(Kính nhớ về ba và mẹ trong Ngày của Cha)
Tiếng chuông xưa
Tiếng chuông xưa
Chuông xưa không thanh thoát,
Âm ba lại trầm buồn...
Nhưng ngân dài nhắc nhở,
Một thời thương nhớ thương !!
Tiếng chuông khuya
Ba tôi bệnh rất nhiều, mẹ và cậu ba đã cố gắng đưa ba đi trị bệnh khắp
nơi, từ thuốc tây cho đến thuốc ta ! Càng ngày ba tôi càng gầy ốm, bác
sĩ nói ba bị thương hàn lại bệnh lâu không ăn được như bình thường nữa,
chỉ húp nước soupe và nước gạo lức rang vàng mà thôi !
Phòng của ba mẹ và phòng khách được ngăn bằng tấm vách tường, nhà tôi
rộng bề ngang cho nên phòng khách chia hai, sát tường bên tay phải là
cái divan gỗ xưa, divan nầy và cái đồng hồ cổ là hai vật kỷ niệm "dằn
tâm" của người chủ trước căn nhà đã tặng lại cho ba mẹ tôi .
Chiếc divan
được dặt sát tường kế bên cửa sổ nhỏ nhìn qua sân nhà ông Mười, hai chị
em tôi ngủ trên divan nầy. Cách divan một khoảng rộng hơn một chiếc
chiếu là bộ salon bằng mây có lót nệm đỏ.
Giữa bức tường trên cao ba có làm một khung hình bán nguyệt, phía sau
khung bán nguyệt có thờ hình Phật Quan Âm in trên giấy carton dầy lộng trong cái khung kính mạ vàng. Đây là hình Phật Quan Âm ngồi trên toà sen, tay phải có bế một em bé trai còn rất nhỏ, tay
trái cầm nhành dương liễu, quỳ dưới chân bà cũng là một bé trai lớn hơn
bé trai kia tay cầm vòng càn khôn
Khi mới dọn về nhà nầy ba mẹ qua chùa Phật Bửu Tự
thỉnh tranh Phật về thờ cùng với bài vị Thần tài và ông Táo, hàng
ngày khi thì mẹ khi thì ba hay cậu đốt nhan và cúng trái cây ngày rằm
hoặc mồng một. Từ khi ba bệnh nhiều, ngoài người thân trong gia đình còn
có hàng xóm tới thăm, trong số đó có bà Tư ở đầu xóm lớn tuổi nhất, bà
khuyên mẹ qua chùa quy y và thỉnh kinh về đọc cho ba, mong ba có thể
được Trời Phật gia hộ mau chóng khỏi bệnh
Ba bệnh nhiều nên mỗi một lần người lớn hoặc chị em tôi có việc phải
đi ngang qua cửa buồng của ba thì ba thường nhíu mặt, đi khẻ cách mấy ba
cũng nghe và khó chịu trong người, cho nên mẹ hay chắc lưỡi ngó làm
chúng tôi càng sợ, không dám nhìn và thật ra người lớn cũng không cho
con nít vô sợ truyền nhiễm !
Ba cứ nằm như vậy mà không thuyên giảm, thế là mẹ nghe theo lời bà Tư
qua chùa Phật Bửu Tự chính thức quy y, mặc dù những rằm lớn mẹ cũng dắt
hai chị em tôi qua chùa lễ Phật, ba mẹ con cũng lạy sám hối như Phật tử
của chùa, có điều là vì hãy còn nhỏ nên chị em tôi giữa chừng thì thiu
thiu ngủ ! Những năm tháng nầy Phật tử không mặc quần áo xám hay áo
tràng như bây giờ, bà Tư và mẹ chỉ mặc nguyên bộ bà ba tay dài khi thì
màu trắng lúc áo hoa nhỏ màu nhu ....
Sư ông trụ trì khuyên mẹ thỉnh kinh Pháp Hoa, kinh Nhật tụng, kinh Sám hối. Đêm về yên tĩnh mẹ ngồi xếp bằng trước bàn thờ Phật tụng kinh cầu nguyện. Nghe theo lời mẹ dẫn
giải, ban đầu trước khi đi ngủ hai chị em tôi cùng ngồi sau lưng mẹ,
cũng đứng lên, quỳ xuống giống mẹ, vì hãy còn con nít cho nên em tôi ngủ
hồi nào không hay, còn tôi tuy buồn ngủ nhưng cũng ráng ngồi....Sau nầy
mẹ không bắt chúng tôi quỳ sau lưng mẹ nữa, mẹ cho chị em đi ngủ sớm,
tuy nằm trong mùng nhưng chúng tôi vẫn nhìn rõ mẹ trong bộ bà ba lụa
trắng quỳ trước bàn thờ đọc kinh cho ba. Em tôi ngủ nhanh vì tiếng kinh
nho nhỏ êm tai, riêng tôi không hiểu sao hay vạch mùng ló đầu nhìn mẹ
đọc kinh
Nhìn mẹ rồi nhìn hình Phật Quan Âm cũng trong xiêm y lụa trắng, tôi
thấy sao mẹ giống Phật vô cùng, tiếng mẹ đọc kinh nhỏ đều, thỉnh thoảng
điểm tiếng chuông đánh khẻ ngân nga, thêm vào đó mùi nhan trầm lan toả xen
với mùi hoa dạ lý hương nở về đêm làm tôi cảm thấy dễ chịu, một niềm an
ổn vô biên thật nhẹ nhàng nhưng ấm áp lan toả, tôi không muốn ngủ dù rất
buồn ngủ...
Mẹ chỉ đánh chuông mà không gỏ mõ, tiếng mõ tuy không lớn nhưng ba
không chịu được, một điều lạ lùng là mỗi tiếng động nhỏ hay tiếng chân
đi thật khẻ cũng làm ba khó chịu chắc lưỡi, nhưng mỗi đêm tiếng mẹ đọc
kinh và tiếng chuông điểm nhẹ ba lại ngủ yên giấc hơn !
Bỗng nhiên ba không húp cháo hay soupe nữa, mọi người thật sự lo lắng,
bà Tư an ủi khuyên mẹ cứ nhẫn nại đọc kinh cứu khổ cứu nạn cho ba....Tuy
còn rất nhỏ, nhưng tôi thấy thương mẹ vô cùng, ba bệnh không đi làm
được, lương của ba không đủ cho chi phí thuốc men, ban ngày mẹ phải làm
sổ sách hụi hàng, mẹ còn theo bà Tư hướng dẫn mua bán cẩm thạch và hột
xoàn thêm mới đủ chi phí sinh hoạt cho cả gia đình. Tối về, sau khi xong mọi
việc thì mẹ lại lo kinh kệ cầu nguyện cho ba !
Có một đêm ba trở bệnh nặng hơn, mẹ dắt hai chị em vô phòng thăm ba,
nghe tiếng mẹ gọi, ba chỉ mở mắt lờ đờ nhìn rồi lại nhắm mắt hình như khó
chịu trong người, mẹ lại dắt hai chị em đi ra, lần đó tôi thoáng thấy mẹ
và cậu khóc ! Ba ra dấu than lạnh, cậu ba lấy khăn hơ trên than nóng đắp lên
trán, trên tay và chân cho ba, nước mắt cậu rơi trên than nghe xèo xèo !
Rồi mẹ cố gắng đọc kinh, tiếng mẹ đọc nhỏ nhưng không đều đều như trước
mà thỉnh thoảng ngắt quảng, chắc mẹ khóc âm thầm như cậu! Đêm đó mẹ đọc
khuya thật khuya, mẹ ra dấu kêu tôi ngủ không cho ló đầu ra ngoài mùng
nữa!
....Thức hơi khuya, cho nên buổi sáng hai chị em tôi dậy muộn, nắng rọi từ cửa sổ
phòng khách xuyên qua mùng làm chị em tôi tỉnh giấc, cũng ngạc nhiên vì
không ai đánh thức. Trong phòng ba có tiếng nói của mẹ và cậu cùng vài
người hàng xóm, mọi người nói chuyện bình thường không khe khẻ như
trước! Một việc khác thường chưa từng có trong thời gian ba bệnh nặng,
lúc trước ai đến cũng đi thật khẻ, nói thật nhỏ, vô thăm ba xong đi ra
phòng ngoài mới dám nói chuyện với mẹ
Tò mò không giữ ý nữa, tôi và em gái chạy vào phòng xem sao thì thấy
ba đã mở mắt, mặt ba tỉnh táo và sinh động hơn, ba không khó chịu khi có
đông người....Theo lời ba kể lại sau nầy, đêm đó ba thấy mệt mõi
vô cùng, người bứt rứt nặng nề mà không mở miệng nói được, tuy nhiên ba
vẫn nghe tiếng mẹ đọc kinh và tiếng chuông gỏ nhẹ bên tai.....Ba nghĩ
rằng có lẻ ba sẽ không qua khỏi cơn bệnh nầy, ba nói đột nhiên ba chảy
nước mắt, lúc ấy ba bỗng thấy có một bà rất đẹp như bà tiên mặc bộ đồ
lụa trắng dài đứng bên giường cúi nhìn ba và nói với ba là :"Mệt lắm phải
không con, bây giờ cố gượng nhổm cái lưng lên bà sẽ bế con xê qua phía
bên kia con sẽ đở mệt!!"
