Thứ Năm, 30 tháng 1, 2020

Nhạc - Thơ - Văn Tin vào mùa Xuân


Những Ca Khúc Hay Về Mùa Xuân


                               Xuân dạo
                                 Xuân vừa dạo bước bên thềm,
                       Hương Xuân rạo rực ủ mềm dángxưa.
                              Trời Xuân hong nắng cho mưa,
                    Mong tìm dấu tích người xưa năm nào....!
                        Quản chi tuổi hạc đã cao,
                     Tâm tình dàn trải khác nào thanh xuân?!
                           Đôi dòng tình tự bâng khuâng,
                       Như mầm non nhú hân hoan gọi mùa...
                       Hoa về dạo chợ Xuân xưa,
                       Lời buồn liệu có Xuân ưa bây chừ ?!
                  NM

 Tin vào mùa Xuân
Nghe tin ông già mới được một tờ báo nào đó đặt bài, mà lại là bài tết khiến cả xóm nháo nhào.
Cái tin ấy từ miệng thằng nhỏ đánh giày được truyền nhanh khủng khiếp. Nhanh đến mức mới xế chiều mà cả xóm dạo đã từ khắp mọi nẻo đường trở về đông đủ. Chỉ chờ nhân vật chính xuất hiện là nhao nhao hỏi. Nhuận bút báo tết chắc là cao lắm hả? Đủ tiền mua vé vào nam thăm cháu ngoại không ông? Ủa mà báo nào vậy nhỉ? Mày không biết chữ thì hỏi để làm chi? Thì để hôm đó đi bán báo tui còn rao: “Cô chú mua báo đi. Báo có bài của ông bạn già xóm dạo viết chơi. Mua đi! Mua đi! Bảy mươi năm mới có một lần”. Rao gì mà kỳ vậy mày, sao lại bảy mươi năm? Thì không phải năm nay ông già vừa tròn bảy mươi cái xuân xanh hay sao? Ông cứ nói khơi khơi là ông viết báo mà tụi mình đâu có thấy bài đăng. Hy vọng lần này tụi mình không mừng hụt. Hay là cược cái gì đó cho vui? Một chầu bia đã đời có kèm thêm mực nướng, chơi không? Ủa mà bài báo tên gì? Ai là nhân vật chính vậy ông ơi? Sau câu hỏi đó thì đám người lại nhao nhao: “Tui này! Tui này! Viết về tui đi này”. Ông già nãy giờ vẫn ngồi cười, gió lùa vào hàm răng đã có nhiều chỗ trống. Hỏi chỉ để vui vậy thôi chứ cả xóm này ai cũng biết nhân vật chính đâu có đến lượt mình. 
 
Nhân vật chính là bà già từng bán xôi dạo nhưng giờ có khi không còn bán nữa. Chú Bảy xe ôm nói: “Hôm nọ đứng bắt khách ở bến xe tình cờ chở một người cùng quê với bà già. Nghe đâu bà già đã tìm thấy con trai ở mãi tận Sài Gòn nên bà gồng gánh vào đó cho gần con cháu”. Ông già nghe thấy thì vui lắm nhưng đêm vắt tay lên trán lại nghĩ ngợi hoài nghi. Giữa biển người mênh mông này muốn tìm lại người thân đâu có dễ. Nhất là khi bà thất lạc con từ lúc nó còn đỏ hỏn. Mà manh mối kiếm tìm chỉ dựa vào một nốt ruồi son ở đằng sau gáy. Có khi theo thời gian nốt ruồi đã mất đi, vài cái sẹo nào đó lại chen ngang trên mặt. Nhiều đêm ông mường tượng ra cảnh người đàn bà mình thương đang rong ruổi ở ngõ chợ, bờ sông hay đoạn đường vắng ngắt. Trên chiếc quang gánh là thúng xôi nóng hổi chỉ chờ cất tiếng rao là dậy lên hương vị. Bà già ấy lúc xới xôi cho khách luôn tìm cách nhìn vào gáy người ta. Đến cả lúc khách quay gót đi xa bà vẫn dán ánh nhìn vào gáy họ trút một tiếng thở dài khe khẽ. Thỉnh thoảng bà cũng kể câu chuyện về đứa con mất tích như một cách hỏi dò. Trong đó có đoạn “nó quấn chiếc tã được cắt từ chân quần cứng còng queo. Mắt nó đen láy tròn xoe. Hai bàn tay bụ mẫm như hai nải chuối mắn. Lúc nào cũng chỉ thích rúc vào ti mẹ. Ngày đó tôi ăn toàn sắn, sữa vừa ít vừa nghèo chất. Tội nghiệp thằng nhỏ…”. Người ta nghe cũng chỉ biết tặc lưỡi xót xa chứ kể như bà làm sao biết thằng nhỏ là đứa nào trong hàng trăm, hàng ngàn đứa trẻ thất lạc gia đình.
Hồi xưa ông hay chở xe ôm thuê trong nhà ga thành phố. Hành nghề lâu đến mức cái gốc bàng già được dân xe ôm mặc định đó là “nhà” của ông. Ngoài giờ đón khách mỗi khi tàu về ga, còn lại thời gian ông dựng chiếc xe cà tàng rồi nằm vắt vẻo trên đó đọc báo, ngắm người qua lại chờ một cái vẫy tay của khách. Ông ở đó suốt bốn mùa. Từ khi cây bàng khoác lên mình bộ áo già nua với những chiếc lá bám đầy bụi bặm. Cho đến khi cây bàng thay lá trụi trơ ông vẫn ngồi đó ngửa mặt nhìn trời qua cành nhánh khẳng khiu. Ngủ một giấc mùa đông, mở mắt ra đã thấy những chồi non bừng nở. Ngồi cho đến khi bà già xuất hiện thì ông bỏ nghề xe ôm đi bán nước trà. Thiên hạ hỏi đang làm xe ôm kiếm cũng được mà sao lại bỏ nghề? Ông cười bảo “già rồi, xương khớp yếu đi. Đâu có thể luồn lách ngoài đường mãi”. Vẫn gốc bàng xưa, vẫn chiếc xe máy cũ dọn thêm vài cái ghế cho khách ngồi thế là thành quán nước. Người đi tàu thường ghé qua quán của ông bắn điếu thuốc lào, làm cốc trà nóng. Ai cũng mê ông chủ quán hóm hỉnh, chuyện trên trời dưới đất đều thấy tỏ tường. Đâu ai biết ông thường nhòm vô gáy người ta đăm đăm kiếm tìm một cái nốt ruồi màu đỏ. Nhưng dễ gì mà thấy. Bà già nói nốt ruồi chỉ bằng cái đầu tăm. Mắt ông thì mờ. Đôi lúc muốn chạy lại vạch gáy từng người nhìn cho thật kỹ. Người trong xóm dạo bảo nhau “hèn gì ông bỏ nghề xe ôm. Nghề xe ôm thì suốt ngày ngồi phía trước cho người ta nhìn gáy của mình. Chứ có mấy khi ngó được gáy người ta”. Ừ nhỉ…
Ông già tính làm cái bảng ghi dòng chữ “tìm nốt ruồi son sau gáy” rồi treo dưới gốc bàng. Nhưng làm vậy kỳ lắm. Người có nốt ruồi son đã chắc gì người ta muốn nói. Nhiều khi chính họ cũng không biết gáy mình có nốt ruồi nhỏ xíu ấy hay không. Mà giờ giả dụ tìm được người có nốt ruồi son sau gáy cũng chẳng biết bà già ở đâu mà báo tin. Ông để thất lạc bà từ mùa đông ba năm về trước. Một sáng trước khi gánh thúng xôi đi bán bà có dặn “tối cứ ăn cơm trước, đừng chờ”. Thế rồi bặt tin nhau đằng đẵng. Manh mối tìm lại người thương không có gì nhiều ngoài “bà già bán xôi đi tìm nốt ruồi son”. Xóm dạo nghĩ thể nào ông già cũng bỏ việc cất công đi tìm bà khắp nơi. Nhưng không, ông vẫn ngồi đó dưới gốc cây bàng già ngóng về phía nhà ga thành phố. Bởi ông biết có tìm thấy cũng không giữ nổi bà. Một người mẹ chừng nào chưa tìm thấy con mình thì làm sao còn tâm trí sống những ngày thanh thản. Thỉnh thoảng ông có kể về bà với những người xuôi ngược bắc - nam. Ông tin rằng rồi sẽ có ngày một ai đó gặp bà, họ kể về ông già ngồi dưới gốc bàng già để đợi một bà già quay lại. Bọn nhỏ trong xóm dạo bảo nhau “chuyện tình già còn mùi mẫn hơn chán vạn tụi trẻ bây giờ. Cần gì phải yêu đương thề thốt mà vẫn giữ chặt được tim nhau”. Ừ thì…

