Thứ Năm, 10 tháng 10, 2019

NTV - Tân Phước Khánh 44 năm sau quay trở lại,

Hơn bốn mươi năm trở về đây,
Thấy ngày xưa ấy thoảng như mây...
Cảnh cũ đâu còn, người xưa vắng,
Mây hỡi mây trời thôi cứ bay !
NM
Tân Phước Khánh 44 năm sau quay trở lại,
Mỗi tháng Ti có 1 hoặc 2 ngày nghỉ phép, tháng nầy phép nhằm ngày 8/10/2019, Ti hỏi tôi có muốn đi đâu hơi xa không vì hai cô cháu vừa đi Cần Thơ hôm 24/9 cách nhau chỉ đúng hai tuần thôi ! Ban đầu định đi Vũng Tàu nhưng nghe dự báo mùa nầy hay mưa và nước dâng lên bất chợt...Tôi nói với cháu thôi thì đi Bình Dương tìm lại ngôi trường Tân Phước Khánh, ngôi trường thứ hai sau trường Trung học Bạc Liêu mà tôi đã xin chuyển về sau ngày 30/4/75 và tôi cũng bắt đầu dạy ở đây trong khoảng thời gian tháng 10 nầy, đi tìm lại chút kỷ niệm cũ của hai tháng dạy ở đó và rồi chia tay vì tôi bị tai nạn gãy xương, tuy chỉ có hai tháng trời ngắn ngủi nhưng cũng có biết bao nhiêu ân tình và kỷ niệm khó quên ! Hơn nữa tôi muốn cho cháu thấy trong quá khứ tôi đã cực khổ như thế nào khi hàng ngày phải lặn lội vừa đạp xe đạp vừa đón xe đò chạy bằng than ở ngã sáu rồi lại đạp xe từ ngã ba Búng vào trường gần 10kms nữa !...Đó chỉ là một bận đến trường thôi, có hôm chiều về khg có xe tôi lại đạp một mạch từ trường về nhà !
Mặc dầu đã nghiên cứ lộ trình trước qua Google map, nhưng nhìn vào đó tôi chẳng hiểu gì hết vì lộ trình khác đi và đường nào cũng có tên mới, thật ra con đường từ ngã tư Bình Chuẩn vào một đoạn khoảng vài cây số mới có đường đi vào xã Tân Phước Khánh, ngày nay đã là thị xã Tân Phước Khánh, một thị xã mới đang trên đà phát triển mạnh về mọi mặt Khi Ti chở đi thực tế thì nhìn thấy cảnh càng khác xưa hơn, những cảnh quang ngày xưa hoàn toàn biến mất thay vào đó là cảnh nhộn nhịp của một thành phố đang phát triển, không còn con đường chập chùng lên đồi rồi xuống dốc mà hai bên đường nhà cửa san sát, không có hố sâu do bom, không còn nhà tranh vách đất, rẫy khoai mì, đậu xanh, thuốc lá, mía....bạt ngàn như xưa, ngay cả con đường từ Bình Chuẩn đi vào cũng chỉ còn một hai con dốc thoai thoải thôi , thế nhưng nhìn sâu tận bên trong con hẻm phía sau những căn nhà mới cất vẫn còn thấp thoáng nhưng trũng thấp có lẻ người ta chưa lấp hết
Hơn bốn mươi năm qua rồi, dân thập phương từ xa đổ về thì phải thế thôi, Ti nói ở đây có lẻ người Sóc Trăng ở nhiều nhất vì nhìn bảng số xe toàn là của ST !!Tâm trí mênh mang, lòng vừa vui mà cũng vừa buồn, hồi tưởng lại cảnh hoang sơ tuy nghèo nhưng thật nên thơ ngày ấy, nơi đây tôi đã tận mắt nhìn thấy những căn nhà mái tranh vách đất, tôi đã từng vén áo dài cột hai vạt lại lội vào ruộng khoai mì và đậu phộng phụ giúp nhà vườn thu hoạch...Những tấm lòng thơm thảo của phụ huynh nghèo, hôm nào không người nầy cũng người khác đứng chờ tôi đạp xe ngang qua réo gọi gởi chút quà quê, hôm thì bầu bí, lúc khoai mì, khoai lang.... Ngày nào tôi về nhà phía sau yên xe cũng cột một bao cói chứa nông phẩm !!
Dân nghèo thương cô giáo từ xa cực khổ lặn lội lên dạy nơi xa xôi nầy. Ngày ấy xe đò chạy bằng than cũng ít cho nên tài xế và phụ xế mau quen mặt, mỗi lần giúp tôi đỡ chiếc xe đạp để lên mui xe, chú lơ xe hay nói giỡn cô giáo hôm nào cũng có hối lộ !!Ngẩn ngơ và cũng hơi buồn cho nên không chụp lại hình ảnh hai bên đường tôi muốn giữ lại hình ảnh xưa trong tâm, vì thế nói với Ti đi tìm ngôi trường TPK, trong trí vẫn còn nhớ ngôi trường phía bên tay trái từ dưới chợ đi lên, chợ vẫn còn, đông đúc và trù phú hơn...thế nhưng không chú ý lại đi một vòng nhờ vậy mà có dịp biết trường Trung học cơ sở TPK nhưng sau cùng rồi cũng đến nơi...
 
Đứng bên nầy đường hai cô cháu tha hồ quan sát và chụp hình... Trường đã cất lại rộng rãi khang trang hơn, sân cũng lớn hơn có lẻ người ta phát triển diện tích trường thêm, thật tình qua 44 năm trí nhớ không tinh tường nữa, chỉ nhớ ngày ấy văn phòng gần cổng, phía sau trường là một khoảng đất rộng cây cối nhiều đa số là cây chuối... ở đây có lần trong khi chờ học sinh chép bài tôi ra cửa sổ ngắm cảnh thì phát hiện Thầy Hiệu phó đứng "rình" nghe cô giáo Văn mới về giảng bài !! (Lúc đó thầy còn độc thân và nghe bác lao công nói ... thầy vui tính... chưa vợ...!!) Hèn gì bác lao công, ông Hiệu Trưởng và ông chủ tịch xã kêu gọi cô giáo chuyển hộ khẩu về đây sẽ cấp đất cho !!
 
Bao nhiêu ký ức lại ùa về. Nhớ đám học trò quê  ở cách Sài gòn chỉ hơn 40kms mà chưa từng biết thành phố SG ra sao, muốn đến thăm cô phải nhờ người dẫn đường ! Tuy dạy các em mới có hai tháng mà các em cũng quý mến xin cô nhận làm em nuôi như Hưng, Hoa, Tuấn....! Nhớ những buổi sáng đến trường vừa quẹo từ ngã ba Búng vào là đã có học trò kêu ơi ới tháp tùng theo, cô giáo đạp xe ở giữa chung quanh là học trò, vừa chạy xe vừa nói chuyện rôm rã quên cả mệt nhọc lẫn đường xa....
Không còn đồi dốc, không còn nhà tranh và nhất là không còn những đám bò con, nai con chạy tung tăng trên đồi ăn cỏ có khi rượt đuổi nhau trông thật nên thơ vui mắt....Ngồi sau lưng Ti kể cho cháu nghe kỷ niệm cũ mà ngỡ như nói với chính mình ! Chắc chắn sẽ không bao giờ có dịp gặp lại các em cũng như nghe các em kể lễ tâm tình những nỗi khó khăn hay bức bách của cuộc sống cực khổ hàng ngày, những "đương đầu" quá sớm với chế độ vừa mới lên nắm chính quyền chưa được một năm...Cũng giống như các gia đình học sinh ở Bạc Liêu nhất là những gia đình từng tham gia cách mạng hay nuôi quân kháng chiến bây giờ lại bị cắt đất chia ruộng, lại chịu sưu cao thuế nặng vì "nước còn nghèo mới bắt đầu độc lập"...Bài hát nầy mãi tới bây giờ vẫn còn !! Có em còn thật thà kể lại những đối phó của gia đình mình với chính quyền địa phương trong đó có em còn lôi cả quần áo lính VNCH ngang nhiên mặc ra tiếp chủ tịch xã.,nghe thật buồn cười mà cũng ngậm ngùi, nhiều lần tôi muốn nói với các em đã muộn mất rồi !! Các em còn tự thú gia đình không sợ vì chính nhờ những gia đình nghèo nầy đã cung cấp nuôi dưỡng cho quân đội CS nằm vùng kháng chiến, tht là oái oăm
Bây giờ về thôi, Ti nói nhịn ăn sáng để bụng đói qua Khu du lịch sinh thái Vườn Bưởi ăn trưa vì ăn sáng sẽ no không thưởng thức món ngon được nhiều và trên đường qua Vĩnh Cữu Đồng Nai sẽ ghé Làng Tre Phú An cũng tiện
NM Phan thị Ngọc Diệp

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Chào Tháng 10

Hương lưu ly,
Ngày gió thổi, hương lưu ly thơm ngát,
Cánh đồng xưa thấp thoáng bóng dáng anh...
Hoa lưu ly mãi mãi sắc tím xanh,
Hương quấn quýt như tình anh vương vấn !
NM

