Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2018

Nhạc - Thơ -Văn Chuồn chuồn ơi

Buồn Như Con Chuồn Chuồn ...

Tơ Tằm

Lý Chuồn Chuồn

Chuồn chuồn bay thấp (nghe)

 

Chuồn chuồn ơi,
Lung linh đôi cánh mỏng,
Chập chờn giữa luống hoa.
Tuổi xanh thơ mộng quá...
Thương ngày thơ đã xa !

Vẫn ung dung tự tại,
Ngày lại ngày bay bay...
Nhớ sao thời xưa ấy,
Thuở chuồn chuồn trong tay

Xa rồi một thuở chiêm bao,
Tìm trong ký ức đâu nào tuổi thơ ?
Bao năm luôn vẫn mong chờ,
Ngắm đôi cánh mỏng lượn lờ bay cao...
Với niềm kiêu hãnh tự hào,
Vượt qua bao nỗi gian lao trong đời!
Chuồn chuồn ơi, tuổi thơ tôi,
Mắt sao ngấn lệ khi về lối xưa !!
NM

Bắt chuồn chuồn

Với tôi, ký ức đáng nhớ nhất, đẹp nhất của tuổi thơ chắc là cùng đám bạn trong xóm đi săn bắt chuồn chuồn. Dân gian có câu: “Chuồn chuồn có cánh thì bay/ Có thằng cu Tí thò tay bắt chuồn”. Mà ở quê tôi, từng có cách bắt chuồn chuồn chắc là “độc nhất vô nhị”.
Rút mấy cây đai khô dựng bên hông nhà hay được mẹ bó gọn trong nhà bếp làm củi nhóm lò. Rồi ra gốc dừa tuốt cọng dừa gập hai đầu nhét vào lỗ nhỏ trên đầu cây đai. Vậy là thành ra hình cái vợt rỗng. Việc tiếp theo là tìm các ổ nhện to trong các lùm cây ngoài vườn, quấn tơ nhện ấy vào đầy mặt cái vợt. Quấn càng dày càng tốt để độ dính nhiều hơn.
Dùng cái vợt với cán đai dài thòng lại thêm dày tơ nhện lén đưa lại úp lên cánh chuồn chuồn là dính ngay tức khắc. Chuồn chuồn khó thoát với tơ nhện dày và dính dấp như thế. Cách săn vô cùng hiệu quả. Hơn hẳn cách “truyền thống” thường làm là lại gần chộp đuôi, chộp cánh. Bởi những con chuồn chuồn đẹp thường rất nhát hơi người hoặc là khôn ngoan hơn. Dù thấy rõ ràng nằm khép cánh nghỉ lâu nhưng vừa đưa tay đến là đã bay mất. Khiến tiếc hùi hụi! Thêm tức bởi nó lại đậu ở một nơi khác thật gần đó như kiểu chọc tức, trêu ngươi người bắt.
Với trẻ em ở quê thời đó vui nhất là săn bắt chuồn chuồn vào mùa gió bấc và mùa hè. Chúng tôi thi đua xem ai bắt được nhiều hơn, bắt được con đẹp nhất (là chuồn chuồn ớt). Chuồn chuồn lính, chuồn chuồn ớt, chuồn chuồn gió… bắt được nhét vào trong túi áo gió kéo dây kéo lại. Bỏ chuồn chuồn khỏe vào hai lòng bàn tay chụm lại, áp tai vào nghe cánh chuồn kêu tạch tạch, vù vù nghe rất vui tai. Có đứa thì dùng sợi chỉ buộc cổ hay chân thả chuồn chuồn bay lên… Trò chơi ngày xưa đơn giản là vậy. Trẻ con ngây thơ không hiểu gì nên cũng đã gây ra luôn… vô số tội.
Ngày tháng tuổi thơ trôi qua thật nhanh.
Những đứa bạn ngày xưa từng cùng tôi săn bắt chuồn chuồn qua bao mùa gió bấc, bao mùa hè giờ có đứa con gái đã lấy chồng xứ người, có đứa đi xuất khẩu lao động đổi được đời, đôi ba đứa lên thành phố làm việc cuối năm quày quả về quê…
Người vẫn ở lại quê thì có dịp cảm nhận rõ ràng từng thay đổi đi qua trên quê hương mình. Mùa gió bấc giờ đây không giống như xưa nữa. Cái lạnh lẽo đáng mong chờ mỗi năm một lần đã nhạt nhòa dần vì ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Mùa hè trẻ ở quê cũng cật lực học thêm, ít thời gian vui chơi, giải trí, không có nhiều dịp gần gũi với thiên nhiên.
Còn con chuồn chuồn sao thấy vẫn thế! Chuồn chuồn nhỏ bé cất cao đôi cánh bay lượn trên bầu trời xanh, trông ung dung tự tại. Thật ngưỡng mộ! Nhưng thật ra chuồn chuồn vốn sinh ra chính trên vùng sông nước đấy thôi! Là “cư dân” có gốc gác sông nước. Các ấu trùng tồn tại mạnh mẽ đâu đó trên con sông, mương hay đầm… là nơi sóng vỗ mạnh hay êm đềm. Chẳng phải cũng là thử thách trong đời chúng buộc phải vượt qua? Là phải cố gắng vượt qua để rồi một ngày thêm thấy tự hào, kiêu hãnh khi đã cất đôi cánh bay trên bầu trời cao rộng. Ôi chao! Chỉ là cuộc đời loài chuồn chuồn nhỏ nhoi mà bỗng thấy gợi lên trong lòng bao ý nghĩa. Khi đời chúng và chúng tôi cũng là sinh ra, lớn lên, mọi sinh hoạt hằng ngày gắn liền với cánh đồng, con mương, con sông, bến nước quê hương mình, trên mảnh đất Chín Rồng!…
Trẻ thời nay có nhiều trò chơi hấp dẫn hơn là việc chạy nhảy ngoài đồng, ngoài sông. Tưởng là tâm tính, thú vui sẽ khác biệt nhiều lắm nhưng không phải vậy. Tôi đã lầm to. Bởi là đứa trẻ, đứa nào chẳng vô cùng thích thú khi thấy một cánh chuồn chuồn bay ngang tầm mắt.
Vì sao trẻ con luôn thích bắt chúng? Vì chuồn chuồn đẹp? Bởi chuồn chuồn có cánh để bay. Hay bởi chuồn chuồn là biểu trưng cho ước mơ được bay cao, bay xa của mọi đứa trẻ, khiến chúng tò mò. Trông hình dáng chuồn chuồn giống chiếc máy bay quá đi chớ! Nhìn kỹ mặt lại giống luôn người phi công với cặp kính to bằng thủy tinh. Ở vùng quê xa lắc, thi thoảng nghe tiếng máy bay ngang qua bầu trời tụi con nít nào cũng ba chân bốn cẳng, thậm chí bỏ cả bữa cơm đang ăn dở dang chạy ra sân. Mắt ngó tìm trên bầu trời. Báo hại mắt đỏ chạch, nước mắt chảy ròng ròng vì chóa, vì ngó quá lâu. Nhưng nếu không thấy bóng dáng chiếc máy bay càng tiếc hơn ngàn lần ấy chớ…
Chúng đang í ới gọi nhau chạy rượt đuổi theo con vật xinh đẹp như cái cảnh quen thuộc từng có đâu đó trong ký ức của mỗi người dân quê đồng bằng. Rồi dưới bến sông, trong sân vườn, có anh chàng, cô nàng nhỏ tuổi nào đó, mới mấy tuổi đầu thôi! Không biết ai dạy hay học từ đâu lại “đía” một cách vô cùng dễ thương. Là các cô cậu nhà ta đã biết đóng kịch, mắt giả đò ngó lơ mà chân vẫn rón rén, chầm chậm, kiên nhẫn, nhẹ nhàng, kiễng chân nhích tới từng chút một chờ dịp nhanh tay chộp lấy cánh chuồn chuồn cho mình…
Nguyễn Minh
(Chợ Mới – An Giang) 

 
  Mãi tìm
Người đi xa mãi không về,
Chắp đôi cánh mỏng bay tìm chốn xưa...
NM
Con chuồn chuồn - Câu chuyện tâm linh

Trong đời sống hằng ngày, luôn có nhiều chuyện lạ không ai giải thích được. Người tin thì giải thích theo hướng tâm linh. Người không tin thì giải thích theo lý trí, dựa theo khoa học.. Nhưng dù thế nào thì đã mấy ai vén được bức màn huyễn hoăc, để nhìn rõ sự việc như 1+1 =2.
Hôm đám tang anh Hai, không phải tự nhiên mà các chị sợ, dồn cả lại một phòng ngủ. Cũng có một vài chuyện lạ tạo nên tình trạng xôn xao này... tuy chỉ là chuyện nhỏ.
Hôm mới đến nhà Anh Hai, do chị hai còn bận việc chưa về nhà, mọi người vào bếp tự lo chuyện ăn uống. Ngồi ăn, ai cũng cảm nhận cơm hôm nay sao lạ quá, vừa nhão, vừa sượng, chỗ chín, chỗ sống rất khó ăn, nhưng rồi cũng ráng cho xong bữa. Lát sau chị Hai về, cũng bới cơm ăn. Vừa ăn một miếng chị nói liền: "cơm sao kỳ vậy, mới nấu hồi sáng, tôi có sới đàng hoàng mới đi. Hồi giờ nấu nồi cơm điện có bao giờ bị gì .. kỳ vậy đâu? cơm làm như chảy rữa ra!"
Lúc này một chị mới lên tiếng: "Em cũng thấy vậy". Bất chợt, một chị khác nói nhỏ: hay là người âm về ăn? người ta nói cơm mà ngươi âm về ăn sẽ bị chảy rữa ra?.
Vậy là tự nhiên ai cũng thấy rờn rợn.  Đến chiều con nhỏ cháu, con gái Anh Hai, kể thêm một câu chuyện nữa thì tối đó các chị dồn chung vào hết một phòng.
Cháu kể, "chiều hôm Papá vừa  mất ở bệnh viện, con thẫn thờ về nhà, vừa ngồi vô bàn làm việc thì nghe có tiếng gì vo ve, vù vù bên tai, con cũng không để ý. Cho tới khi thấy một con chuồn chuồn lớn cứ bay tới bay lui, xà vào bám cả vào mặt, vào tóc, vào tay con.
Con lấy tay hất đuổi nó đi, mà nó vẫn cứ lẩn quẩn. Đến lúc con vào phòng tắm rửa mặt nó cũng bay theo, mà tiếng đập cánh của nó rất lớn, cứ rì rì đập vào tai làm con khó chịu. Con đuổi nó ra ngoài và nói với Chồng: "anh ơi, có con gì lớn lắm bay vào nhà mình, mở cửa đuổi nó ra dùm em đi anh". Thế là cùng nhau dồn đuổi nó ra sân sau, đóng cửa lại.