* * *
Xóm dạo nằm lọt thỏm trong lòng thành phố. Từ đường lớn ồn ã rẽ vào một con ngõ nhỏ, đi quanh co chừng hút xong điếu thuốc là đến xóm dạo thôi mà. Gọi là xóm dạo vì cả xóm làm nghề bán dạo. Vé số dạo, báo dạo, cà phê dạo, đánh giày dạo đến thúng bánh đúc, bánh khoai, hàng hoa, mẹt quả cũng đều đi bán dạo khắp đường cùng ngõ hẻm. Yên tĩnh như một ốc đảo giữa thành phố, chui qua chiếc cổng vòm là hiện ra những mái nhà cấp bốn nối nhau. Gọn gàng, sạch sẽ chứ không giống như mường tượng về một khu ổ chuột dành cho những người lao động nghèo. Ngay cả những chiếc áo cũ sờn cũng thơm tho mùi nắng. Phòng nào cũng đơn sơ, đồ đạc chẳng có gì ngoài những vật dụng thiết yếu. Tủ đồ đã cũ, vài chiếc bát ăn cơm, những đôi giày được xếp ngay ngắn trong góc nhà. Chiếc đài cát sét thỉnh thoảng lại lẹt xẹt dò sóng. Cũng có phòng tậu được chiếc ti vi cũ sóng nhiễu nhập nhằng, mặt cô diễn viên bị kéo dài méo xệch từ góc này đến góc kia màn hình. Ngoài giếng những người về sớm ngồi quây lại nhặt rau, thái thịt. Họ hỏi nhau hôm nay kiếm được nhiều không? Khách có đông không? Thằng nhỏ đánh giày nói mai nó phải ra bưu điện gửi ít tiền về nhà đóng tiền học cho em. Chị bán vé số tính đi mua ít quần áo ấm cho chồng con, shop hàng thùng đầu ngõ mới mở kiện đẹp mà cũng hợp với túi tiền. Ông già ngồi nhìn cây đào bích đang khẳng khiu thay lá, đặt bút viết những dòng truyện tết đầu tiên.
Thực ra ông già đâu phải dân viết chuyên nghiệp. Ngày trẻ cũng thơ phú ra trò nhưng chỉ để bạn bè đọc cho vui. Hồi còn chở xe ôm, những lúc rảnh chẳng biết làm gì ông hay mua báo đọc chơi. Hôm bà già xuất hiện đến ngồi nhờ dưới gốc bàng bán xôi ông cũng đang đọc đi đọc lại tờ báo chi chít chữ trên tay. Bà già ngồi tỉ mẩn cắt những tờ báo cũ thành từng mảnh nhỏ bọc xôi cho khách. Ông để ý thấy bà cắt lạ lắm, chẳng theo hình khối gì. Như thể bà không nỡ cắt đôi một bài thơ hay chia năm xẻ bảy một trang truyện ngắn. Mỗi mảnh báo gói xôi là trọn vẹn một tác phẩm, một chân dung nào đó. Ông cười: “Cắt báo gói xôi thôi mà bà. Cần phải cắt có tâm đến vậy không? Bà cắt vậy để người ta vừa ăn xôi vừa đọc thơ tình yêu chắc? Trời ơi, sáng ra người ta bận trăm công ngàn việc. Nhiều khi cố nhét ít xôi vào bụng để có sức chiến đấu. Chứ còn thời gian, tâm trí đâu mà thưởng thức thơ văn”. Bà chép miệng “Ừ thì…”. Bà cứ hay “ừ thì” như thế, ông nghe cứ thấy xót lòng. Có bữa ngồi đọc Coi tay vào sáng mưa của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, bà già lấy tay áo lau nước mắt. Như thể từng câu chữ là muối trắng xát vào lòng người mẹ mất con. Tư kể về câu chuyện người đàn bà rất giỏi coi tay đoán vận mệnh cuộc đời. Do từ bé đã được đọc mười ba cuốn Thuật pháp nhân tướng học của ông nội. Sau này vì mải coi tay cho người ta mà bà để lạc mất con ở một cái chợ Sương nào đó. Người đàn bà ấy sau này đã bỏ nghề coi tay vì không chịu đựng được ý nghĩ “mình níu người dưng đây mà buông bỏ máu thịt của mình”. Đến một ngày có người mang đến một bàn tay đã bị chém đứt lìa đặt trước mặt bà nhờ coi thử. Bàn tay xanh và lạnh ngắt ấy có một chiếc bớt đỏ trên cổ tay và lóng cuối cùng của ngón út bị gù do một lần đứt sâu băng bó cong queo. Đó là bàn tay đứa con mà bao năm nay bà chờ đợi, kiếm tìm. Cũng là bàn tay của tên tội phạm bị mã tấu chặt đứt trong một cuộc thanh trừng băng nhóm. Bà thầy bói già trong câu chuyện sau bao năm thất lạc con cuối cùng cũng chỉ tìm lại và níu giữ được một bàn tay đã chết. Ông già nhớ khoảnh khắc bà già bán xôi bo chặt lấy ngực mình. Như thể một cơn đau tim vừa mới chạy qua, nó mang theo hình ảnh nốt ruồi son sau chiếc gáy của một đứa trẻ còn thơm tho mùi sữa. Bà già lạc nó ở sân ga quê nhà. Lúc đặt nó nằm ngủ trong chiếc thúng, còn bà thì đội mẹt bánh gai, ngô luộc trên đầu chạy khắp các toa tàu mời khách. Tàu chạy, bà quay lại đã không thấy con đâu. Mấy chục năm qua bà chỉ biết lần theo nốt ruồi son bé xíu mong tìm thấy máu mủ của mình. Bà già từng ước ao: “Giá mà tôi cũng biết viết truyện như cô Tư thì có lẽ tôi sẽ viết về nốt ruồi son đằng sau gáy. Như một ngôi sao luôn lấp lánh ở phía trước, giúp tôi đi qua bao chặng đường tăm tối mịt mù”. Ông già nhủ thầm “có khó gì đâu...”. Kể từ đấy người xóm dạo thấy đêm nào ông già cũng chong đèn ngồi bên trang giấy. Họ không biết ông viết những gì? Viết gửi cho ai? Thằng nhỏ đánh giày từng ghé tai nói nhỏ với chị bán vé số: “Chiều nay thấy ông già đứng tần ngần trước cửa một tòa soạn báo. Tay ông cầm mấy trang giấy chi chít những dòng chữ ngoằn ngoèo”.
Biên tập viên cầm bản thảo của ông khẽ rụt cổ, lắc đầu. Thời đại công nghệ mấy ai còn viết văn bằng bút mực trên giấy trắng như ông. Bản thảo gửi đến tòa soạn chủ yếu qua hòm thư điện tử, được đánh máy sạch sẽ, trình bày đâu ra đấy. Ấy thế mà có khi còn bị bỏ xó vì lượng bài cộng tác gửi về nhiều quá, sức nào đọc nổi. Nhưng tác phẩm nào của ông già ban biên tập cũng phải phân công nhau đọc, không bỏ sót một chữ nào. Vừa đọc vừa dịch những nét chữ xô đẩy lẫn nhau. Vừa mường tượng ra một ông già run tay đêm nào cũng dồn hết tâm trí và sức lực vào cây bút. Có chỗ nét bút ghì xuống giấy hằn sâu như vết sẹo. Lại có chỗ nét bút bỗng dưng nguệch ngoạc như thể ông già vừa viết vừa chống chọi lại một cơn ho rạc cổ. Trong phòng khách của tòa soạn luôn có một ấm chè được pha sẵn chờ ông già ghé đến chơi. Người ta nói “văn mình, vợ người”. Nhưng chẳng ai như ông già, văn bị chê tả tơi mà vẫn cười hào sảng. Chê đâu sửa đó, ông già cần mẫn nhặt chữ dành dụm vốn liếng cho mình. Chắc vì đồng cảm với một ông già yêu chữ nghĩa. Nên ban biên tập bảo nhau “hay là tìm một truyện được nhất rồi biên tập lại để đăng cho ông già vui?”. Nhưng ông già phẩy tay chối từ: “Thôi khỏi. Đời cầm bút của tôi chỉ cần được đăng một lần duy nhất. Kể một câu chuyện duy nhất mà thôi”. Họ tò mò hỏi đó là câu chuyện gì? Ông chậm rãi rót trà, chậm rãi uống, chậm rãi kể về bà già bán xôi và cuộc kiếm tìm một nốt ruồi son mọc đằng sau gáy. Nghe xong hình như mũi họ cay, hình như ai đó vừa buông tiếng thở dài hoặc cũng có khi chỉ là tiếng gió. Họ ngậm ngùi bảo báo xuân năm nay sẽ dành hẳn một trang khổ lớn để ông già đăng tin tìm dấu vết thương yêu qua truyện ngắn của mình.
Truyện của ông được mở đầu dung dị như một lời thủ thỉ thế này: “Thằng nhỏ đánh giày kiếm đâu được một đôi giày vải tuy đã cũ nhưng chất thì “ngon lành lắm”. Nó nói để phần bà già đi bán xôi mùa đông vừa ấm lại vừa mềm. Không lo tấy đỏ gót chân sau mỗi ngày gánh rong ngoài phố như đi đôi giày nhựa cũ. Chú Bảy xe ôm vừa cầm áo rách mà than “giá mà bà già còn ở đây thì đã có người khâu áo giúp mình”. Thực ra đâu phải không có người để nhờ khâu áo. Nhưng khâu mà từng đường kim mũi chỉ thẳng thớm trên thớ vải thì chỉ có bà già mà thôi. Tụi trẻ bây giờ khâu qua quýt cho xong. Đâu có để hồn mình trong vết sờn vết rách. Nên cũng không có cảnh vừa khâu áo vừa than “chú em mặc áo rách chắc là muốn để ai ngó mà thương. Nhưng trước khi người thiên hạ xót lòng thì mình đã xót da xót thịt. Mình không thương mình thì còn mong ai thương hả chú em”. Có nhiêu đó thôi mà vẫn thường nhắc nhau. Như hôm gió mùa về, trong bữa cơm “chú em” bỗng dừng đũa chống cằm bảo: “Chẳng biết bà già đang ở đâu? Nơi ấy hôm nay liệu gió mùa về? Nếu chỉ một thân một mình không biết bà già có ăn uống điều độ hay không? Nói vậy thôi chứ bà già chắc biết tự thương mình”. Cây bàng già chỗ tôi với bà từng ngồi hình như nó vừa mới cựa mình. Những chồi non ẩn sâu trong lớp vỏ xù xì thức giấc vươn vai gọi mùa xuân đến. Bà từng ví chúng giống như những mầm yêu thương chồi lên trong tâm hồn già nua, cằn cỗi của mình.
Mùa xuân về thật rồi bà ơi. Mùa này người ta hay quàng khăn ấm cho nhau nên tôi ít nhìn thấy gáy...”.
Ông viết đến đó thì dừng bút vì vừa ngửi thấy trong gió xuân có mùi của hoa đào, hoa cúc. Xóm dạo có thêm người bán dạo vừa mới chuyển đến mấy hôm. Cũng một đôi quang gánh, mấy bộ quần áo rét và ít nồi niêu xoong chảo. Y như ngày bà già theo ông đến đây, đồ đạc không có gì ngoài một đôi quang gánh. Người mới đến đang đảo những mẻ mứt nóng hổi để sáng sớm còn kịp mang đi bán. Chị ta nói mình là người đàn bà bán mùa. Mùa thu bán cốm, mùa hè gánh bán hoa sen, mùa đông cần mang hơi ấm chuyền tay nhau trong mùi hạt dẻ. Đến mùa xuân thì để từng vị mứt kể câu chuyện vùng miền. Nhìn cái dáng lom khom nhóm bếp than của người hàng xóm mới khiến ông già nhớ tới bà. Dù ngày hè nóng bức hay mùa đông lạnh cắt da cắt thịt thì cứ bốn giờ sáng là bà đã thức dậy lụi cụi thổi xôi. Chiếc bếp ngoài trời được ông mua mấy tấm fibro xi măng lợp lên để che chắn mưa dầm sương lạnh. Mấy năm trước cũng vào những ngày này, cũng lất phất mưa bay. Ông dậy cùng bà nhóm bếp, hơ hai bàn tay lạnh cóng trên lửa ấm rồi chờ nồi xôi của bà vừa kịp chín. Giữa lúc ông mải đắm chìm trong ngọn lửa đầy ma mị thì bất chợt thấy gáy mình nóng ran. Bà từng bảo gáy ông cũng có nốt ruồi son nên mắt bà có đôi lần vướng víu. Trong ánh lửa bập bùng nốt son như một hòn than ấm. Âm ỉ và nung nấu tâm can…
Ông già viết xong truyện lúc người ta chở hoa về khắp phố. Những chợ hoa tự phát mọc lên, đào từ rừng xuống phố vẫn còn e ấp nụ. Trên sạp báo đã thấy có vài ấn phẩm báo xuân bày bán sớm. Thư ký tòa soạn nheo mắt qua cặp kính, khẽ thở dài:
- Viết buồn vậy làm sao đăng báo tết chú ơi? 
Vũ thị Huyền Trang



