Hoa Bí ơi, xa rồi......!
Bông bí rộ vàng tươi,
Trong góc vườn "ai" đó ?..
Nhắc tôi thời trẻ nhỏ,
Ngây thơ thật hồn nhiên....
Đuổi bướm cùng hái hoa,
Giữa trưa hè êm ả,
Rộn rã tiếng vui cười....
.
Bên nhau chơi trốn tìm,
Tóc mây bay trong gió,
Má đào hây hây đỏ !
Hồng thơm dưới nắng hè,
Râm ran vang tiếng ve.....
Chơi đùa vui thấm mệt,
Dưới bóng mát hoa vàng,
Vai kề vai kể chuyện...
Ôi, tuổi nhỏ thần tiên !!...
Hôm nay quay trở lại,
Khu vườn cổ tích xưa....
Vẫn bướm trắng hoa vàng,
Nhẹ đuổi nhau trong gió ....
Bạn xưa còn ai nữa ?!
Chỉ tôi....và gió thôi !!
Như tuổi thơ qua nhanh....
Nối tiếp chuỗi ngày xanh !...
NM
Giàn bầu trước ngõ
Tôi không thích khi cưỡi xe
vào tận thềm nhà lại phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tôi lại
ngại tóc rối. Cha tôi khó chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy
trái bầu để vào căn nhà sang trọng. Nhưng không ai dám chặt phá giàn bầu
bởi nó của bà nội tôi. Bà trông nó từ hồi trong quê ra. Thoạt đầu, chị
em chúng tôi thích lắm, chiều chiều lon ton xách thùng ra tưới. Chúng
tôi tưới như tưới hoa. Nội Bà cưòi- “Bay tưới như thằn lằn đái”. Rồi bà đổ
nước soàn soạt, chúng tôi nghe theo, đổ nước soàn soạt. Dây bầu lớn.
Trong cái nách mập mạp lú ra mấy trái con xanh xanh. Trái bằng đầu đũa,
bằng ngón tay, cườm tay rồi to to mãi. Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức,
nuốt tuồn tuột từng miếng bầu trong veo, ngọt lịm. Ba gật gật khen
ngon, quay sang trách mẹ “sao trước giờ không mua bầu mà nấu ăn hả bà?"
Một
lần, hai lần rồi ba lần, chúng tôi ngán tận cổ. mà, chết thật, nội tôi
cứ trồng mãi, trồng mãi, giàn bầu ngày càng rộng ra choán hết khoảng sân
kiểng của cha xanh rầm rì. Trái già đến vàng khô, không ai ăn, bà mang
cho hang xóm. Hàng xóm chúng tôi cũng giàu có, họ chê nhưng cũng nhận
bởi họ nể cha tôi. Nhiều quá, sớm sớm, chiều chiều, nội mang ra ngõ, này
cho chị xôi chè một quả :”ăn lấy thảo”, này cho bác xích lô trái bầu
“về nấu cho sắp nhỏ”. Rồi bà lại trồng.
Chị Lan nhăn nhó:
- Nội ơi, trồng chi nhiều vậy?
Bà nội cười, buồn buồn.
- Nội làm lặt vặt quen rồi. Trồng trọt để đỡ nhớ quê.
Ôi
cái quên của nội. Cái quê heo hút muốn về phải đỉ mấy chặng xe, tàu.
Cái quê mà mỗi lần về, vào cuối mùa mưa, đất bùn quến vào móng chân tôi,
ém chặt thối đen. Cái quê đèn cầy, đèn cóc, đêm nhóc nhen kêu buồn nẫu
ruột, mùa lũ, lơ phơ chỉ thấy mấy nóc nhà. Ba tôi nói “làm người đừng
suy nghĩ hẹp hòi, đừng tưởng nơi mình sinh ra, nơi có mồ mả ông cha là
quê hương, khắp đất nước này chỗ nào cũng là quê cả”. Cha tôi nói đúng
và ông rước bà nội lên thành phố. Trước, ông chủ tịch đến nhà chơi, uống
bia khà khà rồi nhắc: “- Lâu quá không gặp má, hôm nào chú mầy rước má
lên, tội nghiệp bà già…” Cha bưng bát hương ông đi trước, bà nội lúi húi
bưng bát hương chú Út theo sau. Ở nhà tôi, công việc nhàn đến mức bà
thơ thẩn vào rồi lại thơ thẩn ra. Nhà cao cửa rộng, khéo đi, cả ngày
chẳng ai gặp mặt ai. Chị tôi đi học cả ngày, mẹ tôi đến sở. Bà ra cửa
trước, tôi vào cửa sau, bà lên lầu, cha đi xuống, gặp nhau ở lối ngõ cầu
thang, nội ngó cha, nhắc “Lúc này bay bận rộn, đến không không ăn cơm ở
nhà, khéo ngã bệnh nghen con”. Cha cười “má khỏi lo”. Rồi mỗi người mỗi
ngả. Bà năng xuống bếp, quấn quít ở đấy. Chị bếp khoe:
- Bác ơi, con làm bánh tổ nè, bác cháu mình cùng ăn nghen.
Bà
tôi gật gù khen ngon. Tôi tò mò nhón lấy một miếng ăn thử, nó ngòn ngọt
dai dai. Thứ bánh nhà quê này xem ra có khác với Sandwich, chocolate.
Bà làm nhiều thứ bánh lắm, không kể hết được, nào là bánh ngọt, bánh
ú....toàn là bánh nhà quê, mà hình như chỉ tôi ăn, ba mẹ, chị Lan đều
tránh xa xa hỏi " Bánh đó ăn ra làm sao? " Tôi khoe " Sáng này nội làm
bánh khọt ngọt ngon lắm." Chị Lan tròn mắt " bánh gì tên ngộ vậy?
Ừ,
ngộ, ngộ chứ. Nội mua về cái lò đất khói tù mù. Cha tôi chê. Nội mang
ra ngoài hè đẻ đỡ ám khói tường nhà. Bà bảo:"Làm bánh khọt thì phải đốt
bằng lò đất, nó mới ngon". Bà đốt lửa, mắt già tèm nhem nước mắt mùi
khói thơm thơm, cay nồng. Mùa này nhiều trái bầu khô, nội hái vào móc
ruột ra, lấy cái vỏ mằn mì gọt. Lâu lâu nội đưa lên nhìn, nheo nheo mắt.
Tôi hỏi, nội gọt gì. Nọi cười, đưa cho toi mảnh vỏ bầu hình trái tim
nỏ xíu.
- Mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo.
Tôi không nén được xuỳ một tiếng.
- Thời này ai đeo mấy thứ này, nội làm chỉ mất công.
Trong
đôi mắt đùng đục của bà, tôi thấy có một nỗi buồn sâu kín. Con chị bếp
dưới quê lên, bà gói dúi vào tay nó mấy mảnh bầu. Con nhỏ hớn hở, vui
thiệt là vui. Cũng niềm vui ấy, con bé bán vé số lỏn lẻn cười "Bà đẽo
đẹp ghê ha". Hôm sau tôi thấy nó xúng xính xỏ cọng chỉ vào, đeo tòn ten
trước cổ lạ lắm. Hình như tôi ngắm vàng ròng, cẩm thạch quen rồi. Tôi
xin , bà móm mém cười "Bà để dành cho bay cái đẹp nhất nè".
