Khói lam chiều....
Thương khói lam chiều, thương
khói quê,
Khói theo quấn quýt nẻo đường đê.......
Khói loang ôm ấp đồng khô hạn,
Khói loang ôm ấp đồng khô hạn,
Bãng lãng chiều quê ngập lối
về !
Làn khói lam chiều dường dáng mẹ ?!
Dịu dàng lưu luyến luỹ tre xanh,
Dịu dàng lưu luyến luỹ tre xanh,
Vương vấn bờ ao, hàng dậu nhỏ.....
Ru bóng hoàng hôn giấc mộng
lành !!
NM
NM
Thương khói lam chiều
Suốt một tuổi thơ ruộng đồng tôi luôn thích hương vị khói đốt đồng, tôi như đứa trẻ nghiện khói, tôi thả hồn mình cho khói phủ tràn ngập tâm hồn, khói che phủ cay xè đến tận tâm can những sợi khói nhỏ ấp iu những buồn vui. Cứ sau vụ gặt, cánh đồng lúa vàng hôm nào trước ngõ nhà chỉ còn trơ gốc rạ. Nắng vài hôm, đám gốc rạ ấy khô lại, chúng tôi bứt rạ dồn thành từng đống nhỏ rồi đốt. Lửa rơm cháy phần phật, gặp gió phất lên cao một màu vàng rực.
Và
khói, khói như mây nhỏ tỏa ra từng đụn nồng nàn mùi bùn đất phù sa, mùi
phân chuồng, sương mai, và mùi nắng gió những ngày vắng mưa. Quanh đống
gốc rạ cháy bỏng ấy, chúng tôi nhảy múa và ca hát những lời hát ngu ngơ
đến khản cổ, mồ hồi, mồ kê ra đầm đìa áo quần. Khói hắt lên mặt, lên
mắt mũi cay xót một niềm thích thú kỳ lạ. Để cho đám cháy tỏa nhiều
khói, cả bọn tỏa ra đi tìm những đám lúa lép, đổ dồn quanh đám lửa. Lúa
lép gặp lửa già, nổ lép bép, tỏa một thứ khói un hương thơm mùi cơm cháy
nấu bằng trả đất. Đốt rơm ngày lên đồng là một trò chơi thú vị nhất của
tuổi thơ nghèo khó.
Chúng
tôi gần như tự do giữa một cánh đồng mênh mông, chỉ có trời xanh cao
vời vợi, chỉ có nắng mênh mang và gió thổi lồng lộng đến tận chân trời
xa hút. Nếu bắt được cá hay lượm được trứng vịt đẻ sót trên ruộng, thì
lấy lúa non đắp quanh rồi nướng vùi trong đám lửa đang cháy rần rật. Cá
và trứng chín, đập bỏ phần bùn đã thành đất nung, bẻ chia nhau miệng đứa
nào cũng đầy tro than đen nhẻm. Có nhớp nháp thì còn đó con sông quê
bốn mùa nước xanh trong mát rượi. Chỉ cần nhảy ùm xuống bơi vài chục sải
tay là người sạch sẽ
Không
gì đẹp bằng những buổi chiều mùa hè khi mặt trời chưa tắt, bóng khói
lam chiều, tỏa ra từ những mái bếp tranh nghèo. Giữa bầu không gian tịch
mịch, khói bếp như là hình ảnh sinh động, sự sống duy nhất làm cho tạo
vật mờ ảo hơn. Ngọn khói mỏng có lúc leo lét như một ánh lửa nhỏ, bò dọc
theo lưng mái tranh đẫm sương chiều, rồi gặp gió bung ra bãng lãng
thành một vùng lớn lam nhẹ lơ lửng trên trời cao.
Ký
ức tuổi thơ tôi khó có thể quên hình ảnh đẹp như một bức họa ấy. Từ con
đường nhỏ rợp bóng tre xanh, phóng tầm mắt về tận cuối làng chỉ thấy
độc một màu khói lam chiều bãng lãng trên những mái tranh. Màu khói
thiết tha nhung nhớ đến thắt lòng. Ký ức ngủ yên bỗng như con chim trời
trỗi dậy giang đôi cánh rộng đập thảnh thốt vào giữa vùng nhớ ngày xưa.
Nhớ gì như nhớ làng quê: cánh đồng, con đường nhỏ và một bầu trời quang
đãng. Ở đó, trong bóng khói lam chiều tà có mẹ, qua tháng năm hao gầy
vẫn bên trời một vóc hạc xương mai.
