Nhặt lá,
Những chiếc lá rụng rơi sau cơn gió,
Nhặt cho lòng thanh thản giữa mông lung...
Giữ làm sao ghi nhớ tận cõi lòng,
Bát chánh đạo luôn vẹn toàn tâm ý !
NM
Lá rụng về đâu?
“Ðợi gió!” - Tôi suýt trả lời như thế với câu hỏi
bất ngờ cất lên phía sau:
- Con
đang đợi ai à?”
- Dạ
thưa thầy, không ạ! - Tôi kính cẩn chắp tay chào thầy trụ trì - Con đang
suy nghĩ để hoàn tất bức tranh này thôi. Thầy xem, những chiếc lá này con
phải vẽ chúng rơi vào khoảng nào là đẹp nhất ạ?
Tôi mở
cho thầy xem bức tranh tôi vẽ đường đi của gió, có mấy chiếc lá bồ đề đang
bay lơ lững chưa rõ hướng rơi. Thầy cười hiền lành, chân tín:
- Thì lá
rụng về cội chớ về đâu con !
Tôi cuốn
bức tranh lại, nói như với chính mình
- Giá mà
được như vậy ! Nhưng không biết ...
Tôi bỏ
lửng câu nói và thầy mỉm cười, nhẹ nhàng đi vào trong.
Năm
ngoái, tôi đến ngôi chùa này để vẽ. “Chùa trong thành phố” là đề tài mà
tôi ấp ủ. Những ngôi chùa cổ kính, rêu phong, nằm tách biệt với đô thị ồn
ào đã đi vào tác phẩm của biết bao bậc đàn anh, tôi biết khả năng mình
không chen vào lối mòn ấy được, nên cố tự tìm cho mình một lối đi khác.
Tĩnh lặng trong sự ồn ào, đó là điều không dễ. Cuộc sống công nghiệp gấp
gáp, một làn khói nhang quyện lẫn vào trong khói xe có làm cho người ta
vài phút giây lắng lại ?
Chùa nằm
trong vòng vây của đủ loại tiếng ồn. Những âm thanh hòa trộn vào nhau tạo
ra một cái gọi là “âm thanh phố thị”, mà khi đã quen, ta như không còn
nghe thấy nó nữa. Khoảng sân rộng vuông vắn, ngay ngắn những hàng cây
kiểng được chăm sóc kỹ càng. Giữa sân là một cây bồ đề cổ thụ rợp bóng.
May mà người ta không thể chăm sóc nó theo kiểu chăm sóc những cây kiểng
nhỏ kia. Nó tha hồ vươn ra, xòa xuống những tán lá vàng, xanh, rách,
lành... lẫn lộn, để khi có những cơn gió dạo qua thì còn có cái để mà rụng
rơi.
Buổi
trưa hôm ấy thật là vắng vẻ. Bất chấp những âm thanh của phố ong ong ngoài
kia, tiếng chim trong vòm lá trong trẻo cất lên làm cho ta có cái cảm giác
yên ắng thật tuyệt vời. Chùa cũng là một cơ sở phật học cho nhiều tăng ni
về đây học tập nên rất đông người, chỉ có buổi trưa thì đôi lúc còn được
yên tĩnh. Tôi đang sung sướng tận hưởng những giây phút hiếm hoi, lắng
nghe tiếng gió, tiếng chim, thả rộng tầm mắt mà không vấp bóng người...
thì lại thấy thấp thoáng dưới cội cây bồ đề dáng một chiếc áo lam. Một vị
tu sĩ trẻ khỏang 20 -25 tuổi đang cúi lượm những chiếc lá trên sân. Tôi
thầm chán nản nghĩ: Lại một sự chăm sóc quá đáng! Mảnh sân đã quá sạch sẽ
rồi, có mấy chiếc lá rơi để coi chơi mà cũng đi nhặt sạch! Nhưng hay kìa!