Tôi gói
trái tim xíu xíu kia bỏ vào ngăn tủ, chị Lan trông thấy giành "cho chị
đi". Tôi lắc đầu. Chị giận bảo" chị cóc cần, ở chợ bàn hàng khối". Nhưng
rồi chị quay về nài nỉ tôi . Lần đầu tiền, tôi thấy món quà của nội dễ
thương đến thế.
Giàn bầu vẫn trước ngõ. Cha tôi đã thôi khó chịu,
hay bực dọc riết rồi chai đi, chẳng biết bực là gì nữa. Nhưng khách đến
nhà, ai cũng khen" anh ba co giàn bầu đẹp thiệt". Họ săm soi, từng mảng
lá cuống hoa. Khách nước ngoài còn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông
tơ mà chụp hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh viên đạp xe ngang dừng lại
nhìn đau đáu qua rào rồi kháo nhau " Nhớ nhà quá, tụi mày ơi" Chiều
chiều, tôi ra giàn bầu xanh rượi, mơ màng nghe con ong vò vẽ trên từng
phiến lá, chớp mắt nhìn chim sâu lích rích chuyển cành, chuồn chuồn rồi
bướm rồi hoa thi nhau nở chấp chới. Bà nội tôi yếu hơn trước, muà mưa
bắt đầu lướt sướt đi qua. Ông chủ tịch đến chơi nhà, ôm chầm lấy nội ,
lắc lắc " lúc này má khoẻ không?" Nội cười xoà mà nghe nghẹn nghẹn "
khoẻ, má khỏe" . Cha tôi sai chị bếp mang rượu thịt ra ông chủ tịch khóat
tay:
- Thôi, chú bảo chị ấy nấu canh bầu ăn.
Cha hẩng mặt. Chị
bếp lúi húi gọt bầu, mùi nước canh xông vào mũi thơm lừng. Ông chủ tịch
day qua bà nội khoe " lâu quá không ăn canh bầu rồi, má!" nội cười: "má
nhớ bay thích nhất là ăn bầu nấu tép bạc". Cha dôi dợm mình " để con đi
mua tôm". Ông chủ tịch ấn vai, bảo "thôi , chú cứ ngồì xuống, anh thèm
lắm rồi, không chờ chú được đâu". Hôm ấy cả nhà tôi ăn lại bát canh ngày
xưa, nghe ngọt lìm lịm lưỡi. Chị bếp ngó nội, khoái chí cười đầy hàm ý.
Hình như nội tôi vui.
Giàn bầu thưa hẳn đi. Cái giống lạ thật.
Nắng bao lâu vẫn xanh tốt, mới mưa dầm lại héo dây. Tôi đập vỡ trái bầu
khô, lấy hạt ra ươm. Mùa mưa dữ dội, nội tôi bệnh , bà bị chứng tai
biến não. Nội lơ ngơ, đã cười đã khóc thì không sao dừng được, tay run
rẩy cầm ca nước, bát cơm cũng khó. Trời đổ mưa, sấm giật ầm ầm, nội thều
thào nhắc:
- Sắp nhỏ đừng hứng nước mưa đầu mùa, hỏng tốt. Chà, mưa vầy ngập đồng rồi, ngâm giống gieo mạ đi thôi.
Bà
nội lẩn thơ lẩn thẩn rồi, mà hình như bà chỉ nhớ về quá khứ. Nội hay ra
ngoài hiên, chăm chăm nhìn giàn bầu đang run rẩy trong gió. Bà ngồi
đấy lặng lẽ, thẩn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch kêu.
Tay bà lạnh ngắt, tôi chạy vào phòng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu
trái tim màu vàng trong ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như
của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều. Giàn bầu vẫn trước ngõ, có kẻ
đi qua kêu lên, "tôi nhớ nhà". Cha tôi bảo: "có thể bứt người ta ra
khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi chúng trái tim con
người." Và cha tôi lại nói đúngST
Tín đứng trên lưng chừng đồi cát, đôi mắt anh ôm trọn lấy ngôi làng
sau bao năm xa cách. Thân thuộc quá, như từng gốc cây bụi cỏ này bàn
chân vừa mới giẫm hôm qua vẫn đang còn dấu dép...
Làng Tín nằm trong thung lũng, trước mặt là đồi cát, sau lưng là
núi trọc đầy trảng cây bụi. Con đường đất độc đạo dẫn vào làng đầy bụi
đỏ và những trảng cây bụi ăn lan ra cả mặt đường lẹm như phải tay người
thợ cạo tóc vụng. Được gọi là làng ven biển nhưng muốn ra biển, người
làng Tín phải vòng qua đồi cát trước mặt, dọc theo con đường đầy cỏ
tranh và những cây mai biển còi cọc rực vàng vào độ cuối đông lành lạnh.
Làng nghèo, trẻ con ít học, suốt ngày bám mặt ngoài những ruộng
đất cát trồng hoa màu và ra bờ biển cào lá phi lao rụng về đun bếp. Phi
lao mọc thành rừng chắn gió ven biển, bọn trẻ chỉ cần cào một lúc đã đầy
sọt. Chúng gối đầu lên cát, nằm san sát nhau như những quả bí đỏ tháng
tám. Mặt đỏ bừng vì nắng.
Làng Tín nổi tiếng vì giống bí đỏ, từ thời mở đất đã lưu truyền
câu chuyện nửa hư nửa thực về sự tích loài cây này. Thuở đó, có một
người con gái Thuỷ thần vì quá yêu chàng trai miền biển mà đã trái luật
cha, cùng chàng trai lên ở đất liền. Thuỷ thần giận dữ, năm ấy biến tất
cả nguồn nước trong làng thành nước mặn. Chàng trai đi lên núi cao để
tìm nước ngọt về cho dân làng, đi miết mà không tìm được. Nàng thương
chàng, hoá phép thành dòng suối mát chảy ngầm trong đá. Đến khi chàng về
thì không còn kịp nữa, chàng trai thương nhớ người yêu, khóc mãi rồi
gục xuống trên bờ cát nóng. Mùa thu năm ấy, chỗ chàng trai nằm mọc lên
một loài cây lạ. Hoa vàng rực, thân dây leo và có quả khi chín màu vàng,
ngọt và mát. Người làng nói hương vị của loài bí đỏ này kết tinh từ vị
ngọt của nước suối, có vị đậm đà của biển, của nước mắt đôi trai gái ấy
mà thành. Bí trồng đất làng Tín, ngon không làng nào bì được.