Như có một sức mạnh huyền bí nào đó
tự nhiên ba nghe theo cố gồng cho lưng mình cong lên và bà đó lòn hai
cánh tay xuống dưới lưng ba đưa ba qua phía bên kia giường, lúc đó ba
nói người ba như có luồng gió mát thật nhẹ nhàng, ba cảm thấy như mình
qua một giấc ngủ dài, không nóng nảy, không nặng nề và tỉnh lại thật
bình thường !!
Mọi người đều mừng và chúc ba sớm bình phúc, ba cảm thấy đói bụng đòi
ăn cháo !! Và từ từ sau hôm đó ba khoẻ lại, ba ngồi lên được và cậu
dìu ba đi chầm chậm trong nhà ....Mọi người đều nói đó là nhờ công đức của mẹ đã hết lòng trì tụng cầu nguyện cho ba
Ngày ba khoẻ lại hẳn, bà ngoại ở Bạc Liêu lên, bà con bên ngoại ở Xóm
Củi, bà con bên nội ở Tân Định đều ghé thăm, nghe mẹ kể lại câu chuyện
nằm mơ của ba ai cũng tin đó là Phật Quan Âm chứng cho lòng thành của
mẹ, em gái tôi ngây thơ hỏi ba :"Như vậy bà đó ẵm ba thiệt hả ba, sao bà
ẵm ba nỗi, sao con thấy ba vẫn nằm chỗ nầy mà ?"
Câu hỏi ngây thơ của em làm mọi người ai cũng cười, tôi thấy ba nhìn
lên bàn thờ và nói "Nét mặt của bà đêm hôm đó cũng hiền từ nhân hậu như
hình Phật Bà thờ trên trang...!"
Ông nội vừa qua đời xong thì
tới ba tôi bệnh....Giờ đã qua hết rồi "tang khó", bà con chúc ba mẹ sẽ
có hai em trai khôi ngô tuấn tú như hai em bé trong hình thờ
Phật...
Mẹ và ba tôi lần lượt qua đời hơn 30 năm, không gia sản để lại cho con,
cái còn lại duy nhất là cái chuông ngày xưa, tấm hình Phật Quan Âm cùng
hai bé trai cũng mục nát, kệ khung thờ bằng gỗ bị mối ăn, sau nầy mẹ
thỉnh lại tượng bằng gốm, Tiếng của chuông không còn trong và ngân nga
như xưa, nhiều lần đi chùa nghe tiếng chuông mới tuy nhỏ nhưng ngân vang, tôi
có ý muốn thỉnh cái chuông khác....Nhưng tôi lại chạnh lòng, đây là cái
chuông duy nhất còn sót lại của căn nhà bé thơ năm xưa sau nhà lầu năm
tầng, đây cũng là di vật của mẹ cha để lại, kỷ niệm một thời hạnh phúc
đầm ấm lúc còn ba mẹ cùng hai chị em tôi khi chưa có hai em trai
Và tôi lại đổi ý, đây là chuông của kỷ niệm nghĩa mẹ tình cha, tiếng
chuông linh ứng hoà với tiếng đọc kinh của mẹ đã đưa ba vượt qua căn
bệnh hiểm nghèo, tiếng chuông đánh động lòng từ bi của Đức Phật, cho nên
dù chuông có rè không ngân nga, không sáng bóng như xưa nhưng đó là một
báu vật mà tôi cần phải luôn gìn giữ !!
NM - Phan thị Ngọc Diệp
(Đạo Phật và Tôi - Thời thơ ấu)
- Vẫn không thay đổi.
Tiếng bước chân của sư thầy nhẹ nhàng đi lướt qua phía sau bà. Tiếng lọc cọc của cánh cửa làm theo lối ngày xưa vang lên. Bà Mận cầm rổ rau đi lại giếng nước.
Vít cái cần cho chiếc gầu đầy nước, bà Mận nhẹ nhàng thả tay để chiếc gầu tự chạy lên nhờ sức nặng của mấy hòn gạch buộc ở cuối cần. Vẫn là thói quen của bà từ ngày còn ở nhà với mẹ. Xưa nhà bà cũng có một cái giếng. Cha bà cũng làm cần kéo nước như thế này. Cái giếng này có từ bao giờ bà cũng không biết. Gần hai mươi năm trước khi bà về đây đã có rồi. Các cụ trong làng bảo giếng này dễ có đã ba trăm năm. Giếng xây bằng đá ong, thành dầy, nước trong. Mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm.
Mấy chú tiểu nhỏ cũng đã xong công việc buổi chiều. Sau tiếng chuông của thầy trụ trì các chú lặng lẽ sửa soạn cho buổi lễ sám hối vào lúc sáu giờ.
Bà Mận nhanh chóng vào bếp. Một bát xúp rau nhỏ. Chiều nào cũng vậy. Hơn mười năm rồi vẫn vậy. Chỉ cần hai mươi phút là bà làm xong. Vậy là vẫn kịp cho buổi lễ sám hối. Bà thầm nghĩ. Vừa nấu bà vừa đưa mắt nhìn ra sân. Thầy trụ trì đã đắp y và đang đi ngang qua sân để vào chính điện.
(Đạo Phật và Tôi - Thời thơ ấu)
Tiếng Chuông Chiều
Tiếng chuông chiều,
Trong tĩnh mịch tiếng chuông chiều vang vọng,
Thức tỉnh người trong bể khổ trầm luân...
Ngỡ là xa nhưng người lại rất gần,
Luôn nguyện hướng chúng sinh về bờ Giác !
Tiếng chuông chiều
Chuông chùa vang lên ngân dài trong
không gian tĩnh lặng chiều tà. Nắng đã tắt, mặt trời đã khuất sau dãy
núi xa xa. Gió nhẹ đưa đẩy những tán lá
Bà Mận ngừng tay nhặt rau đưa
mắt nhìn lên.
Trên tháp chuông, giữa cổng tam quan của ngôi chùa, sư thầy đang thong thả đánh từng tiếng chuông.
Boong... booong... booooong... boooooong
Trên tháp chuông, giữa cổng tam quan của ngôi chùa, sư thầy đang thong thả đánh từng tiếng chuông.
Boong... booong... booooong... boooooong
Không cần nhìn thêm bà Mận cũng
biết rằng sư thầy sắp gõ nhẹ hơn và dừng lại. Bàn tay nhặt rau của bà
cũng nhanh hơn. Vậy là đã năm giờ rưỡi rồi. Bà cần phải chuẩn bị một bát
xúp nhỏ cho sư thầy. Hơn mười năm làm công quả bà đã quá quen với mọi
sinh hoạt thường ngày của chùa
Tiếng lạch cạch ngoài cổng. Vẫn không ngẩng lên bà Mận lẩm bẩm: - Vẫn không thay đổi.
Tiếng bước chân của sư thầy nhẹ nhàng đi lướt qua phía sau bà. Tiếng lọc cọc của cánh cửa làm theo lối ngày xưa vang lên. Bà Mận cầm rổ rau đi lại giếng nước.
Vít cái cần cho chiếc gầu đầy nước, bà Mận nhẹ nhàng thả tay để chiếc gầu tự chạy lên nhờ sức nặng của mấy hòn gạch buộc ở cuối cần. Vẫn là thói quen của bà từ ngày còn ở nhà với mẹ. Xưa nhà bà cũng có một cái giếng. Cha bà cũng làm cần kéo nước như thế này. Cái giếng này có từ bao giờ bà cũng không biết. Gần hai mươi năm trước khi bà về đây đã có rồi. Các cụ trong làng bảo giếng này dễ có đã ba trăm năm. Giếng xây bằng đá ong, thành dầy, nước trong. Mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm.
Mấy chú tiểu nhỏ cũng đã xong công việc buổi chiều. Sau tiếng chuông của thầy trụ trì các chú lặng lẽ sửa soạn cho buổi lễ sám hối vào lúc sáu giờ.