Bóng
mẹ nhạt nhòa trong ngọn khói lam chiều khiến lòng xót xa. Như thể bóng
khói lam dịu buồn trong ký ức là hình ảnh mẹ trong một hiện thân của cõi
vô thường. Sự tương cận của hình ảnh khói lam chiều và dáng mẹ, chợt
cận nhân tình và bao trùm lên quê hương. Sợi khói nhỏ nhoi mà huyền hoặc
ấy đã chuyển tải trọn vẹn một thông điệp sầu nặng của tâm hồn: dẫu đã
từ giã tuổi thơ ruộng đồng, nhưng chưa một ngày tôi xa những sợi khói
lam chiều, xa cõi ngày xưa với biết bao thương nhớ. Và quê nhà xa lắc
bất chợt trở về mỏng manh một sợi khói nhỏ vướng vào mắt cay xè.
Lâm Ngọc Tường Nguyên
Nhớ thương mùi khói quê xưa
Ngày lễ, theo lời rủ rê của bạn
bè, anh khoác ba lô, trong đó có vài bộ quần áo mang theo để mặc trong
mấy ngày nghỉ. Tất nhiên không thể thiếu chiếc ví đựng một ít tiền và
giấy tờ tùy thân. Anh lên đường với niềm háo hức khôn tả.
Địa
điểm mà anh và mấy người bạn tới là bản Lác và bản Com Pọong thuộc
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Đây là địa điểm du lịch nổi tiếng mà anh
mới chỉ biết qua sách vở, đặc biệt là hồi học phổ thông, câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” của người thi sĩ xứ Đoài bám vào tâm trí anh, trở thành một hình ảnh đầy thơ mộng khiến anh háo hức chờ dịp để tới.
Anh cũng như ba người bạn kia, đều cảm thấ hức khi người xe ôm vừa chở tới bản. Cả bốn người không ai bảo ai, vội vàng mang đồ lên nhà sàn theo hình thức homestay, rồi chạy đi thăm quan khắp bản. Mùa này đang là thời điểm các du khách, cả ta lẫn Tây kéo về tham quan nên bản tương đối nhộn nhịp. Dù thế, vẫn yên tĩnh và thoải mái gấp nhiều lần cuộc sống ở thành phố.
Anh cũng như ba người bạn kia, đều cảm thấ hức khi người xe ôm vừa chở tới bản. Cả bốn người không ai bảo ai, vội vàng mang đồ lên nhà sàn theo hình thức homestay, rồi chạy đi thăm quan khắp bản. Mùa này đang là thời điểm các du khách, cả ta lẫn Tây kéo về tham quan nên bản tương đối nhộn nhịp. Dù thế, vẫn yên tĩnh và thoải mái gấp nhiều lần cuộc sống ở thành phố.
Anh
và ba người bạn đi dạo quanh bản một lúc thì về nhà chủ tắm rửa chuẩn
bị ăn cơm. Vừa lúc cái bụng sôi réo ầm ĩ, cũng là lúc mâm được dọn ra.
Nhìn mâm cơm với đĩa thịt gà, đĩa măng vàng ươm, bát canh chua thơm
lừng, nồi cơm gạo nương trắng ngần… toàn những thức ăn được lấy trong
vườn hay trong rừng, bụng anh cồn cào, thúc giục. Anh cầm đũa rồi mê mải
ăn. Đang ăn ngon lành như vậy, chợt một người bạn buột miệng: “Lâu rồi
mới được ăn một bữa cơm có mùi khói, ngon đến như vậy!”. Miếng cơm trong
miệng anh trở nên nhạt thếch. Anh ngồi ngẩn giữa mâm cơm đầy thức ăn.