 Mùa chim én bay
Chim én bay trong ngày Xuân vĩnh cữu,
Ánh thiều quang ủ ấm gió lạnh căm...
Đông dẫu qua còn giá rét âm thầm,
Xuân vẫn đến với mai vàng rực rỡ
Hãy trả lại những gì Xuân khai mở
Cánh én chao bay liệng giữa mênh mông..
Xuân thiêng liêng hiện diện ở trong lòng..!
Sẽ rủ bỏ những ngày Đông u ám...
NM
Đinh bằng hữu, người bạn của tôi nói về buổi xuất hành đầu năm đầy thi vị của anh. Chuyện kể trong một ngày lạnh căm sau Tết. Đợt giá rét lê thê, dài hơn so cơn rét Mậu Thân lịch sử…
Thành phố Huế vào xuân. Hai bà cháu nhà quê và một chiếc lồng tre đầy chim én. Họ ngồi bên vệ đường, mắt đăm đăm nhìn mặt người qua lại.
– Đầu xuân. Mua én phóng sinh làm phước…
– Ồ, én mô nhiều rứa mệ hè.
– Dưới đồng quê. Mưa lạnh dài ngày, làm ruộng mất mùa cực lắm chú ơi.
Anh bạn dừng lại nhìn những con én ngơ ngác, đang chen chúc nhau đứng ủ rủ trong lồng. Các sứ giả của mùa xuân đây ư? “Vòm trời nan tre” và chút thức ăn ân huệ. Ruột bánh mì lăn lóc và những cú mổ xuống đầu nhau xù lông, rướm máu. Vâng, khi mà chung quanh chúng – bên ngoài – trăm hoa đang mãn khai, khoe sắc…
“Từng bầy én tung bay muôn ngàn lối” Bản nhạc xuân từ một quán bên đường vẫn không ngừng nhịp Fox rộn rã. Phải chăng, lắm lúc sự vô tình cũng làm nên hạnh phúc? Thứ hạnh phúc mặc nhiên sau cánh cửa mỗi nhà…Gió thổi buốt từng hồi làm hai tay tê cóng. Dòng sông Hương lặng lờ, vắng khách hơn ngày thường. Đây đó một đôi dáng thuyền rồng còn nằm yên, neo bến.
Anh bạn ngó quanh, bắt gặp nhiều đôi mắt đang ngời lên tia giễu cợt. Những đôi mắt như những câu chữ vô hình ẩn hiện trên mặt người qua lại…“Mua làm gì? Càng khiến người ta đi bắt” “Phóng sinh ư? Cái vòng lẩn quẩn” “Thấy chưa, chính bạn cũng đang mắc bẫy luôn rồi”. “Này nhé, nhân đạo là tự sát”. Những câu đàm tiếu kiểu ấy cơ hồ đã cũ kỹ, chẳng có gì mới mẻ hơn chăng?
Lạ thay, mọi người dường như sẵn sàng hào phóng sự khôn ngoan để mặc nhiên quên đi điều cần thấy. Vâng, ở đây còn có lý công bằng. Thuận được mua, vừa sẽ bán. Không có ai ức ép ai để sau rốt, chẳng bên nào là nạn nhân hoặc là kẻ nghiễm nhiên mưu lợi trên nỗi đau đồng loại. Có chăng, tất cả đều được chút niềm vui thanh thản… Kể cả mấy con vật nhỏ bé kia, bất đắc dĩ phải lệ thuộc trước con người.
“Chim trời, cá nước”. Thực ra, những kẻ giễu cợt sự phóng sinh kia chưa hẳn đã tự tại dưới vòm trời nhân thế? Vâng, khi mà sự cứu rỗi cứ vẫn luôn là khát vọng muôn đời trong bản tâm nhân loại. Tham vọng chính đáng ấy khiến người và vật vẫn còn có chỗ cảm thông nhau hơn nữa. Nhà Phật từng giáo huấn trẻ thơ “em hãy thương yêu người và vật”. Lời khuyên ấy đi đôi với kiêng cữ sát sanh, hại mạng.
Anh bạn cảm nhận điều gì đó không nói đủ nên lời, vừa gợn lên trong câu khẩn khoản của hai bà cháu nhà quê khốn khó :
– Chú ơi chú. Phóng sinh làm phước chú ơi….
– Lụt lội mới đó chừ tới lúa chết lạnh. Nhà nông bòn chài đôi xu biết lấy mô ra…
Quả thực một đôi cánh én không làm nổi mùa xuân. Nhưng sẽ còn lại gì ngoài mấy tầng mây tro xám? Bầu trời xuân vô cảm kia đã không còn tìm ra cánh én. Rộng lớn như trời đất mà sao những con én lạc loài nầy còn đây, vẫn co ro cụp cánh? Ngày xuân vốn tươi vui biết bao với những cõi lòng rộng mở? Sao người không đến với người bằng chút ánh mắt sẻ chia? Và tại sao đất – đến cả ngàn năm quen thuộc từ ông cha, tiên tổ – vẫn cứ mãi nhọc nhằn dẫu đã đi qua hàng trăm, ngàn thế hệ…
Hai bà cháu ngồi dựa vào nhau trong cùng một tấm áo mưa đầy bùn lầy đất ruộng. Chắc chắn họ phải cách nhau không dưới nửa thế kỷ tuổi trời. Vẫn có điều đồng bộ trong một ngày nguyên đán lạnh căm. Cả hai đều đang cố níu vào nhau để che đi run rẩy…
Trong chỉ một giây, anh bạn mua nguyên lồng chim với giá đầu tiên, không mặc cả.
Hai bà cháu sáng mắt lên nhìn nhau, không nói nên lời. Bà già nhà quê đứng dậy chấp hai bàn tay nhăn nheo vào nhau, con mắt hướng lên trời “Cầu cho chú căn an, mạng vững. Vô bệnh vô hoạn, tật nạn tiêu trừ. Sự lành đem đến, sự dữ lánh xa. Phước thọ quan gia, đầy nhà con cháu. Cầu cho chú bạc đấu vàng thoi, ngựa quỳ voi cỡi… Bước tới vận thời, đi chơi che lọng. Cầu cho chú trước cổng lân chầu. Ngoài hiên phượng đậu…”
Câu chúc dài đến nổi anh bạn bật cười sốt ruột kêu lên :
– Được rồi, thôi mệ ơi. Mệ thả ra đi.
– Nì, chú tự tay phóng sinh chơ răng rứa. Phước ai, mua nấy.
– Ai cũng được. Hề chi mệ. Én bay ra đâu cần biết ai thả.
Khi con én cuối cùng vút khỏi lồng tre do chính bà già nhà quê tự thả, anh bạn quay lưng đi còn nghe hai bà cháu mãi thầm thì chuyện may mắn ngày xuân :
– Mệ hỉ. Chú nớ điên… điên lạ hè.
– Đừng có nói. Nhờ rứa đó, không thì ngồi thấu tối chưa chắc có xu mô.
– Người khôn chỉ có tốt giả đò thôi. Người dại mới là người tốt thiệt, mệ hỉ.
– Ừ, người khôn ăn hết cho ai cái chi mô. Người dại rứa mà có đức.
Những đợt giá rét kéo dài qua Tết. Câu chuyện xuất hành của Đinh bằng hữu, bạn tôi đem lại chút dư vị trong một thoáng cười vui, ấm áp. Đợi nắng Huế lên. Ai cũng mong chờ chút ít ánh thiều quang trở lại :
“Ngày xuân con én đưa thoi”
“Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Ba tháng xuân trong truyện Kiều chưa hề trọn vẹn, song hơn sáu mươi ngày vẫn tràn ngập ánh thiều quang cho tới khi cuộc bể dâu khai mở…
Chim én bay liệng giữa trời xuân nào khác chiếc thoi đưa ngày tháng. Biểu tượng ấy dệt nên đường đi vĩnh cửu giữa vũ trụ vốn vô chung, vô thuỷ. Hãy trả lại những cánh én cho mùa xuân tự nhiên như trả lại từng chiếc thoi vốn không thể rời xa khung cửi…
Trần Hạ Tháp
Thành nội – Huế 2008
Đăng lại từ tạp chí Chim Việt Cành Nam (Chimviet.free.fr)