Bà Mận nhanh chóng vào bếp. Một bát xúp rau nhỏ. Chiều nào cũng vậy. Hơn mười năm rồi vẫn vậy. Chỉ cần hai mươi phút là bà làm xong. Vậy là vẫn kịp cho buổi lễ sám hối. Bà thầm nghĩ. Vừa nấu bà vừa đưa mắt nhìn ra sân. Thầy trụ trì đã đắp y và đang đi ngang qua sân để vào chính điện.
Gần ba mươi năm trước, chính xác là hai mươi tám năm chín tháng và
mười sáu ngày, bà gặp người ấy. Lúc đó bà mới ngoài bốn mươi. Chồng mất
cũng vừa qua giỗ đầu. Một mình sống cùng con gái nhỏ. Công việc nghiên
cứu của chị ở cơ quan cũng không nhiều. Sáng bảy giờ rưỡi ra khỏi nhà.
Chiều ba rưỡi rời cơ quan. Sáng thứ hai lên họp. Các ngày khác có thể
ngồi nhà làm việc. Chị về Hà Nội và chuyển về cơ quan này đã sáu năm.
Công việc chỉ có vậy. Thời gian biểu luôn như vậy. Thỉnh thoảng mấy đứa
bạn thời đại học lại í ới gọi đi ngồi thiền. Thiền tại quán cà phê. Tán
gẫu. Ngồi im. Cả buổi có khi chỉ nói dăm ba câu. Đứa nào đứa nấy cắm đầu
vào điện thoại. Wifi miễn phí mà. Mấy đứa bạn xúi chị lên mạng kết bạn.
Chị gặp người ấy trên mạng. Đọc hồ sơ. Không thấy ảnh. Chẳng ấn tượng. Chào hỏi mấy câu rồi out. Rồi đột nhiên người ấy biến mất. Chị cũng không để ý. Bẵng đi hơn chục hôm lại thấy người ấy online và nói chuyện. Tự nhiên chị hỏi: Lâu không thấy. Đi công tác. Đi đâu? Nước ngoài. Nước nào?...
Không có trả lời. Chị nhận được một tấm ảnh. Người ấy đang ngồi giữa đám trẻ con nghèo ở một đất nước xa lạ. Nụ cười tươi, rạng rỡ. Một cảm giác rất lạ. Một cái rùng mình. Một dòng điện chạy dọc xương sống chị. Yêu mất rồi. Yêu rồi.
Tiếng chuông vang lên. Tiếng thầy trụ trì. Một chất giọng đặc biệt. Khỏe, trầm, vang.
... Ngày nay đã qua
Mạng sống giảm dần
Như cá cạn nước
Có gì là vui
Đại chúng phải siêng tinh tấn...
Bà Mận không còn nghe thấy mọi âm thanh bên ngoài nữa. Tay bà chắp trước ngực, mắt nhìn hướng lên tượng Phật ngồi giữa tam bảo. Giọng thầy trụ trì vẫn đều đều vang lên. Xung quanh bà mọi người vẫn đang chắp tay đọc bài sám hối.
... Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay
Bỏ mất bản tâm, không biết chính đạo
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau...
Đầu óc bà không còn tập trung được nữa. Tâm trí bà ngập tràn những kỷ niệm ngày xưa. Bà và người ấy.
Bà và người ấy gặp nhau lần đầu tiên tại quán cà phê ngay dưới nhà bà. Không vồn vã, không lạnh nhạt. Hai người nói chuyện bình thản với nhau. Nhưng sao chị cứ nhìn người ấy. Nhìn chăm chú, nhìn không chớp mắt. Một cái gì đó chạy dọc thân người. Làn môi trên của chị hơi giật giật. Sao vậy. Sao mình lại như vậy. Ý nghĩ chợt đến trong đầu. Trấn tĩnh lại đi nào. Tránh bối rối chị phải cầm cốc nước uống một ngụm thật nhiều. Được rồi. Những e ngại của lần đầu tiên gặp mặt nhanh chóng trôi qua. Chị và người ấy nói chuyện vui vẻ và hợp.
Ngày xưa, những lúc bên nhau, chị vẫn thường ôm anh. Hít hà. Chị vẫn tự hỏi. Sao anh không tỏ thái độ gì? Sắc mặt anh vẫn vậy. Không một biểu hiện. Không một cử chỉ. Không một cái cau mày. Không một nụ cười. Đồ lạnh lùng. Đồ khô khan. Chị biết vậy nhưng sao vẫn cứ ôm lấy anh. Vẫn không rời được.
Đã có lúc tình cảm trỗi dậy mạnh mẽ. Chị biết vậy. Sau này em sẽ theo anh đi bất kỳ chỗ nào. Anh đi tu em sẽ đến cổng chùa. Không cho anh đi. Chị nhớ đã từng nói vậy. Anh vẫn im lặng. Vẫn ôm chị. Không lắc. Không gật. Nét mặt vẫn không thay đổi.
Anh biến mất. Không một lời nhắn. Không một cuộc điện thoại. Chị như phát điên. Mọi người thân bạn bè đều không biết anh ở đâu. Chùa nơi anh đã từng dẫn chị đến không có. Nhờ vả. Tự tìm. Mất công. Không thấy. Chị cất công vào tận Đà Lạt, vào tận Tiền Giang. Xuống tận Cà Mau. Rồi Vĩnh Phúc, Lào Cai. Chị đều đã đến.
Mười năm dù không là vợ chồng nhưng có quá nhiều ân nghĩa. Quá nhiều điều còn đọng lại, còn như mới hôm qua. Chị đã thành người của anh mất rồi. Chị vẫn thường nói vậy. Anh biến mất. Biến mất khỏi cuộc đời chị như biến mất khỏi cuộc sống này. Chị nghĩ và cứ đi tìm. Anh không thể bỏ chị lại như vậy được.
Mười năm sau ngày người ấy biến mất, bà tìm đến làng quê heo hút này. Mua một mảnh đất, cất một ngôi nhà. Nhỏ mà ấm cúng. Một mình vẫn ấm cúng. Con cái từ thành phố đến nhiều lần. Khẩn khoản có. Van nài có. Ép buộc có. Cầu xin có nhưng không đưa được bà trở về. Bà quyết rồi. Bà sẽ ở đây. Ở cạnh cổng ngôi chùa này.
Bà đã tìm thấy người ấy. Tìm thấy tình cờ. Mười năm. 3.650 ngày đằng đẵng. Bao chuyến đi bà cũng không còn nhớ nữa. Bao địa danh bà đã đặt chân đến. Bao ngôi chùa, bao nhà sư bà đã gặp. Không đếm được. Tấm ảnh của ông đã làm thêm bao nhiêu chiếc bà cũng không còn nhớ. Bà đến đây vào một buổi chiều tà. Nắng đang tắt dần. Tiếng chuông chùa vang trong không trung. Chậm rãi. Chậm rãi. Từng tiếng một. Từng tiếng một. Toàn thân bà chợt rung lên. Lâu lắm rồi. Hình như từ ngày ông đi bà chưa nghe thấy tiếng chuông chùa lần nào. Không biết có phải vì nỗi nhớ ông mà bà không nghe thấy.
Tâm trí bà như dừng lại. Nỗi khắc khoải nhớ. Sự mong mỏi đi tìm chợt biến mất. Tiếng chuông như những đợt sóng cứ dồn dập, hết lớp này đến lớp khác dội đến. Xoáy vào tâm trí bà. Bao mệt mỏi chợt tan biến. Nỗi nhớ cũng không còn. Một cảm giác nhẹ nhàng, an lành cứ trào dâng.
Đúng ông rồi. Chỉ có ông mới có cách đánh chuông như vậy. Tiếng chuông như những vòng tròn, hết lớp này đến lớp khác dội vào tâm trí khiến bất kỳ ai nghe thấy đều phải chú ý. Người tâm trí tĩnh lặng thì dừng lại lắng nghe. Người mải lo những chuyện cơm áo gạo tiền thì cố gắng đi thật nhanh hoặc cầu mong tiếng chuông sớm dứt. Ý nghĩ của bà vừa dừng lại ở đấy thì một giọng nói cất lên:
Nghe tiếng chuông ngân phiền não nhẹ
Trí tuệ lớn, bồ đề sinh…
Ông. Đúng là ông rồi. Bà không thể quên được giọng nói của ông. Cách nói của ông. Đấy là câu mà khi đi cùng nhau chị vẫn nghe anh nói. Nói mỗi khi nghe tiếng còi xe. Hết nói lại ngân nga.
Nghe tiếng chuông ngân, phiền não nhẹ.
Tiếng chuông lảnh lót vang lên. Đại chúng đồng thanh chuyển sang bài kinh Bát Nhã. Bà Mận giật mình. Vội đọc theo. “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế... cho nên trong tướng không có sắc, không có thọ tưởng hành thức, không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới...”