Vị ấy chỉ nhặt qua loa vài chiếc lá bỏ vào gốc cây rồi đi vô. Tôi thầm cám
ơn sự lười biếng, cẩu thả ấy. Thế nhưng hôm sau, rồi hôm sau nữa, đúng vào
giờ ấy, vị tu sĩ kia lại đi ra và lập lại công việc như hôm trước. Tôi
quan sát kỹ thì thấy vị ấy nhặt lá một cách rất trang nghiêm, và hình như
chỉ vừa đúng 8 chiếc lá, không hơn không kém.Cúi nhặt, nhìn ngắm, rồi cẩn
thận xếp vào gốc...
Ðến ngày
thứ sáu thì tôi không nén nổi tò mò. Sau vài ngày làm quen và tìm hiểu,
tôi được biết:
Ðạo Trí
- pháp danh của vị ấy - vào chùa từ năm 6 tuổi. Ðược thầy hết lòng thương
yêu vì tính tình ôn hòa, kiên nhẫn, chịu khó. Suốt mười hai năm ở trong
thiền viện, Ðạo Trí là niềm hy vọng của thầy, của các huynh đệ, bởi đạo
hạnh và công phu tu.
Năm ấy,
thiền viện mở khoá tập tu cho tăng ni sinh một số chùa. Dịp này Ðạo Trí đã
quen với Tâm Nhân. Hai người nhanh chóng trở thành bạn thân với nhau bởi
Tâm Nhân tỏ ra gần gũi và rất đồng điệu với Ðạo Trí. Tuổi mới lớn, ở thiền
viện lâu năm, chung quanh là thầy và các huynh trưởng, dẫu yêu thương
nhưng luôn nghiêm khắc, Ðạo Trí không có dịp bày tỏ những suy nghĩ vu vơ
lãng mạn của mình. Như một trái gòn, ém trong mình một số lượng bông mà
chính nó cũng không thể rõ hết, nay được nứt võ, trở mình, nó nghĩ rằng
nếu được sổ tung ra, thì chắc nó sẽ nặng hơn trọng lượng mà nó có. Tuổi
mười tám dễ dàng kết thân và trở thành bạn tâm đầu ý hợp với những ai tỏ
ra ra quí phục, biết lắng nghe và tỏ ra đồng điệu với mình. Tâm Nhân đã
mang đến cho Ðạo Trí những điều mà ở thiền viện mọi người không có. Tất cả
những nỗi lòng, tâm sự, ước mơ...(mà trước đây Ðạo Trí không nghĩ rằng
mình cũng có những điều như thế) được trút ra. Một cây bút chì khi nằm
trong tay đứa học trò lớp vỡ lòng, nó chỉ viết ra được những chữ cái, đến
khi gặp một kiến trúc sư thì nó tưởng rằng mình có thể làm nên những ngôi
nhà! (Mà quên rằng trên đầu mình còn có một cục tẩy và bên cạnh còn có sẵn
một cái dao gọt viết.!)
Thế rồi
Ðạo Trí trốn thầy “ xuống núi” theo Tâm Nhân về ngôi chùa này để đi học.
“Phải
học hành đàng hoàng trước đã, đó là điều chắc chắn đúng trong thời đại
ngày nay, người tu sĩ cần phải có một trình độ học vấn uyên thâm mới mong
đem đạo pháp đến gần với cuộc sống hiện đại, công việc hoằng pháp mới
thuận lợi được; thầy đang còn trẻ và với khả năng của mình, nếu được học
hành đến nơi đến chốn sẽ tiến rất xa...” đó là lời khuyên của Tâm Nhân.