Đúng là lâu rồi anh mới được ăn một bữa cơm “ám” mùi khói. Ở thành phố,
không bằng điện thì bằng gas, những bữa cơm được nấu ra chín tới, bắt
mắt lại nhanh chóng
Thực
sự sau câu nói của người bạn, anh thấy lòng quắt quay. Chẳng phải anh
đang phiền lòng vì những bữa cơm thành phố, mà chính câu nói của người
bạn, đã đưa anh về với miền quê nghèo, nơi anh đã sống những ngày tuổi
nhỏ. Ở đó, có những bữa cơm “ám khói” đầy ấm cúng. Rất tự nhiên, anh cứ
ăn rồi lớn, không biết rằng, sau này nó lại trở thành một vệt nhớ dai
dẳng đến như vậy. Anh nhớ hồi mình còn bé, thường được giao nhiệm vụ
“cấp dưỡng” cho cha mẹ và anh chị ra đồng. Ở nhà, cứ đến giờ nấu cơm,
anh đều tự giác lấy gạo vo qua một lượt rồi đổ nước bắc lên bếp. Xong
nồi cơm thì đến nồi canh, nồi cá… Cho đến khi cha mẹ và anh chị đi làm
đồng về, cả nhà cùng quây quần bên mâm cơm đạm bạc, ăn một cách ngon
lành, vui vẻ. Ngày đó, nhà anh cũng như bao nhà khác ở quê, trong nhà
bếp luôn luôn được chất đầy củi, khi thì rơm rạ, vỏ trấu; lúc thì cành
củi và lá khô trong vườn… Ở quê không bao giờ thiếu chất đốt. Những bữa
cơm đều được tạo nên từ những thứ củi ấy. Hay anh nhớ những hôm trời mưa
tầm tã, trong bếp đã cạn sạch chất đốt, mẹ anh đội mưa ra rút rơm ngoài
vườn, rồi cặm cụi thổi lửa. Rơm ngấm mưa, ướt nhoèn nhoẹt. Hôm đó, mẹ
anh rất vất vả để cha con anh có bữa cơm như thường lệ mặc cho khói bếp
làm nước mắt nước mũi theo nhau chảy tràn trên má mẹ. Anh cũng lại nhớ
những buổi sáng mùa đông, mỗi sáng sớm thức dậy, mẹ đều đưa cho một củ
khoai nướng được gói ghém cận thận trong một tờ báo. Trên đường đến
trường, anh vừa đi vừa dở tờ báo ra, chậm rãi gỡ từng miếng khoai nướng
cho vào miệng. Khoai nướng vừa ngọt vừa bùi, có lẽ hồi đó với anh, đó là
món ăn ngon không gì sánh được. Những củ khoai nướng ngọt bùi, thêm vị
nồng nồng, khen khét của khói đã đi cùng anh suốt những mùa đông tuổi
nhỏ, cho anh ấm bụng hơn trong hành trình tìm kiếm tri thức.
Bữa
cơm đang diễn ra hết sức vui vẻ nhưng anh liền buông đũa. Anh không
tiếc số tiền đã bỏ ra để có bữa cơm ấy, chỉ trách mình sao không về quê.
Biền biệt cả năm trời, giờ có được mấy ngày nghỉ, cũng vui bạn vui bè
mà quên đi rằng, nơi miền quê nghèo ấy, người mẹ hiền tần tảo vẫn mong
ngóng anh từng ngày. Nhưng qua bữa cơm ngày hôm ấy, anh hiểu rằng, mình
vẫn còn đó một nơi chốn để đi về, vẫn còn đó những kỷ niệm thân thương –
là những bữa cơm “ám khói” để thương để nhớ trong anh. Anh gọi đó là
hạnh phúc!
Khói đồng...
Khói đồng bay trong những ngày tháng Tám, khi những chim ngói tìm đi
trên những đám mây trời. Quanh đấy, những cánh đồng đã qua vụ gặt, những
mô rạ nằm khô chờ quang chờ gánh. Những luống cày lật sấp, khô trắng
trong heo may…
Những ngói nâu, những nhà cửa nâu nâu, những cành cây nâu nâu vẫn nhìn
ra mặt phố. Bàng có những buổi chiều tự đỏ. Con đường tự bụi. Nắng tự
nhạt. Và người ta bỗng tự nhiên ngồi đó, trong những ngọn gió mơ hồ thổi
qua…
Phi lao đu đưa đầu phố huyện. Trên lối đi dẫn ra cánh đồng những chớm
cỏ bắt đầu úa vàng. Phía sông xa, những bờ đê tre ngà sẫm lại. Cỏ may
xiên lên trời từ mặt đất. Những cỏ may nghiêng theo heo may.