  
Ngõ hoa vàng
Ngõ hoa vàng Rốn Bão,
Giờ đây sao khác xưa...
Chỉ có hoa vàng nở,
Trong nắng vàng đong đưa...!
Bao nhiêu kỷ niệm cũ,
Của một thời trẻ thơ..
Âm thầm luôn ấp ủ,
Biết tìm đâu bây giờ ?
NM

Mùa xuân hoa vẫn nở vàng

GN - Tôi trở lại nơi chốn ấy vào mùa xuân như một cách nhớ về một thời thơ ấu đầy vui buồn, và bên cạnh đó còn có một người. Mọi thứ đều đã khác, bởi thời gian vẫn theo quy luật tự nhiên, cuốn mọi vật lao theo dòng xoáy của nó. 
Tôi trở lại một ngôi trường nhỏ ở làng quê. Làng quê nơi ngày xưa tôi ở, được mọi người đặt cái tên rất lạ: Rốn Bão. Bởi bất cứ cơn bão nào đi qua, nó cũng nhắm vào ngôi làng dựa vào hai vách núi, mặt nhìn ra biển kia mà đổ. Mỗi năm có khi làng hứng tới gần chục cơn bão. Bão đổ vào suốt nên rồi cả làng cũng quen. Quen nhìn những bao cát chắn trước nhà để ngăn những cơn sóng biển giận dữ đổ vào, để tránh những cơn mưa tạt rát cả mặt. Quen những đôi chân trần đen vì nắng táp cứ chạy trên cát biển, cứ lội xuống biển mà leo lên những chiếc thuyền thúng bơi ra ngoài khơi, đón những chiếc thuyền đánh cá trở về. 
Làng Rốn Bão của tôi cũng khá đặc biệt vì chỉ có một con đường độc đạo từ quốc lộ đi vào. Đó là con đường rất buồn, được làm bằng đất sét trộn với sỏi trải ra cho dễ đi lại. Con đường đi qua một cánh rừng thông đã bị chặt gần hết, những gốc thông còn sót lại cố bung ra những mầm mới. Con đường đi qua một đồi cát trắng, mỗi khi gió bay, cát tràn xuống lấp con đường, thế là dân làng lại phải tập trung lại để dọn cát. 
Vì đi lại khó khăn, vì thời tiết khắc nghiệt mà làng có một thời gian dài không có trường. Lũ trẻ chúng tôi đi học bằng xe đạp, có khi đi bộ trên con đường buồn tênh đó để tới ngôi trường cách làng cả 6 cây số. Nếu thời tiết không thuận tiện, chúng tôi phải ở nhà mà không đến trường.
 Đó là câu chuyện ngày xưa. Ngày xưa luôn gợi nhớ những kỷ niệm. Ngày xưa của chúng tôi lại bắt đầu từ ngôi trường được dựng lên sát vách núi. Và ngày xưa lại nhắc cho tôi nhớ về cô giáo Liên, người đã truyền dạy cho những đứa trẻ ở Rốn Bão những bài học vỡ lòng. 
Ngôi trường được huyện đầu tư xây dựng chỉ vỏn vẹn có 3 phòng học. Nhưng ngày khánh thành ngôi trường là niềm vui ngợp trời của cả làng. Vì dẫu ngôi trường nhỏ, nhưng mấy chục học sinh ở làng có thể học cho hết cấp I. 
Tôi có cả một thời gian dài học ở ngôi trường dựa vào vách núi đó. Nhưng vì làng của tôi buồn tênh, đêm xuống chỉ nghe tiếng sóng biển vỗ, chỉ nghe tiếng gió hú lồng lộng cho nên dẫu không phải là hải đảo hay miền núi, các cô thầy đến trường dạy dẫu chỉ dăm người, nhưng chỉ trọn một niên khóa là họ tìm cách về huyện hay về tỉnh, chẳng có ai chịu khó ở lại với lũ học trò làng biển, đi học với mái tóc khét nắng và đôi chân trần đến lớp. 
Cô Liên đến làng tôi vào một buổi chiều nhòa nhạt nắng, khi đó mọi gia đình đã vào trong căn nhà của mình, ngoài khơi xa chỉ có một màu biển đục. Cô đạp chiếc xe đạp với một túi xách đồ đạc, chiếc xe đạp của cô sau khi đi hết con đường đất đã bị lún vào trong cát biển. Tôi là người nhìn thấy cô đầu tiên trong buổi chiều đó. Lúc đầu tôi tưởng cô đi đến nhà một người quen, nào ngờ lại là một cô giáo tình nguyện. Bởi gần như tất cả thầy cô giáo đến làng họ đều đi xe máy hoặc có người thuê xe ôm chở vào, chẳng có ai đi xe đạp bao giờ.