Không
biết Ðạo Trí sẽ tiến xa đến đâu, nhưng trước mắt là cách sống và suy nghĩ
của Ðạo Trí đã phải khác trước. Bước đầu là hình thức bên ngoài: Cũng vẫn
ba màu áo ấy nhưng chất liệu vải nay đã khác; cũng vẫn chỉ đôi dép đỡ chân
nhưng nay phải êm hơn; từ chiếc xe đạp cà tàng để đến trường, nay vì thời
gian gấp gáp, phải thay bằng chiếc xe máy mới theo kịp giờ giấc học tập từ
lớp Phật học đến các môn học bên ngoài: Anh văn, Hán văn, vi tính,
..v..v... Có gì quan trọng đâu, đó chỉ là phương tiện, chấp làm gì! Tỏ ra
kham khổ quá mà chi, mình phải hòa đồng với mọi người xung quanh chớ.
Ðạo Trí
đã bước đầu thành công, học hành rất tốt. Vậy mà... mỗi khi có dịp gặp lại
các huynh đệ cũ, nghe những lời phân tích, trách cứ... Ðạo Trí lại cảm
thấy buồn, thấy hình như mình đã sai, đã chạy theo vọng tưởng nhiều quá.
Khổ tâm nhất là khi gặp lại thầy, thầy không nói gì cả, không trách mắng
cũng không khuyến khích, vẫn điềm đạm từ bi nhìn Ðạo Trí như ngày nào;
nhưng không hiểu sao Ðạo Trí không thể yên tâm được! Những câu nói của mọi
người cứ như một cuộn băng cứ quay đi quay lại rối tinh trong đầu: “Ðã
được Hoà Thượng tự thân tận tình chỉ dạy, đường thẳng không đi lại đi
đường vòng.” ... “Học viện đã nhiều hơn tu viện, người của tu viện lại
chạy ra học viện!” ... “Liệu đã đủ bản lĩnh để vừa học vừa tu?”... “Trường
lớp như một cái tiệm uốn tóc, người có tóc vào đó, khi bước ra chưa chắc
ai cũng được một mái tóc đẹp, huống chi mình là người đã cạo trọc đầu !”
... “Con đường nào cũng được, miễn về đích là tốt, hãy đi đúng con đường
mà mình đã chọn, đừng nhảy lung tung”....
Nghiệp
phước khó đoán! Thôi thì tùy duyên vậy. Ðể tự nhắc nhở mình, Ðạo Trí quyết
định làm một việc: Mỗi trưa, sau giờ quả đường, khi mọi người đã đi nghỉ
cả, Ðạo Trí lại ra gốc bồ đề, nhặt lấy tám chiếc lá gom vào gốc cây...thể
hiện lòng mong mỏi, triết lý sống của mình.
Không
biết công việc ấy Ðạo Trí thực hiện được bao lâu, bởi sau đó tôi phải đi
công tác xa một năm. Tôi ấp ủ bức tranh và mong ngày trở lại chùa. Và giờ
đây tôi đang đứng chờ... Ðã quá cái giờ mà Ðạo Trí đi ra nhặt lá, vẫn chưa
thấy bóng người đâu. Ðạo Trí đã trở về thiền viện? Ðạo Trí đã đi học xa?
Ðạo Trí đã đủ vững, không còn cần đến cái việc tự nhắc nhở mình một cách
lãng mạn, giáo điều như vậy nữa. Hay là Ðạo Trí đã... chính điều này làm
tôi không dám hỏi thăm về Ðạo Trí. Tôi sợ...
Vài cơn
gió thoảng qua, những chiếc lá bồ đề lại rơi một cách nhẹ nhàng thanh
thản. Khi đã chắc chắn rằng không còn có Ðạo Trí ra nhặt lá nữa, tôi đứng
tần ngần thầm gởi ước mong vào những cơn gió. Cơn gió nào sẽ đưa những
chiếc lá kia về cội, cơn gió nào sẽ thổi chúng bay xa ? ...
Và có lẽ
bức tranh của tôi sẽ là bức tranh với những chiếc lá đang bay lơ lững chưa
biết sẽ về đâu.
Rời chùa
ra về, khi bước qua cội bồ đề, tự dưng tôi cúi xuống nhặt lấy tám chiếc
lá. Chưa biết vì sao và để làm gì.