Tín không về làng vội. Anh đi theo đường mòn ra phía biển. Tháng
ba, biển lạnh đến u buồn. Trời vừa ngả chiều mà sương đã chùng xuống,
rịn từng giọt trên lá như người đàn bà mau nước mắt. Tín bốc một nắm
cát, cát trắng ẩm ướt, anh thấy mặn nơi đầu lưỡi. Chỗ gốc cây anh ngồi,
nơi cao quá đầu người một chút, vết khắc vẫn còn, trăng trắng trên vỏ
cây xù xì, thâm xỉn. Cái cây này quá thân thiết với Tín, thân thiết như
bàn tay người con gái hồi nào mềm ấm, run rẩy trong tay anh...
***
Miên đang tưới nước cho ruộng bí đỏ đang độ sung sức nhất. Hoa
vàng rực khắp cả cánh đồng và những ngọn non dài vươn lên trong nắng.
Miên gánh hai thùng nước, nước từ cái roa nhỏ tơi như mưa nhảy trên lá,
trên hoa rồi lẩn nhanh xuống cát. Chân Miên trắng lẳn như củ sắn vừa mới
bóc thoăn thoắt bước giữa hai vồng bí nhịp nhàng, mỗi bước chân Miên
làm những tay leo như chiếc lòxo xanh non rung lên nhè nhẹ.
Trời sâm sẩm tối, khi đom đóm đã bắt đầu túa ra từ các bụi cây,
bay lập loè, Tín mới thấy Miên tấp tểnh đi về trên triền cát hâm hấp
nóng. Cát lẫn vào các kẽ chân, bám vào lai quần còn có cả những bông cỏ
may khô roong vì nắng. Lửa bắt đầu lật đật cháy, bóng hai mẹ con Miên đổ
vào vách nhà. Mặt nàng ánh đỏ cô đơn. Chồng Miên chết biển đã ba năm
rồi, khi con bé Mai vừa chớm ngậm dây rau của mẹ. Tín còn nhớ lần ấy,
Miên xấp xoã chạy, chân lẫn trong cát, cỏ tranh cào bắp chân toé máu.
Nàng không khóc được. Mắt lạnh băng không chớp. Tín thương lắm, Miên như
cánh chuồn ngủ đông đến mụ mị cả người rồi sang xuân không còn đủ sức
để tung cánh bay lên được nữa.
Thực ra, Tín đã thương Miên từ lâu lắm rồi, thương từ khi Miên
còn son rỗi. Cả hai đã đôi lần hẹn hò nhau bên giếng Cát đầu làng, nơi
dòng nước chảy từ khe đá ngọt lành tụ lại trên cát mà không bao giờ vơi
cạn. Đó là vùng đất thiêng, là nơi hò hẹn của những đôi lứa yêu nhau, đã
vốc nước uống trên tay nhau thì suốt đời không thể nào quên được. Ngày
trước, Miên đã uống nước trên tay Tín. Hôm ấy, lần đầu tiên trong đời,
Tín được cầm tay một người con gái. Bàn tay anh run run lồng vào áo,
chạm vào vú nàng. Cặp vú tròn vổng, căng và ấm như ức con bồ câu chợt
chấp chới vụt khỏi tay anh...
Miên phủ phục trên người anh, đôi mắt đen nhưng nhức, bàn tay
bối rối hết gỡ ra rồi lại tết vào bím tóc lấm cỏ. Miên không muốn về
nhà, về nhà bây giờ là đồng nghĩa với việc mất anh mãi mãi. Ngày mai
đây, Miên phải lấy chồng. Hai gia đình đã có giao ước. Chồng Miên là thợ
lặn. Anh khoẻ mạnh và rắn chắc như cây gỗ lim..., chỉ tiếc một điều, vẻ
đẹp đó không làm Miên thổn thức. Tâm hồn Miên, trái tim Miên đã quá
thân thuộc với mùi mồ hôi của Tín, thân thuộc đến mức có cảm tưởng như
đã lẫn vào nhau...
Miên lấy chồng đúng vào ngày lập thu. Suốt đêm ấy, trời lắc rắc
mưa nhưng sáng ra lại hưng hửng nắng. Miên ngồi như phỗng, chẳng buồn
quan tâm cô thợ trang điểm vẽ những gì trên mặt mình... Miên nghĩ rồi
đây, làm cách nào cô có thể trở thành người xa lạ với Tín. Tín sẽ không
hiểu được vì sao người con gái đã uống nước suối trên bàn tay ram ráp to
bè của mình rồi mà vẫn có thể thương được người khác. Nghĩ thế, thương
Tín quá, Miên lại khóc. Lũ trẻ hàng xóm thích thú đu đưa nơi cửa sổ mà
ngó vào ngưỡng mộ cô dâu đẹp. Đưa con ra đến cổng, bố mẹ Miên cười giòn,
mặt đỏ như tô son vì ăn trầu, uống rượu. Chỉ có Miên là cứ vừa đi vừa
khóc. Bao nhiêu nước mắt đã chảy từ đêm qua đến giờ, mắt húp lại, bàn
chân bước trên ruộng bí đỏ hàng trăm lần, quen như da thịt mình mà sao
Miên cứ vấp hoài, suýt ngã.
Riết rồi cũng quen, ngón tay Miên đã đeo nhẫn cưới lấp lánh rồi
thì làm sao còn có thể gỡ ra được. Mà dẫu có thể gỡ bỏ được thì dù Miên
có lặn sâu xuống đáy giếng Cát cũng không thể nào gột nổi vết ngấn nó để
lại... Làm sao có thể là Miên như ngày xưa nữa. Biết vậy, Miên yên
phận. Thôi không muốn giẫm chân lên lối cỏ quen, thôi không ra đồng
trồng bí đỏ nữa, chỉ sợ tâm hồn như chiếc chăn mỏng có thể bị thổi lật
tung. Miên ngồi nhà vá lưới thay chồng. Bàn tay khéo léo thắt từng nút
cước trắng. Từng cụm, từng cụm treo đầy sân trông như mây vậy.
Từ hôm trời bắt đầu ngả rét, chiều nào Tín cũng ra ngồi trên bãi
đá trước biển. Anh sợ những buổi chiều chập choạng trong nhà mình, cái
khoảng thời gian tranh tối tranh sáng làm cho căn nhà vách đất bỗng
nhiên rộng mênh mông. Sống một mình từ lâu rồi, nhưng không hiểu sao từ
đợt Miên đi lấy chồng, Tín không muốn trở về nhà nữa. Mỗi lần đỏ lửa là
mỗi lần Tín thấy bóng Miên rung rinh trên vách. Miên ngồi khâu áo, mắt
nhìn anh, Miên vừa cười vừa cắn chỉ may, trông hiền như một người vợ
thảo. Nghĩ thế, mặt Tín đỏ bừng, không phải vì hơi rượu nồng, không phải
vì ánh lửa. Anh cảm thấy hơi nóng toát ra từ ngực, từ mắt, từ tóc.