Níu giữ mùa hoa bay đi

Cho đến tận bây giờ khi tôi hai mươi, tôi vẫn không hình dung ra khuôn mặt của người bạn thuở nhỏ bởi vì chúng tôi hoàn toàn chia cách. Lần duy nhất tôi gặp cậu-lúc-trưởng-thành là vào đêm sinh nhật tuổi mười tám.
Chúng tôi học cùng nhau những năm cấp một và tìm thấy ở nhau những sở thích chung. Bố tôi và bố cậu ấy làm việc cùng một công ty. Nhà sát vách. Cậu ấy thích hoa lưu ly. Và tôi cũng thế. Cứ mỗi độ đông sang, vào khoảng đầu tháng mười, lưu ly nở tím biếc khắp phố phường. Hoa vừa nở, tôi cùng cậu lang thang các con phố quanh co nhặt những bông hoa cánh tím lẫn trong đám cỏ hoang dại về bỏ trong chiếc hộp gỗ vì hoa sẽ tàn trước khi mùa giá rét kéo đến.
Tôi còn nhớ cái ngày mà cậu chuyển đến khu phố tôi ở. Cậu đứng thật lâu và nhìn chằm chằm sang nhà tôi, lúc đó tôi đang mặc quần áo cho búp bê. Ngày hôm ấy có rất nhiều gió, gió thổi bay chiếc mũ len của tôi ra tận ngoài cổng. Khi tôi chạy ra, chiếc mũ nằm gọn trong tay cậu. Chúng tôi thân nhau từ dạo ấy.
Tôi khá nhút nhát, ít bạn bè nên cậu là người duy nhất tôi có thể chia sẻ tất tần tật những chuyện trên trời dưới đất: cup cake hay custard loại nào ngon hơn, phố xá giờ tan tầm đông không thể tả, không khí trên xe buýt luôn ngột ngạt, cùng nhau ngắm hoa rơi… Giờ ra chơi chúng tôi hay ngồi dưới gốc cây bàng đọc truyện cho nhau nghe chứ không tụm năm tụm bảy như những đứa bạn khác.
Dạo này bố tôi bận rộn cả ngày, dù bố tôi và bố cậu làm việc cùng cơ quan nhưng chức vụ khác nhau. Bố thường xuyên về trễ, những bữa cơm tối quay quần ít dần đi. Mẹ cậu thi thoảng cuối tuần nấu chè long nhãn và mời tôi qua ăn. Chúng tôi cặp kè suốt ngày, vô cùng tự nhiên. Một tình cảm trong sáng chợt dâng lên trong lòng tôi. Chúng tôi còn quá ngây thơ để hiểu tình cảm ấy là gì nhưng có một điều chúng tôi biết rõ chúng tôi quý mến nhau và cần nhau. Chỉ vậy thôi. 
Ngày hôm ấy có rất nhiều gió, gió thổi bay chiếc mũ len của tôi ra tận ngoài cổng. Khi tôi chạy ra, chiếc mũ nằm gọn trong tay cậu.
Và chúng tôi hy vọng lên cấp hai sẽ tiếp tục học chung trường. Nhưng điều đó lại không diễn ra. Một tối cuối hè cậu đột ngột qua nhà tôi báo tin rằng sau khi học hết lớp năm gia đình cậu sẽ chuyển đi nơi khác. Còn một tuần nữa là năm học kết thúc. Tôi có chút hụt hẫng, ngồi lặng im. Không biết phải nói gì ngay lúc này. Tiếng xe cộ từ ngoài đường vọng vào làm đầu tôi như muốn nổ tung.
Sẽ buồn biết bao nhiêu khi không có cậu bên cạnh rong ruổi trên con đường ngập tràn sắc tím của loài hoa lưu ly mỗi khi đông sắp về, màu tím buồn bã nhưng không ủy mị, hoang sơ nhưng toát lên vẻ chân thực đến lạ lùng.
Ngày lễ tốt nghiệp, cậu đứng phía trên nhận phần thưởng vì cậu là học sinh duy nhất đạt loại xuất sắc. Tôi đứng trong hàng ngũ lớp mình nhìn cậu rực rỡ trong bộ đồng phục màu xanh da trời, lòng không khỏi dâng lên cảm giác xuyến xao. Lễ bế giảng chấm dứt, chúng tôi đi loanh quanh đâu đó. Mỏi chân, chúng tôi ngồi ở bến xe buýt, không đợi xe mà chỉ ngắm mọi người qua lại.
Sau hơn hai giờ đồng hồ, ba bốn chiếc xe dừng lại nhưng khi thấy chúng tôi không có dấu hiệu leo lên, xe chạy tiếp. Đôi lần xe thả khách ở bến mà chúng tôi đang ngồi. Cậu đột nhiên lên tiếng, bảo rằng tôi đừng buồn. Chúng tôi sẽ gặp lại nếu có duyên. Cậu nói lời tạm biệt và thò tay sang nắm lấy tay tôi, siết nhẹ. Tôi để yên tay mình trong tay cậu, cảm giác như mất đi điều gì thật thân thuộc. Trước khi chia tay để vào nhà, cậu nói rằng sẽ gửi thư cho tôi ngay khi chỗ ở mới ổn định.
Cậu đã giữ đúng lời lứa. Một ngày mùa đông giá lạnh, tôi nhận được thư cậu trong hòm thư trước cổng nhà. Lúc nhìn thấy bức thư đề tên cậu, tôi đã vui sướng nhảy cẫng lên. Tôi vui đến mức quên cả việc thưởng thức món bánh kem mà mẹ cất công làm suốt cả buổi chiều. Tôi nhốt mình trong phòng, đọc đi đọc lại lá thư hàng chục lần. Tôi còn kẹp nó trong quyển sách và đem lên trường. Giờ ra chơi lại lôi ra đọc, vừa đọc vừa cười mỉm chi. Từng câu từng chữ tôi thuộc nằm lòng.
Mùa đông ở đây lạnh kinh khủng, dù tớ đã mặc ba bốn lớp áo vẫn thấy cái lạnh bủa vây. Vì lạnh nên ngại ra đường, cảm thấy mọi vật xung quanh như đóng băng. Tớ thích mùa đông ở nơi cậu hơn, không quá rét mướt. Cậu vẫn khỏe, đúng không? Tớ đang dần thích nghi với cuộc sống mới và mọi việc diễn ra ổn thỏa, cậu đừng bận tâm nhiều… Mong nhận được thư hồi âm của cậu.
Cuối thư cậu còn vẽ hình mặt cười và một trái tim bé xíu tô màu hồng. Câu chữ cậu viết có phần chững chạc và người lớn. Tôi đang tưởng tượng trong đầu hình ảnh cậu của nhiều năm về sau. Trong thư cậu không nhắc gì đến tôi ngoại trừ câu hỏi thăm sức khỏe tôi, sau đó cậu liệt kê những nơi cậu đi qua và khám phá, những con đường, những ngôi nhà lợp mái ngói đỏ, những món ăn…
Tôi vừa buồn lại vừa vui mừng. Cậu đang sống tốt khi không có tôi bên cạnh. Nhưng tôi vẫn cho rằng cậu vẫn nhớ tôi sau những giờ lang thang phố xa nếu không thì tại sao cậu lại viết thư cho tôi? 
Mùa hè năm lớp Tám, tôi không còn nhận được lá thư nào từ cậu nữa. Một tháng, hai tháng rồi ba tháng.
Tôi viết ngay lá thư dài khoảng một trang hồi âm cho cậu như địa chỉ mà cậu ghi ở ngoài phong thư. Kể từ đó chúng tôi có lời hẹn mỗi tháng viết thư cho nhau một lần, chia sẻ những điều mà chúng tôi nhìn nhận, thấu hiểu, những điều diễn ra xung quanh mình. Nhờ vậy mà cuộc sống tôi trở nên tươi tắn. Giờ học thể dục buồn tẻ vì phải chạy bộ một mình, những trò bắt nạt của đàn chị khóa trên, những lúc trực nhật bị bạn bè tát nước vào người…
Tất cả những điều ấy tôi đã học cách chịu đựng và vượt qua khi mà trước đây tôi luôn có cậu bênh vực và bảo vệ. Tôi không viết vào trong thư vì không muốn cậu thêm phần muộn phiền. Tôi là đứa trẻ sắp sửa trưởng thành và tôi nghĩ mình cần phải mạnh mẽ để gặp lại cậu. Không biết cậu-của-nhiều-năm-sau sẽ thế nào nhỉ?
Mùa hè năm lớp Tám, tôi không còn nhận được lá thư nào từ cậu nữa. Một tháng, hai tháng rồi ba tháng. Bao mùa đông nối tiếp. Hoa rơi hoa rụng ngập lối. Tôi vẫn không có lấy một chút tin tức nào về cậu. Cậu biến mất không để lại chút dấu vết nào. Bố tôi tìm cách liên lạc với bố cậu nhưng hoài công. Những lá thư tôi gửi tôi cũng không biết cậu có nhận được hay chưa, nếu nhận rồi sao cậu không trả lời? Mẹ tôi nói chắc cậu đã có bạn mới nên không còn nhớ gì đến tôi nữa và bảo tôi đừng buồn, vô ích thôi. Tôi nghĩ, có lẽ vậy.
Lần cuối cậu gửi thư cho tôi, cậu kể về trường học mới, bạn bè mới bằng những dòng chữ hưng phấn. Họ cùng nhau đi picnic, tán gẫu hàng giờ liền dưới gốc anh đào cổ thụ, cùng nhau thả hoa đăng mỗi dịp trung thu về hay ngắm pháo hoa vào đêm giao thừa…
Rồi cuối cùng tôi cũng quên lãng cậu.
Cho đến năm học tuổi mười tám, tôi luôn mơ những giấc mơ kỳ lạ. Lạ ở chỗ hình ảnh, địa điểm, con người tôi gặp trong mộng đều như nhau. Địa điểm là bãi cỏ hoang dại ở phía sau trường học, tôi nhìn thấy chàng trai áo trắng, mùi hương lưu ly phảng phất. Chàng luôn đứng xoay lưng về phía tôi, không cho tôi xem mặt.
Giấc mơ vào đêm tháng Mười, gió buốt từng cơn. Chàng trai mang mùi hương lưu ly bước lại gần tôi, đeo chiếc mặt nạ cũng màu trắng nốt. Tôi chưa kịp nói gì thì chàng trai nắm tay tôi bay vút lên bầu trời. Tôi thấy mình mọc ra đôi cánh. Chúng tôi bay qua những tòa cao ốc, những ngọn đèn chằng chịt dây điện. Thành phố chỉ còn là một chấm nhỏ xíu, cách xa tôi đến hàng ngàn năm ánh sáng. Còn tôi lại đang rất gần những vì sao. Tôi còn có thể chạm vào chúng. Một luồn khí lạnh chạy xẹt qua người khiến tôi chao đảo như sắp rơi. Chàng trai áo trắng nhanh chóng níu tay tôi lại. Một sự ấm áp len nhẹ trong tim.
Chim nhỏ là tôi và chàng trai bay xuyên qua các tầng mây, bắt gặp ánh trăng huyền ảo. Ánh sáng trong vắt như giọt sương của vầng trăng tỏa ra khiến không gian mát dịu. Trong tôi trào dâng niềm phấn khích. Tôi còn chưa kịp tận hưởng hết niềm vui ấy, chàng trai đưa tôi trở về nhân gian…
Giấc mơ kết thúc. Tôi choàng tỉnh, mồ hôi đầm đìa. Cạnh chiếc gối là một bông lưu ly màu tím.
Không chỉ trong giấc mơ mà ngay cả ban ngày, tôi dường như thoáng thấy bóng trắng cứ lượn lờ những chỗ có tôi và nhiều lần giải nguy khi tôi gặp vận xui. Ví như một ngày mưa tầm tã, tôi quên mang ô. Sân trường vắng tênh, còn lại mỗi tôi. Chiếc ô màu tím hoa cà để trên lan can hành lang có đề tên tôi. Chung quanh tôi chỉ là màn mưa giăng kín. Hương hoa lưu ly thoang thoảng đâu đây.
Một lần khác, tôi sơ ý làm rơi cây viết máy mà bố tặng. Tôi quay lại để nhặt, không để ý chiếc mô tô phóng nhanh từ đằng xa. Hoảng hốt, tay chân tôi cứng đơ. Người đi đường hét lên. Tôi ngất đi. Khi tỉnh dậy tôi thấy mình nằm trong lùm cỏ, đầu gối lên tảng đá. Vẫn là mùi hương ấy, choáng ngợp tim tôi đến mức không thở nổi. Tôi bắt đầu sợ hãi và bất an trong lòng, thậm chí có đêm tôi thức trắng, không dám ngủ. Hai tròng mắt cứ nhìn chằm chằm ra bên ngoài ô cửa. 
Tôi bắt đầu sợ hãi và bất an trong lòng, thậm chí có đêm tôi thức trắng, không dám ngủ. Hai tròng mắt cứ nhìn chằm chằm ra bên ngoài ô cửa.
Hai tuần nữa lưu ly sẽ tàn. Thời điểm lạnh nhất trong mùa dần bước sang. Tôi đã giải đáp được giấc mơ kỳ lạ của mình. Chàng trai áo trắng chính là cậu bạn năm xưa mà tôi vô tình lãng quên chỉ vì nghĩ rằng cậu có bạn mới và không cần đến tôi nữa. Nhưng tôi đã nhầm. Cậu đã ở bên tôi suốt đêm sinh nhật lần thứ mười tám. Khoảng thời gian ngắn ngủi đó, tôi không thể chạm vào người cậu.
Trong một lần hiến máu nhân đạo, cậu bàng hoàng nhận ra máu của cậu không thể sử dụng cho bất kỳ ai. Căn bệnh ung thư quái ác rút dần sức lực cậu. Đã có rất nhiều lần cậu gắng gượng mang lá thư ra bưu điện gần nhà để gửi cho tôi nhưng lần nào cậu cũng đều lịm đi. Mọi công sức, thuốc men của bác sĩ đều vô nghĩa.
Cậu ra đi vào một đêm gió lạnh não nề. Vì không nỡ rời xa tôi nên linh hồn cậu cứ mãi vương vấn nơi hồng trần. Nghe xong câu chuyện cậu kể, tôi tự cảm thấy mình là một người bạn tồi tệ. Giá mà khi ấy tôi không quá vô tâm…
“Bây giờ tớ có thể thanh thản đi được rồi…” Cậu đặt bàn tay mình lên tay tôi. Những ngón tay không còn đan vào nhau. Cậu bảo tôi nhắm mắt rồi cậu cúi xuống. Có lẽ là nụ hôn tạm biệt, tôi nghĩ vậy và khép mi lại. Cánh hoa lưu ly tan nhẹ trên bờ môi.
Khi tôi mở mắt, cậu đã biến mất. Lần này cậu đi thật sự, không kịp đợi tôi nói lời xin lỗi. Những bông hoa tím ngát ngập trong gian phòng.
Hoa lưu ly còn là biểu tượng của những cuộc tiễn đưa không hẹn ngày về. Lần cuối cùng trước khi tàn, hoa bung nở thật đẹp. Mỏng manh. Dịu dàng. Như ký ức nụ hôn đầu chạm rất khẽ trên môi. Cơn gió thoảng qua, những cánh hoa bay tả tơi. Tôi đưa tay níu giữ. Cánh hoa tuột dần khỏi tầm tay, bay mãi lên thiên đường.
Quách Thái Di 

 Chỉ là Duyên !
Hãy sống tốt như những gì
Người đã dặn...
Duyên không dài, duyên chỉ được năm năm...
Biết bao nhiêu kỷ niệm âm thầm,
Lòng ôm ấp chờ một ngày
Ta trao lại,
Người đã đi xa và xa mãi...
Ta đã yêu nhưng ta vẫn cách xa,
Duyên năm năm nhưng duyên vẫn mặn mà
Ta không gặp
Nhưng cuộc tình luôn thú vị !!
NM