Thu Nguyệt
Chiếc lá hình giọt lệ (đọc)
Giọt Lệ Của Lá
Album Riêng Một Góc Trời (Độc tấu saxo )
Âm thầm
Tình em luôn giữ âm thầm,
Dám đâu mơ ước trăm năm cùng người ?
Ngắm nhìn lá rụng - Lệ rơi !
Xuân xanh nào khác lá phơi bên thềm !
Kẻ xa, duyên cách xa thêm,
Người gần, lại trót êm đềm với ai...
Lá phai bởi nắng u hoài,
Như em hiu hắt thương ai một đời !!
Tình yêu hoài cổ của một Việt kiều xa xứ dành
cho cô gái lỡ thì. Chút hương vị Tết xưa còn sót lại. Tất cả đan quyện
vào nhau tạo nên một câu chuyện cảm động đủ làm ta cay cả khóe mắt…
Suốt thời niên thiếu, tôi nghiện hương
vị tết phả ra từ căn bếp chị Thời. Hương vị ấy ăn sâu, bám mãi trong
lòng tôi, dai dẳng, da diết mỗi độ xuân về.
Sau tiết đại hàn, khi mưa chỉ còn lất
phất, lâm thâm và rét đã đằm đi, dịu lại, cây mai vàng trảy lá sớm của
chú Tâm lác đác vài nụ chúm chím, chị Thời bắt tay chuẩn bị tết. Từ bên
ni hàng rào chè tàu ngăn hai nhà, tôi thấy chị tất bật đi về với những
giỏ xách nặng trĩu. Mẹ nhìn qua lẩm bẩm: "Cái con giỏi thiệt! Tau mà
thằng Tâm..." - Mẹ bỏ lửng câu nói nhìn chú Tâm ngồi thẫn thờ ngắm nắng,
lắc đầu.
"Mai nắng to không anh Tâm?" - chị Thời
nhìn chú, hỏi qua rào. Chú Tâm nhìn trời ngâm nga: "Trời mưa thì mặc
trời mưa. Tôi phơi dưa món... trời chừa tôi ra!". Chị tủm tỉm cười bắt
tay làm dưa món. Nhìn chị tỉ mỉ tỉa dưa mà không nỡ ăn. Ngọn lá, cây
thông, hoa đào, trái lựu bằng đu đủ đẹp như ngọc; những con thú bằng cà
rốt, su hào xinh như đồ chơi. Có một năm chú Tâm dự báo thời tiết không
đúng, chị phơi dưa vào ngày không được nắng. Dưa thiu, chị ỉu xìu, còn
chú Tâm quạt lửa than cho chị ngồi hong đến nửa đêm. Cái thẩu dưa món
không trắng ấy chị gọi là "dưa - nắng - ốm!".
Cái tết đối với tôi không chỉ ba ngày.
Nó dài ra theo những ngày làm mứt và ăn mứt nếm của chị. Đi học về là
tôi chạy bổ sang nhà chị. Bao giờ cũng thấy chị ngồi trong bếp gọt me,
gọt quất, gọt gừng, rim mứt... tóc rối ren, người sực nức mùi mứt ngào
ngạt. Học xong, tôi lại qua ngồi canh mứt với chị, đợi chị cho ăn mứt
vét. Đối với tôi, không có thứ mứt nào trên đời ngon lạ ngon lùng như
thế. Tinh túy cả thau mứt dường như lắng lại trong những vụn đường, vụn
mứt dưới đáy thau. Vụn dừa béo ngậy. Vụn gừng nồng nàn. Vụn khoai bùi
đậm mê người. Vụn sen ngon đến bối rối... Có khi đợi không nổi, tôi ngủ
gục trên vai chị. Cả trong giấc ngủ tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp, thơm
tho không bờ bến vây bọc lấy mình trong đêm cuối đông.