Người Tín đột nhiên ướt rịn mồ hôi, rân rân như kiến bò. Anh nằm ngửa
trên nền gạch, mái hiên thủng lỗ chỗ lấp lánh ánh trăng đan qua kẽ lá
rọi xuống người làm anh bừng tỉnh, miếng vá cồm cộm trên vai anh nhưng
nhức. Từ trên mỏm đá này, anh có thể thấy Miên mỗi chiều vác lưới ướt,
nước chảy xuống chân nàng từng dòng, lặng lẽ đi sau chồng một quãng. Đôi
mắt u tối, sâu như biển, mọng nước.
Nhà Miên dọn ra cuối làng, chỗ con đường mòn ra biển. Chỗ con
đường mọc đầy cỏ tranh và hàng rào trồng toàn xương rồng trổ bông trắng.
Chồng Miên hiền lắm, thương vợ lắm. Hiền đến nỗi dù không yêu anh, Miên
vẫn thấy thương thương lạ, nên mỗi lần vào trong xóm vô tình gặp Tín là
Miên lại che nón đi thẳng.
Nhưng tránh mãi rồi cũng có lúc phải gặp nhau. Nào có ghét bỏ gì
nhau mà quay lưng cho đành. Miên đã uống nước trên tay Tín rồi, dẫu
không muốn, hình ảnh anh cũng không thể nào bay đi như bông gòn tháng
sáu vậy. Đó là một buổi chiều, khi những con dơi đã bắt đầu rời tổ, chấp
chới bay vạch nét đen giữa bầu trời. Miên ngồi ở mỏm đá, bó gối chờ
chồng. Còn Tín, chờ ai, anh cũng không biết nữa. Hai người ngồi lặng bên
nhau. Được một lúc, Miên thở dài "Từ mai, đừng ra đây ngồi nữa nhé!".
Tín nghe lời Miên nhưng cũng tối hôm ấy chồng Miên lỡ hẹn. Anh
đã không trở về. Bàn tay Miên cào trên cát rớm máu. Miên không khóc,
lặng im như đá suốt đêm cho đến khi thấy bụng quặn đau và cơn buồn nôn
ập đến, Miên mới bừng tỉnh bước về nhà. Bàn tay đặt xuống vùng bụng đã
bắt đầu tròn lẳn.
Ngày Miên sinh con bé Mai, bí đỏ chín vàng ngoài đồng. Cơ man
nào là quả, chen chúc nhau dưới ruộng, bò lên cả mặt đường vụng về. Dây
bí khô, xù như sợi dây thừng bở. Lũ em Miên, đứa lớn 17, đứa nhỏ lên 6
đang hì hục làm, mồ hôi vã ra như tắm. Tín cũng ra làm. Anh xếp những
quả bí lên xe rồi chở về nhà, Tín đi ngược nắng, cả khuôn mặt lấp lánh
đỏ. Bố mẹ Miên đang ngồi nghỉ trước hiên, anh lặng lẽ gật đầu chào rồi
xếp những quả bí xuống nền đất phía tây cạnh phòng Miên đang nằm. Không
hiểu sao, lúc ấy Tín lại ghé chân nhìn qua cửa sổ. Con bé đang bú, bàn
tay Miên vỗ nhẹ lên lưng con. Đôi mắt nó đen nháy, anh nhìn không chớp
mắt, cứ nghĩ con bé như vừa bước ra khỏi bức tranh thánh trong nhà thờ
xứ nào đấy. Nhìn thấy cảnh ấy, mẹ Miên thở dài, tiếng thở nóng, nặng
nhọc như người sắp cảm. Anh không nói gì, bàn chân chần chừ, định nói
một câu đùa tếu táo nào đó với cụ nhưng lại không nghĩ ra câu gì. Anh
vội ra ngõ.
***
Sang tháng này, con bé Mai đã ba tuổi. Hết mùa lạnh rồi sang mùa
nắng, Miên cứ gửi con ở nhà mà đi tìm chồng. Lũ em Miên thay nhau trông
con cho chị. Miên lặn lội hết làng biển này đến làng biển khác để hỏi
tin chồng. Trước lúc đi, anh chẳng để lại cho mẹ con nàng cái gì cả.
Không một lời nhắn, không một miếng áo dạt vào. Đi là đi, quay lưng dứt
tình như không vương vấn gì với nhau cả. Nước mắt Miên đã khô rồi, như
lòng suối mùa cạn. Miên lại trồng bí đỏ. Mùa này, bí tràn xanh cả vùng
cát trắng. Những trái non đang căng sữa, da chớm những vạch vàng bổ dọc
trên vỏ quả xanh non. Bé Mai chỉ biết cười, đôi mắt ướt như mắt thỏ con.
Miên ôm lấy con mà lắc: "Mai, con yêu mẹ không?". Con bé im lặng, chớp
đôi mắt ướt, gật đầu. "Không được gật như thế - Miên oà khóc - Con phải
gọi mẹ, gọi mẹ đi!". Không có tiếng trả lời, chỉ có gió thổi u ơ vào
những bụi cây. Miên ngồi xoài giữa đất, đấm vào ngực mình. Trong suốt
thời gian mang thai con, Miên đã không nói một lời. Có lẽ trời bắt tội
Miên, bắt tội kẻ đã lấy chồng rồi mà vẫn nghĩ đến người đàn ông khác.
Hôm ấy, hai mẹ con Miên đang làm ở ruộng bí. Mùa thu hoạch, bí
đỏ nằm lăn trên bờ vàng ruộm. Miên đang xếp bí lên xe bò. Con bò vàng
đứng im, miệng nhểu nhảo nhai cỏ rối. Mai ngồi trong nón mẹ, hai tay cầm
hai nhánh cỏ gà đánh vào nhau. Thấy Tín, đôi mắt thỏ ánh lên. Anh bế
thốc con bé hôn lấy hôn để rồi đặt con bé ngồi lên lưng bò, lặng lẽ xếp
bí cùng Miên. Miên không nhìn anh, nói như thở: "Anh làm thế, mẹ con tôi
sẽ bỏ đi".
Miên tuột khỏi tay anh. Tín thấy mình trở nên thừa thãi. Anh
bước chậm sau mẹ con Miên. Miên đi trước, bước chân thình thịch như trút
xuống đất cả nghìn đá tảng. Anh bứt một đám cỏ lông chông thả lên trời.
Anh biết, nếu anh không ra đi, nếu anh cứ mãi thế này, mẹ con Miên sẽ
bỏ làng mà đi mất. Phiên chợ sẽ không còn người bán ngọn bí đỏ, sẽ không
còn con bé mắt thỏ nhìn như hút hồn anh nữa... Miên thoáng vấp ngã rồi
vội vàng bước tiếp. Bóng tối duềnh lên nhanh như nồi cơm đang sôi chưa
kịp mở vung.
Tín không về nhà, anh cứ thế bước đi. Sau lưng anh là mẹ con Miên và bóng tối dâng đầy.