Vào nhà rồi, lát sau lúc ngồi vào ghế sa lông, nhìn ra khung cửa sổ, chợt thấy con chuồn chuồn lúc nãy đang bám vào thành cửa sổ như nhìn về hướng về con đang ngồi. Con bỏ vào phòng nằm nghỉ mệt .. đang lơ mơ chợt một ý nghĩ lóe lên: Papá tuổi con rồng, con này tiếng Mỹ là Dragonfly. Lúc còn sống Papá rất thích màu xanh da trời, con này cũng màu xanh da trờì.. Mà sao nó có trong nhà mình? mà sao nó cứ theo mình? bám vào mặt vào tay mình?... Nghĩ tới đây chợt con ngồi bật dậy, vừa chạy ra ngoài, vừa la lớn:  "PaPá, phải PaPá không?."
Lúc này con chuồn chuồn vẫn còn đậu ngoài sân, một cảnh tượng lạ mắt: con chó nhỏ của các cháu đang nguồi xổm ở sân sau, trước mặt là con chuồn chuồn, hai bên yên lặng nhìn nhau không một tiếng động. Con chạy ra, vừa khóc vừa xúc động kêu lên: Phải PaPá của con không?.
Con chuồn chuồn vẫn đậu một chỗ yên lặng như lắng nghe. Con nói với chuồn chuồn: PaPá à, nếu là PaPá thì Papá đi đi, bây giờ PaPá được tự do rồi, không còn đau đớn, không còn ra vô bệnh viện nữa. Tụi con và Má sẽ không sao, PaPá đừng lo. Thôi PaPá đi đi, đi theo cuộc sống mới của PaPá đi, đừng lưu luyến tụi con nữa.. Papá hãy tự do tung cánh  nghen Papá . Con thương Papá lắm..
Ông chồng con người Mỹ, Ổng đâu tin mấy chuyện này, ổng tưởng con đau buồn quá mà quẩn trí, nên ổng dẫn con vào nhà.
Ngồi trong nhà nhìn ra, con chuồn chuồn vẫn còn đó, con lấy điện thoại ra chụp mấy cái hình, lát sau nó mới bay lại cửa sổ, nhìn con một lúc lâu nữa, rồi bỗng dưng có lúc con vô ý, quay lại thì không thấy nữa.. 
Con bé cháu này sinh trưởng thành đạt ở Mỹ, nhưng còn giữ được nhiều tư tưởng Á đông. Lúc sinh thời hai cha con rất thương yêu, gần gũi. Có thể gì vậy mà tâm linh tương ứng chăng?
Sau đám tang Anh Hai, quả thật mình thấy đời người như thoáng chốc. Lúc sống cuộc đời luôn có nhiều việc bất như ý, nhưng mấy ai rời khỏi trần gian, mà không vướng bận những nỗi niềm thương yêu còn để lại.
Hôm qua hai vợ chồng mình mới mua xong hai phần hậu sự. Có chút ngạc nhiên vì làm sao mình có thể bình thản khi bàn về đám tang của chính mình như vậy?. Đặt bút ký giấy tờ, trả tiền... lo trước chuyện hậu sự để khi nằm xuống người ở lại không phải "tang gia bối rối" .. mình thấy lòng dửng dưng như không.
 Tuy nhiên vẫn có chút thắc mắc.. chết rồi mình sẽ về đâu? thế giới bên kia như thế nào?. Có ai biết không, làm ơn nói cho mình biết với!

 Quinhon11
Chuồn chuồn ướt mưa
Tôi thoát khỏi giấc mộng mị khi cơn mưa vẫn còn rỉ rả. Những gã đầu gấu vỉa hè, vài mụ hàng quán, mấy đứa trẻ lang thang,... Những thứ ấy bám riết lấy tôi đã nhiều năm nay, và giờ thì tôi cũng chẳng còn sợ chúng nữa.
***
Chị tôi vẫn còn đang ngủ. Chị tôi đẹp, đẹp cả trong giấc ngủ. Với những thứ mà cuộc đời này ban tặng thì tôi dám chắc chị chẳng xấu chỗ nào. Một sống mũi cao với chân mày lá liễu, đôi mắt nhỏ và bộ mi cong, làn da trắng, hồng hào. Bao lần chị đi bán, vài lão già ghé xe ngang, tán tỉnh, chị tôi bỏ chạy. "Ông nội đó thấy gớm, râu ria xề xòa, mắt như mắt ác quỷ. Nghĩ sao mà đòi cưa tao, mày. Lần này tao chạy, chớ lần sau tao vụt đôi dép kẹp vô mặt ổng, há há", chị tôi bảo thế sau một lần bị một lão "hỏi thăm", và tôi thì chẳng biết làm gì ngoài ngồi cười hì hì trước cái giọng điệu của bà chị.
Tôi cười vậy thôi chứ tôi sợ lắm. Những lão như thế giàu lắm, mà nhà tôi thì lại nghèo, chị tôi chống trả họ được mấy lần khi cái thạp gạo có ngày trống không.
Căn nhà hỗn độn, mặt đất nằm dưới tầng nước cao tới mắt cá. Nhà không ghế, cũng không bàn, chỉ một chiếc giường, nhưng nó cũng bị mọt xơi gần hết hai cái chân. Tấm tôn lợp tạm nằm chơi vơi nửa ngoài nửa trong, mưa tạt vào nhà. Ướt, lạnh!
Tôi bước ra cửa, vươn vai vài cái. Tiếng mưa ngớt dần, tạnh hẳn. Chị tôi thức, tôi huơ tay lấy cọc vé số với cái nón. Chúng tôi ra khỏi nhà. Nước ngập dọc con hẻm. Quen rồi, mùa mưa ở đây là vậy.
Nhà nào được cái thềm cao thì khô ráo, còn nhà nào như nhà bọn tôi thì cứ lội nước như vậy suốt mùa.
Tôi đi về phía trường học. Phố sau mưa ướt át, ảm đạm. Thuốc lá, tiếng chửi léo xéo, tiếng đấm nhau thình thịt... Tôi không nghĩ đây là chỗ mà con người có thể sống. Nhưng người ta vẫn sống đấy thôi, dù nó có bần cùng lúc nào thì con người ta cũng phải thích nghi hết. Một định luật gì ấy mà tôi từng nghe mấy đứa học trò bảo nhau.
Tôi đến trường học, tôi tìm vài người có tình một tí, chắc họ sẽ thấy một đứa trẻ tội nghiệp và mua vài tờ vé số
Trường học không chỉ có đại gia mà còn có cả những gã hung hăng. Họ không côn đồ như bọn đầu gấu bảo kê đầu phố. Họ thương con họ. Nhưng con người khác thì vui lòng xéo ngay
Con người khác thì họ đối xử thế, chứ còn tôi, tôi còn tệ hơn "con người khác". Một cái nón rộng vành rách chỏm, quần áo bẩn thỉu, tôi không biết là nó có bốc mùi hay không nữa. Và như thế, tôi chẳng may mắn bán được tờ vé số nào trước cổng trường
Nhưng tôi vẫn ngồi đấy, ngồi ngắm bọn học sinh. Áo trắng, quần tay, đầu tóc gọn gàng, mặt mũi sạch sẽ, thơm tho. Tụi nó nói chuyện cũng rất đàng hoàng, ít nhất là đàng hoàng hơn tụi thằng Chai, thằng Lon chuyên đi mua ve chai. Tôi ngắm tụi nó, rồi thấy buồn buồn, tủi tủi
Nhưng buồn tủi kiểu nào cũng phải đi kiếm tiền. Tôi bước vòng vòng phố. Nằng rớt dọc con đường, gió thở dài qua các phiến lá. Tôi gặp chị ở ngã tư đầu phố. 
Chúng tôi trở về nhà khi cơn mưa bắt đầu nặng hạt. Những gì tôi gặp hôm nay cũng chẳng có gì nhiều. Tụi thằng Chai phun bừa vài câu tục tĩu, ông bảo kê đầu phố nện cho tôi hai cái, mấy bà bán khô đốt phong long khi tôi đi ngang. Thường
Cũng chẳng có gì phải để ý lắm. Tôi tự bảo sẽ chẳng để ý nữa, vết thương cũng chẳng đau, tôi chẳng cần xức dầu hay thuốc gì cả. Còn bà chị tôi thì cứ quýnh lên. "Đau chỗ nào, làm gì cho ổng đánh, hả?". Rồi chị tôi ôm tôi mà khóc, khóc thét lên, thét inh ỏi. 
Vài "con người" ở trong những ngôi nhà cao nền chạy sang, tống vào tai chúng tôi mấy câu chửi vã, rồi chống nạnh quay về, miệng không ngớt nham nhảm. Mấy con mụ ấy là ma là quỷ!
Chị tôi không khóc nữa, nhưng ánh mắt chị có cái gì đó thâm độc lắm, còn độc hơn cả những "con người ở trong những ngôi nhà cao". Tôi sợ, chị tôi chưa vậy bao giờ. Tôi bắt đầu nhớ tới những gã mà chị nói ghê rợn, với cái mặt đểu cán và những thứ khác. Tối đó, tôi không ngủ được.
** *
Chị tôi chưa về, trời nhập nhoạng tối, thường thì chúng tôi sẽ gặp nhau ở đầu hẻm, nhưng hôm nay chị tôi mất bóng. Mưa đánh lên tôn những tiếng ào ào nghe chói tai. Tôi nhớ đến câu nói của chị tối qua, rồi nhớ đến những thứ kinh tởm khác. Thạp gạo trong nhà đã hết...
Chị tôi về trễ, đôi mắt đỏ, sưng húp, chị khoác cái áo mới, mùi nước hoa tôi hay ngửi thấy khi đi ngang một quý bà nào đó, tay cầm bọc tôm còn đang búng phành phạch. Chị tôi cười, nhưng trong cái cười đó tôi nghe chị khóc, khóc ở một nơi nào đó rất xa và bây giờ tiếng khóc ấy vọng về. Chị không nói, tôi cũng hiểu. Những gì chị làm hôm nay, nước mắt chị rơi, quần áo, nước hoa và cả bọc tôm... Tôi không khóc, tôi chưa từng khóc và hình như cũng không biết cách khóc.
Con tôm tôi từng nghe những bà hàng tôm nói là ngon, nhưng thực tình thì nó chẳng ngon tí nào cả, khó nuốt, và tôi nghe cả vị cùa nước mắt trong đó.
*** 
Sáng sớm, trời tạnh mưa. Tôi chuẩn bị đồ đạc. Từ ngày đó tới nay, hôm nào trời cũng mưa đêm. Ông trời cũng thương chị tôi đấy hả, ông cũng khóc chung với chị tôi đấy! 
Hai tên côn đồ xông vào nhà tôi, một tên lôi tôi ra ngoài, tên kia nói với chị tôi cái gì đó trong nhà. Bọn họ bỏ đi, tôi chạy vào nhà. Chị tôi cười, "Không có gì, người ta bắt ghen, lộn nhà chứ gì đâu mà mày sợ". Và tôi lại linh cảm chẳng lành...
Người ta ùn ùn kéo nhau ra đường. Trời tối. Ánh đèn đường hắc xuống cái màu vàng ảm đạm. Chị tôi chưa về, thạp gạo còn đầy, nhưng bị dột nước, gạo ướt, hẩm hiu. Tôi chẳng lạ gì cảnh này nữa, chị tôi thường về trễ, chị không nói, nhưng tôi biết hết, tôi định cản chị, nhưng hình như muộn rồi!
Người ta nói chị tôi nằm trên vỉa hè công viên, và tôi đã thấy. Máu, tôi thấy máu, và gương mặt trắng bệnh. Tôi không nghe chị thở, và tôi cũng không khóc. Tôi biết tất cả, tôi nhớ hai tên hôm trước, tôi nhớ những lão già của chị, vợ của những lão ta... Và tôi hiểu hết.
***
Tôi lang thang khắp phố, ngõ này đến ngõ khác, người ta gọi tôi, tôi cũng chẳng để ý. Người ta bảo tôi khùng, những gã đầu gấu không đánh tôi nữa, chúng sợ đánh tôi nhiều quá nên tôi khùng, những mụ hàng nước cũng chẳng kiếm chuyện với tôi. Tôi lang thang như thế, nhiều ngày...
Bọn thằng Chai vẫn chửi tôi, tôi chẳng đoái hoài tới. Có hôm, một mình thằng Lon đụng tới chị tôi, tôi lôi cả tông ti dòng họ nó ra mà chửi, tôi chửi như điên, như khùng, như không bao giờ được chửi tới cái mặt nó nữa. Nó mếu máo, chạy đi đâu mất. Và tôi lại lang thang...
Trăng bị mây che mất, trời đen, chắc sắp có mưa. Chị em chúng tôi, ướt nhiều rồi. Ướt như những con chuồn chuồn. Rồi không bay được, rớt xuống đường. Nằm đó, người ta đi qua, người ta mặc, người ta giẫm đạp lên.
Tôi bị đánh ngã về phía trước, rồi kiên tiếp đó là nhưng tiếng lon, tiếng chai, tiếng đấm, tiếng đá đập vào người tôi. Tụi thằng Lon, tôi chắc chắc. 
- Chúng mày đánh đi, đánh chết nếu chúng mày muốn. Sống ở cái xã hội này, sống chung với chúng mày, sớm muộn gì tao cũng chết, chết sớm cho đỡ khổ. Rồi tháng bảy nhớ cúng cho tao, không tao về tao lôi chúng mày xuống dưới. 
Chúng nó tưởng tôi đùa, chúng nó đánh mỗi lúc một mạnh. Hình như mệt quá, chúng mới kéo nhau đi.
Tôi nghe mùi máu, và máu dính khắp người tôi. Bể đầu, mẻ trán, gãy tay, chuyện thường thôi. Mưa, những giọt nước đập vào mặt tôi, tôi thấy đau, và tôi khóc. Lần đầu tiên tôi biết mình khóc. Tôi nhớ chị. Tôi mệt mỏi, tôi đói, và tôi lạnh. Tôi muốn ngủ, tôi từng ngủ dưới mưa kiểu này nhiều rồi, có sao đâu, vẫn rất tốt đấy thôi! Tôi thiếp dần trong cơn nấc. Tôi gặp chị tôi, và tôi thấy cả những ngôi sao rất sáng, rất to. 
Những con chuồn chuồn ướt cánh. Giờ chúng đã cùng nhau bay đi, một nơi nào đó, có thể là rất xa. Nhưng chắc chắc nơi đó sẽ ấm áp, sẽ hạnh phúc, và bọn chúng sẽ không bao giờ bị ướt nữa
 ST Nguyễn Trọng 
 