Chú út Tâm của tôi mắc bệnh thất tình từ
khi chị Hà, người yêu chú, đột ngột đi lấy chồng. Chú hay lẩm bẩm đọc
thơ hoặc ngồi im như bụt. Nhưng chớ dại chọc chú nói. Chú sẽ tuôn ra như
nước chảy miên man câu chuyện tình đầy ắp ký ức chú đến lần thứ một
ngàn lẻ một. Chỉ có một người lắng nghe lần thứ một ngàn lẻ một chuyện
tình của chú mà không trêu chọc, đó là chị Thời.
Nhà chị Thời có ba cô con gái. Chị là
con đầu, không đẹp nhưng lại có mái tóc còn đẹp còn hơn tóc người mẫu
quảng cáo dầu gội đầu. Tôi thích nhìn chị mặc áo lụa, túm hờ hai lọn tóc
mái bằng chiếc nơ nhung đen đằng sau. Nghe nói hồi đi học có nhiều
người "chết đuối" trên suối tóc chị nhưng không hiểu sao chị vẫn chưa có
chồng. Mái tóc ấy luôn gội bằng bồ kết, hong khô bằng gió trời, ngan
ngát mùi hương bưởi, hương nhu, óng ả, mềm mại, dìu dịu bay bay đến say
lòng. Tôi hay nhìn chị hong tóc qua bờ rào. Cả chú Tâm cũng nhìn, nhưng
khi tôi hỏi chú có đẹp không thì chú lại lạc đề về một mái tóc khác. Rồi
không hiểu vì cớ gì chị cắt phăng mái tóc dài đẹp nhất xứ Huế. Tôi tiếc
ngẩn ngơ, nhặt chiếc nơ nhung đen chị quẳng ép vào cuốn từ điển chẳng
biết để làm gì. Tết năm ấy, tôi không còn được ngủ gục trên mớ tóc dài
ngan ngát hương mứt của chị nữa. Năm ấy vụn mứt đượm mùi khét đắng.
Mẹ rủ chị Thời lên chùa Linh Mụ cúng
giải lời thề cho chú Tâm vì bệnh chú mỗi ngày một nặng. Chú cứ lang
thang dọc đường Lê Lợi để đón chị Hà tan trường dù chị Hà đã theo chồng
tận đẩu đầu đâu. Những cặp tình nhân ở Huế không mấy ai chọn chùa Linh
Mụ làm chứng cho sự thề nguyền vì sợ nữ thần áo đỏ của chùa nổi cơn ghen
giáng xuống bất hạnh. Thế mà chú và chị Hà lên chùa học thi, dại dột
thề nguyền chi nơi đó... Rồi không phải nữ thần giải lời thề mà chính
chị Hà về lôi chú ra khỏi cơn mê hoang tưởng về một mối tình vĩnh cửu.
Tôi không nhận ra chị vì chị như một quí bà, béo ra, đầy trang sức và
son phấn. Chị thương hại nhìn chú Tâm gầy gò, xơ xác, lầm bầm đọc những
câu thơ dành cho chị và chợt rùng mình vì không gắn kết số phận với một
người như thế. Chú Tâm dường như tỉnh lại bởi cái rùng mình của người
chú đã yêu điên dại cả tuổi thanh xuân. Chiều ấy, những bài thơ tình
chép bằng mực tím lả tả thả bay trong gió. Tôi tiếc chạy theo lượm đem
cho chị Thời. Chị ngồi đọc, chậm rãi như uống từng giọt trong bóng hoàng
hôn.