Đến, đi và để lại

Email ngày 1 tháng 9 năm 2025
Thưa bà, 
Cháu tự giới thiệu cháu tên là A. Cháu nghĩ bà sẽ không hỏi lại cháu là ai và bà biết hôm nay là sinh nhật 18 tuổi của cháu, ngày được phép mở phong thư kỷ vật của ba cháu vì ông di chúc như thế
Thưa bà, trong phong thư ấy có một điện thoại cũ, sản xuất cách đây 15 năm, một cuốn sổ ghi chép và một lá thư viết tay
Cháu trích đoạn thư liên quan đến bà:
“Nếu con muốn biết về cuộc đời của ba thì con hãy email cho một người ở địa chỉ... Nếu người ấy còn sống, bà ta sẽ kể cho con nghe về ba và sẽ trao lại cho con những gì ba đã viết trong thời gian làm bạn với bà ấy, có lẽ hơn 500 truyện ngắn. Nếu mở được điện thoại con sẽ đọc được toàn bộ nội dung ba và bà ấy trao đổi với nhau trong năm năm. Ba không xóa một đoạn nào hay bất kỳ hình ảnh gì. Có những đoạn nhạy cảm nhưng ba nghĩ đó là cần thiết vì nó gắn kết tình yêu giữa hai con người trong thế giới ảo. Tuy nhiên, ba không hy vọng con sẽ khôi phục được những dữ liệu trong điện thoại và ba không để lại địa chỉ trang cá nhân cùng mật khẩu để con có thể vào bằng máy tính. Nếu có duyên, con sẽ làm được mọi thứ”.
Bà là ai? Hiện ở đâu? Cháu chưa mở được điện thoại vì nó quá cũ, không biết còn tương thích với bây giờ hay không vì năm năm qua các ứng dụng được liên tục cập nhật mà nó lại ngủ yên. Nếu có duyên cháu sẽ nhận được thư hồi âm của bà. 
Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 5 phút.
Chào cháu,
Ta ngồi đây đã năm năm từ khi ông ấy mất chờ đến ngày cháu đúng 18 tuổi.
Trước tiên cho ta gửi lời chúc mừng. Chắc bây giờ cháu đã lớn và xinh đẹp lắm. Ta chỉ biết cháu qua hình ảnh trong thời gian quen với ông ấy mỗi lần ông đi thăm cháu về. Ta tin chắc hôm nay nhận email của cháu. Đúng là duyên như ông ấy nói.
Ta hiện ở một nơi mà cháu sẽ biết trong những tài liệu ta sẽ gửi cho cháu.
Hãy trả lời ta hai câu hỏi sau:
1. Mẹ cháu khỏe không, bà ấy có gia đình mới chưa? Nếu có gia đình mới thì cháu có em không?
2. Hiện giờ hai mẹ con cháu ở đâu?
Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 5 phút.
Thưa bà,
Cháu cám ơn bà đã trả lời thư của cháu. Thật đúng là duyên, bà nhỉ!
Về hai câu hỏi của bà:
1. Mẹ cháu không lập gia đình mới.
2. Hai mẹ con cháu vẫn ở L. nhưng không phải ngôi nhà ngày xưa ba cháu đến mà cháu nghĩ bà biết vì cháu nhớ mỗi lần đến ba có chụp rất nhiều hình, nói là gửi cho một người. Khi ấy cháu còn bé quá, bây giờ thì cháu đã rõ.
Thưa bà, bà có tài khoản trang abdc.com không? Nếu chưa, bà hãy tạo một tài khoản, cháu và bà sẽ trò chuyện với nhau tiện hơn. Bà đồng ý không?
Bà nhập số điện thoại... sẽ ra trang của cháu. Cháu muốn nói chuyện trực tiếp và thấy hình ảnh bà.
Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 5 phút.
Chào cháu,
Ta rất mừng vì mẹ cháu vẫn khỏe. Từ ngày ông ấy mất, ta đã xóa trang cá nhân và không tham gia mạng xã hội nữa, chỉ trao đổi qua email. Những gì về ông ấy trên trang mạng xã hội cũ ta giữ lại trong tim, từng lời, hình ảnh, giọng nói qua các clip ngắn... Ta không chắc cháu mở được điện thoại của ông ấy.
Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 5 phút.
Thưa bà,
Đúng là không thể khởi động được điện thoại bà ạ. Bạn trai cháu đã làm hết cách. Bà hãy kể cho cháu những gì liên quan đến ba cháu như trong thư ông ấy để lại.
Cháu đợi thư bà.
Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 15 phút.
Ta quen ông ấy năm ta 60 tuổi. Ông ấy nhỏ hơn ta 5 tuổi. Một đêm khó ngủ, ông ấy lang thang và gặp ta, vài câu chào, hỏi thăm, giới thiệu rồi quen nhau và trò chuyện hằng đêm.
Ông ấy là bác sĩ làm việc trong một bệnh viện nhỏ, ở B. Công việc ở bệnh viện luôn căng thẳng, ông ấy gần như thường xuyên bị stress.
Trong tuần đầu tiên biết nhau ông ấy thổ lộ câu chuyện riêng tư về người bạn gái cũ có với ông ấy đứa con gái. Năm năm trước họ chia tay vì những cãi vã liên tục xảy ra trong cuộc sống. Bạn gái cũ đã mang con gái đến L. Từ ấy đều đặn mỗi tháng ông đến L. thăm con. Hai tháng trước đó ông và bạn gái cũ rất căng thẳng, cô ta không cho ông gặp con gái nữa. Tuần sau con gái nhập học năm đầu tiên đồng thời có sinh nhật của con gái, ông hỏi ta phải làm sao?
Ta đã cho ông ấy những lời khuyên, điều quan trọng là phải biết bình tĩnh và kiềm chế. Không hiểu sao, chỉ qua vài dòng trao đổi ta hiểu được ông ấy là một người nóng tính, khá nguyên tắc và cầu toàn.
Cháu sẽ thấy niềm hạnh phúc của ông ấy trong một email mà ông ấy gửi cho ta và cám ơn về những lời khuyên của ta. Rồi từ đó ta và ông ấy thân hơn, bất cứ chuyện gì ông ấy cũng kể cho ta nghe.
Năm đau khổ nhất trong cuộc đời ông ấy là mẹ cháu mang cháu ra đi, không thể nào hàn gắn được tình yêu giữa hai người. Cũng năm đó, mẹ ông ấy mất. Khi bà không còn, các thành viên trong gia đình gồm ông cháu và hai người cậu trở nên xa cách. Ông nội cháu có bạn gái và đưa đi nơi khác sinh sống. Mỗi năm ông ấy về quê một lần nhưng hầu như không trò chuyện thân mật với ai. Phần vì, ông ấy là người sống khép kín, ít hòa đồng, lại khó tính. Phần vì các cậu của cháu là nông dân nên nói chuyện không hợp.
Ông ấy bị hai chứng bệnh thường xuyên là đau đầu và tức ngực do tiền sử bệnh suyễn. Bảo là đau khủng khiếp lắm, thường về đêm, vào mùa đông lúc nào vòng ngực cũng như bị bó chặt. Mỗi lần đau đầu ông uống liều giảm đau khá cao và trong thời gian chờ thuốc ngấm để ngủ thì ông ấy lại trò chuyện với ta.
Có một câu chuyện khá vui và dễ thương là hôm ấy ông bảo ta cho 5 mốc thời gian từ năm 1978 đến 2015, ông ấy sẽ kể ta nghe một chi tiết liên quan.
Ta đưa ra tháng 12 năm 1979. Ông ấy viết: Giáng sinh năm ấy, ông và hai người bạn gái chui vô tủ áo, cắt bánh kem và ngồi trong đó ăn hết cái bánh kem. Ta mới hỏi: Sao lại chui vào tủ áo? Ông ấy trả lời: Không có lý do gì hết, chỉ là điên khùng của tuổi trẻ thôi.
Mốc thứ hai ta đưa ra là tháng 10 năm 1995. Ông ấy nói chi tiết nhớ nhất là chia tay người bạn cũ mà không biết lý do chia tay là gì, từ đó không gặp lại nhưng nhớ mãi gương mặt rất buồn của người bạn. Cũng năm đó mẹ bị ốm nặng.
Mốc thứ ba ta đưa ra là tháng 1 năm 2007. Ông ấy viết năm đó A. được tám tháng, bận bịu tối mặt nên không có chi tiết nào đáng nhớ...
Rồi tháng 5 năm 1983. Ông ấy cho biết nhớ nhất là đi đá banh ở bờ biển với một đám bạn phá như quỷ sứ. Sau đó thì cả bọn cứ thế mà chạy trên bãi cát như một lũ điên đến khi mệt nhoài thì nằm lăn ra và mở rượu uống đến say mèm.
Những câu chuyện trong đêm cứ như vậy. Chuyện này sang chuyện kia.
Một hôm ta bảo ông ấy hãy viết tất cả những gì xảy ra trong đời ông ấy thành những truyện ngắn gửi cho ta đọc. Và thế là hai ngày cuối tuần ông ấy cắm cúi viết. Gần như toàn bộ cuộc đời ông từ bé thơ cho đến khi gặp ta.
Truyện ngắn cuối cùng có tựa “Đến, đi và để lại”, ông ấy viết về một mối tình năm năm chỉ qua internet, chưa một lần gặp mặt nhưng yêu cho đến ngày thế giới kết thúc. Bằng những con chữ trên màn hình điện thoại bé xíu mà hiểu và biết về nhau còn hơn sống chung một nhà.
Thư này ta chỉ nhớ nhiêu đó.
Cháu hỏi điều gì sẽ gợi ta nhớ thêm.
Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 5 phút. 
Thưa bà
Quả thật thú vị
 Cháu muốn hỏi vậy hai người có yêu nhau thật không? Bà có thể kể qua về hoàn cảnh gia đình của bà? Bà còn nhớ chi tiết nào liên quan đến cháu?
 Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 10 phút.
 Thật khó để trả lời là hai người yêu nhau thật không bởi có gặp mặt lần nào đâu mà khẳng định điều này. Tuy nhiên trong suốt năm năm, hằng đêm như vậy những câu anh yêu em hay em yêu anh được lặp lại không biết bao nhiêu lần. Nói yêu thì biết là yêu, còn tình yêu trong trường hợp này định nghĩa như thế nào thì ta thua. 
Chồng ta mất khi ta còn rất trẻ, ta có một con gái và một cháu ngoại bằng tuổi của cháu.
Có rất nhiều chi tiết liên quan đến cháu nhưng ta nhớ vài thứ như: Mỗi lần trước khi đi thăm cháu ông ấy rộn ràng lắm. Nhắc đi nhắc lại với ta cả tuần là ngày đó sẽ đi L. Có một lần, đi thăm cháu về gặp mưa bão, ông ấy bị ốm một tuần lễ. Gầy rộc, là ta cũng chỉ thấy qua tấm hình ông ấy gửi. Mặt nằm nghiêng, mắt trõm sâu, má hốc trông rất thảm não. Ta xem mà không cầm được nước mắt. Hai phương trời cách biệt, chỉ biết gõ những dòng chữ động viên, an ủi, bày cách tự chăm sóc hay cách nấu món ăn. Những ngày ông ấy ốm ta thấy thật là dài. Ta gõ chữ qua, ông ấy chỉ trả lời bằng biểu tượng cho biết đã đọc. Nhưng, thú thật với cháu, khi đó, ông ấy là của ta, bởi vì qua lời ông ấy kể ở bệnh viện có nhiều người yêu ông lắm nhưng ông ấy không yêu ai. Quả thật ta có lo sợ. Tình yêu quá mỏng mảnh, hư ảo, chỉ bằng trí tưởng tượng, không thể nào nắm giữ được trong tay.
Ta biết ông ấy chính xác ở nơi nào? Hình vóc thật, dáng đi, đứng, ngồi ra sao? Chỉ cần khóa tài khoản lại là ông ấy và ta mất dấu nhau. Biết tìm đâu trong cõi bao la này?
Một lần, ông ấy kể về chuyến du ngoạn của cháu ở trường học mà ông ấy cùng với mười phụ huynh tham gia giúp đỡ giáo viên. Hai tuần trước chuyến đi ông ấy vui lắm. Sau chuyến đi, ta và ông ấy giận nhau 2 ngày không nói chuyện, cháu biết lý do tại sao không? Trong một tấm hình ta thấy cháu viết tay trái. Ta mới hỏi là ông ấy thuận tay trái hay tay phải. Tự dưng ông ấy nặng lời với ta rằng không ai hỏi như vậy cả vì người ta quan niệm người thuận tay trái là người không thật lòng. Ta quả thực ngạc nhiên, không ngờ ông ấy mê tín và cổ hủ đến thế. Sau đó thì ông ấy thú nhận thuận tay trái nhưng viết tay phải. Đó là điều khó hiểu duy nhất nơi ông ấy mà ta không thể đồng cảm được.
Có những lần đi thăm cháu 4 ngày. Khi về ta hỏi chuyến đi vui không, ông ấy trả lời đúng một câu: Chơi với con, làm bài, đi ăn và xi nê. Bốn ngày chỉ bao nhiêu chữ đó.
Theo cảm nhận của ta thì ông ấy khá nghiêm khắc, kỷ luật và ngăn nắp. Một điều lạ là trong tất cả những hình ảnh gửi cho ta, chỉ hình chụp với cháu là ông ấy cười, còn hình chụp riêng không tấm nào thấy nhe răng. Ông ấy khắt khe và khó khăn với chính mình ngay cả một nụ cười!
 Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 5 phút
 Thưa bà,
Bà có còn nhớ gì về cái ngày cuối cùng trò chuyện với ba cháu không? Bà cảm nhận thế nào về tình trạng của ông khi ấy?

Email trả lời ngày 1 tháng 9 năm 2025 sau đó 15 phút. 
Thật ra ông ấy đã chuẩn bị cho cái ngày mà ông ấy vẫn gọi là “sign out” ra khỏi thế giới này một năm trước đó khi thỉnh thoảng ông ấy bảo với ta rằng cảm giác sức khỏe ngày một khác lạ. Những cơn đau đầu và khó thở thường xuyên hơn vào buổi tối.
Tuần lễ cuối cùng ông gửi cho ta một email viết rằng, hãy cố đợi đến năm cháu 18 tuổi và trao lại cho cháu toàn bộ email giữa hai người. Ông bày ta cách sắp xếp theo thứ tự thời gian, thành một câu chuyện, từ email cho đến bản thảo truyện ngắn.
Ta không biết thể xác ông ấy tiều tụy thế nào vì sau này ông ấy không còn gửi hình cho ta nữa. Mỗi lần ta hỏi đều bị từ chối. Thế nhưng tinh thần ông ấy rất tỉnh táo. Chuẩn bị đâu ra đó như bản tính con người ông vậy.
Ta sẽ gửi trả lại toàn bộ tài liệu cho cháu. Coi như ta hoàn thành nhiệm vụ mà ông ấy tin tưởng. Sau khi nhận được những tài liệu này, cháu nhớ hồi âm cho ta và ta sẽ xóa luôn tài khoản email.
Thay cho thư cuối cùng, ta cám ơn cháu đã thực hiện lời dặn của ba cháu. Ta chúc cháu hạnh phúc và sống tốt. Cho ta gửi lời thăm mẹ cháu, một người bạn gái cũ của ông ấy mà ta rất tò mò nhưng không bao giờ được ông ấy gửi cho xem hình. Ngoại trừ thông tin về một tấm hình ông ấy ôm cháu và bảo rằng người chụp là mẹ cháu, đó là vào sinh nhật lần thứ 55 của ông ấy.
Người ta đến với nhau rồi chia tay đều là duyên kỳ ngộ. Duyên nữa là được để lại. Điều cuối cùng ta muốn thổ lộ tuy nó mang tính ích kỷ nhưng ta không mong cháu mở được điện thoại. Ta muốn giữ mình ta câu chuyện riêng tư ông ấy đã đến, rời đi và để lại cho ta một trái tim nặng trĩu cùng khoảng trống mênh mông trong tâm hồn.
Ta cám ơn ông ấy đã cho ta công việc sắp xếp bản thảo và email trong thời gian chờ cháu lớn lên. Ông ấy luôn biết đặt ra và thực hiện kế hoạch không chỉ cho ông mà cho cả người thân.
Cuộc đời thú vị khi ta gặp được những con người thú vị. Người ta lướt qua đời nhau đôi khi chỉ một khoảnh khắc nhưng để lại nỗi nhớ khó quên. Ta và ông ấy có đến những năm năm, một quãng ngắn của đời dài để nói lên lời cám ơn cuộc đời ở cái tuổi bảy mươi này. Một cái duyên mà không phải ai cũng dễ dàng có được.
Cuối cùng, hãy sống đẹp như những lời căn dặn của ông ấy nhé.
Tạm biệt cháu. 
Đào thị Thanh Tuyền 