Trái tim biết khóc 
Là trái tim không bao giờ đau khổ...
Cả một đời thương nhớ thật vu vơ,
Chỉ khóc thương thương khóc đến dại khờ.
Luôn rung động trước mảnh đời bất hạnh...!
NM
Đám ma con chuồn chuồn
Thân chuyển các bạn.
Tác giả truyện ngắn này cũng là người Huế , cùng lứa tuổi tụi mình ,tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế , bây chừ là nhà giáo hưu trí.
Truyện này trích từ “Nguyệt San Việt Văn Mới” tháng 8-2014.
MN.
 
Tuổi thơ của tôi gắn liền với khu vườn rợp bóng cây xanh trong khu nội thành Huế. 
Vào những năm 1960, do đất rộng, dân cư còn thưa thớt nên hầu hết các hộ gia đình ở Thành nội Huế đều có những mảnh vườn rộng bao quanh, với đủ loại cây trái theo mùa. 
Ngày ấy, lũ chúng tôi chỉ vừa tuổi học vỡ lòng. Ngày ngày đi học, đến cuối tuần lũ trẻ cả xóm họp lại rong chơi thỏa thích. Việc phải đi học thêm vào ngày nghỉ không hề thấy trong thời ấy mà mọi kiến thức phổ thông thầy cô truyền dạy ở trường vẫn còn in đậm trong ký ức đến hôm nay. Nơi những khu vườn yên ắng ấy đã diễn ra đủ trò chơi của trẻ con. Chơi bán hàng, ù mọi, ô làng, trốn tìm, tập trận giả …mỗi trò chơi có mỗi thú vị và sức lôi cuốn riêng. 
Có hôm, sau khi chơi chán chê trò ù mọi với lũ cu Tũn, cu Tèo, Bê chị, Bê em…tôi bỏ chúng, chạy theo một con chuồn chuồn đang bay lượn trên vườn Hồng ở sân trước. Vào lúc chú chuồn vừa đậu xuống cành hoa, tôi rón rén đến, giơ hai ngón tay túm được. Đây là chú chuồn chuồn ngô, có đôi cánh trong suốt, không cuống. Cặp cánh trước hẹp hơn cặp cánh sau. Đôi mắt kép lớn sát nhau, thân bụng dài, bay nhanh. 
Do bị túm bất ngờ, Chuồn chuồn phản kháng vung vẫy nhưng tôi đã cố giữ, miệng reo lên như vừa tìm được kho báu. Thế là lũ trẻ ào lại quanh tôi. Mỗi đứa xin tôi cầm chuồn chuồn một tí. Chúng tôi khép đôi cánh chuồn chuồn lại rồi dùng hai ngón cái và trỏ túm chặt.Bị giữ chặt cánh, chuốn chuồn cố vung vẫy các chân và cong người lại, có khi do sơ ý chúng tôi bị nó cắn vào tay đau như bị kim châm. Nhưng quả thật thích. Hôm ấy tôi được lũ nhóc sùng bái như vị anh hùng. Cu Tũn tin vào câu hát dân gian: 
Chuồn chuồn cắn rốn 
Bốn ngày biết bơi 
nên vén áo cho chú chuồn cắn vào rốn để những mong biết bơi vì nghe đâu bố cu cậu dẫn ra sông Hương tập bơi mấy bận mà chưa nên trò trống gì. Chúng tôi giương mắt đứng nhìn phút giây kỳ bí ấy. Chắc là đau lắm dù nó đang cố kìm không khóc. 
Mãi chơi với chú chuồn quên cả thời gian. Trời đã nhá nhem tối. Chẳng lẽ cứ cầm mãi chú chuồn chuồn trên tay nên chúng tôi đã bàn nhau tìm cách nuôi chú chuồn. Nó sẽ là của chung cả nhóm nhưng do tôi có công trạng bắt được chú chuồn nên đêm đầu tiên được sở hữu nó. Tôi kéo lũ nhóc về giường ngủ của mình, buông màn xuống, thả con chuồn chuồn vào trong. Cả lũ leo lên giường tiếp tục trò chơi vờn chú chuồn trong màn. Bê em đề nghị cho chuồn uống nước. Một cốc nước lọc được bê vào giường. Tôi túm cánh, chao đầu chuồn vào ly nước. Bê chị lại chạy vào nhà bếp bốc nhúm cơm, nhét một hạt cơm vào miệng. Chú chuồn chỉ vung vẩy chứ chẳng buồn ăn. Đêm ấy chuồn ngủ cùng tôi. Do chạy nhảy suốt ngày mệt nhừ nên tôi ngủ thiếp nhanh. Nửa đêm tôi mơ màng nghe tiếng chuồn chao cánh bay trong màn.
Sáng ngày thức giấc, tôi nhớ ngay đến chú chuồn. Nhìn quanh trong màn không thấy chú đâu. Mãi một lúc tôi mới tìm thấy xác chú cứng đờ rớt ở góc giường. Tôi òa khóc, lao nhanh qua hàng xóm báo hung tin cho lũ bạn. 
Cả bầy nhóc đứa nào cũng buồn ủ rủ. Bê em đặt xác chuồn trong lòng bàn tay, mắt rớm rớm, miệng mếu máo: “Chắc vì tụi tao để chuồn đói bụng và khát nước nên chuồn chết phải không?” 
Tôi tự trách mình đã vô tình làm chết oan chú chuồn nên ra gốc Mít ngồi khóc hu hu sám hối. 
Cu Tũn lớn nhất bầy đưa ra ý kiến: 
    Thôi không khóc chi nữa. Lo làm đám ma cho chuồn thôi.” 
Ý kiến qủa thật hay. Chúng tôi nhanh tay thực hiện. Cu Tèo chạy về nhà kiếm hộp diêm bằng gỗ thông làm quan tài đặt xác con chuồn chuồn vào, lót thêm lớp giấy pơ luya cắt cọng rơm cho chuồn nằm êm ái. Cu Tũn được phân làm trưởng nam, lấy nhành hoa Ti gôn quấn ngang đầu thay mũ rơm, lấy cán chổi tre làm gậy chống đi thụt lùi phía trước. Tôi làm mụ mấn, lấy chiếc mù xoa xếp chéo buộc trên đầu đi phía sau quan tài. Bê chị nấu cơm trong lon gạo bê theo. Bê em chạy về bếp xin quả trứng luộc. Chỉ một lúc, đám ma con chuồn chuồn trịnh trọng diễn ra trong vườn nhà tôi. Bên gốc cây Vú sữa ở cuối vườn chúng tôi đào một lỗ nhỏ đủ đặt hộp diêm vào rồi vun đất thành nấm mộ nhỏ. Bên trên cắm cây hương thơm, thêm mấy đóa hoa dại trong vườn đặt trên mộ. Cỗ bàn cúng đám có lon cơm, quả trứng, trái ổi chín thơm vừa hái trên cành. Có cả mụ mấn là tôi thỉnh thoảng ré khóc hu hu vì tội làm chết chuồn chuồn…Đang lúc đám ma diễn ra thì mẹ xuất hiện. Tôi sợ mẹ đánh đòn nên lí nhí xin lỗi nhưng mẹ đã dịu dàng bảo: 
Không sao. Các con thương chú chuồn làm đám ma là tốt. Ngày xưa còn bé mẹ cũng đã từng làm đám ma con dế, con giun… vì đã vô tình làm nó chết”
*** 
Lũ chúng tôi đã có trái tim như thế trong thời con trẻ. Biết khóc thương những sinh vật bé bỏng quanh mình. 
Còn giờ đây? 
Những khu vườn năm xưa dậy vang tiếng con trẻ chơi đùa bị xóa sổ bởi những cao ốc mọc lên như nấm. Nhà nhà giờ chỉ còn khối bê tông với bốn bức tường lạnh lùng. Trong ấy, lũ con trẻ lắm đứa suốt ngày vùi đầu chơi những trò game đầy bạo lực…Và đêm đêm lên mạng lại đọc thấy đầy rẫy chuyện thương tâm: Những đứa con đành tâm giết cha mẹ; những đứa cháu máu lạnh giết ông bà chỉ vì không vòi được tiền ăn nhậu, cờ bạc; có thanh niên phóng tay đâm chết người tình rồi chặt ra nhiều khúc phi tang; hoặc nhiều thanh niên sát thủ hàng loạt người vô tội để cướp vàng…Tôi chạnh lòng nhớ đám ma con chuồn chuồn năm xưa. 
Nguyện cầu tất cả con trẻ trong cuộc sống này đều có trái tim biết khóc!
HOÀNG THỊ NHƯ HUY