Hôm đó tôi đã gọi thêm mấy đứa trẻ trong làng phụ mang vác đồ đạc của cô Liên, rồi đưa cô đến nhà ông tổ trưởng dân phố. Cũng từ ngày đó, cô Liên đã trở thành công dân làng Rốn Bão của chúng tôi. Mà làng có cái lạ là nhà nào có đám cưới, đám giỗ hay tiệc tùng gì đó thì gần như trở thành ngày hội, cứ ới ới gọi nhau mà đến, mỗi nhà lại góp một ít thức ăn hoặc bia rượu để cùng vui. Cô Liên khá khéo trong cách chế biến các món ăn lạ, cho nên mỗi lần như thế cô trở thành đầu bếp.
Cho đến khi tôi rời làng, ngôi trường 3 lớp học kia vẫn chỉ có mình cô Liên trụ lại, thỉnh thoảng cũng có dăm thầy cô đến, nhưng họ cũng mau chóng rời làng. Cuộc sống của cô giáo Liên với lũ học trò chân đất ở làng biển của chúng tôi chính là những ngày vui. Lúc đầu cô ở nhờ căn nhà của tổ dân phố, sau đó cô dọn về trường ở, cả làng cùng phụ xây cho cô một căn phòng khá khang trang. Chúng tôi gọi căn phòng nhỏ đó là: “Nhà của cô Liên”. Đặc biệt, cô đi tìm về rất nhiều hoa hoàng anh, vàng cả một đoạn đường vào ngôi nhà nhỏ của cô. Tụi học trò chúng tôi gọi đùa đó là: ngõ hoa vàng. 
Mỗi ngày, sau những giờ đứng lớp, cô Liên lại đi trồng rau xanh, đó là loại gia vị hiếm hoi của làng chúng tôi. Vì ít người nghĩ ra là phải trồng cây ớt, cây húng quế, cây xà-lách…, để khi cần chỉ cần ra vườn nhón hái. Rồi cũng từ vườn rau nhỏ của cô Liên, cả làng rộ lên phong trào trồng rau xanh trong những thùng xốp. Vào những đêm thứ Bảy, Chủ nhật, cô Liên tụ tập đám học trò của mình lại tập hát, bày những trò chơi. Chúng tôi gom những cành khô đốt lửa giống như mọi người sinh hoạt lửa trại. Nhiều khi người lớn cũng tham gia góp con cá tươi mới lưới về, nướng trên lửa củi ấy để cô giáo cùng ăn với học trò.
 Trong tuổi thơ của tôi, tôi nhìn thấy cô Liên giống như bà tiên trong truyện cổ tích. Cô gần như ở lại trong làng, chỉ khi nào đi họp hoặc đi lãnh lương, mua thêm lương thực cô mới đạp chiếc xe đạp của mình đi trên con đường đất của làng ra lộ đón xe về huyện. Dáng cô đi trong cái buồn buồn ấy là một hình ảnh gần như đã đọng mãi trong trí nhớ của tôi. Vui nhất là vào ngày Tết năm đó, cô Liên cùng ở lại với làng. Cô Liên ăn Tết một mình, hay nói đúng hơn là ăn Tết với cả làng Rốn Bão. Cô đã làm cho lũ trẻ chúng tôi vui khi cô nghĩ ra lắm trò chơi trên bãi biển vào ngày xuân khiến cho không gian trở nên rộn rịp. Rồi đêm mùng một Tết, cô Liên uống rượu thật nhiều, cô về lại căn phòng nhỏ của mình mà khóc. Tôi theo cô, cứ lấy củi châm cho cháy bùng trong đêm Tết, mà không hiểu tại sao cô buồn. 
Sáng mùng 7, một mình tôi chèo chiếc thuyền thúng ra vũng nước xoáy câu cá với ý nghĩ là câu con cá ngon tặng cô Liên vào ngày đầu năm. Hôm đó biển động. Nơi vùng nước xoáy khi biển động có rất nhiều cá to tụ về, việc câu cá rất dễ dàng. Tôi mải mê chạy theo đàn cá nên bị một con sóng lớn bất ngờ đổ ập lên, hất tôi ra khỏi chiếc thuyền thúng, nhấn chìm xuống nước. Lúc đó tôi gần như kiệt sức thì cô Liên xuất hiện. Cô đã bơi thuyền ra cứu tôi thoát chết trong gang tấc. Tôi không hiểu tại sao một người con gái nhỏ con như cô lại có thể có sức mạnh phi thường như thế? Cô đưa tôi vào bờ mà nói: “Em khờ lắm. Ai biểu em câu cá làm gì? Em chỉ cần tới nhà đốt lửa cho cô ấm là được”.
Việc xây dựng một nhà máy ở ngay đụn cát, nơi đoạn đường vào làng mà các cây thông bị chặt sát gốc đã làm cho làng Rốn Bão của tôi trở nên phồn thịnh. Một công ty du lịch cũng đã chọn khu vực nhiều mỏm đá, nơi tôi bị tai nạn thành một khu du lịch. Làng Rốn Bão nay trở thành một điểm du lịch với cái tên hấp dẫn: Bãi Tiên. Nhưng đó là chuyện xảy ra gần 15 năm sau khi tôi xa làng, đi học. Cả nhà tôi cũng đã chuyển đi, nên ngần ấy thời gian, tôi đã không trở lại làng. 
Tôi trở lại làng đón Tết, trước sự thay đổi ấy, chỉ một mình tôi. Tôi muốn tìm gặp cô giáo Liên của tôi. Chiếc xe ô-tô chở tôi đã có thể thong dong phóng xe trên con đường nhựa tới thẳng sát ngay ngôi trường cũ. Trường giờ đây đã trở thành trường cấp 1, 2 khang trang và đẹp đẽ. Mùa xuân như đang rộn rã. Tôi nhủ sẽ đốt lửa như ngày nào đốt lửa cho cô ngồi khóc trong đêm Tết. 
Nhưng cô Liên đã rời trường từ 7 năm về trước, không ai biết cô đi đâu. Ngay cả căn phòng nhỏ mà dân làng xây dựng cho cô nay cũng không còn. Còn lại duy nhất là con đường nở rực một màu vàng hoa hoàng anh. Trong nắng mai lộng lẫy kia, tôi tưởng chừng như cô Liên đang đi qua ngõ hoa vàng ấy. Hoa vẫn rực vàng trong mùa xuân.
 Khuê Việt Trường

 

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2019

Nhạc- Thơ - Văn Đường về nhà


Đường về nhà


       Người miệt thứ,
Tôi vẫn là tôi, người con miệt thứ,
Dẫu sóng đời xô dạt kéo tôi xa...
Vẫn bao dung, chân chất lẫn vị tha,
Tâm luôn nhớ nơi bình yên quê mẹ !

Sao thương quá cánh đồng xanh lặng lẽ,
Khoác lên mình màu lúa sắc non xanh..
Dòng sông trôi lờ lững kiếp độc hành,
Mang theo sóng vị phù sa dịu ngọt !!
 
Quê tôi đó yêu thương cao chất ngất,
Bỗng vươn lên như những cánh diều bay...
Cũng như tôi xa xứ biết bao ngày,
Luôn đau đáu ước mơ lần trở lại !!
NM
Minh họa: Trà My 
Trở về miệt thứ
Mỗi lần đứng ngẩn ngơ trên bến xe, nghe chị lơ xe đon đả hỏi: “Em ơi, về miệt thứ hả em? Đi xe chị nè, chuyến cuối cùng trong ngày rồi đó!”, tôi bỗng thấy mắt mình rưng rưng...
Thế giới của tôi là mảnh đất ngọt mật vị phù sa châu thổ, thế giới của những dòng sông, những cánh đồng, những con đò và cánh cò trắng chấp chới trong những chiều yên ả. Tôi được sinh ra và gắn bó trọn vẹn mười tám năm đầu đời với những hồn nhiên mơ mộng, ngày nghe tiếng máy chạy xình xịch trên sông, đêm lắng tai nghe giọng hò ai ngân lên ngọt bùi sâu lắng. Rồi cứ thế, tôi lớn lên như cỏ dại trên đồng, vẫy vùng tung bay như cánh chim trời trong không gian bao la.
Hoàng hôn buông trên cánh đồng xa xăm, chiếc xe băng băng trên con đường nhỏ xuôi về miệt thứ. Ngồi trên xe, thi thoảng tôi lại thả mắt nhìn cảnh vật bên đường. Trải rợp trước mắt tôi là sắc xanh của cỏ, của lau lách vật vờ trong ngọn gió đồng. Bóng chiều đổ xuống ngọn dừa, nền trời rực đỏ một màu như tháng năm nào trong cõi nhân gian có người cầm bó đuốc bén lửa châm vào bức tranh hoàng hôn tạo thành những mảng màu kỳ vĩ. Trên cánh đồng, trẻ chăn trâu vẫn còn nấn ná lại vài phút nữa chơi trò đánh trận, phất cờ, tiếng nói tiếng cười rộn vang trong không gian thanh bình.
Chị lơ xe hỏi tôi: “Em là dân thành thị về chơi miệt thứ cho biết hả em? Ở đó buồn lắm, chị đảm bảo em về một lần là không có lần thứ hai, thứ ba... nữa đâu”. Tim tôi nhói lên. Chao ôi! Tôi là người con miệt thứ, sinh ra và lớn lên nơi đồng đất phù sa, được má tắm táp bằng gàu nước sông quê ngọt ngào như dòng sữa, được ba dẫn đi những bước đi chập chững đầu đời cũng trên dải đất phù sa mát lành. Ngày xưa vẫn thế, bây giờ vẫn thế! Tôi mãi mãi vẫn là đứa con đi ra từ ruộng đồng, miệt thứ là mảnh đất của bao dung và yêu thương, mảnh đất của chở che, của ngọn nguồn dưỡng nuôi tâm hồn và thể xác. Sống giữa thị thành chỉ mới mấy năm, giờ đây người quê lại xem tôi là “khách”, là “kẻ tha hương” đến miệt thứ chỉ để thăm thú rồi ôm về một nỗi u hoài “không đến lần thứ hai”. Dường như ai rắp tâm lấy đi một phần tâm hồn của tôi khiến lòng tôi hoang hoải. Mấy năm xa quê, công việc thường nhật tạo điều kiện để tôi đi đó đi đây, đặt chân đến những miền đất mới, tiếp xúc với những con người mới. Tôi như cánh chim thiên di, hễ thấy đất lành là sà xuống mà chẳng cần một lời mời mọc, đón chào. Vậy mà chừng ấy năm tôi lại vô tâm bỏ lại quê hương sau lưng mình, để quên ký ức trong một chiều nào hoàng hôn đỏ rực phía chân trời trên cánh đồng cỏ lau xanh biếc. Nước mắt tôi ứa ra, nỗi buồn sóng sánh cõi lòng.
Tôi nói vu vơ: “Miệt thứ bây giờ đổi khác quá chị ha, đường sá phẳng lì, xe cộ bon bon. Đâu còn cái cảnh đò giang cách trở mười mấy năm về trước?”. Chị cười thay cho câu trả lời. Đất nghèo đổi thay, chỉ có cánh đồng vẫn lặng lẽ khoác lên mình màu lúa non cỏ xanh, màu nâu của đất phù sa, màu vàng của nắng và màu đỏ tươi của hoàng hôn rớt lại cuối chiều. Hơn hết, ngần ấy năm trôi qua con người miệt thứ vẫn giữ trọn sự chân chất, nồng hậu, bao dung và vị tha của mình. Người miệt thứ hiền hòa như dòng sông, dạt dào yêu thương như con sóng âm thầm chắt chiu những hạt phù sa bồi vào đất mẹ...
Tôi về đứng giữa cánh đồng. Trời xanh. Cỏ xanh. Ký ức màu xanh. Thời gian có thể rửa trôi mọi thứ nhưng chẳng thể xóa nhòa ký ức tuổi thơ, cũng như thời gian chẳng bao giờ làm lòng người đổi thay nếu tâm hồn người vẫn đau đáu hướng về miền quê yên bình, thơ mộng. Dòng sông vẫn chảy, cánh diều vẫn bay, và tôi vẫn lặng lẽ trở về với nơi chôn nhau cắt rốn, để được yêu thương và chở che, để được chạm tay vào mặt đất quê mình rồi nhận ra đất vẫn ngọt, phù sa vẫn ngọt...
Hoàng Khánh Duy