Đúng rồi. Mọi sự trên đời đều có nhân duyên. Tất cả đều do nhân duyên mà hợp mà tan. Nhân duyên mà anh và chị có mặt trên cõi đời này. Nhân duyên mà anh và chị gặp nhau. Nhân duyên mà tan mà hợp. Nhân duyên bà lại tìm thấy ông.
Gần hai mươi năm. Trước cổng ngôi chùa. Xin làm công quả. Bà làm việc của mình. Ngày hai bữa chính, một bữa phụ. Thầy trụ trì không phàn nàn. Không một lời chê trách. Bà nấu gì thầy ăn nấy. Chay, chay và chay. Bà cũng thấy cuộc sống yên bình. Ngày tháng trôi. Cứ trôi.
Chờ mọi người ra hết, bà Mận đến trước tượng Phật quỳ xuống chắp tay. Trên cao, ánh mắt Đức Phật từ bi. Cúi sát đầu xuống đất. Hai bàn tay ngửa lên như đón nhận bàn chân Đức Phật. Tâm trí bà vang lên giọng ông ngân nga
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm
Trí Thanh
(daibieunhandan.vn)
Chị gặp người ấy trên mạng. Đọc hồ sơ. Không thấy ảnh. Chẳng ấn tượng. Chào hỏi mấy câu rồi out. Rồi đột nhiên người ấy biến mất. Chị cũng không để ý. Bẵng đi hơn chục hôm lại thấy người ấy online và nói chuyện. Tự nhiên chị hỏi: Lâu không thấy. Đi công tác. Đi đâu? Nước ngoài. Nước nào?...
Không có trả lời. Chị nhận được một tấm ảnh. Người ấy đang ngồi giữa đám trẻ con nghèo ở một đất nước xa lạ. Nụ cười tươi, rạng rỡ. Một cảm giác rất lạ. Một cái rùng mình. Một dòng điện chạy dọc xương sống chị. Yêu mất rồi. Yêu rồi.
Tiếng chuông vang lên. Tiếng thầy trụ trì. Một chất giọng đặc biệt. Khỏe, trầm, vang.
... Ngày nay đã qua
Mạng sống giảm dần
Như cá cạn nước
Có gì là vui
Đại chúng phải siêng tinh tấn...
Bà Mận không còn nghe thấy mọi âm thanh bên ngoài nữa. Tay bà chắp trước ngực, mắt nhìn hướng lên tượng Phật ngồi giữa tam bảo. Giọng thầy trụ trì vẫn đều đều vang lên. Xung quanh bà mọi người vẫn đang chắp tay đọc bài sám hối.
... Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay
Bỏ mất bản tâm, không biết chính đạo
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau...
Đầu óc bà không còn tập trung được nữa. Tâm trí bà ngập tràn những kỷ niệm ngày xưa. Bà và người ấy.
Bà và người ấy gặp nhau lần đầu tiên tại quán cà phê ngay dưới nhà bà. Không vồn vã, không lạnh nhạt. Hai người nói chuyện bình thản với nhau. Nhưng sao chị cứ nhìn người ấy. Nhìn chăm chú, nhìn không chớp mắt. Một cái gì đó chạy dọc thân người. Làn môi trên của chị hơi giật giật. Sao vậy. Sao mình lại như vậy. Ý nghĩ chợt đến trong đầu. Trấn tĩnh lại đi nào. Tránh bối rối chị phải cầm cốc nước uống một ngụm thật nhiều. Được rồi. Những e ngại của lần đầu tiên gặp mặt nhanh chóng trôi qua. Chị và người ấy nói chuyện vui vẻ và hợp.
Ngày xưa, những lúc bên nhau, chị vẫn thường ôm anh. Hít hà. Chị vẫn tự hỏi. Sao anh không tỏ thái độ gì? Sắc mặt anh vẫn vậy. Không một biểu hiện. Không một cử chỉ. Không một cái cau mày. Không một nụ cười. Đồ lạnh lùng. Đồ khô khan. Chị biết vậy nhưng sao vẫn cứ ôm lấy anh. Vẫn không rời được.
Đã có lúc tình cảm trỗi dậy mạnh mẽ. Chị biết vậy. Sau này em sẽ theo anh đi bất kỳ chỗ nào. Anh đi tu em sẽ đến cổng chùa. Không cho anh đi. Chị nhớ đã từng nói vậy. Anh vẫn im lặng. Vẫn ôm chị. Không lắc. Không gật. Nét mặt vẫn không thay đổi.
Anh biến mất. Không một lời nhắn. Không một cuộc điện thoại. Chị như phát điên. Mọi người thân bạn bè đều không biết anh ở đâu. Chùa nơi anh đã từng dẫn chị đến không có. Nhờ vả. Tự tìm. Mất công. Không thấy. Chị cất công vào tận Đà Lạt, vào tận Tiền Giang. Xuống tận Cà Mau. Rồi Vĩnh Phúc, Lào Cai. Chị đều đã đến.
Mười năm dù không là vợ chồng nhưng có quá nhiều ân nghĩa. Quá nhiều điều còn đọng lại, còn như mới hôm qua. Chị đã thành người của anh mất rồi. Chị vẫn thường nói vậy. Anh biến mất. Biến mất khỏi cuộc đời chị như biến mất khỏi cuộc sống này. Chị nghĩ và cứ đi tìm. Anh không thể bỏ chị lại như vậy được.
Mười năm sau ngày người ấy biến mất, bà tìm đến làng quê heo hút này. Mua một mảnh đất, cất một ngôi nhà. Nhỏ mà ấm cúng. Một mình vẫn ấm cúng. Con cái từ thành phố đến nhiều lần. Khẩn khoản có. Van nài có. Ép buộc có. Cầu xin có nhưng không đưa được bà trở về. Bà quyết rồi. Bà sẽ ở đây. Ở cạnh cổng ngôi chùa này.
Bà đã tìm thấy người ấy. Tìm thấy tình cờ. Mười năm. 3.650 ngày đằng đẵng. Bao chuyến đi bà cũng không còn nhớ nữa. Bao địa danh bà đã đặt chân đến. Bao ngôi chùa, bao nhà sư bà đã gặp. Không đếm được. Tấm ảnh của ông đã làm thêm bao nhiêu chiếc bà cũng không còn nhớ. Bà đến đây vào một buổi chiều tà. Nắng đang tắt dần. Tiếng chuông chùa vang trong không trung. Chậm rãi. Chậm rãi. Từng tiếng một. Từng tiếng một. Toàn thân bà chợt rung lên. Lâu lắm rồi. Hình như từ ngày ông đi bà chưa nghe thấy tiếng chuông chùa lần nào. Không biết có phải vì nỗi nhớ ông mà bà không nghe thấy.
Tâm trí bà như dừng lại. Nỗi khắc khoải nhớ. Sự mong mỏi đi tìm chợt biến mất. Tiếng chuông như những đợt sóng cứ dồn dập, hết lớp này đến lớp khác dội đến. Xoáy vào tâm trí bà. Bao mệt mỏi chợt tan biến. Nỗi nhớ cũng không còn. Một cảm giác nhẹ nhàng, an lành cứ trào dâng.
Đúng ông rồi. Chỉ có ông mới có cách đánh chuông như vậy. Tiếng chuông như những vòng tròn, hết lớp này đến lớp khác dội vào tâm trí khiến bất kỳ ai nghe thấy đều phải chú ý. Người tâm trí tĩnh lặng thì dừng lại lắng nghe. Người mải lo những chuyện cơm áo gạo tiền thì cố gắng đi thật nhanh hoặc cầu mong tiếng chuông sớm dứt. Ý nghĩ của bà vừa dừng lại ở đấy thì một giọng nói cất lên:
Nghe tiếng chuông ngân phiền não nhẹ
Trí tuệ lớn, bồ đề sinh…
Ông. Đúng là ông rồi. Bà không thể quên được giọng nói của ông. Cách nói của ông. Đấy là câu mà khi đi cùng nhau chị vẫn nghe anh nói. Nói mỗi khi nghe tiếng còi xe. Hết nói lại ngân nga.
Nghe tiếng chuông ngân, phiền não nhẹ.
Tiếng chuông lảnh lót vang lên. Đại chúng đồng thanh chuyển sang bài kinh Bát Nhã. Bà Mận giật mình. Vội đọc theo. “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế... cho nên trong tướng không có sắc, không có thọ tưởng hành thức, không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới...”