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2018

Nhạc - Thơ - Văn Tiếng chổi tre

Kỷ niệm lễ Vu Lan 2018

Mẹ Tôi

Tuyển Tập Các Ca Khúc Về Mẹ 

Mẹ ơi,
Canh khuya mẹ lặng lẽ,
Chiếc bóng với chổi tre...
Nuôi con bằng tuổi trẻ,
Nuôi con bao sắt se !

Mẹ kìm nén nỗi đau,
Vượt qua những u sầu.
Mong con ngày khôn lớn,
Thoả ước vọng mai sau...

Phương trời miên viễn xa xôi,
Mẹ còn tôi mất, trong đời chỉ tôi !
Canh khuya thanh vắng đâu rồi, 
Mẹ tôi vất vả nuôi tôi nên người..
NM
 
Tiếng chổi tre
Mặc cho mẹ quỳ lạy, van xin bố ở lại với mẹ con tôi. Bố cầm tay mẹ giật mạnh, mẹ ngã ngửa ra đằng sau. Bố quay lại liếc nhìn tôi một cái rồi xách vali đi một mạch ra ngõ. Cuối cùng mọi cố gắng của hai mẹ con đều vô vọng, bố vẫn quyết định đi theo người đàn bà mà bố đã qua lại mấy tháng qua...
***
Mấy tháng sau mẹ nhận được giấy gọi của tòa án đến giải quyết việc ly hôn do bố gửi đơn. Trời mùa đông lạnh giá, trước hôm mẹ và bố ra tòa mẹ cả đêm không ngủ. Dù biết trước sẽ không níu giữ được bố vậy mà mẹ vẫn khóc rất nhiều. Nằm bên cạnh giả vờ nhắm mắt nghe tiếng nấc nghẹn ngào của mẹ lòng tôi đau như thắt. Lúc đó tôi rất muốn vùng dậy tìm đến người đàn ông mà tôi gọi bằng bố để níu kéo về với mẹ nhưng tôi lại không thể làm vậy vì mẹ. Mẹ đã dặn bố đã không còn yêu mẹ thì có sống với mẹ bố mẹ cũng sẽ không hạnh phúc, mẹ đã dặn dù bố có như thế nào thì cũng là người sinh ra con...Đèo tôi đến tòa án trên con đường đá gập ghềnh, ngược gió trong cái rét đầu đông. Mẹ gật đầu khi tòa hỏi mẹ lần cuối có đồng ý để bố mẹ ly hôn, mẹ không cần khoản trợ cấp nào của bố dành cho tôi, không nhận một tài sản chung nào của bố mẹ mà mấy năm qua mẹ vun đắp. Bước ra khỏi cánh cửa kia bố và mẹ sẽ là hai người xa lạ không còn ràng buộc nhau. Nhớ lại lúc bước qua tôi trong tòa án. Tôi đã nắm lấy tay bố kéo lại, bố quay lại nhìn tôi một lúc, rút tay ra và đi thẳng theo hướng người đàn bà đang chờ bên ngoài...
Mẹ về xin một mảnh đất nhỏ của ông bà ngoại dựng tạm mái nhà tranh để ở. Tôi dần lớn lên cần bao khoản chi phí cho học hành. Một mình mẹ làm công nhân lương không đủ cho tôi ăn học. Mẹ xin làm thêm buổi tối việc quét dọn đường phố. Hàng ngày sáng dậy sớm lo cho tôi ăn, đèo tôi đi học và đến công ty đi làm. Tối về mẹ lo cơm nước dặn dò tôi ở nhà cẩn thận rồi lại vội vàng trên chiếc xe đạp cũ kỹ đi đến để kịp giao ca công việc lao công. Nhìn người mẹ càng ngày càng héo hắt lòng tôi như ngàn vạn lưỡi dao đâm. Tôi xin mẹ cho đi phụ mẹ vào cuối tuần được nghỉ học, ban đầu mẹ không đồng ý nhưng tôi cứ nì nèo nên mẹ đồng ý cho đôi đẩy xe phụ mẹ vào thứ 7 hàng tuần.
Đẩy xe rác đi đằng sau mẹ tôi mới ngộ ra nhiều điều đằng sau công việc của mẹ mà tôi chưa biết. Mọi người đi đường có vẻ khinh thường những người quét rác như mẹ. Khi đang lúi húi mấy anh thanh niên rú còi trêu mẹ làm mẹ giật thốt mình, có khi chỗ mẹ vừa dọn xong mấy người ngồi trong nhà quăng vù bịch rác ra. Nhiều lúc những người trên xe ô tô cầm những túi bẩn ném vào người mẹ...Mẹ vẫn bỏ qua tất cả để cố gắng kiếm tiền vì tôi. Chiếc xe dần nặng bánh như chính gánh nặng cuộc đời mẹ con tôi đang chầm chầm trôi qua mỗi ngày. Cứ cuối tuần tôi lại được nhìn hình bóng mẹ trong đêm với tiếng chổi nghe nặng nề trên đường phố. Ánh đèn điện hắt xuống khiến mẹ càng hiện rõ trong đêm. Cái rét mùa đông hay cái nắng nóng mùa hè cũng không làm mẹ nản chí. Cuộc sống hai mẹ con đỡ cơ cực hơn, nhưng bù lại mẹ nhìn gầy gò, xanh xao hơn trước.
Đợt này được nghỉ hè nên ngày nào tôi cũng được đẩy xe cùng mẹ. Đi qua công viên chợt thấy mẹ đứng khựng lại nhìn gì đó từ phía bên kia đường. Chạy lại gần mẹ tôi thấy bố cùng người đàn bà ấy đang cầm tay cho bé trai tập đi. Nhìn thấy nước mắt mẹ rơi còn sống mũi tôi cay cay. Không hiểu tại sao lúc đó tôi đã chạy sang bên đường, đứng trước mặt bố. Hai bố con tôi nhìn nhau như người xa lạ. Cuối xuống nhìn bé trai đang cầm tay bố lôi đi. Nhìn nó rồi nhìn tôi như hai người ở hai thế giới khác nhau. Nó được ăn mặc đẹp còn tôi đang khoác trên mình bộ quần áo lao động cũ kỹ, bẩn thỉu. Tôi chợt nhận ra vì sao bố bỏ mẹ con tôi đi theo người phụ nữ đó. Không nói câu nào tôi lùi dần, lùi dần và chạy sang nơi mẹ đang đợi. Mẹ ôm lấy tôi vuốt mái tóc dài rối bù của tôi trong bóng tối. Mẹ tiếp tục quét còn tôi quay lại đẩy chiếc xe đi. Tôi không biết bên kia đường bố có nhìn thấy mẹ con tôi không nhưng tôi nhận ta tiếng chổi của mẹ nghe không còn nhanh nhẹn như ban đầu mà nằng nặng. Nhận ra nỗi đau mà mẹ đang kìm nén để ngăn không cho dòng nước mắt chảy ra.
Hôm sau bố tìm đến mẹ con tôi. Bố đưa cho mẹ một chiếc phong bì không biết đựng bao nhiêu tiền trong đó nhưng tôi nghe bố nói với mẹ "cầm lấy mà lo cho con bé, đừng đi làm việc quét dọn nữa người khác nhìn thấy sẽ không hay...". Mẹ nói lại "Làm sao mà không hay, công việc đó có gì bất chính à. Hay anh xấu hổ khi biết mẹ con tôi làm nghề này...". Bố hung dữ ném phong bì xuống bàn định đi. Tôi chạy lại cầm chiếc phong bì chạy theo bố "ông cầm lấy đi, mấy năm qua không có ông mẹ con tôi vẫn sống tốt. Nếu ông cảm thấy xấu hổ vì có đứa con quét rác như tôi thì không cần nhận tôi là con. Từ bây giờ tôi cũng không nhận ông là bố là được rồi đúng không?". Bố tát tôi một cái rất mạnh cùng câu nói "con mất nết". Mẹ chạy ra ôm tôi vào lòng và đuổi bố về. Tay tôi vẫn nắm chặt chiếc phong bì tiền của bố, nước mắt tôi chảy dài và lòng tôi tan nát...
Dần dần cuộc sống của hai mẹ con ổn định hơn. Từ ngày đó mẹ không còn nhắc về bố trước mặt tôi. Tôi chỉ biết cố gắng học thật giỏi để làm mẹ vui, cũng từ ngày có cái tát đó bố không còn quay lại tìm mẹ con tôi. Mười năm sau tôi đậu đại học. Mẹ vẫn cùng chiếc chổi tre mỗi đêm cho tôi ăn học. Chọn một trường trong tỉnh để được gần mẹ. Mỗi lần ai hỏi tôi về mẹ tôi rất tự hào trả lời mẹ làm công nhân và lao công quét rác. Trên các con đường hình bóng mẹ con tôi vẫn in hằn trong đêm tối. Mẹ bây giờ không còn như trước. Khuôn mặt mẹ đã có nhiều nếp nhăn, làn da đen sạm, mái tóc đã điểm màu hoa râm. Nhưng với tôi mẹ vẫn là cả một tài sản quý báu mà tôi không thể đánh đổi lại bất kỳ tài sản quý giá nào?