Tín ngồi trên mỏm đá khi đêm xuống. Sóng dập vào đá, bục, oàm
oạp, rào rào từng đợt. Anh di chân vào đám vỏ hà bám chặt trên đá. Chắc
ai đó vừa mới cạy hà lúc sáng sớm, vỏ trắng lấp lánh xà cừ. Nước dâng
đến chân xâm xấp, anh mới trở về làng. Ngang qua ruộng bí đỏ. Bí còn
non, lác đác hoa, dây chưa vươn ra khỏi luống còn trơ đất trống. Anh vào
làng, ngay con đường mọc đầy cỏ tranh, lấp lánh sau hàng rào xương rồng
có bóng một người con gái. Tín cảm thấy tim mình bị bóp chặt đến nghẹt
thở. Đêm tối không rõ mặt người. Người đó đang rút quần áo đã khô trên
dây phơi ngoài sân, trông thấy anh chợt sững lại, chân bước giật lùi rồi
bất ngờ lao lại ôm chầm lấy anh. Tín chỉ kịp nghe: "Chú ơi, mẹ con
đã...". Đó là con bé Mai ngày nào. Không có tiếng khóc, chỉ bờ vai mảnh
như một nhành liễu run rẩy tựa vào anh...
Tín theo chân Mai vào nhà. Nhà tối thui, chỉ một ngọn nến nhỏ
leo lét cháy ngay bàn lớn làm anh sững người. Bức ảnh của Miên đang
cười. Anh gục ngã. Anh đã qua bao nhiêu đêm tối, sống trong bao nhiêu
mộng tưởng mà kỷ niệm về đôi mắt đó, nụ cười đó không chút phai mờ, vậy
mà giờ đây, tất cả ngay trước mắt anh mà lại nhoè đi. Anh ôm con bé vào
lòng, nước mắt xót rát gương mặt sạm nắng...
Tín đi ra ruộng bí, mấy lần suýt ngã. Tín đi ra giếng làng vục
nước uống đến căng người mà không thấy đôi chim bồ câu nào bay lên. Tín
đi ra phía biển, thấy đầy vỏ hà trắng xoá. Anh nằm ngả xuống cát, bứt
một bông cỏ ngậm lên miệng mà không thấy thần nông, chỉ thấy Miên đang
tưới nước. Những quả bí to tròn. Miên đi giữa hai vồng bí, bàn chân Miên
trắng lẳn như củ sắn vừa mới bóc...
Thương nhớ giàn bầu năm xưa....
Giàn lá xanh xanh chen trái xanh,
Nước bầu thơm mát vị ngọt thanh....
Ngạt ngào hương lúa miền quê mẹ ,
Tình quê chất phác lại chân thành !!
Bao năm
xuôi ngược cách xa quê,
Ngồi dưới giàn bầu ngắm mãi mê,
Ký ức tuổi thơ vùng sống
lại....
Ôi sao thương quá mảnh tình quê !!
Mai đây lữ khách rời xa xứ,
Luôn nhớ trong lòng kỹ niệm xưa....
Của thời trẻ dại khôn nguôi nhớ :
Râm mát giàn bầu giữa nắng trưa !!
NM
Vương vấn những giàn bầu
Một
buổi trưa đầu tháng Năm, về với Cù Lao Chàm (Hội An, Quảng Nam), trải
chiếu nằm dưới bóng cây bồ đề trước sân ngôi chùa cổ Hải Tạng, nhìn lên,
chợt thấy những trái bầu hồ lô lúc lắc treo trên giàn bầu của vườn
chùa. Lòng nôn nao và đau đáu nhớ về những mảnh vỡ ký ức còn in đậm cho
đến bây giờ. Ký ức những giàn bầu ruổi rong theo chân mình trên khắp nẻo
đường lang bạt... Ngày còn nhỏ, nhỏ đến độ mỗi lần ra đồng, mẹ
để tôi lên một bên gánh, bên kia bỏ thêm vào cái gì cho cân bằng rồi
gánh theo. Lúc thì vài cục gạch, lúc thì bao phân chuồng vãi lúa. Rồi
lúc làm đồng về, bên gánh kia thường là khoai, bí, bắp hoặc những “sản
vật” quê mùa khác. Nhưng tôi vẫn nhớ nhất là những trái bầu. Cảm giác
ngồi trên một đầu gánh mẹ gánh về, bên kia là những trái bầu rung rung
theo bước chân mẹ đi có lẽ tôi không bao giờ quên được. Có cái gì đó vừa
vui, vừa thích thú lại vừa lâng lâng đến khó tả. Qua mỗi quãng đồng,
qua mỗi bờ ruộng, bà con cô bác cười với tôi, và cũng cầm những trái bầu
lên, khen bầu nhà tôi to và đẹp. Tôi vênh mặt lên như chính mình được
khen vậy. Thời cơ cực của gia đình tôi cũng gắn liền với giàn
bầu. Ăn Tết xong, ba lại lấy hạt bầu từ trong chỗ cất ra, đem gieo vào
những lỗ đất đã làm sẵn men theo bờ ruộng. Ngày tháng cứ trôi đi, khi
ngọn bầu hơn gang tay người, cứ mượt mà xanh lên thì ba bắt đầu làm
giàn. Tre trúc trong vườn và nhánh cây quanh rào có sẵn, non non một
buổi là giàn bầu đã được làm xong. Giữa lúc cơm mắm gieo neo, mỗi trái
bầu mẹ gánh xuống chợ là cả niềm hy vọng cho gia đình tôi lúc bấy giờ.
Nào mắm muối, nào thức ăn, nào sách vở áo quần cho chị em tôi đến
trường. Nhà ở gần đường sắt, thường thì tờ mờ sáng, ba đã gánh giúp mẹ
gánh bầu một đoạn qua chỗ dốc đường xe lửa. Rồi mẹ gánh, vượt hơn 5 cây
số để xuống tới chợ. Hơn 5 cây số đường đất, đường cát để cho chị em tôi
có cái ăn cái mặc. Không chỉ gánh bầu mà đôi vai mẹ còn gánh biết bao
nhiêu khoai, đậu, cải, hành xuống chợ từ khi sương còn mờ mịt. Cái gánh
gieo neo cứ đi suốt đời mẹ, và cho đến cả bây giờ... Rồi lòng
chợt chạm vào một mảnh ký ức không lấy gì là vui lắm. Một mối tình đơn
phương hồi cấp 3. Nhà em cũng làm nông, cũng có một giàn bầu. Nhưng giàn
bầu ấy nằm ngay trước hiên nhà. Ngày còn lỡ dở giữa bé dại và người lớn
ấy, không biết đã bao lần tôi vào nhà em, đi qua dưới giàn bầu, dưới
những trái bầu từ lúc nhỏ cho đến khi gần chạm xuống mặt sân. Nhà tôi ở
gần trường, em thì cách khoảng 15 cây số. Cứ canh Chủ nhật em về hoặc
những ngày được nghỉ, tôi lại tìm những lý do để đến nhà em. Đạp xe 15
cây số để được nhìn em, để được nhìn những trái bầu lúc lắc dưới nắng
trưa. Em chỉ hồn nhiên tiếp chuyện tôi vài lần, sau đó rồi lẩn tránh.