Mùa trăng vỡ,
Trăng tròn thôi đã qua đi,
Nhớ mùa trăng cũ ta thì bên nhau...
Trăng cao soi sáng mái đầu,
Và trăng sáng cả giàn bầu năm xưa,
Trải bao năm tháng gió mưa....
Người còn đi mãi vẫn chưa quay về
Còn đâu đâu ánh trắng thề,
Chỉ mùa trăng vỡ làng quê đang chờ !!
NM

 Mùa trăng vỡ
Không phải ba Hên sợ rượu. 
Với sức vóc vốn có, kiểu anh nông dân thời xưa cằm bạnh lún phún râu, ba Hên có thể cạn, cạn rồi nốc mà vẫn không nhằm nhò gì cái sợi thần kinh. Cuối cùng ba Hên có thể hiên ngang ngồi đếm những mái đầu đen có, muối tiêu lạt bạc có - xụm xuống trên chiếc bàn gỗ lốm đốm lỗ mọt và thức nhắm còn vương vãi là những trái sung chát quắn.
Nhà quê mà, ngoài lúc cật lực với công việc đồng áng sương pha nắng thấm, con mắt có thể nổ đom đóm vì nặng nhọc thì việc lai rai chén rượu thơm râu quả thật là thượng sách. Khà, rượu vào lời ra cho vơi bầu tâm sự, rượu vào đánh trót như nuốt đi cái vẩn vơ đời... 
Vậy mà ba Hên luôn thoái thác, ba Hên đã làm phiền chiến hữu sau những lời mời. Ba Hên đành xếp vào danh sách thằng cám lợn, bị trách cứ là kẻ bội nghĩa vong tình: “Mày về để làm giàu ư, mày nhớ là đã bỏ bao nhiêu vận rồi đó hả?”. 
Rượu vào lời ra, người ta có thể lôi tất tần tật mọi chuyện trên đời để ta thán. Nếu là người hiền lành sẽ có nước mắt rơi, là người nóng nảy sẽ trách giận chửi bới. Nông dân mà vò võ với suy nghĩ về đêm, dậy sớm với lịch dày trên đồng mưa nắng thì vui buồn một chút, nói một chút cũng... không sao
Họ nói về bản thân họ hoặc cho người khác, ví dụ: 
- Hà hà tớ mới tậu được xế nổ. 
- Nhà tám Lác đổ một mê, gớm! 
- Hai Ngái được cặp bò lục lạc vàng. 
- Hùm... vợ à, tao mà như mày tao bắn bỏ! 
Như người trúng đạn nếu ba Hên có mặt trên chiếu rượu, được vô tình xơi cái câu hằn học đấy. Không trách vì sao bởi họ quá thật thà, thẳng ruột đến vô tâm và cái đề tài “vì sao cớ sự?”. Cứ loanh quanh mãi sẽ làm con tim ba Hên vỡ nát. 
Nhiều người sinh ra lớn lên để ăn trắng mặc trơn còn như ba Hên đây... miễn bàn! Có lẽ cái tên cha mẹ cho anh cũng mong một điều hy vọng? Dù đã cố nhiều phen: vay tiền mua con nghé cắt cỏ đến cháy lưng mà cái vụ lở mồm long móng lại nhè vào con bò đang sức, đút sào vô bụi khi con H5N1 tấn côngmười con vịt cồ chín mươi vịt mái, chiếc cối 81 dựng bên nọc rơm tự dưng nọc rơm cháy, bà ve chai có thêm nụ cười... 
- Đi câu trúng toàn giẻ rách 
- Đi cày... gãy cày. 
Nhiều lắm kể không hết, gọi là xui bạt mạng cho nó chính xác....
*** 
Đến một ngày kia. 
Hồi ấy Thắm xinh thật, anh ví von về đôi mắt của Thắm khi viết trong thư (có nhiều lỗi chính tả) tựa như hai giọt sương trên lá bèo mỗi sáng. Anh bảo mỗi lần đi câu qua đầm sen là anh nhớ đôi mắt nàng. 
Răng Thắm đẹp lắm, anh hay ngồi xiết mía cho Thắm ăn khi đã về với nhau, tội tình làm sao đứa con gái sống lất lây cùng người bà mù lòa! Anh nghèo thương thân anh một thương Thắm gấp trăm lần. 
Mỗi mùa trăng, tiếng tiêu của anh đã làm bước chân Thắm đến gần, lung linh qua kẽ lá thứ ánh sáng huyền hoặc. Họ đã ngồi với nhau thật lâu với ước nguyện đơn sơ và riêng anh thầm ghi khắc không có thứ của cải nào có thể sánh được nụ cười của nàng. 
Và một mùa trăng không dễ quên, bóng hai người in xuống nền sân, trên giàn những quả bầu cũng in xuống nền sân huyền ảo cùng những trọn vẹn nồng nàn. 
Thắm bẽn lẽn duyên ngầm làm ba Hên ngẩn ngơ, anh không cho nàng gánh nước, không để nàng cấy lúa khi đã về với nhau. Những đêm trăng qua đi mang theo bao góp nhặt để làm giàu có thêm thứ tình yêu lung linh dưới bậc thềm đầy rêu xanh nghèo nàn. 
- “Thắm, em đồng ý chứ? 
Ba Hên nhảy cẫng lên, có thể bay vèo tới cung trăng  mà báo với chú cuội rằng niềm vui đã nhân đôi rồi nhé không như ngày trước một mình nằm vắt tay lên trán tìm xem bạn cuội đang lẫn vào mây. 
...Rồi một mùa trăng. 
Đó là đêm trăng càng không dễ quên, bóng hai người in xuống nền sân, trên giàn những quả bầu cũng in xuống nền sân mơ hồ cùng những bịn rịn không rời. 
Ngày mai anh sẽ để cho Thắm đi vì có thể nàng sẽ được an nhàn hơn. Con Rô (tên ở nhà) để lại cho anh, được mà. Nghĩ đến Thắm phụ với người ta bán hàng ăn đủ, mặc vừa, không phải nhổ có cấy rau tay lấm chân phèn là anh vui rồi. Anh là thằng có tiếng chịu khó nhất vùng, còn nỗi nhớ nàng sẽ khó lắm đây, anh sẽ cố... 
Và cho đến một mùa trăng... 
Anh sợ thứ ánh sáng bàng bạc, sợ tiếng gió rít qua giàn bầu. Những quả bầu trên giàn như những chiếc đầu lâu nghênh ngang dọa dẫm... Chiếc bóng anh in xuống nền sân lặng lẽ và tiếng tiêu dìu dặt bi ai chờ đợi... để gió cuốn đi lẫn vào mây cao làm trăng vụn vỡ. 
Anh không còn khái niệm về thời gian. Anh cuốc nhát đất dày hơn, nhát rựa cũng sâu hơn, giờ giấc đối với anh đã trở thành vô định. 
Anh mong người ta chóng quên chuyện thằng ba Hên xóm dưới, sợ lời con trẻ khi lơ ngơ hỏi về mẹ nó. Anh uống cái chất cay nồng ấy mỗi đêm một mình, đi nhanh qua vội nơi có nhiều người đang vui. 
Nhưng có một điều anh không thể làm khác đi được, không chạy trốn, không phủ lấp được đó là thứ ánh sáng miên man buồn của mùa trăng định kỳ: mùa trăng vỡ! 
LÊ MỸ THẠNH

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2019

Nhạc - Thơ - Văn Tuyết hoa tửu


Ghiền Rượu (đọc)

Rao Bán Vần Thơ Say

Dâng người
Nâng chén rượu hoa hồng,
Kính dâng người cõi mộng...
Tiếc đêm nào tỉnh giấc,
Khóc nhớ người bên song !

Thương đoá quỳnh khoe sắc,
Rạng rỡ một đêm thôi...
Ngoài kia dù lạnh giá,
Quỳnh vẫn trắng tinh khôi !

Đây hương hoa hồng trắng,
Cùng men rượu yêu thương...
Kính dâng người đã khuất,
Mình một mình đêm sương !!
NM