Gió heo may có tìm về phố, rồi cũng lại thổi ra đồng. Thị trấn có mười
con đường tạo thành hình xương cá. Đường nào cũng đầy cây xanh, những
cây non chen những cây già. Đường nào cũng tìm ra cánh đồng cả… Cỏ cũng
từ đồng xanh tìm về, mọc lan trên những bức tường công cộng, những
khoảnh đất bỏ hoang, những sân kho, nhà ủy ban, bờ ao cá hợp tác…
Thế nên trong những chiều chớm nắng của thu mờ, khi ngồi trên những
tĩnh lặng, sẽ thấy khói bay về từ đồng đất quen thuộc. Những đám khói
chiều từ những vạt đồng xa, hăng hăng mùi đất khô nẻ, thơm thơm mùi rơm
rạ cháy. Bởi ngoài ruộng, nhà ai đó vừa đốt đống giấm chờ vụ đông xuân,
cỏ khô thơm khen khét…
Xưa ấy, lúc nhà cửa chưa nhiều, ngồi trên gác thượng, chỗ cái cần
ăn-ten tivi bây giờ, có thể nhìn thấy trên cánh đồng nhiều đám khói quẩn
lên như thế. Những đám khói bay lên bảng lảng chờn vờn trong những
chiều hôm. Thỉnh thoảng, có cơn gió làm bùng lên những ngọn lửa, và
những đám tro xoáy xoáy bay lên tung tóe đầy trời… Những đám lửa khói
trên đồng sẽ như có chút gì đó hoang liêu, thần bí và ám ảnh, nhất là
trước những buổi chiều muộn… Đôi khi, có cả những đám khói bay về từ
nghĩa địa, sau khi ai đó vừa đi ấp mộ, trên ngôi mộ mới của một người
già trong thị trấn mới được đưa ra đồng. Trong khói ấy lại dường như có
đôi điệu buồn ảm âm u của những chân trời khác…
Thị trấn khi ấy không có khói bụi của xe cộ giờ cao điểm, hay những
khói xám mịt mù của những công xưởng, nhà máy đang giờ vào ca. Tất cả
chỉ là khói đồng, khói của những chiều tuổi thơ đầu trần chân đất, khói
của những chiều thu đất cày khô ải, của những luống cày hanh nẻ, trắng
trong gió heo may. Nhìn qua khói, có thể thấy trong nắng chiều chênh
chếch những bóng trâu bò về chầm chậm từ chân đê. Lối ra bến đò có những
bóng người đạp xe về vội, những chiếc nón lá bay lật phật trong gió.
Và khi màu khói ngoài đồng đã bắt đầu sẫm lại, tan vào bóng tối, lại
thấy những màu khói khác bay lên khi những nhà nhà trong phố ngoài làng
bắt đầu nhóm bếp. Lửa cháy bập bùng mỗi căn bếp nhỏ. Đèn điện ấm ấm chen
lẫn những đèn dầu tù mù. Khói ấm chen mùi thơm ngon xào nấu sẽ tỏa lên
muôn chiều. Đứng bên bờ sông, nhìn về xóm phố nhỏ sẽ thấy những ụn khói
lam chiều bay lên từ những rặng cây. Thấy dáng bà còng lưng ôm những ôm
rơm vào bếp. Thấy mẹ lụi cụi làm bếp quanh những đống củi chặt xếp đầy.
Mùi dầu hỏa, mùi mùn cưa bay lên cùng khói, ám ảnh như những mùi kỷ
niệm…
Sau mùa khói, sau những những ngày người ta hối hả trên mặt ruộng,
khoảng tháng sau, sẽ thấy xanh lên những ruộng màu, những luống hành,
luống tỏi, những ruộng ngô khoai. Hàng trăm thứ rau màu của vụ đông xuân
sẽ trải ra mênh mang tầm mắt. Mười con đường của phố, rau quả xanh của
mùa sẽ theo những xe thồ, xe ba gác, theo quanh gánh người quê tìm đi…
Ấy thế rồi cũng gần 20 năm…
Những lối mùa chim ngói bay đi, đã bao năm rồi không gặp lại. Chẳng thể kiếm đâu ra một vùng trời khói bay mênh mang như thế…
Chim ngói dĩ nhiên là của riêng những mùa khói bay…
KI-EN
Bỗng nhiên nhớ khói, nhớ cái mùi cay xè nơi sống
mũi làm cho nước mắt nước mũi chảy tèm lem. Đó là nỗi nhớ dáng hình còm
cõi, tấm lưng còng của ngoại khi ngoại dậy sớm bắc ấm nước và đun mớ
củi khô, dùng ống thổi lửa thổi từng làn hơi yếu vào bếp. Nhiều sáng
sớm, khi đang ngủ say bất chợt nghe tiếng ngoại gọi: “Cu ơi, dậy đi
học”. Thỉnh thoảng, tôi lại kỳ kèo với ngoại, bảo cho con “nướng” thêm
miếng nữa. Mùi khói bếp của ngoại quyện vào ký ức. Có lúc ngoại đùa
“tóc ngoại bạc vì khói”, tôi đã tin và rồi đến lúc cũng ngộ ra rằng:
những nhọc nhằn mưu sinh cho con cháu đã làm tóc ngoại đổi màu.
