng tôi là rất mong manh nên đến tận bây giờ nó cứ mãi lửng lơ như vậy. Có lúc tôi muốn cùng May làm lại từ đầu nhưng một phần nào đó trong tôi lại muốn buông tay khỏi May .Tôi biết và May cũng biết, chúng tôi chẳng còn gì để nhớ về nhau ngoài những ký ức cũ kỹ tiềm tàng trước đây. Tôi gặp lại May là khi nàng đến Studio thu âm phần thiết kế clip. May vẫn đẹp và hiện đại, vẫn mạnh mẽ đầy tự tin. Chưa bao giờ tôi thấy ở nàng sự yếu đuối mỏng manh để tôi có thể choàng tay bao bọc, hồi đó và giờ cũng vậy. Chúng tôi chào nhau vài câu đơn giản, hỏi bâng quơ vài chuyện rồi quay về công việc của mình. Một lần May ôm tôi khi đặt lên bàn một cốc cafe, cái ôm dịu dàng, bình yên hệt như những sớm đầu mùa nhưng là một thứ cảm xúc hoàn toàn trống rỗng. Khi đó, tôi chỉ nhớ ly trà gừng của Hạt dẻ, nhớ mùi vị nồng nồng cay cay mỗi ngày một chút em để đấy. Và nó cứ lớn dần, lớn dần trở thành động lực khiến tôi vui nhiều hơn, điều mà rất lâu rồi tôi chưa tìm lại được
          ---
- Mình kết thúc thật rồi, May à...
Tôi đối diện với May trong buổi tối muộn, ở một góc thành phố ướt mưa. Chẳng biết lòng đang vui hay buồn. Nhưng tôi nhìn rõ ánh sáng hắt qua từ ô cửa kính ôm trọn lấy khuôn mặt nàng đang ngấn nước.
- Chúng ta bắt đầu lại, được không anh?
- Để làm gì hả em? Khi sự chờ đợi, kiên nhẫn của anh dành cho em đã không còn.
- Vậy, phải thế nào để hạnh phúc trở lại đây anh!
- Anh không biết, mà anh nghĩ chắc người ta chẳng bao giờ muốn một mối tình cũ trở nên xa lạ giờ bất chợt quay về.
Lặng im. May tựa lưng vào thành cửa .Tôi đọc được trong mắt nàng là sự hoang hoải, nuối tiếc. Điều đó khiến tim tôi mềm nhũn ra. Cảm giác như chính mình có lỗi với May vậy, dù tôi đã từng hụt hẫng thật nhiều khi May bỏ đi.
- Em có thể hôn anh một lần không?
May ngước nhìn tôi bằng đôi mắt trìu mến lạ kỳ, mặc cho tôi mặc định sẽ không để đôi mắt đó ám ảnh nữa nhưng tôi không làm được. Môi tôi chạm môi nàng vừa dịu dàng vừa âm ấm. Khi những cơn gió lạnh lùng thổi qua, tôi nhớ nơi này 5 năm trước, nơi May bỏ lại tôi với một nụ hôn nhẹ như gió thoảng.
Bất giác tôi nghĩ đến Hạt dẻ, em thường hay nhét vào tay tôi vốc hạt dẻ ấm sực, trong ngày Đông tôi thấy mình trống rỗng, buốt buốt.
- Xin lỗi, anh không thể!
Tôi buông tay khỏi May. Giữa cơn mưa đêm lạnh buốt, tất cả như chìm vào một thứ ánh sáng hiu hắt mờ ảo, May nhìn tôi cũng mờ ảo hiu hắt. Nàng bước đi, không quay đầu lại. Bởi chúng tôi đều biết, ở một đoạn đường nào đó trong cuộc đời này, có những kỷ niệm sẽ không bao giờ quên và nơi ngực phải trái tim, mình có quyền lưu vào những điều đẹp đẽ, trong veo nhưng khờ dại của một thời.  