Đã lâu vậy mà đôi khi thức giấc vẫn nghe tiếng nấc của mẹ trong đêm. Tôi đã rất hận bố vì đã phụ bạc lại tình yêu chung thủy mẹ dành cho bố. Hận bố chạy theo giàu sang mà bỏ rơi mẹ con tôi, hận bố vì trong suốt mười mấy năm qua bố không một lần đến thăm mẹ. Cuộc sống đã lâu tôi không còn quan niệm rằng mình có bố, tôi chỉ cần bàn tay mẹ nắm chặt tôi mỗi lúc ốm đau, mỗi kỳ thi khó khăn mà tôi gặp phải. Hôm nay tôi nhận học bổng toàn phần, mẹ mừng mà xin nghỉ hẳn một ngày dành cho tôi. Tôi chọn mua cho hai mẹ con bồ đồ thật đẹp, cầm tay mẹ đi qua những con đường dài mà công việc lao công của mẹ con tôi mỗi tối vẫn đi qua. Mẹ nắm chặt tay tôi như tôi vẫn còn non trẻ. Mẹ bảo mẹ hạnh phúc vì có tôi, mẹ tự hào về tôi, mẹ chỉ cần tôi bên cạnh là đủ. Ôm mẹ vào lòng tôi nhận ra thân hình của mẹ ngày càng nhỏ bé, da thịt mẹ đã vì tôi mà hao tổn quá nhiều. Đã nhiều lần tôi bảo mẹ nghỉ công việc lao công nhưng mẹ không đồng ý. Mẹ bảo cần tiền lo cho tương lai của tôi, rồi lúc tôi lấy chồng, lúc mẹ già nua không còn làm được gì nữa. Những lúc như vậy tôi chỉ biết ôm lấy mẹ mà khóc. Mẹ bảo bây giờ mẹ mà thiếu tiếng chổi tre mẹ sẽ rất buồn. Nó đã trở thành người bạn thân quen của mẹ...
Ngày tôi ra trường mẹ cầm bó hoa đến tận trường tặng tôi. Bạn bè ai cũng lại hỏi thăm mẹ, họ cảm phục mẹ cả đời con gái của mẹ đã hy sinh cho tôi. Đã có nhiều người đến với mẹ nhưng mẹ đều từ chối, mẹ bảo mẹ chỉ cần tôi là đủ. Xin vào một doanh nghiệp nước ngoài công việc cũng ổn định. Đã đến lúc mẹ cần nghỉ ngơi nhưng tính mẹ lo xa nên vẫn hàng đêm với chiếc chổi tre. Hôm đó là một ngày rét mướt mẹ bảo tôi ở nhà mẹ làm nốt hôm nay rồi nghỉ nên tôi không cần phụ mẹ. Tiếng điện thoại reo giọng một người đàn ông lạ nói mẹ bị tai nạn phải nhập viện. Không còn nghe thấy gì tôi lao như bay đến bệnh viện, trên người mẹ máu đỏ thấm ướt bộ quần áo lao công. Bác sĩ thấy tôi lắc đầu bảo tôi vào nói lời cuối với mẹ. Trời đất như sụp đổ. Tôi lao đến ôm mẹ mà khóc thảm thiết. Mẹ nặng nề lấy trong túi áo chùm chìa khóa tủ mẹ luôn mang bên mình. Giọng mẹ thì thào "Con hãy giữ lấy phòng thân, giao lại cái phong bì cho bố con và nói với ông ấy mẹ chưa bao giờ hận ông ấy cả...". Tiếng la của tôi dù có đến tận trời xanh thì mẹ vẫn rời xa tôi vĩnh viễn.
Đã một tuần mẹ bỏ tôi ra đi. Căn nhà nhỏ bây giờ mình tôi lẻ loi với cuộc sống. Mở chiếc hộp gỗ của mẹ đựng trong chiếc va li bằng sắt đã cũ. Phong bì cách đây gần mười lăm năm bố đưa cho mẹ con tôi chưa có vết bóc cùng chiếc sổ tiết kiệm của mẹ để lại cho tôi. Ôm những thứ đó vào lòng tôi như người chết lặng giữa dòng đời. Thì ra mẹ không hề sử dụng số tiền bố đưa cho hai mẹ con tôi. Mẹ đã cố gắng dùng tiền bằng mồ hôi xương máu của mẹ để nuôi lớn tôi ăn học thành người. Nước mắt thay nhau rơi xuống, chạy đến trước bàn thờ mẹ, tôi quỵ xuống chỉ biết khóc mà gọi hai tiếng "mẹ ơi...". Đêm khuya tĩnh lặng chỉ mình tôi với bóng tối, đêm nào tôi cũng mơ thấy hình bóng mẹ về bên cạnh. Mơ thấy mẹ hát đưa đôi vào giấc ngủ...
Hôm đó tròn một trăm ngày cho mẹ. Bố tôi đến thắp hương. Cũng đã gần mười lăm năm tôi chưa gặp bố. Tôi thấy bố đứng nhìn ảnh thờ mẹ hồi lâu rồi quay sang tôi "Con định thế nào? Con định sống một mình như thế này sao?". Tôi chỉ im lặng nhìn bố như một kẻ thù, tôi hận bố đã đẩy mẹ con tôi đến tình cảnh ngày hôm nay. Tôi im lặng trước bố. Cả buổi chiều đó bố ở lại cùng tôi nhưng một lời tôi cũng không thể nói ra với bố. Lúc bố ra về tôi đã gọi lại "khoan đã mẹ nhờ tôi gửi lại cái này cho ông. Mười lăm năm qua mẹ chưa hề bóc nó. Lúc đó mẹ cầm vì chỉ sợ có lúc mẹ cần đến để lo cho tôi, nhưng rất may tôi vẫn khỏe mạnh đến bây giờ. Số tiền này xin gửi lại cho ông...". Lúc đó tôi thấy bàn tay run run từ bố đưa ra nhận phong bì từ tôi. Bố muốn nói gì đó nhưng không thể nói nên lời. Bố quay đi. "Mẹ còn dặn tôi nói lại với ông rằng mẹ chưa bao giờ hận ông. Mẹ thật ngốc ngếch. Mẹ không hận ông, mẹ rất yêu ông. Tôi vẫn thường nghe thấy tiếng mẹ khóc nghẹn trong đêm vì ông. Còn tôi, tôi hận ông đến tận xương tủy. Tôi không thể tha thứ cho ông. Nhưng dù sao cũng cảm ơn ông vì đã đẩy mẹ con tôi vào tình cảnh này. Đẩy tôi thành đứa con gái không cha, không mẹ. Cảm ơn ông đã cho mẹ con tôi nghị lực sống đến ngày hôm nay..." Chẳng hiểu sao lúc đó tôi hét lên với bố dù rất muốn được chạy lại ôm bố làm điểm tựa cho nỗi đau lớn tôi vừa trải qua. Bố không quay lại, bố cúi đầu im lặng và bước đi loạng choạng trong bóng chiều tà.
Hôm nay là sinh nhật tôi. Mọi năm mẹ đều nghỉ một ngày làm dành cho tôi nhân ngày sinh nhật. Dù không có quà nhưng những bữa ăn ngon trong ngày tôi sinh ra làm tôi ấm áp. Một mình lang thang dọc con đường tôi nghe thấy tiếng chổi đêm của cô lao công đang dọn dẹp đường phố trước mặt. Hình ảnh mẹ cùng tiếng chổi tre vang vọng trong đêm hiện về trong tôi, nước mắt không thể kiềm chế mà rơi dọc con đường. Từ ngày mẹ mất đêm nào tôi cũng đi dọc những con phố để tìm lại hình bóng mẹ. Nỗi đau quá lớn làm tôi mất đi phương hướng trong cuộc sống. Bạn bè, đồng nghiệp động viên tôi nên kìm nén lại để lo cho tương lai phía trước. Nhưng tôi hàng đêm vẫn theo đuổi tiếng chổi đêm để được tìm lại hình dáng người mẹ mà cả đời tôi yêu mến, cảm phục...
Năm năm sau tôi có gia đình riêng với chồng và con gái gần một tuổi. Người chồng yêu thương hết mực và con gái ngoan hiền có lẽ chính là món quà mẹ ban tặng cho tôi. Hàng năm vào ngày sinh nhật tôi. Tôi không cần bánh sinh nhật, không cần thổi nến mà chỉ cần cùng nắm tay chồng và con đi dạo trên những con phố nơi tuổi thơ tôi từng gắn bó với tiếng chổi của mẹ....
Tiểu Mẫn
Sau mùa gặt