Tuyết hoa tửu

Cánh trắng mảnh mai e ấp phô sắc ngọc dưới trăng sương. Bà Nội tôi ngồi ngắm đóa quỳnh trong khoảnh khắc sương trăng, hoa chợt rùng mình mãn khai.
Đêm lụa bạch, đêm dâng hiến của hoa và trăng. Gió thu thảng qua khiến nội rùng mình, kéo chiếc khăn lụa cuốn cho ấm cổ, đôi bàn tay thon gầy nhón vài mảnh trầm thả vào chiếc lư đồng. Khói trầm quyện gió phả vào đêm ngát dịu, bâng khuâng mơ hồ. Bằng giọng thanh thanh bà nội tôi xa vắng: “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/Xếp tàn y lại để dành hơi”.
Đôi mắt người vời vợi, ngân ngấn sương. Câu thơ Tự Đức khóc Bằng Phi thuở nào, vì quá nhớ thương mà đập vỡ tấm gương nàng từng soi mong thấy được bóng hình người ngọc trong đó. Xếp chiếc áo cũ nàng đã mặc đem cất kỹ, thi thoảng giở ra tìm lại chút dư hương. Bà tôi cắt nghĩa cho tôi rành rẽ, cứ sợ câu thơ của vị vua đa tình triều Nguyễn không nhập vào trí non nớt khờ dại của tôi.
Nhón nhẹ bước chân, bà lại gần cây hồng quế bên thềm đang thiêm thiếp dưới trăng. Cái cảm giác sợ tan bóng hoa khiến bà tôi khẽ khàng hơn, xa vắng vương mang đến tội tình. Trong màn sương ảo mờ vườn ngan ngát hương hoa hồng, hình như chúa hoa đang tấu khúc mê hương khiến lòng người ngơ ngẩn.
Bà thở dài nhìn chậu quỳnh bừng lên sức sống dưới đêm trăng. Chỉ một chút nữa thôi là quỳnh hương sẽ luân vũ sang kiếp khác. Kiếp hoa phiêu linh trong vũ trụ, trút phút trinh trắng ấp iu của đời mình dâng hiến cho nhân sinh rồi tan biến vào vĩnh hằng. Hoa hay trăng, sương hay hương mà bà rưng rưng niềm nhớ.
Khẽ khàng, người nâng bình tuyết hoa tửu chiết nhẹ xuống chiếc chén quân Bạch Định. Chiếc chén mỏng tang trong như ngọc lóng lánh dưới trăng. Bà thầm thì khấn nguyện lời mời hoa đêm nay. Cái cảm giác như có ai đang ở bên cùng bà đối tửu. Cánh hoa mềm lụa bạch, khoảnh khắc vi diệu, hoa thoát sinh chấp chới bay lên nghe cô liêu, rười rượi ngọc ngà. Một vẻ kiều mị u hoài nhưng không kém phần lộng lẫy.
Quỳnh hoa thổn thức dưới trăng, dâng hiến đến kiệt cùng. Nhìn quỳnh trắng tắm trăng bà tôi thẫn thờ. Tôi ngỡ ngàng thấy người cầm chén Tuyết hoa tửu tưới nhẹ xuống hoa, bằng cái búng nhẹ những tia rượu thơm ngào ngạt đã tắm lên đóa quỳnh.
Lễ tắm hoa kết thúc, ánh nhìn của bà tươi hơn, giọng người ấm và dịu hiền trở lại:
- Con có nhấp chút tuyết hoa tửu với bà không? Nhấp đi con ạ! Đây là rượu quý gia truyền nhà ta. Uống đi con sẽ gặp hương hồng bạch tao nhã, con sẽ thấy hồn mình bay lên... ừ mà con bé quá! Làm sao mà cảm nhận như ta được. Con đi ngủ đi! Sáng mai nhớ dậy sớm cùng bà ra vườn hái hồng bạch trước lúc mặt trời lên con nhé!
Tôi chìm vào giấc ngủ mà vẫn văng vẳng bên tai tiếng bà tôi ngâm Đường thi....
Vâng! Những đêm trăng bay qua đời ta bao giờ trở lại! Đêm quỳnh bà tôi lẻ loi rót rượu mời hoa cũng bay đi, bao đêm Đường thi vịnh hoa thưởng trăng của bà tôi với khách văn chương vẫn ăm ắp một niềm nhớ, cái cách mà nội tưới rượu cho hoa đau đáu trong tôi. Tuyết hoa tửu, thứ rượu quý ướp một đường viền huyền sử của dòng tộc được bà nâng niu tưới hoa ám ảnh tôi đến lạ kỳ.
Tôi lớn lên đã thấy nhà tôi nhiều rượu lắm rồi! Những hũ, vò, bình cổ rượu được chưng cất lâu năm vẫn xếp hàng, thiếp ngủ trong hầm rượu cạnh nhà thờ. Nhiều bình rượu bịt lụa đỏ ghi dấu bằng chữ nho viết thảo trên thân bình. Chỉ khi nào có khách quý những chiếc bình đó được đem ra tắm nắng, rót mời khách rồi lại chìm vào mộng mị.
Bà nội tôi là con gái nhà quan cũng theo đòi nghiên bút như con trai, được gả cho ông nội tôi một người hay chữ nhưng lại giỏi cầm chầu, say tiếng đàn đáy và giọng hát ca nương. Giấc phong lưu của ông Nội khiến bao lần bà rơi nước mắt. Nhiều đêm nhìn bóng mình trên vách bà lại buồn nhớ xa xôi.
Nhớ giậu tầm xuân biêng biêng đầu ngõ, nhớ bụi hồng cổ trồng kín vườn nhà, nhớ bãi dâu biếc xanh chiều nào có người hay chữ thường đi học trở về qua đó. Nỗi nhớ ập òa hiện về những ban mai. Bà cùng cụ tôi hái hoa hồng bạch ngậm sương, đặt khẽ vào làn mây, đem về ủ rượu. Cánh hồng bạch mịn màng tỏa hương trên mười búp ngọc của bà Nội tôi. Có bận sơ ý, gai hồng cứa vào ngón tay rớm máu, khiến người hái hoa xuýt xoa làm đau lòng kẻ đi học sớm ngang ngõ nhỏ.
Cụ tôi nghiêm cẩn dạy con gái nữ công gia chánh, bếp núc tầm tang khung cửi, vì không có con trai cụ còn dạy cả chữ nho và kiếm pháp cho con. Bà được thừa hưởng cái phong lưu quý tộc của nhà thế gia, nhưng con tim đa cảm của nghệ sĩ lại ngấm vào máu bà từ lúc nào. Bà say mê kiếm đạo, mê tuyết hoa tửu và Đường thi.
Nghe kể lại rằng có những đêm trăng sáng bà xách thanh thư kiếm đặt nghiêm cẩn trong thư phòng của cụ ra sân ngâu trước hiên nhà. Sau thế bái tổ, những đường kiếm vút vào sương đêm mềm mại như dải lụa, tựa bàn tay vũ nữ đang hái hoa lê. Bóng kiếm loáng sương lạnh, lay động bóng hoa ngâu như tuyết phủ mây bay...
Bà tôi say trong bóng kiếm đâu biết được có kẻ buông sách thở dài ở nhà bên. Đao kiếm vô tình hay giai nhân gấm vóc thờ ơ mà hàn sỹ ngậm nước mắt ôm mối sầu không giãi được cùng ai.
Thú ủ rượu hoa tao nhã quý tộc theo bà nội tôi về tới nhà chồng. Mùa nào thức ấy, khi những cơn gió nồm nam phe phẩy cánh sen trắng trong đầm nhà, nội lại chèo thuyền ngắt sen về ướp trà mạn. Cuối hạ chớm thu người lại gom hạt sen già đồ lên ngâm ủ tạo thành vò dã liên tửu mộng mị hồn văn nhân. Thu tưới nắng mật lên những giậu cúc hoa năm ngoái, người lại bòn hoa cúc đang cữ ngâm ủ thành Hoàng hoa tửu. Chén rượu thu rót ra sánh như mật, làm hồn hoa cất cánh trong thơ.
Đêm đông lạnh bà trầm tư bên chén rượu cúc mắt xa xăm về phương trời vô định mong tìm thấy bóng người xưa trong men cúc. Người ôm lều chõng vào tận kinh đô Huế dự thi. Khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn mà nghe đâu chưa một lần về cố quận. Hình như người vứt bút nghiên theo đoàn quân Việt Minh luồn rừng lội suối, để giấc hoa bay qua khung cửa và người con gái nhà bên đã hóa thành rượu hoa nhung nhớ.
Vườn nhà thật nhiều hoa nhưng bà tôi yêu nhất hoa hồng. Bà thường ấp iu cho các gốc hoa hồng cổ. Những gốc hồng được người thân tín của cụ tôi đem từ mạn ngược về. Theo chuyến bè nứa, bè gỗ về xuôi là những cây hồng bạch, phấn hồng được người Pháp nhân giống thành rừng hồng Sa Pa.
Do khí hậu dịu mát của vùng miền, nên chúa hồng đã tươi thắm trên đỉnh cao bốn mùa mây phủ đó. Người thượng đã không quản công bứng gốc hoa hồng cổ chuyển xuống chân núi. Các cây hồng được đổi bằng bạc trắng giờ xếp ngay ngắn trên bè gỗ xuôi về biển. Học trò cụ tôi yêu kính thầy cũng sưu tìm những gốc hồng Văn Khôi ngát hương dâng tặng.
Trời vào đông, hoa vườn nhà táp đi vì giá lạnh, nhưng những đóa hồng vẫn mơn mởn trong giá buốt. Hồng nhung thắp lửa giữa vườn. Vườn hồng nhà nội tôi thường có những họa sĩ về vẽ mẫu. Hoa hồng nhung thắm nở trên tay bà nội tôi mỗi khi bà ngắt, ngâm ủ thành hồng hoa tửu cho cụ tôi đãi khách. Nhưng mỗi lần ngắt hồng đỏ bà lại gặp ánh nhìn thăm thẳm đớn đau của em gái mình. Ánh nhìn ấy ám ảnh bà, bà bối rối như thấy mình có lỗi.
Cô em gái hiền xanh xao mảnh mai như một cánh quỳnh, ánh mắt lá đào đen láy rủ mi buồn, chỉ lấp lánh ánh mắt tươi vui mỗi lúc có họa sĩ từ kinh kỳ về vẽ hồng nhung. Má cô phớt hồng như hoa đào đi bên cạnh họa sĩ vẽ hoa trong vườn. Mùa xuân chỉ bung biêng với cô chốc lát. Người trẻ tuổi ấy thường mỉm cười với cô mỗi khi cô đưa tay chỉ những bông hồng đẹp.
Cô yếu đuối nhút nhát, hay ngồi trong khung cửi đọc sách và mê đắm sắc hồng hoa. Có ai ngờ cô đổ bệnh thật nặng vì thời gian dài không thấy họa sĩ trở về. Nhớ thương khắc khoải, cùng khúc tương tư đã giết chết trái tim non trẻ của người con gái đó. Phút lâm chung, người em gái ấy đã thều thào cùng nội:
- Em xin chị đừng hái hồng hoa ủ rượu nữa nhé! Màu đỏ ấy như màu máu của tim yêu, em muốn vườn nhà mình lúc nào cũng tươi thắm sắc đỏ để họa sĩ lại về vẽ hoa hồng nhung. Chị ơi! Em nhớ người ta lắm! Nhưng em không chờ được nữa rồi.
Bà nội tôi đau đớn khi bàn tay của người em gái yêu cứ lạnh dần.
Những cây hồng đỏ trong vườn nhà chít khăn trắng, hồn trinh theo gió mây. Hoa rũ xuống trong mùa đông năm ấy!
Dù được nâng niu chăm sóc rất chu đáo nhưng những gốc hồng nhung cứ dần tàn lụi, như chưa từng có sự sống trong vườn nhà nội. Hình như hoa cũng đi theo gió mưa, mang theo bao ân tình còn dang dở. Nội nhớ thương em gái đến thắt lòng. Bà cố gắng chăm gốc hồng nhung, cầu xin hồng hoa trở lại vườn nhà.
Vườn nhà giờ chỉ còn hồng bạch nhắc nhớ và xa xôi. Bao cánh hoa tàn phai sang kiếp khác, nhưng những ngày giỗ của em gái, nội tôi lại lên phố huyện mua về những đóa hồng đỏ dâng lên bàn thờ. Bà tin rằng đang ngắm hoa ở cõi bên kia chắc em gái cũng mỉm cười trước sắc đỏ tươi thắm của hồng. “Ai bảo em là giai nhân cho lệ tràn đêm xuân...”. Ai bảo em khờ dại để hồn trinh vướng víu lệ phong trần.
Một ngày kia hoàng hôn buông trên con ngõ nhỏ, có người ôm giá vẽ trở lại vườn xưa với một cánh tay. Người ấy từ chiến trường trở về, anh gục xuống trước khu vườn không còn bóng người thanh nữ năm nao nữa. Họa sĩ đớn đau thắp nén hương lên bàn thờ người yêu. Tóc ông chợt trắng xóa từ lúc nào.
Nội tôi chẳng còn bao giờ ngâm hồng hoa tửu nữa, nhìn sắc đỏ của hoa bà lại thở dài. Tiếng thở dài ấp đầy nước mắt, ấp bao muộn phiền xót xa người em gái bạc phận. Nhìn những cánh hồng bạch trong vườn cứ cồn dậy trong lòng bà sự thương nhớ cánh hoa cô liêu. Hồng bạch trinh trắng như sương tuyết tao nhã vô ngần nên nội tôi kỳ công dành cho thứ rượu này.
Hoa hồng bạch ngậm sương mai được ngắt vào, lặt sạch cuống, nương nhẹ từng cánh hoa ngát hương thả vào chiếc bình gốm bạch men Mạc Phủ. Rượu nếp Vò Di chưng cất hai lần cho hết độc tố ủ trong lòng đất lâu năm được đem lên. Đất trời se lạnh, rượu tỏa hương khí mờ sương khói. Cánh hoa trắng mảnh mai tinh khôi tựa cánh bướm trắng đậu nhẹ xuống đáy bình, một vài cánh như bay lên vướng vào thành bình.
Hương lúa nếp quyện hương hồng bạch thanh khiết, mật ong rừng vàng như mùa thu tỏa nắng thấm vào rượu, hoa. Mật, rượu, hoa ủ thành men cất cánh bay lên trong những đêm thanh vắng, lãng đãng hồn văn nhân khi sao mờ nguyệt lặn, hoặc rạng ngời trong tiếng gà gáy gọi bình minh. Hồng hoa tửu đã ngủ yên trong kiếp phù du, thương nhớ và mộng mị bảng lảng phách trinh phiêu bồng trong giấc hoa. Bình tuyết hoa tửu này vơi, bình tuyết hoa tửu kia lại được xếp vào hầm rượu...
Nâng chén mỹ tửu trên tay mà như cả bóng mùa sang. Mỗi bận có khách văn chương tới chơi bà tôi thường cho gọi tôi vào đứng hầu bên, tiệc rượu bày bên những chậu địa lan đúng cữ. Hương lan bay bay, chén tuyết hoa tửu được khách văn nâng lên đặt xuống, chạm khẽ vào môi như một niềm ân tứ mà trời đất ban tặng cho con người. Cảm giác sung sướng, hạnh phúc thưởng rượu thật tao nhã, khiến người nhẩn nha nhấm chút một, e tuyết hoa tửu trong khoảnh khắc sẽ vụt bay đi, hòa vào trong gió mây rồi tan biến khiến người ta luyến tiếc.
Bao mùa hoa hồng qua đi, vườn nhà cây lá thay sắc nhưng bà tôi vẫn bền bỉ chăm bón cho mỗi gốc hồng. Đôi mắt người đượm buồn khi chiều buông, áo lụa mỏng theo gió lạnh mà bà vẫn khôn nguôi nhớ thương em gái phận mỏng của mình. Tuyết hoa tửu ngấm sầu ly biệt.
Tôi lớn lên theo những đêm quỳnh, em gái tôi yêu hoa hồng nên xa quê vào xứ ngàn hoa lập nghiệp, đọc những bài tản văn và thơ của em trên báo cũng thấp thoáng hương hoa hồng. Mải kiếm tìm gì xa xôi mà em tôi lâu rồi không trở lại vườn xưa?
Tôi ở lại vườn hồng dạy học và ủ rượu. Nhìn bướm trắng chập chờn trên những cánh hồng, lòng tôi lại ngùi ngùi thương nhớ người muôn năm cũ. Trông gốc hồng trắng già nua theo tháng năm, tôi nao nao nhớ sắc đỏ của hoa hồng, mơ ngày nao chúa hoa gật đầu cho vườn nhà rực hồng sắc đỏ. Hình như nguyện cầu linh ứng hay sao ấy mà chiều nay tôi nhận được cây hồng đỏ thật to từ xứ Đoài xa xôi người gửi về tặng tôi.
Tôi mừng tới ứa lệ, run run thắp một nén nhang lên bàn thờ em gái bà nội, cầu xin cho hoa hồng tươi thắm. Trên di ảnh người xưa chợt mỉm cười... Ô đất vuông sát thềm nhà, chén tuyết hoa tửu được tưới xuống đất nâu mềm ẩm, gốc hồng nhung xinh xắn được đặt vào... vun đều, vun đều và cây bén rễ. Mùa xuân năm ấy những nụ hồng thắm đỏ đơm bông khắp vườn nhà.
Người gửi hồng đỏ cho tôi cũng mê tuyết hoa tửu khi chiều buông, lúc canh khuya sương lạnh bên những trang văn viết dở. Xứ Đoài bổng mây trắng nhớ thương, chén rượu đẫm khói sương, chẳng biết giấc mơ của người có thiên di về nơi xứ biển, nhưng tôi vẫn thầm khấn nguyện để ai kia đừng ngủ quên kẻo lỡ một đêm quỳnh.
Nội tôi giờ đang làm thơ ở cõi bên kia hay vân du tới những vườn hồng, tôi vẫn lặng thầm ủ Tuyết hoa tửu thành kính dâng lên bàn thờ bà Nội. Hoa hồng trắng, rượu ngát hương được chưng cất từ yêu thương ngọt dịu, vẫn thầm thì níu gọi dấu người xa.
(Nhà văn Lê Hà Ngân, Trường THCS Hải Hà, Hải Hậu, Nam Định)

Ngộ,
Bây giờ tôi mới ngộ rằng,
Tuổi cao nhưng vẫn nặng lòng yêu em...
Bóng trăng dù xế qua thềm,
Vẫn theo cánh hạc dõi em bên đời...
Biết rằng tình chẳng nên đôi,
Tuổi đời dẫu cạn tình tôi vẫn đầy
NM