Đúng rồi. Mọi sự trên đời đều có nhân duyên. Tất cả đều do nhân duyên mà hợp mà tan. Nhân duyên mà anh và chị có mặt trên cõi đời này. Nhân duyên mà anh và chị gặp nhau. Nhân duyên mà tan mà hợp. Nhân duyên bà lại tìm thấy ông.
Gần hai mươi năm. Trước cổng ngôi chùa. Xin làm công quả. Bà làm việc của mình. Ngày hai bữa chính, một bữa phụ. Thầy trụ trì không phàn nàn. Không một lời chê trách. Bà nấu gì thầy ăn nấy. Chay, chay và chay. Bà cũng thấy cuộc sống yên bình. Ngày tháng trôi. Cứ trôi.
Chờ mọi người ra hết, bà Mận đến trước tượng Phật quỳ xuống chắp tay. Trên cao, ánh mắt Đức Phật từ bi. Cúi sát đầu xuống đất. Hai bàn tay ngửa lên như đón nhận bàn chân Đức Phật. Tâm trí bà vang lên giọng ông ngân nga
Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm
Trí Thanh
(daibieunhandan.vn)
Truyện Ngắn Tiếng Chuông Vọng Xa
4. Tiếng chuông Giao Thừa
Chúng tôi đinh ninh rằng chúng tôi là những người hồi cư sớm nhất,
nhưng không phải. Về đến địa hạt Dương Xuân Thượng, chúng tôi biết rằng
đã có nhiều gia đình về trước chúng tôi đến cả nửa tháng. Trên con đường
núi đưa về chùa, cỏ mọc che cả lối đi. Chú Tâm Mãn đẫn đầu đoàn người
hồi cư, có vẻ nóng nảy hơn hơn ai hết. Thật ra, trong số sáu người hồi
cư, không ai là không mong cho mau về đến chùa. Xa chùa đã mấy tháng,
chúng tôi không mong sao được. Những người lớn tuổi điềm đạm và lặng lẽ
nhất cũng tỏ vẻ sốt ruột. Chúng tôi về chùa như một đoàn thám hiểm núi
rừng: mọi người phải vạch cỏ bẻ lau cho có lối đi Tất cả đều mặc áo
ngắn, kể các thầy. Áo tràng và áo nhật bình chúng tôi đều cuốn bỏ chung
với những dụng cụ, mang trên vai hoặc xách nơi tay. Tất cả đều mệt mỏi
rã rời. Chúng tôi đã trải qua năm sáu ngày đi bộ đường trường còn gì! Về
gần đến chùa bao nhiêu lo ngại hình như đã tiêu tan. Xóm làng rải rác
trên các nẻo núi đồi tuy còn mang nặng vẻ lặng lẽ khiếp sợ, nhưng cũng
đã phảng phất có sinh khí. Chúng tôi thấy nhẹ nhõm cả tâm hồn.
- Chùa kia rồi!
Chú Tâm Mãn buột kêu lên một tiếng vui mừng. Dưới bóng những cây thông cao vút, mái tam quan của chùa hiện ra như một hình bóng quen thuộc và thân yêu từ những tiền kiếp xa xưa nào. Không ai là không cảm động. Tôi băn khoăn không biết dì Tư có an ổn không, có còn mạnh khỏe trong cảnh đạn lửa tơi bời. Hồi chúng tôi được giấy buộc phải tản cư, dì Tư đã nhất quyết xin ở lại chùa. Chúng tôi khuyên can thế nào cũng không được.
- Xin các Thầy và các Chú cứ về quê để mà lánh nạn. Các Thầy và các Chú cần sống để làm việc cho đạo. Tôi xin ở lại giữ chùa. Không can gì đâu, tôi già cả rồi, Với lại dù có gì đi nữa, tôi cũng không tiếc.
Chúng tôi dùng đến cả uy lực nữa, nhưng cũng không lay chuyển được dì. Cuối cùng, phải để cho dì ở lại. Tôi đã cẩn thận chỉ chỗ cho dì ẩn núp mỗi khi có tiếng súng nổ. Tôi cũng đã chỉ cách cho dì giấu gạo và thức ăn ở một nơi kín đáo. Xong cả đâu đấy và sau khi cầu Phật cho dì ở lại bình yên, tôi mới theo các Thầy và các Chú lên đường.
Vì vậy nên khi trở về, tối cứ băn khoăn lo ngại mãi, không biết dì ở nhà có bình an không. Nhưng nỗi lo ngại liền biến mất khi chúng tôi bước vào tam quan chùa. Từ xa, tôi nhận ra bóng dì Tư với chiếc áo nâu dài bạc màu, đang múc nước bên suối. Chú Mãn gọi tên dì thật to. Dì bỏ thùng xuống nhìn lên. Khi thấy bóng các Thầy và chúng tôi, dì lật đật chạy ra, và cảm động quá dì không nói năng được. Dì chỉ khóc.
Mái chùa bị đạn hư hỏng mất nhiều chỗ. Tường chùa cũng lỗ đỗ những vết đạn. Cảnh vật có vẻ tiêu điều hơn trước. Tuy nhiên ngoài những vết đạn kia, chùa không bị thương tích nào quá nặng đến nổi phải hư đổ như những nơi khác. Nổi vui mừng thứ nhất của chúng tôi và của dì Tư là số người tản cư trở về không hao thiếu một người nào.
Hôm chúng tôi trở về chùa là hôm hăm bảy tháng chạp. Cho đến chiều hôm đó, chúng tôi mới được ăn một bữa cơm nóng sốt và tươm tất, do dì Tư sửa soạn. Trong mấy tháng trời, chúng tôi ăn uống thiếu hụt kham khổ; không có bữa nào có thể gọi được là bữa, Một lít tương làm thức ăn cần thiết thì đã được pha loãng bao nhiêu lần trong những lít nước muối. Những chén cơm trộn đến hai phần ba khoai sắn bao giờ của được “tiêu thụ” một cách ít oi chừng mực. Thêm vào đó cái khổ không giường không chiếu làm cho chúng tôi ai cũng ốm và đen.
Sau khi dùng cơm, tất cả đều ngủ vùi một giấc mê mệt cho đến sáng. Qua ngày hôm sau, chúng tôi mới bắt đầu chương trình “kiến thiết”. Những đồ đạc trong chùa đều được lau chùi sửa soạn lại. Chúng tôi quyết dọn phòng xá, sắp đặt những đồ vật ngổn ngang. Định sửa soạn để ăn một cái Tết hồi cư.
Và suốt ngày hôm ấy, chúng tôi vui vẻ như đã thấy nét mặt của hòa bình. Nhưng tối đến, không khí chiến tranh và của chết chóc trở lại. Tiếng súng nổ ran bốn phía. Đạn bay vèo vèo trên mái ngói. Mọi người ngồi yên trong liêu phòng, cửa đóng kín mít. Thỉnh thoảng, ánh sáng của một trái châu từ đồn canh bắn lên, chiếu qua những kẹt cửa. Tiếp đến, những tràng liên thanh nổ ròn liên tiếp
Tôi ngồi với chú Mãn trong nhà hậu, bên ánh đèn dầu lù mù. Chúng tôi nghĩ đến cảnh tượng chết chóc đang diễn ra bên ngoài và cùng lặng lẽ niệm Phật cho những người xấu số, nhưng rồi thời khắc qua. Đêm hăm tám trở lại yên tĩnh, nhưng một sự an tĩnh luôn luôn bị đe dọa.
Từ hôm trở về chùa đến nay, buổi tối và buổi khuya chú Mãn không thỉnh đại hồng chung nữa. Bởi vì dì Tư không cho. Dì bảo rằng có một buổi tối (hồi chúng tôi đi khỏi) vừa lên lầu thỉnh được năm sáu tiếng chuông thì dì nghe có tiếng động bên dưới. Lật đật chạy xuống, dì thấy năm sáu ông tây đang hung dữ đi vào. Họ chỉ súng vào dì đe dọa và ra hiệu không cho dì thỉnh chuông nữa. Có lẽ họ sợ rằng tiếng chuông là một ám hiệu của địch quân. Hay có lẽ vì họ ghét không muốn nghe tiếng đại hồng chung cũng nên. Từ đó, mỗi buổi tối và buổi khuya, dì không dám thỉnh chuông nữa. Tối hôm chúng tôi về, dì đã căn dặn chú Mãn.
- Buổi tối và buổi khuya mà không có tiếng chuông thì thấy nhạt nhẽo làm sao ấy. Dì chép miệng.