Bên kia đồi,
Bên kia đồi không là nơi tôi ở,
Dẫu bên em hạnh phúc đến ngập tràn...
Dĩ vãng ngày xưa, một kiếp lang thang,
Tôi quay lại xin làm con Bản Giốc
NM
Đường về yêu thương
Bên kia đồi là cuộc sống muôn màu A Giàng hằng ước ao, giờ đây là vô nghĩa. A Giàng chọn tìm về nơi mình đáng thuộc về. Và quan trọng là, nơi ấy có người phụ nữ đã cưu mang anh suốt 19 năm qua...
Mặt trời lấp ló sau những thân cây cường tráng; từng tia nắng chiếu lọt qua khe ván gỗ ghép của ngôi nhà sàn chênh vênh. Sáng nào A Giàng cũng dậy thật sớm; vác rựa vào rừng đốn củi. Hôm khác lại đi phát ngọn cỏ lau đem về; địu xuống dưới xuôi bán cho người Kinh làm chổi.
A Giàng mồ côi cha mẹ, nghe đâu được A Dúa nhặt về nuôi; ngay dưới chân ngọn đồi Ông Tẩu. Năm đó A Dúa cũng vừa tròn ba mươi tuổi. A Dúa sống một mình trong căn nhà sàn xiêu vẹo bên cạnh con suối. Thật ra A Dúa không phải người bản Giốc mà từ nơi khác đi lạc đến đây. Già làng A Mâu còn nhớ như in ngày thấy A Dúa; như con nai bị mắc bẫy què chân nằm bên vệ đường.
 Nhọc nhằn lắm già làng mới đưa được A Dúa về nằm lại trong căn chòi; giữa rẫy ngô của vài gia đình trong bản. Mùa đông bắt đầu cũng là lúc những đọt ngô; bật lên một màu vàng nâu giữa màu xanh của lá. Căn chòi hoang thật ra chỉ là nơi để người trong bản ngơi nghỉ; giữa trưa nắng nóng khi lên rẫy gieo hạt.
Trước đây khoảng hơn chục năm; bản Giốc bỗng thưa thớt người hơn mỗi khi đến mùa gieo hạt hoặc lúc thu hoạch. Người lớn và thanh niên trai tráng rủ nhau lên những căn chòi trên rẫy; đốt lửa và quây quần cùng nhau nhâm nhi chén rượu cần. Có khi cùng nhau nghêu ngao dăm điệu khèn vui; nhảy sạp cho qua những đêm sương muối lạnh cóng.
Nhưng rồi người trong bản bắt đầu rỉ tai nhau; những lời đồn thổi về loài thú dữ trở về phá hoại mùa màng. Họ tìm thấy nhiều dấu chân còn rõ rệt chiếc móng vuốt sắc nhọn trên rẫy ngô; rẫy sắn ngã rạp như vừa trải qua một cơn lũ. Những chiếc chòi bỗng chốc bị bỏ hoang.
 Không ít người trong bản bỏ công sức lần tìm theo những dấu chân để đánh bẫy; nhưng rồi không mấy ai trở về. Họ cứ đi là đi mãi, bỏ lại mẹ, vợ; và những đứa con thơ bập bẹ gọi cha khản giọng theo cơn gió mùa đông; rột roạt trên những vạt cỏ lau xao xác bên mé rừng. A Dúa là một minh chứng rõ ràng. Người trong bản mỗi lần kể về A Dúa là kể về những mất mát; tưởng như vết thương chẳng bao giờ lành. Ngay cả già làng A Mâu còn phải thườn thượt thở dài. Già làng bỗng thấy thương cho một kiếp người; như khóm hoa mẫu đơn đỏ mọc đầy ven lối.
***
Chồng A Dúa nằm trong đội quân trai tráng của bản đi săn thú dữ. Họ trang bị những chiếc bẫy có thả đầy con hươu, con hoẵng thịt béo đẫy đà. Nhưng rồi sau bao đêm dông dài, những con thú được đặt làm mồi vẫn nhởn nhơ sống, nhởn nhơ chạy nhảy còn những thanh niên trong bản thì một đi không trở về.
(Truyện ngắn hay) Rồi cũng trong những lần dật dờ như bóng nắng, bóng cây tìm chồng mà A Dúa thấy A Giàng bị bỏ lại bên vệ đường, trong lùm cỏ ràng ràng dưới chân ngọn đồi ông Tẩu. A Dúa đưa thằng nhỏ về, cũng chẳng biết ai xui ai khiến như một duyên cớ sau những thất thểu tuyệt vọng của đời mình.
Nhớ những ngày đầu thằng nhỏ khóc ngặt vì khát sữa mà A Dúa thấy thương. Cũng may đàn bò, đàn dê tan tác sau những nanh vuốt của loài thú dữ còn dăm ba con có sữa để nuôi con nhỏ. A Giàng nhờ ngậm nguồn sữa hôi mà cứ vậy phổng phao khôn lớn.
***
Mùa đông đi qua, mùa xuân bắt đầu bằng những vạt rừng nở trắng hoa mơ, hoa mận. A Dúa thấy mình già đi mỗi khi ngang qua con suối vục tay xuống dòng nước mát trong, soi gương mặt khắc khổ mà tủi hờn. A Giàng cũng chưa bao giờ nghe già làng tiết lộ về chuyện nó là đứa trẻ mồ côi. Quy định của bản Giốc là vậy. Không ai có quyền được nói bất cứ điều gì nếu không được sự đồng ý. Họ coi già làng như vị chủ đất, thay mặt vị thổ địa mà cai quản tất thảy.
Năm A Giàng 19 tuổi, nó dắt tay một thiếu nữ bản khác về bảo A Dúa cưới vợ. Nhưng điều này không thể được vì A Giàng ngay từ đầu đã không thuộc về nơi đây. Bởi ngay từ những ngày đầu tiên nhặt A Giàng về, A Dúa đã có linh cảm gì đó về đứa trẻ đang ngủ gục trước ngực cô. Thằng nhỏ có mái tóc lóng lánh đen cùng làn da trắng. Đôi mắt nó là sự hòa trộn của trời và đất, xanh lấp lánh và đen tuyền. Chiếc mũi cao cùng đôi má phĩnh tròn khiến A Dúa chợt hình dung về một gương mặt nào đó cô đã từng ám ảnh khi theo mẹ xuống thị trấn bán những món đồ thổ cẩm đủ đầy màu sắc.
Nào ngờ đâu, đó là ánh mắt hằn lên sự lọc lừa phản bội của gã đàn ông đê hèn. Để rồi A Dúa mang trong mình giọt máu của một kẻ bội tình trong vô vọng.
Đứa trẻ sinh ra nhưng A Dúa không được nhìn thấy mặt. Nó đã được đem làm mồi cho thú dữ, hoặc cho một lễ tế nào đó khi vừa lọt lòng mẹ. A Dúa bị khai trừ ra khỏi bản làng kể từ đó và định mệnh đã cho cô gặp già làng A Mâu và A Chiêng để kết nên duyên vợ chồng. Tiếc là hạnh phúc thì như đốm lửa đốt bằng những khúc củi của mùa xuân, thấm đẫm những giọt mưa, khó khăn lắm mới nhóm được lên nhưng lại dễ dàng bị dập tắt.
Ngày A Giàng đưa cô thiếu nữ trẻ về nhà, A Dúa đang ngồi thêu nốt chiếc khăn thổ cẩm. Món quà mà A Dúa sẽ để dành đến khi A Giàng biết được sự thật mà cô giấu kín trong lòng suốt gần 20 năm qua.
A Dúa ngước mắt nhìn lên, bỏ tay khỏi khung thêu rồi cầm lấy tay A Giàng đi về phía mặt trời mọc. Trong khi cô thiếu nữ đi cùng cứ ngồi trân nơi bậc thang trước cửa nhà sàn mà không hiểu chuyện gì.
A Giàng thấy A Dúa dắt tay nó đi phăm phăm ra khỏi nhà thì không ngừng thắc mắc. Trong khi ngoài trời đang lất phất mưa. Già làng A Mâu đang nằm ho khúc khắc trong nhà. Nghe tiếng bước chân ai vừa đặt vào lãnh địa của mình, ông liền tỉnh giấc, dò dẫm tìm chiếc gậy và bước ra.
Như biết được sự việc chẳng thể giấu A Giàng được thêm nữa nên già làng A Mâu và A Dúa quyết định nói hết tất cả. Cũng là để trút bỏ những ưu tư giấu kín trong lòng bấy lâu, để tâm được tịnh dù có phải xuôi tay nhắm mắt.
(Truyện ngắn hay) Tiếc là, giờ đến người thân còn lại duy nhất của A Dúa là A Giàng rồi cũng phải như loài chim rừng đủ lông đủ cánh mà bay đi, tới những mảnh đất mà nó cảm thấy có thể đặt vững đôi chân của mình. Đúng như lời già làng A Mâu đã từng nói khi thấy A Dúa ẵm thằng nhỏ đưa về. “Con định giữ nó đến khi nào?” nhưng A Dúa không kịp suy nghĩ gì ngoài những khát khao về một gia đình nhỏ bé.
A Giàng ngồi nghe câu chuyện của già làng A Mâu và mẹ nó mà khóe mắt rực đỏ.
***
Buổi sáng hôm ấy A Dúa thức dậy thật sớm, nấu vội chút cơm nắm cho A Giàng mang đi đường. Khói lửa mọi ngày thảng thốt theo gió bay lên trời, nhưng hôm nay cứ tù mù vây quanh khiến A Dúa thấy sống mũi cay cay.
A Dúa đánh thức A Giàng dậy. Chuẩn bị tươm tất đồ đạc cho chuyến đi vượt núi băng rừng có phần hơi vất vả. Dù trước đó A Giàng đã không ít lần địu cỏ lau xuống dưới xuôi. Nhưng lần này thì khác bởi đây sẽ là chuyến đi mà chắc phải rất lâu hoặc không bao giờ A Dúa có cơ hội gặp lại đứa con của mình.
– Đồ đạc mẹ đã gói gọn đây rồi. Đói bụng thì bỏ cơm nắm ra ăn. Khát thì tìm dòng nước trong mà uống. Mỏi chân quá thì tìm chòi tìm rẫy mà nghỉ. Nhưng phải cố gắng tìm cho được cha mẹ con. Nếu còn nhớ tới mẹ và người bản Giốc thì thi thoảng biết tìm đường mà về thăm.
 Nói rồi A Dúa đeo tay nải vào cho con rồi vội vàng quay mặt đi, vì sợ A Giàng thấy nước mắt mình đang trệu trạo rơi. Nắng chiều đã buông thõng trên những con dốc quanh co, dòng suối róc rách phơ phất những vạt cỏ lau trắng ngần.
A Giàng đứng trên mỏm đá cao nhất nơi mặt trời chạm những giọt nắng đầu tiên, đưa mắt nhìn ra tứ phía. Phía trước mặt A Giàng là những dãy nhà san sát, nơi có cha mẹ đẻ của nó đang sống ở đó. Và biết đâu cũng mòn mỏi mong ngóng tin tức về đứa con trai của mình.
Còn phía sau lưng là bản Giốc êm đềm với những ngôi nhà sàn cô độc như những phận người cam chịu cả đời bằng ràng buộc hẹn thề. Nơi có già làng và người đàn bà chấp nhận cưu mang nó dù biết trước được sự bạc bẽo của lòng người.
A Giàng đứng đó một lúc mà suy nghĩ rất nhiều. Liệu rằng nó sẽ bước tiếp qua ngọn núi này để đi về phía phố thị san sát kia, hay là sẽ trở về làm tròn bổn phận một người con của bản Giốc, để báo hiếu cho mẹ nó, cho núi rừng?
Thế rồi A Giàng quyết định làm theo sự mách bảo của trái tim. Nó đứng một lúc thật lâu nhìn về phía bên kia của những ngọn núi và quyết định quay về. Dù bên kia ngọn đồi là một cuộc sống mà nó đã từng mong muốn. Ở đâu giờ đây với A Giàng không còn quan trọng nữa. Quan trọng là nó thấy mình được sống trọn vẹn với những gì nó đáng thuộc về.
Con đường về bản Giốc hôm nay khá khác lạ quá chừng. Bởi có tiếng chim líu lo hót mừng một điệu nhạc xuân mới, theo tiếng gió va đập vào vạt cỏ lau, lao xao.
 Song Ninh
Tiếng chuông ngân,
Trong đêm thánh con cúi đầu xin tội,
Lòng ngỡ ngàng bởi ân đức Chúa ban...
Tiếng chuông khuya trong đêm tối ngân vang,
Chúa soi sáng với muôn vàng ân sủng !
NM