Chiều. Cánh đồng sau mùa gặt nồng nàn mùi rạ chín, thứ hương thơm dung dị của đất trời hay níu người ta nhớ về ký ức và nó đưa chị trở về những tháng ngày đã cũ. Những ngày tháng chộn rộn vui buồn mà giờ đây sẽ làm cho chị chợt cười, chợt khóc. Cảnh này đã trở thành quen thuộc, cứ sau một vụ mùa, người xóm Chùa lại thấy thấp thoáng dáng người đàn bà liêu xiêu vừa đi, vừa khóc, vừa dang tay hứng từng giọt nắng sót lại của một ngày. Tiếng hát đứt quãng từng hồi, vọng vào trong gió nghe như tiếng nấc của người đàn bà chịu nhiều nghịch cảnh.
Năm nay chị Hiền đã hơn 40 tuổi, thần trí lẩn thẩn, khi tỉnh khi điên. Chị thích người ta gọi mình bằng “chị”, con nít 5 - 6 tuổi thưa bằng “cô”, chị rầy liền: “Tao còn trẻ khô hà, chưa lấy chồng nữa mà gọi bằng cô gì?”, nhưng có khi chị đi theo đám nhỏ năn nỉ hoài xin chúng gọi mình một tiếng “má”. Đám con nít trong xóm, đứa nhỏ chưa biết thì sợ chị, đứa lớn thì thân với chị. Nhưng thân với chị nhất là sư Hạnh. Chị hay lại chùa tâm sự với sư Hạnh, lần nào nói chuyện với sư Hạnh chị cũng khóc. Còn nhớ, lần chị khóc với sư Hạnh nhiều nhất là lúc chị vừa bị người ta cướp đi đời con gái, rồi chàng trai chị yêu thương cũng vì chuyện ấy mà đem chuyện cưới xinh tính với người con gái khác ở thị thành.
Bữa nhà anh Thanh rộn ràng cười nói, hai họ rôm rả chúc mừng nhau mà lòng chị đau như ai cắt. Hôm ấy cũng là một ngày tháng Giêng tươi đẹp, từng vạt nắng trải vàng trên gốc rạ, cánh đồng sau mùa gặt bỗng vàng óng ánh. Sau mùa gặt, cánh đồng chợt rộng lớn mênh mông, làm chị giật mình thấy mình bé nhỏ, mỗi bước chân đi sao bỗng chơi vơi và lạc lõng. Cảnh chiều vẫn điềm nhiên như hôm qua anh Thanh còn nắm tay chị đi trong chiều nắng tắt. Vậy mà hôm nay, người con trai ấy lại bỏ chị trong lúc đời ngập tràn dâu bể.
Giọt nước mắt ròng ròng chảy miết rồi một ngày khô cạn. Chị về nhà trông lại vườn rau, rảnh rỗi thì lên chùa tưới vườn thuốc nam, quét sân, chăm mấy luống hoa hồng, hoa cúc... Có bữa chán quá không muốn làm gì, chị thui thủi ngồi lau tượng Phật. Nhưng tánh người cũng bắt đầu thay đổi, chị trở nên ít nói, ít cười. Nếu có cười thì cũng cười nhàn nhạt không rõ vui buồn. Thời gian chẳng biết là bao lâu, nhưng cũng chắc đủ làm người ta nguôi ngoai niềm thương nhớ. Còn anh Thanh, từ độ cưới vợ rồi về thành phố ở đến nay cũng đủ trở thành xa lạ với xóm Chùa. Nên bữa đó anh như khách lãng du đến chùa sư Hạnh thắp nhang cúng viếng và để có cái gọi là “tình cờ gặp lại người xưa”. Nhưng gặp làm gì khi đôi mắt năm xưa đâu còn men sóng sánh mà có chăng chỉ là một miền khô khan, ráo hoảnh. Chị đứng trước sân chùa ngay vạt cúc hoe vàng nhìn anh bằng ánh nhìn nửa thương, nửa trách. Trách anh sao lại bỏ chị khi giông bão cuộc đời xô chị ngã, lúc ấy chị cần lắm vòng tay nâng đỡ từ anh. Nhưng rồi chị nhận ra, có trách thì cũng nên trách số phận của mình, chớ trách người ta chi tội nghiệp. Rồi chị xách nón lá vô thưa: “Sư Hạnh, con về nghen!”. Chị quay lưng bỏ lại khoảng sân chùa đầy nắng và một người đàn ông lặng nhìn theo bóng chị khuất vào những rặng cây già. Một ánh nhìn gởi theo ngàn lời xin lỗi mà anh cho rằng mình nợ chị suốt đời. Đã có lúc anh hối hận bởi mình yếu đuối không vượt qua được những dư luận thấp hèn. Và khi nhìn lại đôi mắt người xưa, mới hay sâu thẳm lòng mình vẫn còn một niềm thương lắng đọng...
Người ta nói cuộc đời công bằng lắm, nếu lấy của mình đi thứ này sẽ trả lại cho mình một thứ khác. Rồi một ngày hạnh phúc lại mỉm cười với chị. Gần 40 tuổi, chị vỡ òa trong niềm vui làm mẹ khi sư Hạnh nhặt được thằng bé bị ai bỏ trước cổng chùa. Chị tíu tít xin sư Hạnh đem thằng nhỏ về nuôi. Chị thầm nghĩ, không biết ai một lần lầm lỡ hay có người bị hại đời con gái để rồi có một hình hài giữa cuộc đời mà không dám thừa nhận. Chị bồng thằng bé lên tay, lúc đó sư Hạnh thấy chị cười, nụ cười rạng rỡ trên đôi môi lâu ngày ít cười, ít nói.
Chị đặt thằng bé tên Khôi, người ta cười “cái thằng con lượm mà đặt chi cái tên đẹp, cũng đâu thay đổi được số phận nó. Sao không đặt thằng Lượm hay thằng Nhặt… cho rồi”, chị bảo “đặt mấy tên đó lớn lên con em buồn”. Khôi càng lớn càng có nhiều lời đồn đại khi nhìn thằng bé người ta chợt nhớ ra gương mặt hiền lành của chàng trai năm cũ nỡ bỏ người con gái giữa cuộc đời nhiều nghiệt ngã. Người ta bảo, người ta thấy một phụ nữ ăn mặc sang trọng, tay bế theo thằng bé đỏ hỏn hỏi thăm đường về chùa sư Hạnh. Khi người phụ nữ ấy trở ra và bước lên xe, người ta không nhìn thấy đứa bé đâu… Rồi người ta mới chực nhớ ra người phụ nữ đó là vợ anh Thanh. Nghe nói vợ chồng anh tan vỡ lâu rồi, anh buồn bỏ nhà đi làm ăn ở đâu biền biệt. Vợ anh cũng chẳng nghĩ tình, nên về xóm Chùa trả lại một đứa con để dễ bề thong dong cuộc sống mới.
Ai nói gì chị cũng lặng im nuôi thằng Khôi khôn lớn. 12 tuổi, bé Khôi lớn rồi nên cũng biết chuyện đời mình, đời má. Nhưng làm sao em biết hết nỗi quặn thắt suốt 12 năm má gạt bỏ bên tai bao lời đồn đại. Không cần biết ai đã bỏ rơi em, chỉ cần giữa cuộc đời mênh mông này, em có vòng tay che chở của má là đủ. Nhưng có lẽ, ở cái tuổi ngây ngô ấy, em luôn cần một thứ rõ ràng để hãnh diện rằng em có đủ đầy ba má, để xóa bỏ mặc cảm “em không phải đứa con lượm ở chùa”!.
Rồi một ngày, người dân xóm Chùa không ai nhìn thấy thằng Khôi nữa, chỉ thấy một bà mẹ hoang hoải tìm con. Nước mắt bà rơi vãi khắp vạt đồng. Lại một buổi chiều tháng Giêng sau mùa gặt, xóm Chùa nghe một tiếng khóc lúc thét gào, lúc kiệt cạn, tỉ tê vọng sau mái chùa sư Hạnh rồi chết lịm trong đêm. Tiếng gõ mõ của sư Hạnh đêm đêm buồn tao tác, mấy chiếc lá lìa cành chạm nhẹ lên mái ngói rong rêu tìm về với cội. Sương phủ trên mái chùa, rơi thành những giọt dài như nước mắt. Trách sao số phận vô tình để hạnh phúc đến rồi đi, chập chờn, mong manh, hư ảo…
CẨM THI
 Mẹ là Phật
Một đời dầu dãi gió mưa,
Một mình thân mẹ sớm trưa xế chiều,
Cuộc đời mẹ quá cô liêu,
Thân cò lặn lội sớm chiều nuôi con,
Dẫu rằng thân mẹ héo hon,
Suốt đời mẹ vẫn vì con, thương chồng
Tuổi già phận bạc long đong,
Đắng cay thân mẹ theo dòng đời trôi.
Mẹ là vị Phật trên đời,
Con nào có biết mẹ thời vẫn vui
NM