Mà thực thế. Không có gì nhạt nhẽo và lạnh lùng bằng những buổi tối thiếu tiếng đại hồng chung. Không khí trong chùa trở nên buồn tẻ. Núi rừng cũng tăng vẻ hoang dại. Tiếng dế trở nên dày dặc và thê lương hơn. Ở chùa, thường thường mỗi buổi khuya chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ. Sau khi rửa mặt rửa tay xong, chúng tôi ngồi bán già trên “đơn” của mình, lắng nghe tiếng đại hồng chung và thực hành phép tĩnh tọa hay niệm Phật. Bây giờ, buổi khuya không có tiếng chuông. Chúng tôi thấy thiếu một cái gì rất quan trọng. Tôi không ngồi tĩnh tọa được nữa. Hai ba bữa nay, chúng tôi phải rời “đơn”, ra bàn thắp đèn bạch lạp ngồi học bên nhau để tìm sự ấp áp và cũng để quên rằng chùa không thỉnh chuông. Những buổi tụng niệm công phu cũng trở nên thiếu thốn buồn tẻ. Tiếng chuông gia trì nhỏ quá, yếu đuối quá, không đủ sức xua đuổi bầu không khí ảm đạm và lặng lẽ của núi đồi, trong những buổi đêm tối đen và những buổi khuya mịt mờ sương phủ.
Tuy nhiên chúng tôi không muốn để cho cái Tế trở về trong không khí buồn tẻ âm u ấy. Vâng lời các Thầy, chúng tôi đem lư trầm, chân đèn và các đồ thờ lau chùi cho thật bóng. Dì Tư đã nhân khi rảnh việc, đi chặt về những lá chuối. Dì đã ngâm nếp và đỗ xanh
- Thế nào tôi cũng nấu được một nồi bánh tét cho các chú xem. Ấy thế là dì bắt tay vào việc. Chúng tôi vui lòng giúp đỡ dì. Nhưng đến hôm hăm chín Tết, chú Mãn có một ý rất hay:
- Mình làm mứt ăn Tết, thưa chú.
Thoạt tiên tôi không biết nên làm mứt với cái gì
Nhưng chú Mãn giải thích ngay
- Mình chỉ làm mứt “bình dân” thôi, bằng khoai lang và bằng củ sắn mì.
Chúng tôi liền hăng hái thực hành ngay. Khoai và sắn thì thiếu gì ngoài vừa chùa.
Dì Tư sợ người ta vào đào trộm sắn, đẵn chặt sát gốc tất cả vườn sắn từ mười lăm hôm nay. Những đọt sắn non vừa lên chừng một tấc tây; đứng ngoài nhìn vào, người ta tưởng đó là một vườn sắn trồng chừng một tháng. Sắn một tháng làm gì đã có củ! Nhờ thế vườn sắn đang còn nguyên vẹn, chưa bị đào trộm như vườn khoai
Đường thì chúng tôi nhờ dì Tư mua thứ đường đen, ở cái chợ xép họp tạm dưới đồi Dương Xuân. Dì Tư đã khéo léo mua thêm một ít vừng. Thứ mứt của chúng tôi chẳng qua là một thứ khoai ngào, có trộn vừng rang. Thế thôi! Nhưng như thế cũng đã là sang chán đối với một cái Tết hồi cư nghèo khổ.
Điều an tâm nhất là chúng tôi đang còn lúa để xay ăn dần cho đến mùa gặt sang năm. Trước hồi tản cư, sáu bảy thầy trò đã hì hục đem chôn lúa sau vườn, trong những cái chum sành rất lớn. Chúng tôi đào dần lên từng chum, xong lấp đất như cũ. Sang năm, ruộng chùa thế nào cũng cung cấp kịp cho chúng tôi.
Đêm ba mươi. Nồi bánh chưng sôi sùng sục ở giữa nhà. Tất cả đều bắt ghế ngồi quanh đống lửa, từ các Thầy các Chú cho đến dì Tư. Trời hơi lạnh. Một vài tiếng súng lẻ tẻ. Chúng tôi ngồi thức và nói chuyện, đợi giờ đón giao thừa và lạy vía Đức Di Lặc. Ngoài kia, trời tối như hũ nút, chỉ có một vài vì sao lộ ra yếu ớt trên nền trời đen kịt.
Tết năm nay, chúng tôi chỉ có bảy người. Bởi vì trên đường trở về, vị Thượng tọa thầy tôi và bốn thầy khác đã thuận bước ghé thăm một ngôi chùa cổ bị tàn phá. Chúng tôi ba thầy và ba trò đã trở về trước. Mãi cho tới hôm nay, Thượng tọa chưa thấy về.
Ngồi bên đống lửa, tôi nghĩ nhiều đến vị trưởng lão đáng kính ấy. Hôm tản cư, thầy khuyên chúng tôi lên đường, nhưng chính thầy tôi lại không đi. Thật ra, trong đại chúng không ai muốn đi tản cư cả. Nhưng lệnh đã đưa ra, bắt toàn xóm tản cư, chùa cũng không thể không đi. Đại chúng đã bạch rằng Thượng tọa không thể ở lại một mình, và nếu Thượng tọa ở lại, tất cả cũng đều nhất tâm ở lại, mặc dù trái với lệnh chính quyền. Cuối cùng, Thượng tọa phải miễn cưỡng theo các thầy để đi lánh nạn. Ngài nói:
- Nếu quả đại chúng đã gây nhân tai nạn thì dù ta có lánh đi đâu cũng không trốn khỏi tai nạn.
Lời nói ấy, tôi còn ghi nhớ mãi và bây giờ tôi mới nhận được tất cả sự thật mà nó hàm chứa. Biết bao gia đình nghèo đã an toàn khi họ ở lại. Biết bao gia đình giàu có đã tan rã thảm thương vì đi lánh nạn. Đi lánh nạn, những người này lại tìm thấy taì nạn. Nói như lời của dì Tư mà đúng: “Thời này, tai ương hoạn nạn đầy đường. Lấy đức mà đo chứ không thể lấy sự giàu có khôn ngoan mà đo được”. Có lẽ chiếc áo giáo phòng thân chắc chắn nhất là tâm đức của mình, là sự ăn ở theo lẽ phải của mình. Họa phước đều do con người tự tạo ra, không phải do một sự tình cờ nào đưa đến
Dì Tư đã vớt ra khỏi nồi những chiếc bánh tét đầy đặn, hơi lên nghi ngút, bánh đã chín. Giờ cúng giao thừa cũng sắp đến. Chúng tôi sửa soạn hành lễ.
Trầm hương xông ngất. Tôi ra đứng ở gác chuông, nhìn ra bốn phía. Núi rừng đen kịt. Vài ngôi sao lung linh như sắp rụng. Nhìn ra xa, không thấy có một bóng đèn. Có lẽ xóm làng tỉnh thức, đang đóng chặt các cửa để cúng lễ tổ tiên, đón chào giờ phút giao thừa. Lặng lễ, chú Tâm Mãn đến gần tôi:
- Không có lý mà lễ giao thừa lại không có chuông trống Bát Nhã.
Tôi bàng hoàng như tỉnh giấc. Ừ, không có lẽ mà lễ giao thừa lại thiếu chuông trống Bát Nhã? Mọi năm mỗi lần cúng lễ giao thừa, chùa đều đánh chuông trống bảy hồi, và tiếng chuông trống Bát Nhã bao giờ cũng mở đầu cho những tràng pháo đón mừng năm mới vang dội từ xóm làng bao bọc chung quanh và dưới chân các đồi núi. Năm nay, cố nhiên không ai đám đốt pháo rồi, nhưng không lẽ chuông trống giao thừa lại im tiếng nữa sao. Chúng tôi lại đưa mắt nhìn ra ngoài. Đồi núi xóm làng chìm trong bóng tối nặng nề, u tịch. Giao thừa làm sao trở về trong bầu không khí trĩu nặng khiếp sợ và lo âu?
- Hay là chúng ta cứ đánh chuông trống như thường lệ? Tôi hỏi.
Chú Tâm Mãn nhìn tôi lo âu:
- Lỡ ra Tây xách súng chạy vào bắn thì sao
Tôi lặng thinh, nhưng nghĩ đến một năm dài u ám sắp trở về, tôi lại mạnh dạn:
- Không lo, họ cũng biết chắn hôm nay là ngày Tết Âm lịch, ta cứ đánh. Không khí nặng nề quá, làm sao năm mới dám về cho được? Ta cứ đánh chuông trống, chú ạ. Nó vào, tôi biết tiếng Tây, để tôi giải thích cho.
Thấy tôi cương quyết, chú Tâm Mãn vững tâm đi sang lầu trống.
Boong ... boong ...