 Đường về nhà
Bốp!
Sương nảy đom đóm mắt, ngã chúi xuống đất vì cái tát như trời giáng của bố. Khi ngẩng đầu lên, người Sương run bắn khi bắt gặp ánh mắt vằn đỏ vì giận dữ của ông.
– Cút! Mày cút ra ngay khỏi nhà cho tao! Cái thứ con gái hư hỏng, thế này tao còn mặt mũi nào mà nhìn bà con trong giáo xứ nữa. Chánh trương… mà có đứa con gái chửa hoang! Thà rằng mày đừng bao giờ trở về nữa, tao sẽ nói với mọi người là mày mất tích!
Ông ném cái balô to đầy bụi đường sau chuyến đi dài trở về của đứa con gái dại dột vào người nó, rồi quăng cục tiền 100.000đ và quăng xuống đất, gằn từng tiếng một:
– Mày… còn muốn trở về thì giải quyết cái thai cho tao. Lẽ ra… mày đừng sinh ra thì hơn, mẹ mày vì cố gắng sinh ra mày mà… bây giờ…
Ông chỉ nói được đến đó. Ông mất bình tĩnh vì cơn tức giận, mắt vẫn hằn lên những tia giận dữ. Hai hàm răng nghiến chặt. Vai ông gồng lên, các ngón tay co lại thành hai nắm đấm. Ông đứng như thế khá lâu, và với ánh mắt như thế, ông nhìn đứa con gái có cái bụng lùm lùm hơn 20 tuần đang cúi đầu ngồi bệt dưới đất. Ông đóng sập cửa lại, cài chốt và quay vào nhà.
Sương là đứa con gái đầu lòng của ông. Lúc mẹ cô biết mình có bầu, bà đang xạ trị ung thư. Bà đã lựa chọn ngừng xạ trị để tiếp tục mang thai và sinh nở vì không nỡ từ chối món quà mà Thiên Chúa đã trao ban. Bà sinh con hồng hào bụ bẫm, nhưng chỉ được 2 năm sau thì bà qua đời. Đã 20 năm trôi qua mà ông vẫn ở vậy để nuôi dạy đứa con gái duy nhất, bởi ông vẫn không nguôi thương nhớ người vợ hiền quá cố. Ông đã nghiêm khắc với nó lắm, đã gắng sức dạy nó đủ điều hay lẽ phải. Vậy mà giờ đây nó lại vác cái bụng đó về.
Bị đuổi ra khỏi nhà ngay khi vừa về đến cửa, Sương thấy quanh mình trời đất tối sầm dù đang giữa trưa hè, trời đang nắng chang chang. Cô nhặt cục tiền, ném trở lại vào sân rồi lếch thếch bước đi. Miệng đắng ngắt. Một bên má vẫn còn rát bỏng vì cái tát của bố. Cô tiến ra đường lớn, chờ bắt xe. Cô muốn đi đến một nơi thật xa. Càng xa càng tốt.
Boongggg… Boo…oong… Boo… ong…
Tiếng chuông nhà thờ từ xa đang ngân lên từng hồi. Cô ngoái đầu lại và ngước lên tháp chuông cao vút, nhô lên sau những rặng cây.
– Lạy Chúa, con phải làm gì bây giờ? Con phải làm gì để bảo vệ đứa con bé bỏng của con? Xin thương giúp con.
Điện thoại báo có tin nhắn, Cô mở ra đọc. Là bố đứa bé.
“Anh nhắc lại lần nữa, đứa bé đó là oan nghiệt, nó sẽ làm anh tán gia bại sản. Em phá thai, anh sẽ đền bù. Không sinh đứa này thì sinh đứa khác. Nếu cô nhất quyết giữ nó thì giờ tự lo nhé, đường ai nấy đi. Cô biết đấy, tôi thiếu gì gái theo!”
Đọc tin nhắn cô sững sờ đến mức buông rơi chiếc điện thoại xuống nền đường xi măng khô khốc.
Anh học cùng trường với cô và trước cô một khoá. Cô và anh quen nhau trong thư viện trường, rồi kết bạn và tình yêu nảy nở. Lúc đầu cô còn e ngại vì anh không cùng tôn giáo, nhưng vì bị anh cuốn hút, cô đã gật đầu nhận lời yêu anh, và chấp nhận cùng anh đi quá giới hạn vào cái đêm sau buổi tiệc mừng cô được mặc áo cử nhân.
Cô mím môi, nhặt điện thoại lên. Nuốt nước mắt ngược trở lại vào trong và tự nhủ “Không, mình không thể khóc.”
Vậy mà nước mắt cứ rơi chan hòa. Cô lau nước mắt, và tiến ra đường, vẫy xe. Trong túi cô vẫn còn vài đồng tiền ít ỏi, đủ tiền đi xe và sống qua vài ngày. Cô cầu nguyện… mình sẽ bắt chuyến xe khách thứ 3 đi ngang qua, và đi tới bến cuối. Dù có là tuyến xe nào đi nữa. Số 3, chỉ đơn giản vì đó là con số yêu thích của cô.
Xe tới. Cô lên xe và ngủ thiếp đi vì quá mệt.
– Dậy đi, bến cuối rồi. Anh phụ xe đánh thức cô dậy.
– Đây là đâu anh?
– Trời, bến xe Mỹ Đình chứ đâu nữa. Chưa tỉnh ngủ hả em?
Hà Nội! Chúa ơi, sao lại là Hà Nội? Cô đã muốn chạy trốn khỏi nơi này… Vậy mà…
Trời đã xế chiều, mặt trời bắt đầu lặn. Sương xuống xe, tìm một quán trà đá để ngồi nghỉ và suy nghĩ giờ chẳng biết đi đâu về đâu. Phòng trọ thì vừa trả. Còn ít đồ gửi nhà bạn. Cô tháo chuỗi Mân Côi đeo tay ra lần hạt, vừa hết 50 kinh thì nghe thấy đoạn nhạc mà mình yêu thích ngay sát bên tai…
“Ngợi ca lòng thương xót Chúa đã ban tặng con
Hỡi trái tim từ nhân, con tín thác nơi Ngài.
Chiều đồi núi Can-vê năm nào Ngài chết treo thân…”
Sương quay về phía phát ra tiếng nhạc thì thấy một cô gái ngồi cô đang móc điện thoại trong túi xách ra nghe:
– A lô… Dạ, con chào cha. Vâng, con vừa từ quê lên ạ… Ca đó con thuyết phục được rồi ạ, lúc đầu nghe con tiếp cận nghe thấy cái tên “Bảo Vệ Sự Sống” thì họ phản ứng dữ dội lắm, nhất quyết đuổi về và bảo nhưng giờ thì họ lại đồng ý cho em ấy vào Nhà Mở rồi ạ. Chiều mai hai mẹ con họ sẽ lên Hà Nội và tới gặp cha ạ. Quê con giờ phá thai nhiều lắm, lúc nào cha cho nhóm về truyền thông nhé, con có nói với cha xứ chỗ con rồi ạ, ngài đồng ý ngay. \