Tôi từng tự hào về màu tóc của ngoại trong những đoạn văn tả
bà rằng: “tóc bà tôi như tóc một bà tiên, trắng như cước…”. Đoạn văn tả
bà ngoại thời cấp I, tôi nhớ mãi đến bây giờ.
Những ngày này, quê tôi đang vào mùa thu hoạch. Những đám
ruộng lúa vàng ươm sau mùa gặt chỉ còn lại những đống rơm thật lớn.
Người dân quê có khi gánh rơm về chất thành cây để đến tháng trời mưa
dầm thì cho trâu bò ăn, còn không thì đốt rơm để tạo chất mùn cho đất.
Kinh nghiệm người nông dân, đốt đồng cũng là cách dưỡng đất cho mùa
sau…
Mùi khói quê nhà còn là mùi sau khi đốt những ụ lúa lép để lấy tro. Tro ấy được dùng để bón lúc trỉa đậu phộng. Mẹ tôi bảo có tro tẩm nước tiểu thì đậu sẽ sai quả hơn, không cần phải bón phân hóa học… Mùi khói từ những ụ tro lúa lép ấy còn vương trên cả áo quần. Trời chiều lành lạnh, ngồi bên đống lửa un từ lúa lép thì ấm hết chỗ chê. Mùi khói quê nhà có lẽ đã góp một chút gì đó nuôi nấng tuổi thơ tôi và những đứa trẻ quê nghèo lớn lên
Nguyễn Diễm My
Khói bếp quê nhà
Đôi
khi tôi nghĩ, những ai đã từng lớn lên trong khói bếp quê nhà mới đúng
là một người Việt Nam hạnh phúc. Mình xa xưa già cỗi quá chăng, nhưng
biết làm sao đây khi màu khói bay bên vách bếp ấm lửa hồng là hình ảnh
đẹp nhất, sống động nhất của thời thơ ấu. Bàng bạc trong khung cảnh êm ả
của làng quê, khói bếp bay lên như điểm xuyết vào bức tranh thanh bình
hiền hậu.
Dù
cho khi lớn lên những đứa con có phiêu bạt phương nào thì những món ăn
thân thiết và khẩu vị quen thuốc của bếp lửa gia đình từ nhỏ sẽ mãi
không bao giờ thay đổi. Đi đâu,
đến đâu, ăn những món cao sang quyền quý nào thì khi trở lại quê nhà
được thưởng thức lại hương vị cũ luôn thấy rằng đó mới chính là những gì
mình mong đợi
Mỗi
lần về quê, tôi lại mang tâm trạng của một đứa bé hồn nhiên, rũ bỏ hết
những phiền tóai lo toan của cuộc sống thị thành thường nhật. Thật may
mắn biết bao khi có một chốn để tìm về, để nhớ rằng mình có một cội
nguồn và đó mới chính là nơi mình thật lòng gắn bó. Trong tâm trạng của
trẻ thơ tôi cũng đã được người nhà nấu cho những món ăn thân quen cũ.
Nói theo kiểu thời thượng thì là “hàng hiệu, hàng độc” không đụng với
ai. Từ những con ốc bươu vớt dưới mương vườn nhà ướp muối tiêu nướng
chấm nước mắm sả ớt đến món cháo hến nấu với nước cốt dừa đậm đà béo
ngậy. Từ món gà xào lá cách thơm tho đến món bánh xèo vàng ươm giòn tan
ăn kèm với lá cách, lá xòai non và cả lá điều.
Bên
chiếc bếp ấm áp, những cái bánh xèo giòn rụm ra đời, trở mình trong bàn
tay mềm dẻo của người đổ bánh. Mùi mỡ thơm, tiếng bột đổ vào chảo với
tiếng “xèo” vui tai. Rồi từng cọng giá trắng, từng nhúm củ sắn xắt sợi
được thêm vào bên màu đỏ hồng của tôm, màu mỡ màng của thịt, màu vàng
của bánh. Bao nhiêu hình ảnh của ký ức bỗng chợt đến như một khúc phim
quay chậm. Những kỷ niệm ấu thơ ấm áp hiện về, thương yêu tràn ngập và
nước mắt rưng rưng.