Nhè nhẹ, tiếng đại hồng chung bắt đầu theo nhịp trống ngân lên. Tiếp theo, những tiếng trống oai hùng như sấm dậy mở đầu cho những tiếng đại hồng chung ngân vang sung sướng. Bảy hồi chuông náo động cả đêm khuya tịch mịch, tưng bừng đón tiếp một mùa Xuân mới. Xen lẫn trong tiếng chuông trống ngân vang, có tiếng kinh trầm trầm dậy theo tiếng mõ đều đều của các Thầy đang hành lễ. Tiếng chuông gia trì ấm áp, theo trầm hương quyện ngát cảnh chùa.
Chú Tâm Mãn một tay vịn vai tôi, một tay chỉ ra ngoài:
- Này chú xem
Bốn phía, thấp thoáng những ngọn đèn của xóm làng trở dậy cúng giao thừa. Có lẽ cửa nhà nào cũng đã mở rộng. Núi đồi mất hẳn vẻ hoang dại, trở nên hiền lành. Tiếng đại hồng chung oai nghiêm và ấm áp, đã xua đuổi những bóng hình sợ hãi và đánh tan u tịch. Tất cả xóm làng đều đã cảm thấy Xuân về trên đất nước ly loạn.
Đại hồng chung vẫn khoan thai điểm từng tiếng rành rọt. Âm thanh ngân dài, ấm áp và thuần hậu. Chúng tôi trở vào, quỳ dưới Phật đài, cùng với đại chúng tha thiết dâng lời cầu nguyện, cầu nguyện cho một mùa Xuân đất nước an vui.
Thích Nhất Hạnh
- Chùa kia rồi!
Chú Tâm Mãn buột kêu lên một tiếng vui mừng. Dưới bóng những cây thông cao vút, mái tam quan của chùa hiện ra như một hình bóng quen thuộc và thân yêu từ những tiền kiếp xa xưa nào. Không ai là không cảm động. Tôi băn khoăn không biết dì Tư có an ổn không, có còn mạnh khỏe trong cảnh đạn lửa tơi bời. Hồi chúng tôi được giấy buộc phải tản cư, dì Tư đã nhất quyết xin ở lại chùa. Chúng tôi khuyên can thế nào cũng không được.
- Xin các Thầy và các Chú cứ về quê để mà lánh nạn. Các Thầy và các Chú cần sống để làm việc cho đạo. Tôi xin ở lại giữ chùa. Không can gì đâu, tôi già cả rồi, Với lại dù có gì đi nữa, tôi cũng không tiếc.
Chúng tôi dùng đến cả uy lực nữa, nhưng cũng không lay chuyển được dì. Cuối cùng, phải để cho dì ở lại. Tôi đã cẩn thận chỉ chỗ cho dì ẩn núp mỗi khi có tiếng súng nổ. Tôi cũng đã chỉ cách cho dì giấu gạo và thức ăn ở một nơi kín đáo. Xong cả đâu đấy và sau khi cầu Phật cho dì ở lại bình yên, tôi mới theo các Thầy và các Chú lên đường.
Vì vậy nên khi trở về, tối cứ băn khoăn lo ngại mãi, không biết dì ở nhà có bình an không. Nhưng nỗi lo ngại liền biến mất khi chúng tôi bước vào tam quan chùa. Từ xa, tôi nhận ra bóng dì Tư với chiếc áo nâu dài bạc màu, đang múc nước bên suối. Chú Mãn gọi tên dì thật to. Dì bỏ thùng xuống nhìn lên. Khi thấy bóng các Thầy và chúng tôi, dì lật đật chạy ra, và cảm động quá dì không nói năng được. Dì chỉ khóc.
Mái chùa bị đạn hư hỏng mất nhiều chỗ. Tường chùa cũng lỗ đỗ những vết đạn. Cảnh vật có vẻ tiêu điều hơn trước. Tuy nhiên ngoài những vết đạn kia, chùa không bị thương tích nào quá nặng đến nổi phải hư đổ như những nơi khác. Nổi vui mừng thứ nhất của chúng tôi và của dì Tư là số người tản cư trở về không hao thiếu một người nào.
Hôm chúng tôi trở về chùa là hôm hăm bảy tháng chạp. Cho đến chiều hôm đó, chúng tôi mới được ăn một bữa cơm nóng sốt và tươm tất, do dì Tư sửa soạn. Trong mấy tháng trời, chúng tôi ăn uống thiếu hụt kham khổ; không có bữa nào có thể gọi được là bữa, Một lít tương làm thức ăn cần thiết thì đã được pha loãng bao nhiêu lần trong những lít nước muối. Những chén cơm trộn đến hai phần ba khoai sắn bao giờ của được “tiêu thụ” một cách ít oi chừng mực. Thêm vào đó cái khổ không giường không chiếu làm cho chúng tôi ai cũng ốm và đen.
Sau khi dùng cơm, tất cả đều ngủ vùi một giấc mê mệt cho đến sáng. Qua ngày hôm sau, chúng tôi mới bắt đầu chương trình “kiến thiết”. Những đồ đạc trong chùa đều được lau chùi sửa soạn lại. Chúng tôi quyết dọn phòng xá, sắp đặt những đồ vật ngổn ngang. Định sửa soạn để ăn một cái Tết hồi cư.
Và suốt ngày hôm ấy, chúng tôi vui vẻ như đã thấy nét mặt của hòa bình. Nhưng tối đến, không khí chiến tranh và của chết chóc trở lại. Tiếng súng nổ ran bốn phía. Đạn bay vèo vèo trên mái ngói. Mọi người ngồi yên trong liêu phòng, cửa đóng kín mít. Thỉnh thoảng, ánh sáng của một trái châu từ đồn canh bắn lên, chiếu qua những kẹt cửa. Tiếp đến, những tràng liên thanh nổ ròn liên tiếp
Tôi ngồi với chú Mãn trong nhà hậu, bên ánh đèn dầu lù mù. Chúng tôi nghĩ đến cảnh tượng chết chóc đang diễn ra bên ngoài và cùng lặng lẽ niệm Phật cho những người xấu số, nhưng rồi thời khắc qua. Đêm hăm tám trở lại yên tĩnh, nhưng một sự an tĩnh luôn luôn bị đe dọa.
Từ hôm trở về chùa đến nay, buổi tối và buổi khuya chú Mãn không thỉnh đại hồng chung nữa. Bởi vì dì Tư không cho. Dì bảo rằng có một buổi tối (hồi chúng tôi đi khỏi) vừa lên lầu thỉnh được năm sáu tiếng chuông thì dì nghe có tiếng động bên dưới. Lật đật chạy xuống, dì thấy năm sáu ông tây đang hung dữ đi vào. Họ chỉ súng vào dì đe dọa và ra hiệu không cho dì thỉnh chuông nữa. Có lẽ họ sợ rằng tiếng chuông là một ám hiệu của địch quân. Hay có lẽ vì họ ghét không muốn nghe tiếng đại hồng chung cũng nên. Từ đó, mỗi buổi tối và buổi khuya, dì không dám thỉnh chuông nữa. Tối hôm chúng tôi về, dì đã căn dặn chú Mãn.
- Buổi tối và buổi khuya mà không có tiếng chuông thì thấy nhạt nhẽo làm sao ấy. Dì chép miệng.
Mà thực thế. Không có gì nhạt nhẽo và lạnh lùng bằng những buổi tối thiếu tiếng đại hồng chung. Không khí trong chùa trở nên buồn tẻ. Núi rừng cũng tăng vẻ hoang dại. Tiếng dế trở nên dày dặc và thê lương hơn. Ở chùa, thường thường mỗi buổi khuya chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ. Sau khi rửa mặt rửa tay xong, chúng tôi ngồi bán già trên “đơn” của mình, lắng nghe tiếng đại hồng chung và thực hành phép tĩnh tọa hay niệm Phật. Bây giờ, buổi khuya không có tiếng chuông. Chúng tôi thấy thiếu một cái gì rất quan trọng. Tôi không ngồi tĩnh tọa được nữa. Hai ba bữa nay, chúng tôi phải rời “đơn”, ra bàn thắp đèn bạch lạp ngồi học bên nhau để tìm sự ấp áp và cũng để quên rằng chùa không thỉnh chuông. Những buổi tụng niệm công phu cũng trở nên thiếu thốn buồn tẻ. Tiếng chuông gia trì nhỏ quá, yếu đuối quá, không đủ sức xua đuổi bầu không khí ảm đạm và lặng lẽ của núi đồi, trong những buổi đêm tối đen và những buổi khuya mịt mờ sương phủ.
Tuy nhiên chúng tôi không muốn để cho cái Tế trở về trong không khí buồn tẻ âm u ấy. Vâng lời các Thầy, chúng tôi đem lư trầm, chân đèn và các đồ thờ lau chùi cho thật bóng. Dì Tư đã nhân khi rảnh việc, đi chặt về những lá chuối. Dì đã ngâm nếp và đỗ xanh
- Thế nào tôi cũng nấu được một nồi bánh tét cho các chú xem. Ấy thế là dì bắt tay vào việc. Chúng tôi vui lòng giúp đỡ dì. Nhưng đến hôm hăm chín Tết, chú Mãn có một ý rất hay:
- Mình làm mứt ăn Tết, thưa chú.