Còn một ca nữa con đang thuyết phục ạ… Dạ, mai con sẽ đi lấy đồ sơ sinh và đồ bầu rồi mang qua Nhà Mở, luôn… Dạ vâng… Con nhớ rồi ạ. Con chào cha.
Cô gái nói chuyện điện thoại xong, có lẽ muốn ngồi nghỉ một chút sau chuyến đi dài nên ngồi nán lại nhìn những chiếc xe ra vào bến. Thấy chuỗi Mân Côi trên tay Sương, cô gái quay sang bắt chuyện:
– Em là người Công giáo à?
– Vâng. Sao chị biết ạ?
– Chị cũng Công giáo này. Thấy em đang cầm chuỗi Mân Côi trên tay là biết liền. Chắc em mới ở quê lên à?
– Vâng.
Cứ thế họ bắt đầu mấy câu thăm hỏi thông thường giữa những người Công Giáo khi tình cờ gặp nhau. Hai cô gái đã biết những thông tin cơ bản về người đối diện.
– Chị Yến này… – Sương ngập ngừng – Em xin phép hỏi chị trước được không? Lúc nãy em nghe chị nói chuyện điện thoại, phá thai với Bảo Vệ Sự Sống gì đó… Nếu có thể, xin chị nói cho em biết rõ hơn…
– Em chưa nghe về Bảo Vệ Sự Sống bao giờ sao?
– Dạ chưa.
– Thế này nhé. Bảo Vệ Sự Sống là một nhóm bác ái xã hội, với sứ mệnh là đấu tranh cho quyền sống của các thai nhi, gọi một cách nôm na là chống phá thai. Các hoạt động chính là cầu nguyện cho sự sống, truyền thông nâng cao ý thức cộng đồng, an táng các hài nhi xấu số, thuyết phục giữ lại thai nhi, và cưu mang các chị em bầu đơn thân. Chị ở nhóm Bảo Vệ Sự Sống Thái Hà. Em học ở Hà Nội, chắc biết nhà thờ DCCT Thái Hà mà không biết tới Bảo Vệ Sự Sống thì lạ thật.
– Dạ em chưa đi lễ Thái Hà. Em học Học Viện Tài Chính nên toàn đi lễ Cổ Nhuế thôi chị.
– 8h sáng thứ 7 hàng tuần có thánh lễ an táng các thai nhi đấy. Em có rảnh thì…
– Chị!- Sương ngắt lời Yến, mếu máo.
– Ủa, sao vậy em?- Yến tròn mắt ngạc nhiên.
– Chị giúp em với…
Sương nghẹn ngào trong tiếng nấc
Thoáng bối rối, nhưng khi nhìn xuống bụng Sương, Yến đoán được phần nào câu chuyện. Cô siết chặt tay Sương để biểu lộ sự cảm thông. Bao cảm xúc mà Sương kìm kén bấy lâu, giờ cô để mặc cho chúng trào tuôn và trôi đi theo dòng nước mắt. Yến vẫn ngồi cạnh, dịu dàng nắm chặt tay Sương như người chị an ủi đứa em gái bé bỏng. Chờ cho Sương khóc xong, Yến hỏi han ngọn ngành câu chuyện rồi đưa Sương về nhà thờ Thái Hà gặp cha đặc trách, ngài sẽ giúp đỡ, cho cô vào Nhà Mở, nơi cưu mang những cô gái lầm lỡ như cô.
Một tuần sau, mọi sự được thu xếp ổn thoả để Sương vào Nhà Mở. Một nơi khiêm tốn giản dị nhưng ấm áp trong một xứ đạo yên bình xa trung tâm thành phố. Những ngày đầu, cũng như nhiều cô gái khác, Sương khóc rất nhiều. Cô khóc vì giận bố đứa bé, vì tủi thân khi gia đình hắt hủi, vì sợ hãi khi nghĩ đến tương lai. Nhưng khi trò chuyện cùng các chị em cùng hoàn cảnh, Sương dần dần thấy nguôi ngoai và bình tâm, yêu đời trở lại. Cô thấy mình phải mạnh mẽ để làm chỗ dựa cho đứa con mà mình đang cưu mang. Ở trong Nhà Mở, Sương càng siêng năng lần chuỗi hơn. Cô cầu nguyện cho bố mình và cũng hiệp thông với những tâm tình cầu nguyện của Bảo Vệ Sự Sống.
Đủ tháng đủ ngày, Sương sinh hạ một bé gái 3,2kg kháu khỉnh đáng yêu. Yến nhận lời Sương làm mẹ đỡ đầu cho bé.
Khi bé được 2 tháng, Sương rời Nhà Mở, và kiếm được công việc nhẹ nhàng là đan móc đồ bằng len để sống qua ngày. Cô vốn khéo tay và nhanh nhẹn nên cũng tạm đủ sống. Cô cũng đổi số điện thoại, xóa Facebook cũ, chỉ giữ lại một số liên lạc cần thiết.
Hai năm trôi qua.
Hôm đó, Sương đưa bé lên qua dòng Mến Thánh Giá để cầu nguyện với thánh Antôn. Bước vào sân, để cho con mình lẫm chẫm chạy vào trước, cô đứng nhìn con và mỉm cười rồi bước vào sau. Bé gái chạy tới cửa nhà sách thì đồng thời một người đàn ông mặc áo cổ cồn xách một nilon đầy sách bước ra. Cô bé nhìn ông và bật cười khanh khách. Ông mỉm cười, cúi xuống đặt tay làm động tác chúc lành cho bé.
Đoán chắc là một vị linh mục, Sương bước lại gần để chào hỏi và cảm ơn. Khi người đó ngẩng lên, cô sững sờ.
Và người đó cũng kinh ngạc khi nhìn thấy cô.
– Ơ… Cha!
– Sương! Sao con ở đây?
– Cha ơi… Con…
– Con đây rồi, tạ ơn Chúa.- Vị linh mục nghẹn ngào, mắt rưng rưng.
Sương cúi đầu. Yên lặng.
– Cha hiểu cả mà, con không phải giải thích gì cả
Gặp lại con ở đây, cha phải tạ ơn Chúa. Sao con cắt đứt liên lạc với gia đình và bạn bè bấy lâu nay?
– Cha… Bố con đuổi con đi mà! Con phạm tội tày trời thế này, làm sao có thể được tha thứ. – Từ hai khóe mắt của Sương, đôi dòng lệ trào ra.
– Sương à, bố con đi tìm con suốt 2 năm nay. Ông ấy nói với cha rằng chính ông mới cần đứa con gái của mình tha thứ, vì con đã trở về nhưng ông đã không mở rộng vòng tay.
– Thật sao cha?
– Lạy Chúa tôi, con không tin cha sao? Sương à, về nhà đi con.
Sương òa khóc, nức nở. Nhưng là những giọt nước mắt hạnh phúc. Vậy là cô đã có thể trở về nhà, điều mà cô mong ước bấy lâu nay. Cô ngửa mặt lên trời, mắt đẫm lệ, cô mỉm cười, làm dấu và khẽ thì thầm:
– Tạ ơn Chúa! 
Hà An