Bánh
xèo quê nhà – có nơi nào ngon hơn nữa? Mộc mạc, bình dị mà đậm đà, ngon
miệng đứa nhà quê. Để rồi khi giã biệt lại thấy lòng đa mang thương
nhớ, bước chân lang thang nào cho hạnh phúc lang thang?
Không khói hoàng hôn…
Chốn quê. Mùi đất sét suốt ngày ngai ngái. Mùi khét nắng da trâu hoang hoải. Mùi cỏ tranh ngoài bãi thơm nồng. Chiều lên, thơm nức khói đốt đồng mùa gặt. Ấy là mùi quê, quyện vào cả cuộc đời những ai lớn lên từ gốc rơm gốc rạ.
Chốn quê. Nhà tranh vàng ruộm. Bãi mía
nương dâu xanh ngút ngàn. Áo mẹ đẫm mồ hôi ngả màu lam lũ. Màu khói lam
chiều bàng bạc như sương… Lại là khói. Màu của quê ta đó! Khói lam
chiều, một thứ sợi mỏng manh tơ vương mà ám ảnh, trói buộc cả đời ta.
Ôi, sao mà dễ thương lạ lùng:
"Chiều chiều từ mái rạ vàng
Xanh rờn ngọn khói nhẹ nhàng bay lên
Chăn trâu ngoài bãi, bé nhìn
Biết là bếp lửa bà nhen chiều chiều…"
(Khói chiều, thơ Hoàng Tá).
Xanh rờn ngọn khói nhẹ nhàng bay lên
Chăn trâu ngoài bãi, bé nhìn
Biết là bếp lửa bà nhen chiều chiều…"
(Khói chiều, thơ Hoàng Tá).
Ðó không chỉ là thi ảnh của nhân gian mà đã thành cả một miền nhớ
day dứt tâm can. Trong sợi khói ấy có dáng của bà lụi cụi bên chái bếp
sau hè chuẩn bị nồi bánh đêm Xuân. Trong sợi khói ấy có bữa cơm tối đạm
bạc của mẹ với dĩa rau luộc, một chén nước cá kho. Trong sợi khói ấy có
bóng cha quẩy đôi quang gánh chứa đầy cốm Tết. Trong sợi khói ấy có thời
con gái của chị chín vàng cùng màu hoa cải ven sông. Và trong sợi khói
đang bay lên ấy có giọt nước mắt đã chảy xuống. Khóc vì cay xè đôi mắt
hay khóc vì nhớ bóng quê nhà, nhớ tiếng chim tu hú "kêu chi hoài trên
những cánh đồng xa"…
Có xa xôi đâu một quãng đường về quê. Vậy mà tuổi thơ ta với khói lam
chiều như đã trôi tuột về phía xa xăm để bây giờ ngồi đây mường tượng
rồi nhung nhớ. Ngày trước, cứ mỗi lần về nhà, chạy ngang những cánh đồng
sau mùa gặt, ta dừng xe lại để ngửi cho tận hết cái mùi khói quê để bù
đắp lại những tháng ngày thiếu vắng. Rồi cố nán lại để nhìn thấy những
sợi khói mỏng manh năm nào bay lên trong nắng chiều cuối ngày bảng lảng,
mênh mông.
Xa quê. Một buổi chiều hoàng hôn giữa chốn lao xao thị thành, cửa nhà
nghìn nghịt, bất giác thèm được nhìn thấy một sợi khói bếp bay lên. Làn
khói bếp trong mơ, mới ngày nào còn chung sống với tuổi thơ ta đây thôi
mà nay chỉ còn trong tâm tưởng. Rồi ước phải chi có ai đó nơi quê nhà
gói giùm ta vài sợi khói lam chiều, gửi cho ta cất giữ để mang theo bên
mình trong suốt cuộc mưu sinh, để thấy luôn thật gần với chốn quê.
Lòng vẫn tưởng trong ngày ta trở lại
Dưới hiên xưa mẹ ngồi đợi ta về
Ðám mây cũ sau nhà bay lặng lẽ
Dưới hiên xưa mẹ ngồi đợi ta về
Ðám mây cũ sau nhà bay lặng lẽ
Cụm khói chiều quanh quẩn dưới trời quê (*)
Chốn quê, dẫu không có khói hoàng hôn mà vẫn nhớ!
Minh Nga