            ---                                                                 
Mùa này thành phố đang là nửa Hạ, nửa Thu. Không khí lãng đãng, hơi lạnh và nhiều gió. Hạt dẻ vẫn ghé Studio mỗi ngày, thay tôi làm mọi việc cho những hôm tôi bận không đến được. Hôm nay em đến chào tôi, em nói mình sắp đi xa, một khóa học về thiết kế ở một đất nước giữa vùng Đông Âu đúng như mơ ước của em. Chỉ tôi là cảm thấy nỗi buồn len lỏi tận đâu đâu. Kỳ lạ thật.
- Khi nào thì em về! -Tôi nhìn em nơi góc bàn làm việc quen thuộc.
- Nếu An không về, anh có buồn không?
Tôi cũng từng tự hỏi mình như thế và hơn một lần tôi hiểu câu nói ấy hàm chứa điều gì, chỉ là không đủ can đảm nói ra.
- Anh sẽ chờ em, An à! -Tôi đưa tay về phía trước nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của em, siết nhẹ. Em lặng yên hồi lâu rồi rút tay lại, thì thầm.
- Chị ấy vẫn còn rất yêu anh. Hôm bữa An vô tình nhìn thấy hai người hôn nhau. Có lẽ An đã sai. An không nên làm vậy. Nhưng không hiểu sao An lúc nào cũng nghĩ về anh thôi. Những ngày xa anh, An thật sự rất buồn.
Hạt dẻ nhỏ bé của tôi .“Anh đã nhớ em biết bao ngay cả trong giấc mơ”Tôi muốn nói với em như thế, nhưng, có lẽ không phải bây giờ mà là một ngày nào đó em trở về sau khi đi hết con đường dài rộng phía trước.
Trên căn gác xép tiệm ảnh, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, buổi chiều tháng 5 gió lùa trong veo. Âm thanh "The Promise" - "Tracy Chapman" vang lên êm ái, nhẹ nhàng như những gì đẹp đẽ nhất của tôi, của em và của tuổi trẻ.
If you wait for me
Then I'll come for you
Although I've traveled far I always hold a place for you in my heart
If you think of me
If you miss me once in awhil
Then I'll return to y
I'll return and fill that space in your heart.
---
Nếu em đợi,
Thì anh sẽ đến
Dù cho em đã ngao du thật xa
Anh vẫn luôn dành chỗ cho em trong tim anh.
Nếu em nghĩ về anh
Nếu em nhớ anh dù chỉ một lúc thôi ...
Thì anh sẽ chạy đên1
Anh sẽ chạy đến và lấp đầy khoảng trống trong tim em. 
Đôi khi tôi gọi cho Hạt dẻ, nửa đêm, chỉ để nghe “The Promise” cùng em. 
 ---
Cuộc đời là những chuyến đi. Cứ đi, rồi sẽ tới.
Anh bước dọc đại lộ Primorskaya vào một đêm Odessa đầy gió. Không gian yên ắng và rét mướt. Tính ra thì anh đã đi qua rất nhiều nơi, lưu dấu bước chân vào rất nhiều bộ ảnh. Odessa là vùng đất mà anh nghĩ sẽ gặp lại Thiên An nhưng anh chưa từng có ý định đi tìm cô, chỉ đơn giản anh muốn dùng tuổi trẻ của mình để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời này, dù có lúc anh nhớ cô đến thắt lòng.
Một sớm mùa Hè, những chậu tường vi Thiên An treo nơi bệ cửa sổ nở chùm hoa trắng muốt trong suốt như pha lê. Anh ngồi trên căn gác xép tiệm ảnh, tự ủ ấm bằng ly trà gừng và nhớ cô. Anh biết mình chẳng thể nào quên được cô gái có trái tim thật thà nồng ấm ấy. 
Biết đâu trà là nhân duyên để anh gặp lại cô. Ở nơi nào đó. Anh vẫn tin như vậy... 