Nói chuyện với đứa em trai của em mãi rồi nó cũng chán. Ba mẹ em thì
cũng đầu tắt mặt tối ngoài đồng. Vậy là lững thững đạp xe về. Không một
lời chia tay, không một câu giận dỗi, để bây giờ, giàn bầu nhà em vẫn
còn vương vấn mãi trong ký ức tuổi 16 của tôi. Em giờ công thành danh
toại, nghe đâu làm việc cho một công ty nước ngoài ở Sài Gòn, sắp lấy
một anh chồng Việt kiều. Âu cũng là duyên phận. Lòng ngùi ngùi mừng cho
em nhưng lại có chút gì xót xa cho chính mình. Tôi thì lang bạt qua biết
bao miền đất lạ, nhắc tên em, và cả giàn bầu trước nhà em trong những
cơn say, trong những bữa gặp mặt bạn bè cũ. Từ Hà Nội, về Đà
Nẵng rồi lại trở về với mảnh vườn, chút ruộng còn lại của gia đình, lòng
chợt thấy ấm áp hơn sau mấy nẻo mưu sinh đầy bơ vơ, trắc trở. Ba lại
trồng bầu. Giàn bầu cũng đã được vài chục trái to như bắp chân người
lớn. Sáng ngủ dậy, lại lò dò ra ruộng, ngồi dưới giàn bầu thật lâu, cho
đến khi ánh nắng đầu hè xuyên qua kẽ lá bầu, chiếu vào mặt mới nhớ ra
mình còn một số chuyện phải làm. Không khác gì hồi nhỏ, những trái bầu
vẫn thân thương, gần gũi quá đỗi. Tự dặn mình ít hôm nữa, khi bầu hái
xuống, phải xin mẹ chở giúp xuống chợ cho mẹ bán. Như vậy chắc sẽ vui
hơn, sẽ thấy lòng nhẹ bớt hơn. Cụ từ giữ chùa Hải Tạng trong cái
buổi trưa hôm ấy, thấy tôi nhìn những trái bầu hồ lô bằng ánh mắt vừa
đắm đuối, vừa ngây thơ, vừa là lạ. Cụ bảo tháng 7 quay lại, cụ sẽ để
dành cho tôi một trái về phơi khô mà đựng rượu uống như mấy ông trong
phim Tàu cổ. Tôi cảm ơn cụ, hứa sẽ ra và đính chính thêm là mình vừa bỏ
rượu cách đây không lâu. Cụ mỉm cười, bảo về đựng nước đem theo uống
trong những chuyến đi của mình cũng thú vị. Ừ, mà tại sao lúc ấy cụ nhắc
tôi mới nhớ ra nhỉ. Những cuộc phiêu lưu, lang bạt trên khắp nẻo đường
đất nước của tôi còn dài, vui gì hơn là bên hông có một hồ lô nước. Cứ
hết thì mua hoặc xin nước đổ vào. Và tôi nghĩ ngay đến việc xin nước
giếng của chùa đổ vào vỏ bầu hồ lô lần đầu tiên. Nước giếng ở đây trong
và ngọt. Không những thế, tôi tin vào sự thanh thản, may mắn khi mọi
chuyện khởi tâm từ một ngôi chùa cổ...
Tạp bút của Nguyễn Thành Giang
Giàn bầu của ba
Dường
như trở thành một thông lệ, cứ đến mùa gặt lúa vụ Đông Xuân, trước sân
nhà tôi lại có một giàn bầu đầy quả. Giàn bầu là kết quả mà ba thu được
sau khi bỏ ra bao công sức. Quả thật ba có tay trồng cây trái, ít có nhà
nào có được giàn bầu như thế. Hàng xóm thường bảo: “thằng này trồng bầu
nhiều trái chắc là sẽ có lắm con”. Giờ mới thấy hàng xóm nói sai bét và
việc trồng bầu - sinh con chẳng có liên quan gì với nhau.
Giàn bầu của ba không giống với giàn bầu trong Giàn bầu trước ngõ của
Nguyễn Đình Tư. Giàn bầu ba trồng trước một căn nhà tranh vách đất chứ
không phải là khoảng sân trước căn nhà lầu sang trọng; trái bầu của ba
được cả xóm quý trọng chứ không phải là thứ sản phẩm vì nể tình mà nhận
như trái bầu kia; giàn bầu của ba chỉ có một vài dây trồng một lần chứ
không phải “trồng mãi trồng mãi” như giàn bầu nọ,…
Để
có được giàn bầu lấy trái phục vụ cho bữa ăn của bà con hàng xóm trong
vụ gặt lúa Đông Xuân, ba phải gieo hạt từ trước Tết. Sau Tết cũng là lúc
bầu bắt đầu leo lên giàn bằng mấy cái chà tre và tỏa đi các hướng.
Thường thì mỗi lần ba trồng khoảng 2 đến 3 dây ở các góc khác nhau. Khi
dây bầu đã cao hơn đầu người, ba bắt đầu làm giàn cho nó. Ban đầu chỉ là
bốn cái trụ với mấy thanh tre bắc ngang dọc, dần dần giàn bầu rộng thêm
ra theo độ lan tỏa của dây bầu. Ngọn bầu dài ra rất nhanh theo một
đường thẳng, một đêm nó có thể dài thêm ra nửa mét. Vì vậy, ngày nào ba
cũng phải dậy sớm tăng thêm không gian cho nó. Khi dây bầu bò ra rộng
nhất cũng là lúc sân nhà tôi không còn một khoảng trống. Từ ngõ vào đến
nhà tất cả đều là nơi ngự trị của dây và trái bầu, nó còn bò cả lên mái
nhà rồi kết trái trên đó. Có khi đến cuối mùa, khi dây bầu héo được gỡ
xuống mới phát hiện ra vài ba trái trốn mình trên mái tranh, lúc đó thì
chỉ biết dùng vỏ trái bầu làm đồ đựng nước chứ không ăn uống gì được
nữa.
Lũ
chúng tôi ngày đó rất thích leo trèo chạy nhảy nên ba không cho tham
gia làm giàn vì sợ chúng tôi ngã. Đổi lại, ba bảo tưới nước cho cây. Mỗi
lần như vậy, ba anh em tranh nhau tưới. Tưới đến nỗi xói cả gốc làm lộ
rễ ra ngoài, rồi còn biến gốc bầu thành vũng nước và dây bầu bất đắc dĩ
trở thành cây lúa. Cũng nhờ bầu vốn dễ sống nếu không giàn ba làm chẳng
biết cho thứ gì leo nữa.