Hai cô em song sinh của chị Thời, thua
chị mười tuổi, học cùng lớp với tôi hoàn toàn trái ngược với chị như
nước và lửa. Hai đứa giống nhau như đúc, đẹp đến phát sợ, nổi tiếng từ
ngày còn mặc áo đầm đi học mẫu giáo qua các kỳ thi bé khỏe, bé đẹp, hoa
hậu nhí... Một đứa mặc đầm vàng, một đứa đầm xanh để dễ phân biệt. Hai
sắc màu ấy trở thành tên thường gọi của chúng - con Vàng, con Xanh. Con
Vàng dễ ghét lại ngồi gần tôi. Hễ tôi chạm vào cái áo đầm xòe to như cái
hoa hướng dương của hắn thế nào cũng bị hắn véo. Có cái gì khoe, hắn
cướp ngay. Nắm đấm chưa chạm vào người, hắn đã bù lu bù loa nằm vạ. Con
Xanh hiền hơn, dẫu vẫn khuôn mặt búp bê giống hệt con Vàng. Tôi và hắn
hay chơi trò nấu ăn, trò vợ chồng. Cơm nấu trong cái nồi đất nhỏ xíu,
chưa kịp xới ra những cái chén bằng lá mít đã bị con Vàng ném đá bể nồi.
Con diều cắt dán cả tuần chưa kịp thỏa khao khát trời xanh đã bị hắn xé
toang rồi lấy chân giẫm lên. Tôi nắm áo bắt đền, hắn nắm tóc tôi tru
tréo. Tôi gọi chú Tâm. Hắn gọi chị Thời. Kết cục mỗi đứa bị đét vào mông
một roi mới yên chuyện.
Tôi càng lớn, chị Thời càng làm mứt tết
ít đi. Bánh hộp, kẹo hộp, mứt công nghiệp ê hề ra đó, vừa đẹp vừa rẻ,
chỉ cần một giờ ra chợ là có ngay cái tết nên chẳng mấy ai bỏ cả chục
ngày dài để làm như chị ngày ấy. Có làm cũng chẳng mấy ai ăn. Mốt mứt đã
tàn lụi. Món mặn và đồ nhắm lên ngôi. Đi nhà nào cũng thấy giò chả, nem
tré, thịt nguội, đồ nhắm đưa cay. Tôi đi học xa về, sà vào bếp chị. Ông
Táo về trời mấy hôm rồi mà bếp vẫn lạnh tanh, chỉ mấy thẩu đồ chua trên
kệ, chị bảo nhà không cho làm. Bạn con Vàng, con Xanh thì nhấm nháp kẹo
sôcôla, hạt điều. Bạn bố thì thưởng thức đồ nhắm nguội mua sẵn. Mứt ế
phải đem cho bọn con nít nghèo trong xóm. Không có cái bếp sực nức mùi
mứt của chị Thời, hương vị tết đối với tôi bỗng nhạt hẳn. Tôi bỏ đi chợ
tết với bạn gái. Cô ấy không biết làm mứt và cũng không cần biết, chỉ
mặc thật đẹp ra phố, dạo qua hàng mứt bánh nhón nếm và chọn mỗi thứ một
ít. Thế mà hồi nhỏ tôi bảo với chị Thời lớn lên em chỉ lấy cô nào làm
mứt ngon như chị.
Tết năm nay về nhà, tôi lại thấy bếp chị
rộn ràng. Những trái me dầm đẹp như ngọc xúm xít nhau trong thẩu. Những
trái quất rim vàng óng gối đầu lên nhau. Rồi mứt hạt sen đài các, mứt
khoai dân dã, mứt khế như cô bé lọ lem mà tôi mê mẩn cũng có mặt. Trên
lò than âm ỉ nóng lại là thau mứt dẻo rối lòng rối dạ bởi sự hòa quyện
màu sắc, hương vị cay chua ngọt đắng như đời... Người chị lại sực nức
mùi mứt, ấm nồng hơi lửa, má đỏ hồng, tóc rối ren... Chị giải thích năm
nay có khách xa về ăn tết. Con Xanh lấy chồng ở nước ngoài về thăm nhà
sẽ đem theo một ông Việt kiều về giới thiệu cho con Vàng. Vả lại có em
và anh Tâm về... - Chị nhìn tôi rồi nhìn ra cửa, ánh mắt đợi mong. Tỉnh
giấc mộng tình, chú Tâm cầm cái bằng tốt nghiệp trường sư phạm tình
nguyện về nơi cuối đất làm thầy giáo ở đất rừng U Minh. Chú hẹn năm nay
về ăn tết.