Phong Lin

Tháng năm,
Chim bay san sát trên đồng lúa,
Nắng chẳng làm vơi ký ức xưa..
Tôi về tìm lại hương mùa cũ,
Mùi khói rơm chiều tôi vẫn ưa !
NM

Tháng 5 Về, Nghe Vàng Lên Sân Nhà Ai Trước Ngõ…
Tôi nghe ai đó đã từng nói rằng: “lúa càng trĩu thì lưng cha mẹ càng còng, hạt gạo càng trắng thì tóc cha mẹ lại càng khét mùi nắng cháy”. Không phải ai cũng lớn lên từ đồng quê với những mùa lúa chín, và không phải ai cũng thương mến cái mùi thơm của gốc rạ, cọng rơm. Nhưng với riêng tôi, cứ mỗi độ cuối tháng tư và tháng 5 dần đến, lòng lại bồi hồi nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm xưa kia, thời tấm bé với cánh đồng vàng ươm cùng với cái hối hả của dân làng mùa gặt.
Tôi sống không để phải để lãng quên, từ tình yêu cho đến cuộc sống, những hình ảnh đẹp trong tôi cũng không phải là mấy trò chơi điện tử như những đứa bạn nơi thành thị. Lớn lên từ đồng quê, ký ức tôi in hằn biết bao ngày tháng ở nơi này, tôi thích chuyện trò với những con người chân quê bình dị, chất phác, vô tư. Tôi cũng thích ngắm nhìn và chợt thấy vui lây khi thấy bà con nở những nụ cười giữa đòng đòng mồ hôi đương trời nắng cháy.
Tháng 5, tháng chao nghiêng những cánh chim bay san sát ngang đầu trên đồng lúa, tháng của những con nắng dữ dội chẳng nề hà gì những nếp nhăn của mẹ, của cha, và đó cũng là tháng của những cơn mưa không cần báo trước. Làm lúa, khổ đủ đường, mà lúa ướt chắc chắn cũng là một trong số đó. Tuy vậy, những cái nắng, cái mưa của miền Trung chưa bao giờ làm vơi đi nụ cười trên khuôn mặt khắc khổ mà hiền lành của những người nông dân bao đời chân chất.
Tôi ghé về miền Trung đang vào vụ gặt, xe bon bon trên đường lướt qua những cánh đồng phút chốc chỉ đủ để lại một cái nhìn rất khẽ. Ấy thế mà lòng lại đầy lên bao nhiêu cảm xúc ngổn ngang. Không biết vì sao tôi thương miền Trung đến thế, những cảnh vật, mùi hương, những dòng sông, giọng nói. Về miền Trung, một cánh hoa dại ven đường cũng đẹp, một phút ráng chiều cũng đủ cho hồn vương vấn, bâng khuâng.
Nay, ở thôn quê đã nhiều nơi gặt bằng máy đập liên hợp nhưng vẫn còn nhiều nơi gặt lúa bằng tay, bà con dùng liềm cắt sau đó bó từng đống trên những thửa ruộng dài đến chân trời. Cái nắng độ này như thiêu mà ngoài đồng thật là rộn rã, bên cạnh những con người không biết mệt mỏi đội cả trời nắng cháy, những gà vịt, chim chóc cũng quây quần lại kiếm phần, ngoài triền đê, có chú trâu vờ như chẳng để ý gì tới chuyện ngoài xa mà ngoe nguẩy đuôi lim dim mắt ngủ…
Mùa này đi ngoài đường đã thấy vàng lên những ngõ, đã thấy những chiếc xe chở rơm kín mít dọc đường như những ụ rơm di động. Kỳ lạ thật, ngày xưa, cứ mỗi mùa gặt là tôi sợ lắm, sợ nắng nóng, sợ đen da, sợ đĩa. Thế mà nay con đường tôi đi chỉ vỏn vẹn bằng sải tay để được lấm chút đất bùn, cũng chả sá gì nắng bụi, tôi vẫn thích cái cảm giác được phơi da trần dưới nắng, dưới mưa, cho đầy lên thương nhớ! Đi sâu vào thôn xóm, đã nghe thấy cái ồn ào của máy tuốt, thanh âm ồn ào thì nhiều lắm, nhưng cái ồn ả mà yên bình này thì biết phải tìm đâu? Duy chỉ có quê hương là thế.