Cả
nhà ai cũng quý dây bầu và giàn bầu. Mỗi ngày trước khi trời tối, chúng
tôi thường ra đánh dấu xem ngọn bầu đang ở đâu để sáng thức dậy xem nó
dài được bao nhiêu. Hồi hộp nhất là được theo dõi trái bầu đầu tiên hiện
hữu trên giàn. Chúng tôi soi mói nó từ lúc còn bé như đầu cây tăm cho
đến lúc nở hoa rồi thành trái. Khi phát hiện ra ngọn bầu có quả đầu
tiên, má thường dặn chúng tôi không được đụng đến vì sợ nó sẽ rụng hoặc
chai đi. Còn chúng tôi thì như muốn mang nó xuống để chăm sóc vì lo sợ
nó sẽ không đậu thành trái. Mỗi lần đi học hay đi đâu về chúng tôi cũng
đều ghé thăm nó xem đã lớn đến đâu rồi.
Trái
bầu đầu tiên thường được để lại làm giống cho vụ sau. Trái bầu đó được
ba chăm rất kĩ. Vì nó nặng nhất nên ba phải cột dây vào phần bụng neo
lên giàn để nó khỏi kéo làm đứt dây. Nó sẽ nằm đó cho đến cuối mùa, khi
dây bầu tàn ba sẽ hái xuống đem phơi vài ngày rồi mang vào treo trong
bếp. Đến mùa gieo hạt năm sau sẽ mang xuống bổ ra lấy hạt đem ươm. Trong
ruột nó chứa đến hàng vạn mầm sống, ba chỉ gieo một ít, còn lại đem cho
hàng xóm, ai trồng được thì trồng. Gần như cả xóm ai cũng xin hạt về
trồng, vậy mà đến mùa, vẫn không có nhà nào có được giàn bầu thứ hai như
giàn bầu của ba. Quả thật, đó là niềm hãnh diện của nhà tôi, của anh em
tôi.
Hoa
bầu nở về đêm nên nó kết trái nhiều nhất vào mùa trăng sáng. Vào mùa
trăng nhìn giàn bầu thật thích mắt, trái lớn trái bé cứ đung đưa như đưa
nôi. Hồi nhỏ tôi không hiểu tại sao chỉ đến mùa trăng bầu mới nhiều
trái. Thắc mắc nhưng không dám hỏi vì sợ nói ra bầu sẽ không đậu trái
nữa (đó cũng là thói quen kiêng kị của người dân). Sau này mới biết bầu
thụ phấn nhờ côn trùng. Chỉ khi trăng sáng, các loại côn trùng mới hoạt
động nhiều, chúng mang phấn từ hoa đực sang hoa cái. Nhờ đó bầu mới đậu
trái.
Khi
giàn bầu của ba sai trái cũng là lúc quê tôi vào mùa gặt. Chính vì vậy,
nhà nào đến ngày gặt lúa cũng đến nhà dặn ba một hai trái bầu về làm
canh cho người gặt ăn cơm trưa. Sống ở quê nghèo nên ai cũng quý những
thứ như thế. Nếu bây giờ, có lẽ giàn bầu của ba chỉ để làm cảnh chứ
chẳng có ích lợi gì. Nhà khá giả thì mua tôm tép, thịt còn không thì ra
đồng bắt cua về nấu với bầu, đơn giản hơn thì trộn với thứ khác hoặc
luộc chấm mắm. Bầu vốn dễ chế biến thành món ăn. Để canh bầu được ngon,
ngọt thì người nấu canh thường tao tôm, thịt, hay cua gia vị cho thấm
tháp rồi đổ nước lã vào nấu cho sôi lên, rồi cho bầu xắt mỏng vào. Đợi
sôi vài dạo, bầu vừa chín tới là nhắc xuống, không được nấu bầu chín lắm
sẽ mất ngon.
Hết
mùa gặt cũng là dây bầu dần tàn. Dây bầu sẽ cho những đợt trái cuối
cùng nhưng nó không còn ngon ngọt, mềm như lúc dây còn sung sức. Biết là
trái bầu lúc này ăn không ngon nhưng ba vẫn chưa vội phá giàn đi vì
thấy tiếc, tiếc cho bao công sức ba vuông trồng, làm giàn, chăm bón;
tiếc cho những gì mà dây bầu đã cho con người trong suốt thời gian nó
tồn tại. Nhưng cuối cùng thì dây bầu cũng khô héo và chết đi, kết thúc
một chu kì sống. Ba ngậm ngùi kéo dây và tháo giàn xếp vào một góc, đợi
sang năm lại tiếp tục làm giàn cho dây bầu mới.
Một
mùa như thế, không thể tính được giàn bầu ra được bao nhiêu trái. Ban
đầu chúng tôi còn đếm trên giàn có mấy trái nhưng khi cây đã sai quả thì
không thể nào đếm được nữa. Tôi chỉ biết là cả xóm hầu như nhà nào cũng
một lần đến nhà tôi hái bầu mang về làm thức ăn, có nhà đến vài ba bốn
lần. Ở nhà má cũng rộng rãi, khi bầu sai trái, má hái cho mỗi nhà một
quả. Có nhà muốn ăn nữa nhưng ngại lại đến mua, tùy theo người, má có
thể bán cũng có thể cho, nói là bán nhưng cũng như cho. Cứ như vậy, trái
bầu ba trồng trở thành thức ăn của nhiều nhà trong xóm, và giàn bầu
cũng trở thành quen thuộc với mọi người.
ST
Bầu eo neo lại hồn quê
Trở lại quê nhà sau mấy năm biền biệt xa
cách, điều làm tôi sửng sốt hơn cả là bên cạnh cái hiện đại, thì những
nét quê xưa cũ vẫn không hề mất đi. Thậm chí tôi còn gặp được những thứ
tưởng chừng như lâu lắm rồi, trước khi mình sinh ra nữa, mà nay được tái
sinh. Đêm đặt chân về lại đất làng, chợt nghĩ còn có viện bảo tàng nào
bền vững hơn thế. Quê nhà là nơi lưu giữ cho người ta mọi thứ, cả vật
thể và tinh thần.
Hồi nhỏ coi phim Tây du ký, cứ ngỡ
rằng trái hồ lô (bầu eo) là một thứ giả tưởng, làm gì có loại trái như
thế, hoặc nếu có thì chỉ ở bên Tàu. Mãi đến nay tôi mới được chứng kiến
tận mắt. Mà không phải ở đâu xa lạ, ngay chính trên quê nhà thân yêu của
mình. Phải chăng quê hương là nơi mọi thứ tưởng chừng huyền thoại đều
có thể trở thành hiện thực?
Không biết ông nội lấy giống cây ở
đâu, đem về ươm và trồng một giàn sau lưng nhà. Đến mùa ra quả, những
trái bầu thắt eo thõng xuống duyên dáng. Mệ nội nói cái thứ quả không ăn
được ông trồng mần chi? Ừ, không ăn được thì trồng chơi vậy thôi, quả
hái làm quà cho người ta đem về, cũng chỉ để… chơi. Ai đến thấy ngồ ngồ
cũng hái một quả mang về.
Cuối mùa sây trái năm ấy ông chỉ
chừa lại hai quả, đem móc trên chái bếp. Vài bữa sau trái hồ lô khô. Màu
khói rơm hun vào khiến lớp vỏ vàng sẫm và bóng lên như chiếc bình cổ.