Minh họa: Văn Nguyễn
Cặn tình   
Ở quán cà phê hẻm 58 buổi sáng. Quỳnh Như viết hai chữ “Quan hệ” vào bìa sau tờ vé số cũ. Bà bán vé số mời mua lại, Như cười.
Ông Điền mua năm tờ vé giống số như nhau. Tặng Như ba vé, ông giữ hai. “Trúng số ông cưới Như”. “Cô bé” cười. Gọi là cô bé vì trông hình dáng Như nhỏ con, coi giống còn bé. “Nếu trúng số con qua Đài Loan thăm con của con”.
Như chưa có dáng đàn bà. Chiếc áo của Như đang mặc cài hết các nút trên ngực như phòng thủ, điều đó càng khiến các ông chăm chú nhìn hơn. Như đưa tờ vé số cũ có hai chữ “Quan hệ” cho ông Điền rồi giải thích tiếp câu chuyện ông hỏi lúc sáng:
- Chuyện quan hệ nầy chỉ có một lần với người chồng Đài Loan trong suốt bốn năm Như ở bên đó, có một đứa con trai ở lại với cha nó, còn Như mới về Việt Nam có một năm. Như gần bốn mươi tuổi mà hiện không có đồng xu nào trong túi.
Ông Điền hỏi:
- Như gặp ông chồng ngoại nầy ở đâu? Ổng bao nhiêu tuổi?
Như thật thà:
- Gặp ở Sài Gòn nầy, ổng 51 tuổi.
Ông Điền nhẩm tính:
- Toàn bộ như chuyến đi du lịch! Về đây Như nhớ con không?
Như quay mặt nhìn ra đường, không cười. “Nhớ... Đang kiếm tiền qua bên đó thăm nó”. Ông Điền hỏi: “Nhớ chồng không?”. Cô bé hay cười mà lần nầy lại không cười. Cô quay mặt lại, đôi mắt ươn ướt: “Không nhớ... Ông ấy đánh Như văng vào vách chỉ vì ông biểu Như đi ngủ không được xem ti vi nữa”. Điền trố mắt tò mò thắc mắc: “Chớ không phải vì ông ta muốn việc “quan hệ” ấy mà Như không chiều?”. Như thanh minh cho ai đó đang ở xa: “Không phải vì việc đó. Mà vì ông ta có óc gia trưởng, ông nói là ai cũng phải nghe”.
Ông già Điền vốn đa nghi, ông không tin là chỉ có chuyện tắt ti vi mà là chuyện ông 51 tuổi kia cần giải quyết. Ông Điền định hỏi thêm nhưng Như cắt ngang câu chuyện. Từ ngày đó tưởng đâu Như giận. Nhưng Như vẫn hay nói chuyện vui với ông Điền mà không hề nhắc gì tới chuyện 4 năm ở Đài Loan. Tôi thì thầm với ông Điền:
- Ông họa sĩ ngồi kia nói Như “buôn bán bất động sản”.
Như nghe, hỏi lại:
- Là làm gái à. Ai nói gì thì nói, kệ người ta.
Tôi lại xía vô chuyện
không phải của tôi mà với nhà văn Điền:
- Cha nhà thơ kia còn nói chỉ cần 6 triệu một tháng là có thể gọi Như đi khách sạn. Như nầy cứ chiều đi mất khuya chín mười giờ mới về, chắc là làm ăn với vốn tự có.
Nhiều người nghĩ vậy vì Như trẻ đẹp lại vui tính. Như vẫn ngồi bên cạnh cười hiền:
- Giống giống như mấy cô gái tre trẻ đi bán vé số có điện thoại thông minh à. Tùy người thôi. Như đi bỏ mối rượu vang mà. Chỗ nào gọi rượu là Như chạy xe mang tới. Vốn của chủ, vốn gì của Như.
Như vẫn chưa hiểu câu vốn tự có. Nhà văn Điền biết nó có ý khinh khi châm biếm. Ông quạu, ông nầy thì tôi biết, dù ông vốn là người hiền lành tử tế nhưng cộc tánh:
- Thơ hay tranh của nó bằng vàng à, sao nó khinh người vậy? Người phụ nữ nầy có hoàn cảnh khó, đang khổ mà sao nỡ lòng nói vậy.
Như: “Không sao! Ai nói gì thì nói”. Như hay cười với đôi môi lạ và cái răng khểnh có duyên. “Ông bao nhiêu tuổi rồi ông Điền?”. “Năm nay 27 tuổi, sang năm tôi sẽ là 37”. Bé Như lại cười “73”. Sau tất cả câu chuyện du lịch Như kể lại, ông già thầm nghĩ Như mất cả chì lẫn chài, không gì khổ bằng phụ nữ lỡ thất thân. Lấy chồng lần nữa vui thì nó không nói còn khi có chuyện buồn hay nhậu say là nó kiếm chuyện nầy nọ.
Chuyện lạ diễn ra chưa tới một tuần. Ban đầu Điền tội nghiệp, sau đó ông thương thương, sau đó nữa lại nhớ nhớ, ghen ghen rồi bất thần yêu yêu mới chết. “Yêu” Như một cách đau khổ thật thà.
Gặp lại ông trong chuyến đi thực tế để sáng tác, ngồi chung xe với ông ra Duyên Hải, ông kể, ông khóc như đứa trẻ. Tôi hiểu các nhà văn. Ông nhà văn Điền bạn già của tôi có khuôn mặt tỉnh bơ, không hề lộ một chút cảm xúc nào vui buồn nhưng tôi biết trái tim ông nhạy cảm tan nát.
Ông Cận, ông Thục, với ông Bình… ai cũng buồn ngủ. Ông Bình ngủ say. Điền thức kể chuyện, tiếng thì thầm của ông theo gió lùa ra cửa xe rồi thoát ra ngoài trời…
- Hồi đâu chừng hai lăm tới ba mươi tuổi. Tôi làm thầy giáo dạy môn triết, có một lần tôi yêu kịch liệt. Yêu chết bỏ. Yêu chết yêu sống. Cứ một ngày mà tôi không thấy mặt cô giáo đó là coi như tôi chết đứng. Lạ là tôi chỉ yêu một lần đó rồi thôi, không yêu người nào nữa. Không ngạc nhiên buồn vui giận hờn, không yêu. Rồi tôi bị sét đánh. Tôi yêu lại mà yêu thiệt tình. Già rồi thì buồn, tôi chỉ muốn có cảm giác nhớ thương cho đỡ buồn. Mà bây giờ tôi buồn, khổ vì yêu thiệt rồi. Biết nói sao cho mấy ông hiểu, tình yêu khi nó tới chậm vậy là thứ tình yêu gì? Mấy ông vô tư quá, thiếu chi phụ nữ khổ sở mà mình không chịu yêu họ.
Mọi người trên xe ngủ gà ngủ gật. Thịnh là bác tài trẻ phải thức lái xe cười nói cho vui chuyện:
- Già cúp bình thiếc rồi còn yêu nổi sao ông Điền.
Điền mới gục qua bên vai ông Thục tỉnh lại:
- Vẫn yêu. Còn sống là còn yêu. Yêu có chết đâu.
Thịnh:
- Vậy là... cặn tình. Như cặn rượu, dễ say dễ chết lắm.
- Còn sống nhưng buồn vui lẫn lộn.
Hình như tay Thịnh tài xế nầy có kinh nghiệm, anh ta say sưa nói tiếp, suýt chút đụng nhầm một chiếc xe gắn máy của một chàng trai chở cô gái trẻ lạng bên lề đường.
Cận kể: “Tôi nghe ông Điền hẹn bé Như kiếp sau, còn kiếp nầy ổng cày nuôi bé Như chừng nào Như lấy chồng thì thôi”. Ông Thục cũng có nhiều mối tình lạ nhưng không kỳ cục như ông Điền. Kiểu tình nầy là của các nhà văn, người thường không có, ông Bình nhừa nhựa “tình là tình khi không mà có, tình là tình có cũng như không”.
Từ chuyến đi thực tế sáng tác ở Duyên Hải về Sài Gòn, sáng nào ông Điền cũng thấy mấy bạn già nhà văn của mình tới quán ở Trần Quốc Thảo. Bé Quỳnh Như dễ thương tội nghiệp thiệt, thôi thì mấy nhà văn già như tụi mình ráng cày, ráng viết truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tạp bút nầy nọ kiếm chút nhuận bút nuôi bé Như. Chừng nào bé Như lấy chồng thì thôi. Nhưng mình là người lớn phải khuyên Như, lỡ một chuyến du lịch rắc rối rồi, nếu có lần sau phải cẩn thận không khéo gặp thằng chồng gia trưởng nó không cho coi ti vi, nó đánh văng vô vách thì khổ lại càng khổ. Đường xa khó về lại nhớ con. Đừng kiếm tiền qua đó nó cho thêm một đứa nữa ôm cháu nhỏ chạy về không kịp thở.
Điền ghen thật: Rủi bé Như yêu một trong mấy người, tôi làm sao sống.
“Trời kêu ai nấy dạ, lo gì hả Điền. Còn yêu là còn sống”. Phụ nữ là khổ mà, phải biết thương người ta chớ!
Vậy là ba ông cụ nầy đều yêu bé Như… cũng như tôi. Nhưng tôi không dám đâu, chính tôi nuôi tôi còn bữa đói bữa no, lấy gì trèo đèo. Vả lại Như mới chưa tới 40 tuổi, còn tôi với mấy ông bạn tôi ông nào cũng trên… 37. Ai cũng nói càng nhìn Như lâu lâu càng thấy Như hiền, vui vẻ, không tìm thấy một chút đanh đá nào. Đôi môi Như lạ, tướng đi nhẹ nhàng, Như cười có cái răng khểnh có duyên, Như thật thà như củ khoai.
Điều quan trọng hơn là Như không chịu lấy chồng. Hà hà, không phải chỉ nhà văn mới thấy mình có hy vọng. Mà ai ai cũng xin số điện thoại của Như. Ai cũng muốn yêu bé Như. Còn tôi thì sợ ngày sợ đêm sợ Như yếu lòng nghe lời ai ngon ngọt, rủi ro thương nhầm thằng quỷ sứ nào đó, nó làm bộ yêu Như một hai ngày vài tháng một năm rồi bỏ con người ta. Cô bé lại cười: “Không có chuyện Như lấy chồng đâu... từ từ để coi sao đã”. Câu sau của Như càng làm tôi mất ngủ vì sợ vì lo cho Như và... sợ cho tôi. Sợ luôn cho ông Điền. Vì bạn già mình tìm được một tình yêu tuy trễ mà đích thực, nhìn mắt ông khi ông tặng ba tờ vé số cho Như thì biết. Ông Điền muốn mua cái nhà sống chung với Như. Nhà văn nào cũng nhiều tưởng tượng thật. Nếu không thì làm sao mà sống.
Hàng ngày Như cứ cười làm điên đảo bọn người tới làm bộ uống cà phê để ngắm Như. Tôi không tin đàn bà. Vì có lần tôi mua vé số, tôi không trúng tờ nào mà tôi lại trúng cô nhỏ bán vé số. Cô nàng vừa là biên kịch vừa làm diễn viên kiêm đạo diễn. Quỳnh Như hỏi: “Ông mất tiền tỉ vì cô biên kịch bào tận xương à”.
Qua kinh nghiệm đau thương của tôi, Như khuyên: “Con với ông có gì đâu”. Như không thích xe đẹp, không thích điện thoại thông minh và không mấy thích tiền. Như có chiếc Honda cánh én cũ chạy đi giao rượu, có cái điện thoại cùi bắp nhỏ xíu mà lúc nào Như cũng lau chùi, còn tiền trong cái túi quần jeans có dây kéo cũng có bạc lẻ đủ xài. Như biết mình khá đẹp, hấp dẫn. “Phụ nữ mà, hồi trước Như còn hơn bây giờ”. Tôi ít cười nhưng nhìn Như cười là tôi vui. Tôi hay nói đùa: “Ông cũng hùn với mấy ông nhà văn già kia nuôi Như. Chừng nào Như có chồng thì ông vô viện dưỡng lão khỏi nuôi Như nữa nha”. Như nói “OK”.
Tôi không kể với ông Thục, ông Bình, tôi lại đi khoe với ông Điền, mà vô hình trung coi ông như tình địch ngầm. Nhưng lạ chưa, khi nghe chuyện nầy ông Điền tỏ ra vô tư: “OK. Ông thì được!”.
Đúng là nhà văn lạ hơn người thường, vì mấy ổng yêu không bình thường. Sống cũng ngộ mà còn chút cặn tình cũng yêu và lết cho tới bến.
Mạc Can