Mùa này cũng đã nghe tiếng ve ran đầy ở những khoảng trời xa lắc, đã nghe thấp thoáng hương bưởi ngập ngừng trong cái nắng chang chang, đã thấy cánh cò lượn lờ trong những chiều lặng gió. Con người ta xa xôi quê hương đất mẹ, thời gian có bôi xóa bao nhiêu, họ trở nên cứng rắn bao nhiêu đi nữa thì khi trở về với quê hương ắt hẳn phải mềm lòng. Có ai mà có thể ngẩng đầu cao ngạo với quê hương được chứ, và cũng làm gì có ai lại dửng dưng được với những dòng sông, với những hàng tre, với một chút khói lam quyện hồn vào nhớ?
Mùa gặt bây giờ không còn rộn rã như cái thời mà tôi còn nhỏ, nhờ máy móc, công sức bà con cũng đỡ bớt nhiều, thanh niên rời làng lên thành phố. Không còn những cảnh thiếu nữ đôi mươi tay hái, tay liềm, không còn thấy cảnh trai tráng tay gồng, tay gánh. Nhưng có lẽ, cái mùi hương của mùa gặt này thì không thể lẫn đi đâu, bằng cách nào đó mà không ai biết, những hình ảnh mùa gặt vẫn sâu đậm trong tôi một cách đậm đà mà tha thiết quá!
Con đường tôi đi vẫn còn xa ngái, quê hương nhẹ nhàng đưa tôi trở lại ngày xưa, giấc mơ của thời thơ ấu. Những bóng người còng lưng dưới nắng đã xa theo tiếng động cơ, xa dần theo những vòng xe đang khao khát lắm những miền đất lạ. Để lại đây duy ánh mắt nhìn, nụ cười đong đầy thương mến và một tâm hồn chất chứa bao nhiêu hoài niệm, tôi xa dần cái nắng như thiêu, xa dần những ngõ óng vàng một màu lúa thóc, xa dần những nụ cười trên môi ướt đẫm mồ hôi…
Biển đang khóc cho nỗi đau của biển, sông đang chết với những lo âu của riêng mình, những ngọn đồi cũng thưa thớt màu xanh, lúa làm sao có thể hát vang bản tình ca của riêng mình được? Dẫu sao, chỉ mong quê hương mãi mãi sẽ yên bình, nhưng sâu thẳm trong tôi từ ngàn gió bao la, sâu thẳm trong tôi từ mùi muối biển mặn mòi ở tít khơi xa, tôi biết điều này còn xa xôi lắm, cho đến khi nao mới có thể trở thành sự thực? Ngay lúc này đây, tôi chỉ ước giản đơn rằng mình được hóa thành cơn gió mát, thành gốc cây râm, thành một điều gì đó nhỏ bé thôi, đủ để cho người dân, cha mẹ, ông bà bớt khổ.
Những cảm xúc đan xen dấy lên nhau như dày vò mảnh hồn người con xứ Quảng, tạm gác qua những nỗi đau mà quê hương đang gồng mình gánh chịu, tôi mồi điếu thuốc, thẳng cẳng duỗi chân lên triền đê mặc kệ cái đũng quần sờn bạc, chợt nhớ tới mấy câu thơ của kẻ sĩ Hàn:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Cảnh trí bâng khuâng sực nhớ làng:
– “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”
(Mùa Xuân Chín – Hàn Mặc Tử)

Huỳnh Minh Nhật
Tình thầy trò,
Tâm thầy tâm độ lượng,
Bao ray rứt ăn năn...