Thoạt tiên tôi không biết nên làm mứt với cái gì
Nhưng chú Mãn giải thích ngay
- Mình chỉ làm mứt “bình dân” thôi, bằng khoai lang và bằng củ sắn mì.
Chúng tôi liền hăng hái thực hành ngay. Khoai và sắn thì thiếu gì ngoài vừa chùa.
Dì Tư sợ người ta vào đào trộm sắn, đẵn chặt sát gốc tất cả vườn sắn từ mười lăm hôm nay. Những đọt sắn non vừa lên chừng một tấc tây; đứng ngoài nhìn vào, người ta tưởng đó là một vườn sắn trồng chừng một tháng. Sắn một tháng làm gì đã có củ! Nhờ thế vườn sắn đang còn nguyên vẹn, chưa bị đào trộm như vườn khoai
Đường thì chúng tôi nhờ dì Tư mua thứ đường đen, ở cái chợ xép họp tạm dưới đồi Dương Xuân. Dì Tư đã khéo léo mua thêm một ít vừng. Thứ mứt của chúng tôi chẳng qua là một thứ khoai ngào, có trộn vừng rang. Thế thôi! Nhưng như thế cũng đã là sang chán đối với một cái Tết hồi cư nghèo khổ.
Điều an tâm nhất là chúng tôi đang còn lúa để xay ăn dần cho đến mùa gặt sang năm. Trước hồi tản cư, sáu bảy thầy trò đã hì hục đem chôn lúa sau vườn, trong những cái chum sành rất lớn. Chúng tôi đào dần lên từng chum, xong lấp đất như cũ. Sang năm, ruộng chùa thế nào cũng cung cấp kịp cho chúng tôi.
Đêm ba mươi. Nồi bánh chưng sôi sùng sục ở giữa nhà. Tất cả đều bắt ghế ngồi quanh đống lửa, từ các Thầy các Chú cho đến dì Tư. Trời hơi lạnh. Một vài tiếng súng lẻ tẻ. Chúng tôi ngồi thức và nói chuyện, đợi giờ đón giao thừa và lạy vía Đức Di Lặc. Ngoài kia, trời tối như hũ nút, chỉ có một vài vì sao lộ ra yếu ớt trên nền trời đen kịt.
Tết năm nay, chúng tôi chỉ có bảy người. Bởi vì trên đường trở về, vị Thượng tọa thầy tôi và bốn thầy khác đã thuận bước ghé thăm một ngôi chùa cổ bị tàn phá. Chúng tôi ba thầy và ba trò đã trở về trước. Mãi cho tới hôm nay, Thượng tọa chưa thấy về.
Ngồi bên đống lửa, tôi nghĩ nhiều đến vị trưởng lão đáng kính ấy. Hôm tản cư, thầy khuyên chúng tôi lên đường, nhưng chính thầy tôi lại không đi. Thật ra, trong đại chúng không ai muốn đi tản cư cả. Nhưng lệnh đã đưa ra, bắt toàn xóm tản cư, chùa cũng không thể không đi. Đại chúng đã bạch rằng Thượng tọa không thể ở lại một mình, và nếu Thượng tọa ở lại, tất cả cũng đều nhất tâm ở lại, mặc dù trái với lệnh chính quyền. Cuối cùng, Thượng tọa phải miễn cưỡng theo các thầy để đi lánh nạn. Ngài nói:
- Nếu quả đại chúng đã gây nhân tai nạn thì dù ta có lánh đi đâu cũng không trốn khỏi tai nạn.
Lời nói ấy, tôi còn ghi nhớ mãi và bây giờ tôi mới nhận được tất cả sự thật mà nó hàm chứa. Biết bao gia đình nghèo đã an toàn khi họ ở lại. Biết bao gia đình giàu có đã tan rã thảm thương vì đi lánh nạn. Đi lánh nạn, những người này lại tìm thấy taì nạn. Nói như lời của dì Tư mà đúng: “Thời này, tai ương hoạn nạn đầy đường. Lấy đức mà đo chứ không thể lấy sự giàu có khôn ngoan mà đo được”. Có lẽ chiếc áo giáo phòng thân chắc chắn nhất là tâm đức của mình, là sự ăn ở theo lẽ phải của mình. Họa phước đều do con người tự tạo ra, không phải do một sự tình cờ nào đưa đến
Dì Tư đã vớt ra khỏi nồi những chiếc bánh tét đầy đặn, hơi lên nghi ngút, bánh đã chín. Giờ cúng giao thừa cũng sắp đến. Chúng tôi sửa soạn hành lễ.
Trầm hương xông ngất. Tôi ra đứng ở gác chuông, nhìn ra bốn phía. Núi rừng đen kịt. Vài ngôi sao lung linh như sắp rụng. Nhìn ra xa, không thấy có một bóng đèn. Có lẽ xóm làng tỉnh thức, đang đóng chặt các cửa để cúng lễ tổ tiên, đón chào giờ phút giao thừa. Lặng lễ, chú Tâm Mãn đến gần tôi:
- Không có lý mà lễ giao thừa lại không có chuông trống Bát Nhã.
Tôi bàng hoàng như tỉnh giấc. Ừ, không có lẽ mà lễ giao thừa lại thiếu chuông trống Bát Nhã? Mọi năm mỗi lần cúng lễ giao thừa, chùa đều đánh chuông trống bảy hồi, và tiếng chuông trống Bát Nhã bao giờ cũng mở đầu cho những tràng pháo đón mừng năm mới vang dội từ xóm làng bao bọc chung quanh và dưới chân các đồi núi. Năm nay, cố nhiên không ai đám đốt pháo rồi, nhưng không lẽ chuông trống giao thừa lại im tiếng nữa sao. Chúng tôi lại đưa mắt nhìn ra ngoài. Đồi núi xóm làng chìm trong bóng tối nặng nề, u tịch. Giao thừa làm sao trở về trong bầu không khí trĩu nặng khiếp sợ và lo âu?
- Hay là chúng ta cứ đánh chuông trống như thường lệ? Tôi hỏi.
Chú Tâm Mãn nhìn tôi lo âu:
- Lỡ ra Tây xách súng chạy vào bắn thì sao
Tôi lặng thinh, nhưng nghĩ đến một năm dài u ám sắp trở về, tôi lại mạnh dạn:
- Không lo, họ cũng biết chắn hôm nay là ngày Tết Âm lịch, ta cứ đánh. Không khí nặng nề quá, làm sao năm mới dám về cho được? Ta cứ đánh chuông trống, chú ạ. Nó vào, tôi biết tiếng Tây, để tôi giải thích cho.
Thấy tôi cương quyết, chú Tâm Mãn vững tâm đi sang lầu trống.
Boong ... boong ...
Nhè nhẹ, tiếng đại hồng chung bắt đầu theo nhịp trống ngân lên. Tiếp theo, những tiếng trống oai hùng như sấm dậy mở đầu cho những tiếng đại hồng chung ngân vang sung sướng. Bảy hồi chuông náo động cả đêm khuya tịch mịch, tưng bừng đón tiếp một mùa Xuân mới. Xen lẫn trong tiếng chuông trống ngân vang, có tiếng kinh trầm trầm dậy theo tiếng mõ đều đều của các Thầy đang hành lễ. Tiếng chuông gia trì ấm áp, theo trầm hương quyện ngát cảnh chùa.
Chú Tâm Mãn một tay vịn vai tôi, một tay chỉ ra ngoài:
- Này chú xem
Bốn phía, thấp thoáng những ngọn đèn của xóm làng trở dậy cúng giao thừa. Có lẽ cửa nhà nào cũng đã mở rộng. Núi đồi mất hẳn vẻ hoang dại, trở nên hiền lành. Tiếng đại hồng chung oai nghiêm và ấm áp, đã xua đuổi những bóng hình sợ hãi và đánh tan u tịch. Tất cả xóm làng đều đã cảm thấy Xuân về trên đất nước ly loạn.
Đại hồng chung vẫn khoan thai điểm từng tiếng rành rọt. Âm thanh ngân dài, ấm áp và thuần hậu. Chúng tôi trở vào, quỳ dưới Phật đài, cùng với đại chúng tha thiết dâng lời cầu nguyện, cầu nguyện cho một mùa Xuân đất nước an vui.
Thích Nhất Hạnh
Truyện của tác giả khi còn là chú điệu