 Rượu Thái sư
Chỉ là câu chuyện về một cuộc rượu, tại một xó tỉnh lẻ bắc xứ Đoài một chiều thu muộn. Tiện đâu tôi kể đấy chứ cũng chẳng có ý tưởng, thông điệp to tát gì. Người đọc nào khó tính cũng xin lượng thứ.
Độ, cháu gọi tôi bằng bác, họ hàng đằng mẹ nó, lâu hôm nay mới đến chơi. Lần này cũng thế, không đến tay không:
– Nhà cháu tát ao, có ít tôm sạch biếu hai bác.
Độ, cán bộ bảo tồn di sản, công việc suốt ngày với đống hồ sơ xin xây lại đình chùa đền miếu hay đề nghị xếp hạng di tích. Hai chị, một em gái. Em công nhân khu công nghiệp Kim Long, chị lao động xuất khẩu Đài Loan, Hàn Quốc. Mỗi Độ được ăn học chu đáo. Ham đọc sách từ bé, Độ chỉ ước vào đại học ngành Hán Nôm để đọc được sách cụ bốn đời, vốn trước làm thầy đồ kiêm thầy thuốc, có lúc kiêm cả thầy địa lý, còn để lại trong cái líp nửa tre nửa gỗ, may vẫn giữ được qua bao biến động của thời cuộc và thời tiết viêm nhiệt phương nam.
Năm đầu thi trượt, cu cậu phẫn chí bỏ nhà đi. Tìm kiếm khắp nơi tuyệt vô âm tín, bố mẹ Độ ngất lên ngất xuống, cứ nghĩ mất con rồi. Bô lão chi tộc Nguyễn Bá họp kín, tính điều chỉnh gia phả ngạch đích tôn. Chẳng ngờ một năm sau, anh chàng về, còn cầm theo giấy báo đỗ đại học. Cả nhà như được sống lại. Họ mạc dân làng đến chơi nườm nượp. Vườn nhãn cổ thụ nhà Độ năm ấy tự dưng sai trĩu quả, vừa bán vừa cho không hết.
Ra là Độ về Hà Nội ôn thi đại học. Đêm dùi mài sách hướng dẫn các loại, ngày rửa bát hàng phở, bốc vác thuê lấy tiền trả học phí và chống đỡ cuộc sống vạ vật đất kinh kỳ. Cuối cùng cao xanh cũng không phụ người có chí.
Các bô lão họ Nguyễn họp đại biểu ba chi Nguyễn Bá, Nguyễn Trọng, Nguyễn Quý. Cỗ bàn bữa ấy nhà Độ lo cả. Mặt đỏ lựng sau chén rượu Canh nâng lên đặt xuống mãi, e hèm, vuốt chòm râu ngắn ngủn, cụ đại diện cả họ nói:
– Làng Ngạc ta, cả trăm năm mới có sự đỗ đạt. Lại chỉ rơi vào họ nhà này. Các cụ để ý chứ, lõng tre bên tả chân núi Ngạc Sơn mấy năm nay măng ra nhiều thế. Không nhẽ con Kim Long sống lại thật rồi?…
Độ học xong ra trường, bố mẹ nó đưa đến nhà tôi, biếu con chép to với cả bao tải nhãn, bảo: “Xin bác giúp cháu. Nhà em không dám quên ơn”.
Tôi kể chuyện Độ rửa bát thuê hàng phở lấy tiền ôn thi đại học với giám đốc sở và nói vui: không phải “xin” mà là “tiến cử” người làm về lĩnh vực di sản. Nói thế vì tôi biết, thời nay bói đâu ra cử nhân đại học rành về Hán Nôm, đình chùa đền miếu? Thế là Độ được đi làm, chả phải chạy chọt gì. Sướng.
*
Mẻ tôm càng Độ biếu ngon quá. Tươi đanh đách. Toàn cỡ ngón tay cái trở lên. Có cả một con chép nữa. Tôi bảo Độ:
– Cháu ở đây luôn. Bác gọi mấy ông bạn uống rượu cho vui.
Đã quá tiết Trùng dương. Trời hôm nay bỗng dưng hơi se lạnh. Vòm lá xanh se sắt của khóm tre đằng ngà xao xác trong chiều mây xám. Thu muộn, còn dư khí túc sát hoang liêu, kể cũng nên lập ra một góc túy hương cho đỡ những bất ổn vô cớ của lòng người.
Thụy đến trước. Vẫn thói quen đi lại ngắm nghía trước sau rồi mới an tọa với chủ nhà. Thụy bạn tôi, vốn dân bác sĩ. Mổ mắt giỏi. Tay như nghệ sĩ violon. Mà Thụy chơi loại nhị Tây ấy cũng khá lắm. Rất có tình. Nhất là khi kéo bản “Khúc ca chiều” của Schubert. Thụy bảo:
– Đó là giai điệu của thánh thần. Cái ông Schubert mỏng tai nghe được nên mới bị trách phạt lúc mới có băm mốt tuổi.
Tôi nói:
– Biết đâu ông ấy được mãn hạn giời đày thì sao?
Thụy ngẩn ra.
Số phận xô đẩy thế nào mà Thụy lại chuyển nghề làm công chức hành chính. Vẻ ngoài nghiêm túc, công việc mẫn cán. Doanh nghiệp cho phong bì hay không vẫn cứ làm theo chức trách. Thế nên có lúc đã được tổ chức nhìn nhận đến. Nhưng cũng chỉ đến cấp ký thay. Đôi khi thở than thế sự này nọ, tôi vẫn trêu: mổ mắt cho người thì được mà không mổ được mắt cho thiên hạ. Thụy cười gượng, bảo: “Có khi tôi xin về sớm. Mở phòng mạch tư. Lúc rảnh chơi đàn dỗ cháu, dỗ cả ông luôn”.
Một lát, Thái có mặt. Thế là đủ bốn người, một cỗ. Chiếu Đậu trải ra sân, cỡ đại, cói tăm dệt kép thủ công, trọng thể cho một cuộc hội ẩm ngoài trời. Quan khách lục tục ngồi.
Thái, vốn thầy giáo sử. Nhưng chỉ gõ đầu trẻ có mấy năm trên Tây Bắc rồi về quê, nhân đấy chuyển nghề công chức cấp sở. Kiến văn rộng. Cũng không chấp nhất gì lắm. Bạn bè vẫn trêu là quan Thái sử. Tên đầy đủ: Trần Quốc Thái. Tổ gốc Thái Bình. Mẹ họ Phạm, nguyên làng Phù Ủng, đồng hương với Phạm Ngũ Lão.
Thấy có khách lạ cùng chiếu, Thái hỏi:
– Tiên sinh nào đây?
Tôi giới thiệu danh tính, thân thế Độ, không quên hai chi tiết: rửa bát thuê hàng phở lấy tiền ôn thi đại học và khá thông thạo chữ Hán Nôm. Mới đầu còn hờ hững, sau nét mặt Thái giãn dần. Thấy nói Độ quê huyện Dương, làng Đống Ngạc, Thái nổi hứng thuyết một hồi về núi Ngạc Sơn. Chuyện cũng thú vị. Than trong lò chưa đượm hẳn, có câu chuyện dềnh dang lúc này cũng khéo. Có điều Thái diễn khí dài dòng. Tôi chỉ xin tóm tắt thế này:
“Huyện Dương, nguyên thuộc phủ Tuyên Hóa, có núi như hình con sấu, vốn là một nhánh từ dãy Tam Đảo rẽ ngang chạy xuống dưới này. Tên chữ là Ngạc Sơn. Cũng có sách chép Kim Long. Nghe truyền núi ấy thiêng, có huyệt quý có thể phát văn khôi khoa giáp, võ tổng binh nhung. Có kê trong danh sách mấy nghìn huyệt nước Nam trong tấu thư Cao Biền nộp lên vua Đường Ý Tông. Sau quân Lam Sơn lấy được bản sao từ tay Hoàng Phúc. Họ Cao cho yểm tháp đất nung, đào con ngòi cắt ngang long mạch. Thế là từ ấy, núi Ngạc trở nên cằn cỗi, xơ xác. Sinh long hóa bệnh long. Chỉ phát trộm cướp. Gớm nhất là “giặc Thọt” thời Lê – Trịnh. Tên Bùi Thúc Dĩnh, vốn học trò thi trượt, bực mình tập tễnh bỏ vào núi Tam Đảo. Cầu tiên hái thuốc không xong chán trò xoay ra làm thảo khấu. Trời làm hạn hán mất mùa mấy năm nên dân nghèo vùng Tam Đái, Càn San theo đông lắm. Chống lại quan quân triều đình mà cũng cướp hại cả dân chúng. Từng thả quân triệt hạ cả ba làng kẻ Cánh vì chống lệnh nộp thóc nhập kho Đại Đồn trong Thanh Lanh – Ngọc Bội…
Lại nữa, gần núi Ngạc có làng truyền đời chuyên nghề trộm chó. Làng có bốn xóm lại chỉ mỗi xóm làm việc đó thành ra cả làng chịu tiếng theo. Tuy nhiên lại có một xóm nấu rượu rất ngon, xóm tên Canh, rượu cũng tên Canh”.
Thái nhìn Độ:
– Xem anh chàng này nào. Ừ, mắt có thần khí, tam đình ngay chính, xương thịt quân phân, ngoài nhu thuận trong cương liệt. Này, cháu biết võ thuật, đúng không?
Độ thú nhận:
– Vâng, cháu có tập Nhu đạo.
– Chân cẳng thế nào?… À, long hổ đúng vị, không tập tễnh. Học trò trước thi trượt, học trò sau đại đăng khoa. Kim Long từ nay không phát trộm cướp nữa.
Cả bọn phá lên cười. Nhân đấy tôi kể thêm chuyện Độ từng một mình đánh ngã mấy thằng xăm trổ bắt nạt đám sinh viên ăn phở tại quán Độ làm thuê. Do thiện cảm với cậu thanh niên tỉnh lẻ chăm chỉ, thật thà, vợ chồng chủ quán đã đứng ra bảo lãnh Độ với công an phường và đại ca của đám xăm trổ nên vụ ấy rồi cũng qua. Anh chàng may lại được yên ổn ngày làm lụng, đêm dùi mài kinh sử chờ lúc ra ứng thí. Nghe chuyện, bác Thái xem ra có phần cảm tình hơn với thằng cháu ít tuổi mới quen biết này.
Hơi lửa hồng rực xem chừng sắp át hết màu đen còn sót lại của mấy cục than trên cùng. Tôi khoát tay:
– Dừng mọi câu chuyện. Rước các tiên sinh.
Thái nói:
– Chủ nhân bữa nay đãi khách món gì mà hỏa lò than hoa thế này?
– Tôm nướng. Phải dùng xiên. Tự làm tự ăn, không ai hầu ai cả.
Thái tán thưởng ra chiều thích thú:
– Hay đấy, nướng mới giữ được nguyên khí. Đàn bà chỉ cần thử hai món nướng với luộc là biết ngay. Này, trong bảy món mộc tồn, sáu món toàn thị nở ra, mỗi chả là co vào không có lãi. Hòa “Chó” dốc Trừ Sâu ở Việt Trì ngày trước sợ nhất mấy ông vào quán chỉ gọi độc món chả, lối Tản Đà, Nguyễn Tuân, hai bố sành ăn nhất cái xứ mình. Nhưng rượu gì đây?
Tôi nói:
– Bàu Đá, vừa có chuyến công tác trong Quy Nhơn.
Rượu rót ra. Chạm chén. Cạn. Được cái Độ chuyên cũng khéo chỉ nửa chén một. Thụy chép miệng hơi nhăn mặt:
– Rượu ngon. Nhưng nặng quá, dễ đến hơn năm mươi độ?
Hỏa lò đượm. Đặt giữa mâm. Bốn người ngồi khéo. Sau lưng hơi lạnh nhưng trước mặt hơi lửa ấm áp. Đám tôm càng còn nguyên con, đanh đách trong bát loa xâm xấp nước. Xiên vào que nướng xoay đi trở lại trên than hồng, con tôm ngả màu dần từ xanh xám tới vàng ươm rồi đỏ khé, nức mùi thơm đến từng con tỳ con vị. Thận trọng đưa nhẹ con tôm đã tới lửa còn nóng rẫy vào bát nước chấm hội đủ ngũ vị, ăn kèm nhánh rau húng quế, Thái xuýt xoa:
– Đã lắm… Mà này, than gì mà đượm, không tí khói nào thế?
Độ nhanh nhảu:
– Than sinh học. Cây cành tươi khô, rạ rơm, mẩu gỗ, mùn cưa các loại cho tuốt vào máy, nghiền ra ép khuôn, đốt nguyên trong lò yếm khí. Nhật, Hàn Quốc xứ lạnh mê lắm. Bạn cháu chủ doanh nghiệp làm không đủ bán.
Thái nói:
– Hay, không khói mà vẫn giữ được hỏa khí.
Rượu được vài tuần. Mới đầu còn chung bốn chén sau xoay dần ra từng hai chén một. Bên tranh bên cãi, chén đầy chén vơi, nâng lên đặt xuống, câu chuyện đám tửu đồ dần đã nhuốm màu triết lý vụn với những luận đề to tát giữa các nhóm với nhau, nhưng chủ yếu quay vòng giữa ba ông tiên chỉ. Độ chỉ đưa đà chuyên tâm tửu bảo. Mải chuyện, có người để nguội con tôm đã chín lại phải đưa lại vào hỏa lò.
Ngang chừng, bỗng Thái huơ cái xiên vẫn còn con tôm cắn dở nói to:
– Xin tất cả yên lặng nào. Giờ tôi có ý này, vấn đề vừa nãy giữa tôi với ông Thụy chưa ngã ngũ, cần đưa ra hội thảo công khai. Đố các ngài, lửa đây thì rõ rồi, còn những phát minh nào làm thay đổi cả nhân loại chứ?
Đề tài mới từ Thái như khơi vỡ ra đập nước ngôn từ do hơi men nung nấu. Mâm rượu ồn ào hẳn lên. Người bảo la bàn, kẻ cho là điện, rồi thuốc súng, máy hơi nước, điện thoại, truyền hình, máy in Gutenberg… Nhân đó còn tràn lan cả đến những là mộc ngưu lưu mã Khổng Minh, nỏ liên châu Cao Lỗ, đội hình trăng lưỡi liềm La Mã, cáng ba người của Quang Trung Nguyễn Huệ… Thôi thì đủ cả. Có tay nào còn bảo: rượu mới là phát minh vĩ đại nhất của loài người. Rồi ra sức chứng minh, lập luận. Đương nhiên kiểu lý sự ấy sẽ chẳng thể có khi rượu đã không còn là bạn đồng hành.
Được cái rốt cuộc đều có chung đáp án lửa và máy hơi nước trả bài thầy giáo Thái. Thái cao giọng:
– Tất cả không sai, nhưng chưa đủ. Tôi ra đề đó có nghĩa phải là những gì tạo ra bước ngoặt làm thay đổi hẳn tiến trình nhân loại chứ. Thôi, tôi giải đáp luôn vậy. Chỉ có ba đáp số: Một, lửa, mà ta đang nướng tôm đánh chén đây. Hai, máy hơi nước. Ba, là gì hở Độ?
Độ hơi sững ra chút nhưng ngay lập tức quả quyết:
– Theo cháu, phải là… Internet.
– A, tay này khá – Thầy giáo Thái phấn khởi.
Tất cả như bừng tỉnh: Ừ nhỉ, Internet, sức mạnh mở toang những khép kín, như đầu máy hơi nước từng húc đổ hàng rào lãnh địa Tây Âu trung cổ. Gì có thể cản lại được đầu máy kia giờ núp dưới hình con chuột vi tính nhỏ nhắn xinh xinh? Nó, thứ như đồ chơi con trẻ ấy sẽ là phẳng cả thế giới chúng ta?
Nhưng rồi cả đám rượu bỗng lại thi nhau ai oán: Ôi, giá như mình được vợ con đối xử như với cái điện thoại thông minh smartphone kia… Em yêu, giường ngủ vợ chồng mình giờ đây đâu chỉ có hai ta?… Độ vừa cười vừa nhoay nhoáy cái điện thoại đời mới, chắc lướt facebook với bạn gái. Nó vẫn chưa vướng bận gì. Sướng thế…
Rượu Bàu Đá bốc mạnh. Cả đám đã bừng bừng. Có mỗi Độ là chưa thấy la đà. Chắc nó giữ lễ với bác và các bạn của bác nó. Vả, cũng phải có người tỉnh để gác cổng Hoàng Hoa thôn không thì cháy cả làng mất. Độ bảo: “Để cháu cho món canh thang ra”.
Đang ngả người chống hai tay ra sau, Thái nhỏm dậy hùng hổ:
– Đã bảo nhất khí, chỉ tôm nướng sao lại còn cá nữa? Thôi cũng được, xem nào, cá chép mà sao nhạt thế?
Thụy vươn người dậy khoát tay:
– Quan thái sử kiềm chế kẻo mất đầu đấy. Tôi hỏi rồi, đây là bài canh thang giã rượu của ông cử Hán Nôm đây. Mót ra từ sách thuốc cụ tổ để lại. Mà này cháu, hình như canh thang phải đủ ngũ vị? Nhưng thứ nào là vua, thứ nào là bề tôi đây?
Độ dè dặt:
– Bác thử cháu?… Trong bài này nhất thiết phải có trần bì. Gia giảm thêm bốn vị thảo dược nữa.
– Ừ, nôm là vỏ quýt. Bốn thứ kia đầy ngoài vườn ngày trước. Giờ toàn Tây dược trị Nam nhân. Được cái nhanh.
Thái cười hi hi:
– Lý ngư không có vũ môn đành chịu kiếp canh thang ngũ vị.
Độ múc canh vào từng bát:
– Vừa thổi vừa húp các bác ạ. Giã rượu nhanh lắm. Cháu thử rồi.
Cả bọn xì xụp. Thái khen ngon quá, thêm bát nữa. Tác dụng thật, lại như chưa gì vậy. Tôi bảo Thái: “Thấy chưa, vẫn nhất khí nhé”. Thái cười trừ.
Trời đã tối từ bao giờ. Trên trời mây chuyển từng đám lớn. Có lúc trăng ló ra như ngọc sáng giữa khoảng mây rực rỡ muôn màu rồi lại dần khuất bóng. Dưới mặt đất một góc xứ Đoài này, hỏa lò than hoa của mấy đứa chúng tôi vẫn rực hồng trong tiết cuối thu.
Tự dưng tôi giật mình, có vẻ những vầng mây sau vòm tre đằng ngà đang ôm lấy khoảng sân đây như bỗng chuyển hướng khác thường? Đương tháng chín, còn lâu mới đến tiết Lập Đông. Mùa này, tiết này còn dư khí “gió tây thổi buốt can tràng” đâu đã đến kỳ gió bấc? Nơi chúng tôi ngồi, chỉ cách chưa đầy hai mươi cây số theo đường chim bay là dãy Tam Đảo, kết lại những mạch núi rẻ quạt từ miền núi cao Tây bắc, uốn tay long trùng trùng chầu về đất thần kinh rồi xuôi ra mãi biển Đông. Gió bấc theo các sườn dẫn gió ấy xưa nay vẫn tuần tự đúng mùa mà nay sao về sớm thế? Từ hướng bắc, từng tảng mây đen ngòm cứ lũ lượt kéo xuống.
Nghe đồn rằng cứ kỳ gió bấc trái tiết thế này thì cái mạch núi hình con giao long ấy lại có tiếng rền. Dưới này trông lên thấy suốt một dải rừng cứ vật mình xanh rợn. Dân Tam Đảo vẫn truyền rằng đó là Thanh Long nổi giận, quỷ núi lại bồn chồn tay gươm rồi. Cùng lúc ấy đối diện phía bên kia phương đoài, ngọn Ba Vì trấn phong dường như đột khởi cao lên ánh màu trắng bạc. Thảo nào có chuyện đức Thánh Tản nhà ta mắng đuổi cái tay Cao Biền cùng đám âm binh kia chạy trối chết khi một lần dám cả gan đụng đến oai linh thần vũ xứ này.
Thụy ngoảnh sang tôi như ý muốn cật vấn: sao tự dưng lại cười? Tôi vờ như không để ý. Chuyện gió mây vô bằng cớ sao có thể nói được ra?
Bất chợt, anh chàng Thái nhỏm dậy phá tan không khí trầm mặc của đám tửu đồ sau món canh thang hiệu nghiệm:
– Thôi, không Bàu Đá nữa. Đề nghị chủ nhân tắt điện, thắp nến. Tôi sẽ đưa các ngài quay về bảy thế kỷ trước. Nhưng phải im lặng, dụng hết nhỡn lực vào mà trông đấy nhé.
Cả bọn hút theo Thái, đến chỗ xe máy dựng góc sân, bật nắp yên xe lấy ra một hộp gì vuông vuông. Gỡ bỏ túi ni lông thì là một hộp thiếc lô gô chữ nổi. “Rượu tây, hãng gì đấy?”. Không trả lời, Thái mở nắp lấy ra thứ bên trong. Cả đám ồ lên: “Chà, vỏ tây rượu ta”. Thụy giằng lấy giơ lên ngắm nghía: “Đẹp quá, chữ gì đây?”.
Thì ra là cái nậm cổ, dòng sứ Bát Tràng, men trắng, tuy đã phải vuốt đồng lá trên miệng, văn chàm, típ mai hạc. Có hai dòng chữ Nôm nhỏ tí. Độ săm soi rồi cùng các bác vừa dịch vừa đoán cuối cùng cũng ra: “Nghêu ngao vui thú yên hà, Mai là bạn cũ hạc là người quen”. Thụy hỏi:
– Đời nào đây?
– Cuối Lê đầu Nguyễn, đồ vớt sông, may tôi vớ được của bọn trộm cát sông Lô đấy.
Nhưng rồi cả bọn chung thắc mắc: rượu gì đựng trong cái nậm cổ ấy mà những là bảy thế kỷ với lại dụng hết nhỡn lực như Thái vừa giáo trước? Còn dư khí Trùng dương, chắc không ngoài Hoàng hoa tửu? Thái cười bí hiểm:
– Cứ thử đi rồi sẽ biết.
Rồi Thái tự tay rót đều lưng bốn chén không phí phạm một giọt. Không ai bảo ai đều đưa lên hít hà một hồi rồi mới nhấm nháp: “Thơm quá, hảo tửu, hảo tửu, đâu ra vậy Thái ơi?”.
Thái, vẻ đắc ý từ tốn dẫn giải:
“Bảy trăm năm trước, sau khi đã làm đủ mọi việc theo kế hoạch lập Trần phế Lý, Trần Thủ Độ chỉ còn e ngại mỗi quân Long Dực hộ vệ nội cung: toàn thị tráng đinh kẻ Noi, kẻ Báng, luyện các thế võ bí truyền có nguồn gốc từ sư Đại Lý và hàng binh Chiêm Thành trong chùa Lục Tổ từ khi bảy tám tuổi. Phiên quân này do một thân vương nhà Lý trực chỉ quản lĩnh, không thuộc quyền Trần Thủ Độ, lúc này đương chức Điện tiền chỉ huy sứ, tổng lĩnh cấm binh “Thiên tử quân” triều đình.
Trần Thủ Độ bí mật dựng chòi quan sát quân ấy luyện tập trong giáo trường hàng tháng trời. Một người tin cẩn được giao cất loại rượu riêng, gửi ngựa trạm ra Thăng Long cho Thái sư dùng. Nước cất rượu lấy ở giếng chân gò đất hình con sấu, tục gọi gò Sấu, chữ là Ngạc Khâu, nay thuộc Hưng Hà, đất gốc cụ Trần Lý, tổ họ nhà tôi. Mạch giếng ấy trong lắm, lúc nào cũng ăm ắp. Con gái vùng ấy có tiếng là đẹp. Gò Sấu có giống cúc, hoa chỉ nhỉnh hơn nút áo đại một chút, cánh như lụa xếp, sắc trắng tinh, không thấy có ở vùng khác. Lấy hoa ấy cất rượu với nước giếng gò Sấu thành ra thứ men như các ngài vừa có duyên được thưởng thức. Rượu tốt thế nào khỏi cần nói nữa nhé.
Rồi ra vật đổi sao dời, khi hưng lúc phế, rượu bạch cúc gò Sấu vẫn được riêng con cháu gia đình ấy âm thầm truyền giữ đến nay, chuyên gọi “rượu Thái sư” dù có một thời bị mang tên “quốc lủi”. Tôi tình cờ về quê, may mắn được biếu… một chai lavie. Cầm về dồn vào nậm này cất kỹ. Làm Thái sư một mình cô đơn lắm. Nay mời các ngài cùng lên chòi quan sát quân Long Dực một thể”.
Cười. Nhưng sau đó cả đám rượu tự dưng im lặng. Thêm lượt nữa chia đều. Nậm còn lại óc ách. Loạt cuối chắc mỗi tay không đầy nửa chén. Ai nấy nhấm nháp chầm chậm. Tôi chắc cả bọn đều đang cố hình dung ra cái động tác vừa nhấp chén rượu cúc trắng thơm tho, vừa chú mục không bỏ sót từng thế đao đường kiếm đám thân binh thiện chiến kia của con người quyền mưu đệ nhất một thời Đông A lừng lẫy ấy. Nhất là Độ, lúc này tự dưng trầm ngâm như ông cụ non vậy.
Bỗng Thụy nhổm dậy:
– Này, Trần Quốc Thái. Chính ra ông phải có lời xin lỗi tôi đấy. Biết vì sao không: Tôi vốn gốc họ Lý. Thái sư nhà ông đặt bẫy sập hầm cả tôn tộc nhà tôi ở Hoa Lâm, bức vua Huệ Tông đến chết ở chùa Chân Giáo, còn bắt cả họ tôi đổi sang họ Nguyễn. Sao tổ ông ác thế? Chỗ rượu này phải để tôi uống cả.
Biết Thụy đóng kịch, Thái cũng giả vờ cao giọng:
– Thế thời phải thế. Tổ tôi không làm vậy thì họ Lý nhà ông có còn chống lại được vó ngựa toàn thị Hãn huyết, Tử lưu không? Bắt đổi họ nhưng có truy sát tận diệt không? Biết thừa đấy nhưng có cho các trạm Hải Khẩu, Vân Đồn chặn thuyền thái tử nhà ông trốn sang Cao Ly không? Thế ai họ Nguyễn gốc Lý tên Sưởng được giao cầm cánh quân phía bắc trong cuộc chiến lần hai, hở ông? Cánh quân ấy mà trở mặt thì thôi rồi, ông nhớ chứ? Thì ông với tôi có còn được ngồi đây mà thưởng rượu Thái sư không?
Cả bọn cùng cười. Tôi nói:
– Thế thôi, cuối cùng hay dở là ở cụ Ngô Sĩ Liên cả. Thụy ơi, cho Trần Quốc Thái xem cánh tay con cháu họ Lý đi nào.
Thái vươn sang vén tay áo Thụy:
– Chà chà, xăm chữ gì đây? À, chữ Sát. Còn chữ gì đây, Độ?
– Thát, chữ Sát Thát bác ạ.
Thái chép miệng:
– Thảo nào cha Thụy này ít khi mặc áo ngắn tay.
Thụy ngượng ngùng giải thích:
– Hồi bé, mình xem truyện tranh “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”. Mê lắm. Mấy thằng bí mật bắt chước anh Hoài Văn hầu, xăm chữ ấy bằng kim băng rồi lấy than ở cục pin cũ hiệu Con Thỏ xát vào cho nổi chữ lên. Đau, nhưng ông tướng nào cũng nghiến răng chống nạnh, mặt ngoảnh đi cười méo xệch chảy cả nước mắt. Có đứa sau bị nhiễm trùng mưng mủ phát sốt mấy ngày. Thú thật là từ hồi “Biển Đông nổi sóng”, tôi những muốn tô đậm lại hai chữ ấy. Cái thằng chuyên xăm trổ ở phố Chiền mới đầu đòi đắt lắm. Xăm xong tự dưng nó bảo: em làm giúp anh, không lấy tiền. Lại còn mời mình uống bia nữa chứ. Hứng lên nó cao giọng đọc gần như trọn cả bài “Hịch tướng sĩ” trong sách giáo khoa: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…” Mình trố mắt. Nó bảo ngày xưa cô giáo bắt học thuộc lòng nên mới nhớ thế.
Có lẽ đang có hứng, Thụy nói:
– Tôi đọc các ông nghe bài thơ này nhé, “Biên cương tức sự”. Viết cũng lâu rồi, sau chuyến đi vùng biên về.
Thấy cả bọn lặng yên, vẻ chờ đợi, Thụy mới bắt đầu cao giọng:
“Quá bắc ngưu đề huyết vị can,
Hoán nam tẩm hóa quả trân cam.
Ngũ Lĩnh điệp trùng hà cương xứ,
Động Đình không ức cổ thì quan.
Hoành đạo u minh tung đạo hiển,
Phẩm đáo biên thành đối sách nan.
Hà năng la võng sơ bất lậu,
Cái diệp hà tiêu dữ mục hoàn”
Thái nói, nhưng lần này giọng trầm hẳn xuống:
– Chẳng ngờ Thụy lại làm được thơ chữ Hán, phục bạn đấy. Thôi còn chén rượu Thái sư cuối cùng này, mình xin kính mời Thụy.
Độ dịch xong cả bài, Thái nhắc lại hai câu cuối:
“Làm sao có được tấm lưới trời thưa mà không lọt (giăng nơi biên ải),
 (Để ta) đội nón lá sen, thổi sáo cùng (trẻ) chăn trâu trở về?”
Rồi Thái bỗng đổi giọng, ngâm nguyên hai câu thơ ấy theo lối cổ, có thêm những từ đệm “chừ, ư hừ”. Giọng Thái vốn đã trường âm, trong thanh khí tiết thu muộn xứ Đoài này nghe sao mà tiêu tao quá thể.
Chiếu rượu tàn, ngổn ngang như bãi chiến trường. Duy trong hỏa lò, than hoa còn hồng đượm sau lớp tro trắng nhẹ. Độ bảo:
– Hay cháu lấy nước tưới vào nhé?
Tôi bảo:
– Thôi, cứ mặc cho cháy hết cháu ạ.
Vũ Khánh