Quyết một lòng hối lỗi. !
Đường đời trò thênh thang...
NM
 NÉM ĐI!
          Thằng Bửu nấp sau cây phượng vĩ có thân lớn một người ôm không xuể cách cổng trường chừng năm mươi thước. Trong bàn tay đang nắm chặt run rẩy vì giận tức của nó là một hòn đá xanh cứng gồ ghề những góc cạnh. Nó đang chờ, đúng ra thì nó đang rình, rình một người đã hơn nửa giờ qua... Thầy Tiên đang thong thả đạp xe từ hướng trường từ từ chạy đến. Thầy đang nghĩ ngợi nhiều về một đứa học trò ngỗ nghịch và lười biếng nhất của lớp mà thầy làm chủ nhiệm…
          Cái thằng Bửu thật quá quắt. Đã không làm bài tập về nhà, không thuộc bài, lại còn mặc áo hở cả ngực, to gan hơn khi nó còn dám hút thuốc trong lớp… Thầy biết hoàn cảnh gia đình nó, cha mẹ ly hôn sau thời gian dài “ ông ăn chả, bà ăn nem”, nó phải ở với mẹ, bị tách rời khỏi cha và đứa em gái mà nó thương quý, phải chung một mái nhà với một ông dượng ghẻ hung ác chỉ thích nói chuyện bằng tay chân thô bạo…
         Thầy biết tinh thần nó suy sụp, chao đảo, nên đã vừa châm chước bỏ qua rất nhiều lỗi lầm của nó, vừa hết lòng động viên nâng đỡ cho nó yên tâm tiếp tục học hành. Vậy mà nó chẳng cần hiểu thầy, chẳng màng nghe một lời khuyên bảo của thầy, lại bướng bĩnh phản ứng xấc láo với thầy trước cả lớp học, khiến cho thầy không kiềm được cơn bực tức nên đã tát tai nó một cái ngoài ý muốn. Thầy biết thầy sai, một sai lầm lớn khi trừng phạt học trò kiểu ấy, và thầy sẵn sàng xin lỗi nó trước cả lớp mà không sợ bất cứ ai chê cười. Nhưng nó đã bỏ tiết học cuối, chạy đi đâu mất rồi. Bây giờ thầy sẽ tạt thử vào nhà nó để hai thầy trò trò chuyện tâm sự, và xin lỗi nó…
             Chờ thầy chủ nhiệm vừa đạp xe ngang qua nơi mình nấp, thằng Bửu giá tay lên, hòn đá xanh cứng đang nhắm vào đầu của thầy. Thầy Tiên không mảy may hay biết đến một tai hoạ sắp giáng xuống đầu mình. Chợt, một bàn tay mát lạnh của ai đó chộp bắt thật mạnh ngay cườm tay, rồi kéo cả cánh tay của thằng Bửu quặt ra sau. Hòn đá rời khỏi bàn tay nó rơi xuống đất. Nó kêu lên, vùng vằng, quay lại nhìn… Con nhỏ Hồng lớp phó.
         Trời ạ. Tưởng là một thằng bạn trai cùng lớp, thằng Sang lớp trưởng chẳng hạn, thì thằng Bửu đã tung vài chục cú đấm thẳng vào mặt kẻ cản mũi kỳ đà rồi. Đằng này lại là một đứa con gái chân yếu tay mềm, và là một người bạn gương mẫu của lớp mà nó từng nghiêng mình khâm phục. Đôi mắt của nhỏ Hồng tròn xoe, chiếu thẳng vào mắt nó đầy những lời van lơn cầu khẩn, làm cho tay chân nó bủn rủn cất giở lên không nổi. Nó cúi gầm mặt xuống vì xấu hổ. Nhỏ Hồng nắm lấy bàn tay của của nó, dịu dàng nói:
         “Nếu còn muốn hại thầy thì bạn hãy ném đá vào mặt mình đây nè! Ném đi!”