"Người mẹ"

        Đau đáu nhìn con lần nữa, bà quay ra. Lụi cụi bước được mấy bước, bà dừng ngoái lại. Cánh cửa nhà bà người con đã đóng sập. Bà chả thấy đứa con trai đâu, chỉ còn hằn hiện cánh tay nó chỉ thẳng ra cửa và vang bên tai bà tiếng gầm của nó... Người con trai sừng sộ sấn sổ bước tới trước mặt mẹ, chỉ thẳng tay ra cửa: -Tôi không chịu được bà nữa rồi. Bà cút ngay khỏi cái nhà này, cút ngay khỏi cái nhà này! C...ú...t !Bà mẹ lặng nhìn đứa con. Cái nhà này... cái nhà này... có phải của nó đâu? Của nó trong cái nhà này có chăng là cái nhau thai nó, đặt trong chiếc nồi đất chôn ở góc sân sau, bên gốc cây hồng xiêm kia, buổi tối bà đẻ ra nó cách đây đã 28 năm...
       Đêm đông năm ấy, bụng nhâm nhẩm đau, bà cảm thấy có lẽ đã chuyển dạ đẻ nhưng nghĩ nó báo động vậy thôi, dần dà rồi cũng phải đến sáng mai, nên bà còn cố bóc nốt rổ lạc bóc thuê để kịp trả gọn cho người ta trước ngày sinh nở. Bà sắp vượt cạn chỉ có một thân một mình. Khi bà có mang ba tháng, chồng bà bị một cơn đột quị qua đời. Càng thương nhớ chồng, bà càng ráng sức làm lụng, chăm chút cái thai, ngong ngóng đứa con. Cái nhà tranh vách đất rộng rãi mà tuềnh toàng lúc này, chỉ có mỗi thân bà và đứa con đang cựa mình trong bụng. Dưới ngọn đèn dầu leo lét, trong lúc bụng dạ mỗi lúc một quặn đau hơn, bàn tay bà vẫn gắng xiết bóp cái kẹp tre cho những củ lạc khô cứng vỡ ra những nhân lạc... Đâu ngờ, đột nhiên bụng bà đau dữ dội như đang rách từng khúc ruột. Bà oằn oại bò quanh nhà rên la. Bác hàng xóm nghe động chạy sang, cập rập sửa soạn thu xếp giúp đưa bà đi nhà hộ sinh, nhưng không kịp. Bác đã tháo vát thay nhà hộ sinh làm tất cả mọi việc để thằng bé được cất tiếng chào đời.
        Từ ngày có thằng con, bà mau nguôi ngoai nỗi đau góa bụa. Niềm vui và hy vọng đời bà cứ lớn dần lên theo sự lớn lên của đứa con trai kháu khỉnh. Bà tần tảo quần quật làm lụng, hết phụ hồ lại trông trẻ, hết dọn lau nhà cửa cho các gia đình lại buôn thúng bán bưng, đêm đêm còn nhận làm thuê gia công vót mây, bóc lạc, dán hộp để nuôi con. Trọn mười năm, bà chắt bóp dành dụm mua được cái nhà của chính người chủ nhà cho vợ chồng bà thuê, rồi sau đấy lại xây được lên ba gian nhà cấp 4. Cái nhà cấp 4 mặt phố trên mảnh đất sáu chục mét vuông này bây giờ đáng bạc tỉ, lúc bà mua, nó chỉ là cái nhà tranh vách đất sơ sài xiêu vẹo nơi heo hút. Dưới mái nhà này bà đã tần tảo nuôi thằng con lớn khôn, trưởng thành, lo cưới vợ cho nó chu tất, đàng hoàng. Mấy năm rồi vợ chồng nó làm ăn sinh sống yên ổn trong cái nhà này. Tất cả, tất cả do bàn tay bà gây dựng. Cái nhà này... cái nhà này... có phải của nó đâu... Của nó trong cái nhà này có chăng là cái nhau thai nó, đặt trong chiếc nồi đất chôn ở góc sân sau, bên gốc cây hồng xiêm kia, buổi tối bà đẻ ra nó cách đây đã 28 năm rồi...
        Mặc dầu bà biết thằng con trai độc nhất của bà còn lắm dại dột nhưng suốt bấy nay nó luôn là niềm an ủi, niềm vui, niềm hy vọng và lẽ sống đời bà. Tiếng quát đuổi của nó sáng nay, bà không bất ngờ lắm mà bà vẫn đứng sựng như trời trồng, đôi mắt đờ dại nhìn con... Người con trai thấy bà chần chừ, lại một lần nữa trừng mắt, chỉ thẳng tay ra cửa gầm lên:- Bà cút ngay khỏi cái nhà này, cút ngay khỏi cái nhà này! C...ú..t !Bà mẹ biết, đến nước này thì không thể nấn ná được nữa rồi. Đăm đăm đau đáu ngước nhìn con, bao nhiêu nước mắt bà chảy cả vào trong, dồn tụ nơi trái tim bà:- Thôi thì mẹ đi...
        Đau đáu nhìn con lần nữa, bà quay ra. Lụi cụi bước được mấy bước, bà dừng ngoái lại. Cánh cửa nhà bà người con đã đóng sập. Bà chả thấy đứa con trai đâu, chỉ còn hằn hiện cánh tay nó chỉ thẳng ra cửa và vang bên tai bà tiếng gầm của nó... Chính cánh tay này đây, hồi nó hai ba tuổi cũng chỉ thẳng ra đường như thế đòi bà bế đi mua kem, bế ra xem rước đèn Trung thu, xem bắn pháo hoa đêm hội...
        Bà lụi cụi gầm mặt bước, bước... vô cảm, không biết đi đâu biết về đâu. Bà cứ đi, cứ đi, đến một lúc bà thấy xung quanh vắng vẻ, ngẩng lên bà nhận ra bên bà là một vườn hoa. Bà rẽ vào, rón rén ngồi xuống chiếc ghế đá, tựa lưng vào thành ghế nhìn trời nhìn đất, đầu óc luơ quơ trống rỗng.        
        Chiều xuống, bà định thần lại, thấy loáng thoáng những cặp vợ chồng đưa con dạo vườn hoa. Đứa được bế ẵm, đứa được công kênh, đứa thì dắt díu.
        Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này, đêm khuya bỗng sốt cao co giật, bà đã ôm nó trong lòng hốt hoảng chạy như ngựa vía đến bệnh viện cấp cứu...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này, bà may cho nó chiếc quần kaki xanh, chiếc áo pôpơlin trắng, sắm cho nó cái cặp mới dán hình con thỏ để nó đi khai giảng năm học tiểu học đầu tiên. Nó mặc quần áo mới, đeo cặp sách hớn hở, tung tăng chạy ra chạy vào, gọi mẹ rối rít. Bà cho nó chiếc bánh dẻo, nó ăn ngon lành quá, miệng bà đến bây giờ vẫn còn thấy ngọt lừ...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này, nô đùa bị ngã sai khớp, cổ chân sưng húp, ngày lại ngày bà cõng nó đến xin thầy lang nắn bóp, dán cao. Đôi bàn tay nó ôm cổ bà, cái má nó ấp bên má bà, đến bây giờ bà còn thấy mềm mại, ấm nóng...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này...Ờ, thằng con bà hồi bằng tuổi thằng bé này...
         Bao nhiêu cặp bố mẹ bồng bế dắt díu con đi qua là bấy nhiêu lần bà nhớ về thằng con bà từ độ nó còn bé bỏng cho đến lúc nó lớn khôn.
        Đêm xuống. Vườn hoa vắng lạnh. Bà vẫn cứ ngồi như tượng hoài niệm về đứa con bà. Bỗng bà hoảng hồn, toát mồ hôi khi bà nhớ lại lời Phật dạy, tội lớn nhất đối với một con người là tội bất hiếu. Thằng con yêu thương nhất mực của bà rõ là mắc tội này rồi. Bà lại nghe nói, những đứa con can tội bất hiếu sẽ bị trừng phạt rất nặng nề. Kiếp này bị trừng phạt, kiếp sau vẫn còn bị trừng phạt nữa, có thể bị cả voi giày ngựa xé... Thằng con bà chắc chắn bị trừng phạt rồi. Trời ơi, bà trút hết tâm sức cho nó, những mong đời nó sung sướng thì rồi chả nhẽ nó chịu khốn khổ như thế a? Bà hãi hùng lo cho thằng con của bà quá! Nước mắt bà tuôn chảy xuống miệng chát mặn... Giờ này chắc nó ngủ rồi, hẳn nó chả biết mà lo cho cái thân nó sao bớt đi nỗi khốn khổ bị trừng phạt đâu. Mà đêm nay, không biết nó có nhớ vào giường ngủ không hay lại nằm xem truyền hình trên cái ghế xếp, rồi ngủ quên đi để cho muỗi nó bu đốt mẩn đỏ khắp người...
          Bà ngước nhìn bầu trời. Bầu trời đầy sao lung linh. Bà nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đầy sao nhấp nhánh. Thần Phật có ở chốn này không? Thần Phật linh thiêng có ở chốn này không? Bà chắp tay vái lạy các vì sao trên trời, dưới đất, khấn cầu... Bà khấn cầu Thần Phật hãy tha thứ cho đứa con bà, nó nông nổi dại dột, quá nghe vợ mà cư xử tệ với bà. Đúng là nó tệ thật, nhưng bà cầu xin Thần Phật nhẹ tay trừng phạt, cho đời nó bớt khốn nạn, thân nó bớt khốn khổ. Cái thân bà đau khổ bà chịu được chứ thân nó mà đau đớn, khốn khổ thì lòng bà không thể nào yên.
         Bà cứ ngồi lẩm bẩm cầu nguyện như thế cho đến lúc vòm sao đã thưa dần, mặt hồ đen sẫm, trời chuyển lạnh. Xung quanh bà chỉ còn âm i tiếng côn trùng như cùng hòa với lời bà khẩn cầu. Mỏi mệt quá, bà ngả lưng trên ghế đá. Sương khuya thấm ướt mái đầu hoa râm khổ nạn. Bà thiếp đi, lời nguyện cầu của bà vẫn thầm ngân trong sâu thẳm cõi hồn...Cho đến trưa hôm sau bà vẫn ngồi nguyên trên chiếc ghế đá ấy. Hơn một ngày đêm không hạt cơm, giọt nước. Bà không thấy đói, thấy khát. Lặng ngồi, đầu óc bà vẫn chỉ vấn vít những ý nghĩ đêm qua. 
          Bà bạn phụ hồ hồi nào tình cờ đi ngang qua nhận ra bà ngồi thất thần tiều tụy, ghé hỏi han. Bà bạn quá rõ nỗi niềm, sự tình, gia cảnh của bà, khuyên mách bà thôi thì nên xin vào nương nhờ cửa Phật. Bà lắng nghe, nét mặt tỉnh khô mà nước mắt bà cứ tuôn dòng. Bà thấy thế cũng phải, nhưng e sợ nhà chùa chẳng nhận cho. Bà bạn phụ hồ vốn là chỗ thân quen sư cụ trụ trì chùa An Nhiên hứa sẽ có lời xin thưa nhờ cậy giùm. Bà bạn phụ hồ nắm tay bà kéo bà đứng dậy, đưa về nhà mình nghỉ qua đêm.Sáng hôm sau bà theo chân bà bạn tới chùa An Nhiên gặp sư cụ trụ trì bày tỏ gia cảnh, nguyện vọng của người mẹ bất hạnh. Lắng nghe, hỏi han mọi nhẽ, sư cụ vui vẻ tiếp nhận cho bà nương cửa Phật.
         Từ đấy, bà âm thầm lầm lũi chăm chỉ lo việc hương khói, quét dọn, chăm nom vườn tược nhà chùa. Đêm đêm, không bỏ một đêm nào, xong mọi công việc, bà quỳ phục trước Phật đài thầm thì cầu nguyện. Bà cầu nguyện cho đứa con tội lỗi của bà được Trời Phật rủ lòng nhẹ tay trừng phạt.- Con cắn rơm cắn cỏ lạy Trời, lạy Phật hãy rộng lòng nhẹ tay trừng phạt thằng con của con. Nó nông nổi dại dột quá, nó nông nổi dại dột quá... Con cắn rơm cắn cỏ lạy Trời, lạy Phật... Con cắn rơm cắn cỏ..
         .Không biết bao nhiêu lần, qua bao nhiêu đêm bà quỳ phục lầm rầm tụng niệm trước Phật đài chỉ một lời cầu nguyện ấy... Tâm nguyện da diết của bà có thấu đến Trời Phật chăng? 
Nguyễn Trung Thu