Dưới mái bếp, hai trái bầu lẫn giữa những chiếc mủng mẹt đã bám đầy mồ hống.
Mồ hống ấy như một chất keo bảo vệ cho các loại vật dụng bằng tre nứa ở
quê, và cũng nhờ thế nên lớp vỏ trái hồ lô móc mấy bữa thì cứng sừng
lại, cất giữ được đến tận mấy năm sau. Ông moi hết phần ruột ở trong.
Làm thêm cái nùi gỗ đậy phía trên. Phần bầu dưới thì đan một cái so bằng
tre lồng vào. Thế là có cái bình đựng nước chè. Mỗi khi đi làm đồng,
rót nước chè vào bình và mang theo ra đặt trên chân ruộng.
Ngày trước, mỗi nhà đều có một chiếc
bi đông đựng nước mang ra đồng. Có một câu vè châm biếm về sự lười
biếng uể oải thế này: Tư tưởng không thông xách bi đông cũng nặng! Bây
giờ không thể tìm thấy một chiếc bi đông nào như ngày xưa nữa. Thì đã có
bình hồ lô. Có lẽ nếu cái anh chàng nhác nhớm trong câu vè mà vác bình
hồ lô chắc sẽ không cảm thấy nặng đâu, vì chính cái sự ngồ ngộ đáng yêu
của nó đã làm cho người ta thích lao động hơn. Vật dụng phục vụ cho công
việc đôi khi lại có ảnh hưởng lớn đến tinh thần người làm. Chẳng hạn
ngày xưa đi cày trâu, người quê cầm một chiếc roi đuối (dây cước cứng)
để quất vào lưng trâu. Dần dần bà con thấy cái roi nó ra vẻ uy hiếp quá
nên bây giờ chỉ dùng roi tre, thậm chí không cần roi nữa mà chỉ dùng tín
hiệu tắc rì họ…
Mùa gieo lúa vụ đông-xuân mới đây,
tôi ra đồng giữa buổi để coi ruộng nhà mình, ông nội đã ra đồng ném
giống từ sớm. Đến ruộng, thấy bình hồ lô nằm nghiêng mình tựa vào lớp cỏ
xanh bên vệ đường. Cứ như thể người nông phu nào đó trong một buổi làm
đồng ngày xưa đã bỏ quên lại chiếc bình màu cũ và sót lại cho đến hôm
nay. Một điều gì xưa rất xưa đã trở về trên lớp cỏ xanh tươi còn đẫm
sương sớm.
Ném nốt thúng lúa giống, ông lên bờ,
ngồi bệt xuống vệ cỏ và thong thả cầm bình nước lên uống. Hả hê một
ngụm chè xanh, tan hết tất cả mệt nhọc. Tôi nhận ra cái vẻ sung lơn của
người đi lên núi tìm sâm, sau những cuộc trèo đá gian nan nay ngồi ngó
xuống dốc ghềnh và tu một ngụm rượu từ chiếc bình bầu eo mang theo.
*
Bảo là một người bạn ở làng, cùng
tuổi với tôi. Mới ngoài hai mươi nhưng đã nhiễm một ít cung cách sống
của bậc cao niên, ví thử cái thú uống trà hoặc đam mê chơi cây cảnh. Ở
góc vườn, Bảo trồng một giàn hồ lô, lá đã phủ gần kín phên tre. Chỉ vài
bữa nữa là có quả rồi đấy! Hắn nói và mắt mơ màng tưởng đến những dự
định sau mùa quả sắp tới. Bảo có khiếu viết thư pháp. Rồi đây có thể hắn
sẽ thảo chữ nét chữ mềm mại phóng túng lên trên lớp vỏ hồ lô sau khi đã
sấy khô dưới nắng. Hoặc sẽ dùng chiếc bình ấy rót rượu vào và mang lên
trên đê ngồi uống cùng bạn bè ở làng trong một đêm trăng mùa hạ tới đây.
Bảo dẫn tôi đến phía thềm sân khác,
bên cạnh cũng là một vườn cây kiểng. Ở đấy đã có một lu to chứa nước.
Bảo làm thêm chiếc gáo từ trái hồ lô dùng để múc. Cắt lấy phần eo dưới
trái hồ lô, gắn vào đấy một thanh tre làm cán, thế là có chiếc gáo. Mới
trông vào cứ ngỡ là chiếc gáo dừa, nhìn kỹ mới thấy được cái miệng thắt
eo duyên dáng và lớp vỏ láng nhẵn. Nước trong lu vắt ngần, soi rõ nguyên
hình cán gáo và tán một cây cau cảnh bên cạnh. Tôi thật sự bất ngờ
trước ý tưởng sáng tạo đầy vẻ dân dã của một thằng con trai làng. Và
thêm một lần nữa trân trọng người bạn mộc mạc. Hình như trong con người
ấy có một thứ tình yêu đối với làng quê sâu nặng, hay nói không quá, đấy
là sự trân trọng văn hóa dân gian.
Tối hôm đó tôi ngồi cùng với Bảo bên
góc sân dân gian ấy, pha một ấm nước trà nhâm nhi. Trăng hạ huyền đậu
đầu cán gáo. Tưởng tượng ra hình ảnh một cô thôn nữ ngày nào đang xõa
tóc tắm trăng đêm. Ai đó có ý thương nàng nên thả vào mặt nước một vài
cánh hoa hường chót đỏ mỏng mảnh, phấn hoa tan ra tỏa hương thơm cả một
góc vườn. Nàng cầm chiếc gáo hồ lô múc từng ngụm nước trong lu, rồi
nghiêng cán cho nước lăn chầm chậm theo suối tóc. Nàng cứ tắm như thế
cho đến khi mảnh trăng nhô cao, sáng vừa soi thấy những đường cong thiếu
nữ thì thôi. Hình ảnh ấy biến mất ngay tức khắc, chỉ còn dải sáng tóc
trăng vắt bên cán gáo. Và hương thơm cánh hoa hường thì vẫn vương vẩn
quanh chỗ tôi và Bảo đang ngồi.
Lâu lắm rồi mới có lại một không
gian cố cội, cả cái hương xưa hồn cũ nữa chứ. Bảo hè? Mà cũng đơn giản
dễ dàng thôi, bỏ ra chút ít thời gian, chịu khó suy nghĩ sắp đặt là chạm
phải ngày xưa tưởng chừng đã mất đi mãi mãi. Ôi, đúng là “với tay khơi nhẹ hương ngày cũ, mường tượng như mình ngộ cố nhân” như câu thư pháp mà Bảo đã viết và treo trên tường kia.
Uống cạn chén trà, liếc sang cái
gáo của bạn, tôi lại nhớ chiếc bình hồ lô hôm nào trong phim Tây du ký.
Trái hồ lô ấy có thể thu phục và nhốt Tôn Ngộ Không vào trong. Còn trái
hồ lô của chúng tôi, có lẽ sẽ gói lấy tâm hồn những người con của làng
và neo lại phía quê hương.
Hoàng Công Danh