       Hai tiếng “ném đi” như một mệnh lệnh bất khả kháng đầy cương nghị đã làm cho thằng Bửu giật bắn người. Miệng nó cứng đơ, tròng mắt nó đứng bất động, và toàn thân nó mềm nhũn ra như những sợi bún mới ra lò… Nhỏ Hồng kéo tay nó dắt đi mà không nói lời nào. Thật buồn cười, chính thằng Bửu cũng muốn buồn cười, khi thấy mình bỗng dưng ngoan ngoãn như một con cừu non, để cho con nhỏ bạn lớp phó dắt đi đâu thì đi mà không hề kháng cự…
         Hai đứa vào một quán kem, vừa ăn vừa nghe nhạc hoà tấu với tiếng dương cầm  du dương  hoà cùng tiếng vĩ cầm mượt mà… Lòng thằng Bửu chùng xuống. Nó quên hết những gì đã xảy ra. Nó cảm thấy nhẹ tênh, thanh thản. Đúng lúc đó, nhỏ Hồng mới lên tiếng nhỏ nhẹ:
         “Bạn có bao giờ nghe nói đến chuyện “hiến máu nhân đạo” chưa?”
         Thằng Bửu ngạc nhiên, ngớ người ra, rồi lắc đầu. Nhỏ Hồng tiếp:
     “Thầy Tiên là một người thường xuyên đi hiến máu nhân đạo…”
         Vẫn im lặng, thằng Bửu chờ đợi bạn gái nói tiếp một câu chuyện mà nó đang cho rằng lạc đề, là lãng nhách vô vị giữa lúc nó đang được chìm đắm trong dòng nhạc uyển chuyển.
         “Mẹ mình công tác ở Hội Chữ Thập Đỏ nên mình biết rõ chuyện này.”
    “Nghe không có liên quan gì hết trơn. Bạn nói chuyện đó với mình làm gì?”
         “Bạn không nghĩ ra được là để làm gì sao?”
       Thằng Bửu nhăn nhíu trán, lắc đầu. Nhỏ Hồng buông từng tiếng chắc nịch:
        “Nói để biết rằng máu của thầy Tiên rất quý báu. Từng giọt máu là từng viên ngọc vô giá. Những viên ngọc này dùng để cứu người hoạn nạn trong bệnh viện. Nó quý hơn, giá trị cao hơn tất cả mọi thứ thuốc men của ngành y dược!”
 Im lặng. Tiếng nhạc vừa lặng đi, rồi lại trỗi lên ngọt ngào…
       “Bạn mà hại thầy, làm cho máu của thầy chảy ra một cách vô lý thì chính bạn đã hại nhiều người. Trong số nhiều người đó, biết đâu sẽ có những người thân của bạn, và chính bạn nữa? Bạn hãy tưởng tượng xem, một ngày nào đó em gái bạn mắc một chứng bệnh gì đó phải mổ, và cần phải truyền máu, nếu không có máu thì em bạn sẽ không qua khỏi.”
 Thằng Bửu rùng mình, ngắt lời với giọng chân thành:
       “Thôi, bạn đừng nói nữa. Mình hiểu ra rồi. Mình sai lầm đáng chết. Cảm ơn bạn đã khuyên can mình đúng lúc. Mình về đây!”
      Dứt lời, nó đứng dậy, bỏ đi ra khỏi quán, mặc cho con nhỏ bạn gái ngồi lại trước ly kem đầy chưa hề múc một muỗng. Về đến nhà,có một người ra đứng nơi cửa đón nó. Nó nhận ra đó chính là thầy Tiên.
       Và, nó bước đến loạng choạng, sà ngay vào vòng tay độ lượng của người thầy với một nỗi ray rứt ăn năn, đan xen cùng niềm kính phục vô vàn…  
Tâm Không Vĩnh Hữu