 Phố của người già…
Tôi sống dưới thành phố đã trên mười năm, không nhớ nổi những lần chuyển nhà của phận ở trọ lang thang. Mỗi lần chuyển nhà là mỗi lần cực, gọi xe ba gác mà không đủ chỗ tha lôi tất cả mọi thứ đi. Nên lần nào cũng bỏ lại một vài thứ cho đến khi chuyển về con phố toàn người già này thì tôi chẳng có gì ngoài ba lô quần áo và vài quyển sách thuộc dạng gối đầu giường. Bà cụ chủ nhà tóc đã bạc bê sang cho tôi ly nước đá mát lạnh rồi nhìn cái phòng trống trơ treo lọt thỏm vài bộ quần áo thì cười bảo: 
- Thanh niên có khác, lúc nào cũng gọn nhẹ. 
Tối đó, ông chủ mang cái quạt điện cơ cũ ra lau chùi, giằng níu cẩn thận rồi mang sang cho tôi. Bà chủ ra ngõ ới hàng bán chiếu mang đến một cái chiếu trúc, một cái màn đôi dặn tôi nhớ mắc màn không nhiều muỗi. Xóm trọ cũ, phòng trọ đã có phần xập xệ, những con người trụ lại ở đây nghe nói cũng ngót ngét chục năm. Tôi nghe mà thất kinh. Những nơi tôi từng ở chỗ thì nóng quá, chỗ thì mưa dột. Chỗ thì chủ nhà khó tính chuyên xét nét săm soi, chỗ thì trộm cắp như ranh mặc dù với một thằng tứ cố vô thân như tôi vốn chẳng có gì nhiều để mất. Thành phố không mặt người như một bức tranh phác họa giản đơn. Mà kỳ thực thì trên mặt người thượng đế chỉ vẽ một đôi mắt to, một chiếc mũi thính, một đôi tai rộng nhưng chiếc miệng thì chỉ là chấm mực nhỏ xíu. Nên con người ta không quen nói với nhau, ngôn từ nín lặng trong môi, bị cắn vụn bởi hai hàm răng và trôi tuột xuống dạ dày. Tôi thèm tiếng người và sợ cuộc sống đơn độc nên cứ đi và đi.
Nơi tôi chuyển đến là phố của người già. Đầu đường cuối ngõ độc chỉ thấy người già ra đường, người tóc bạc, người lưng còng, người xe lăn, người móm mém. Ra chợ thấy người già chọn rau, trả giá rồi còng lưng xách nặng. Về nhà thấy người già lẽo đẽo chạy theo đứa cháu đang tuổi hiếu động để đút từng muỗng cơm. Đêm đến nghe thấy tiếng người già khục khặc ho khan trong gió. Sáng ra thấy người già đứng trước cửa ngóng xa xôi. Vài tờ cáo phó được dán lên cũng thấy người già lụi cụi hương khói khóc nhau. Tôi cứ thắc mắc hoài những người trẻ ở đâu? 
Thực ra thì người trẻ vẫn lấp đầy từng ấy ngôi nhà. Tôi nhận ra điều ấy nhờ quần áo công sở phơi ngoài ban công, nhờ những đôi giày nhiều kiểu dáng vứt chỏng chơ ngoài cửa, nhờ tiếng nói chuyện điện thoại ngọt xớt. Thỉnh thoảng cũng thấy bóng họ lấp ló ở cửa sổ, ngoài ban công hay đứng lừng khừng chờ mở cổng. Nhưng rồi rất nhanh thôi họ sẽ mất hút, sẽ bốc hơi, sẽ biến mất sau cánh cửa, trong xe hơi, tút hút nơi ngõ nhỏ như thể họ không tồn tại ở nơi này. Như thể họ bỏ mặc xứ này cho người già cai quản rồi họ chìm nghỉm ở một thế giới nào đó hấp dẫn hơn. Tôi có hỏi bà chủ về những người trẻ. Bà chủ cười bảo:
- Khi bà còn trẻ bà cũng vậy. Ngôi nhà giống như hang ổ của chúa sơn lâm. Mà ở đó người ta không muốn kẻ khác xâm phạm dù chỉ bằng ý nghĩ. Người ta cũng sợ người khác hiểu về mình, nhìn thấu những bi kịch của gia đình mình nên cứ thu hẹp đời mình lại.
- Bà ơi. Thế còn bây giờ thì sao?
- Thì thấy tiếc cả quãng đời tuổi trẻ chớ sao. Tim ai rồi cũng teo lại chỉ còn nhỏ bằng hạt đậu. Những trái tim thoi thóp trong phận sự làm người. Phải đến lúc già rồi, lúc chẳng còn mấy sức lực mà đề phòng mà hằn học. Khi giọt sống trong người đã cạn thì mới lại tha thiết được mở rộng lòng mình.
Hà Nội mùa nóng, nhiệt độ ngoài trời có lúc đỉnh điểm là 450C, thành phần ở trọ chật hẹp như chúng tôi miệng lúc nào cũng há ra thở như cá đớp oxy. Giữa ngõ tự nhiên có hàng trà đá mới mở của một cụ ông, hình như chỉ để đợi những người lao động chân tay ngoài trời và những người thuê trọ ghé ngồi. Mà lần nào đi qua tôi cũng được cụ dúi cho một khay đá bảo về để trước quạt cho đỡ nóng. Vườn nhà bà chủ tôi rất rộng và nhiều cây cối, cảm tưởng như một viên ngọc xanh giữa một vùng toàn nhà cửa san sát bí rịt. Nên nhà bà lúc nào cũng mở cửa đón bạn già hoặc những người gánh hàng rong dừng lại nghỉ chân. Tôi từng mắc võng nằm dài suốt những trưa hè oi bức, tỉnh dậy hoa khế phủ đầy, mát lịm bởi tiếng cười các cụ. Những người trẻ đi qua thở dài nhắc bà sao để cháu ngoài trời lâu vậy, mùa lạnh thì lo bị ho, mùa nóng thì lo bị cảm. Cũng có lúc nghe thấy người trẻ càu nhàu khi vỏ hạt bí vương khắp vườn, than thở sao ở phố mà lại có cụ nào nhai trầu nhả bã tung tóe dưới gốc cây.
Tôi trọ ở đây tròn bốn mùa mưa nắng thì bắt đầu thấy lòng hiu quạnh, chân lại muốn đi. Vì những người già cứ thưa vắng dần nơi đầu ngõ, trong hẻm chợ hay trước cửa mỗi ngôi nhà. Thỉnh thoảng đi làm về lại giật mình nhìn thấy tờ cáo phó dán đầu ngõ, leo lắt bóng già tiễn đưa nhau. Quán trà đá bị người trẻ dẹp ngay, mấy cái bàn cho cô thu mua sắt vụn chẻ ra xin về làm củi. Người trẻ bảo để làm gì thêm chật chội, mà cũng có ai rảnh mà ngồi thu mấy đồng tiền lẻ. Sẽ có nhiều người mỗi lần đi qua đó đều thấy trống vắng như tôi. Ông chủ xóm trọ tôi mất không bao lâu thì bà cũng theo đi. Hòn ngọc xanh của nhà chủ luôn đóng kín cửa. Cây khế cơm trong vườn bỗng nhiên vàng ngọn rồi chết. Người trẻ gọi thợ đến cưa đi, cả mấy cây rậm rịt cũng mang cưa hết. Một vài cụ già còn lại thì mắt đã mờ, chân đã chậm đành ở rịt trong nhà. Thỉnh thoảng tôi giật mình bắt gặp ánh mắt họ dõi theo tôi sau song cửa sắt. Những người trẻ vẫn lấp đầy những ngôi nhà..
Tôi cứ tự hỏi đến bao giờ chúng ta mới già để sống tử tế với nhau hơn ?
Huyền Vũ