Con Xanh trở về đúng lúc chị Thời vừa
hoàn thành món bánh bó mứt. Tôi đứng nhìn chị trộn các loại mứt quất,
gừng, cam, bí... đã cắt mỏng vào chảo đường bột đánh nhuyễn trên bếp,
sau đó bưng cả chảo trút lên cái mâm rải sẵn bột nếp khô, lấy tay nắn
thành đòn dài. Con Xanh lao vào bếp, hôn tới tấp lên đôi má dính bột nếp
của chị Thời, rên lên: "Em nhớ nhất cái bếp của chị!". Nó quay qua tôi
hôn đánh chụt vào trán "ông chồng thời thơ ấu" rồi ngắt đại một miếng
bánh trên mâm cho vào miệng nhai ngấu nghiến như kẻ đói khát hương nhà.
Nó vẫn như ngày nào, đẹp rực rỡ và không để cho người khác yên.
Con Vàng thất vọng vì ông Việt kiều con
Xanh dẫn về đã già nhưng con Xanh bảo chỉ hơn chồng nó năm tuổi. Nhiều
lắm là như bài hát "Năm anh hai mươi, em mới sinh ra đời. Ngày anh bốn
mươi, em vừa tròn đôi mươi...".
Đó là một kẻ tha hương bị lưu đày trong
nỗi nhớ quay quắt trở lại quê nhà thì đúng hơn. Con Vàng không hợp gu
với ông Việt kiều đẫm hương đồng nội này. Những bộ áo váy cực kỳ thời
trang phô thân thể son trẻ của nó không tác dụng. Vẻ đẹp từng quyến rũ
bao hội đồng chấm thi thời trang, sắc đẹp từ bé đến giờ không lọt qua
cửa sổ tâm hồn của người đàn ông đang là đối tượng săn đuổi của nó. Ông
ta thích lang thang một mình theo những lối mòn của ký ức để tìm lại
thời gian đã mất hơn là đi nhảy nhót với nó. Ông ta mê mải nhặt những từ
cổ lỗ sĩ, quê bỏ xừ của các mụ nhà quê, các gánh bún bò, cơm hến hơn là
ngôn ngữ thời thượng của nó. Một lần nghe chị Thời mắng yêu tôi "ăn như
thúng lủng khu" ông hớn hở nhặt ngay như nhặt được cục vàng, cám ơn chị
rối rít làm chị ngỡ ngàng. ông bảo hồi nhỏ ông bị mạ ông mắng như rứa
khi ăn một lần ba tô cơm hến. Nghe lại nhớ quá! Nhà chị Thời mời đi ăn
cơm vua ở khách sạn Hương giang, ông lại xin ăn một bữa cơm dân tại gia.
Chị Thời phụ trách trong bóng tối bữa cơm ấy để con Vàng được là tác
giả ngoài ánh sáng. Cá bống thệ kho tiêu kiểu Huế cứng ngắc, cong vòng,
canh rau dền nấu tôm, chột nưa kho, thịt phay chấm tôm chua kèm đĩa
chuối chát, vả, khế, rau thơm trình bày đẹp như một tác phẩm nghệ thuật
và chè khoai tía tráng miệng. Bữa cơm nhà bình thường ấy đem lại kết quả
mỹ mãn. Ông Việt kiều ăn như mở toang cảm giác đón nhận hương vị, ăn
chầm chậm như ngậm mà nghe mùi vị nhung nhớ trào về rồi thở hắt ra lời
khen rất Huế: "Răng mà ngon dễ sợ!". Ông nhấp đắm say từng ngụm nước chè
tươi thơm nức mùi gừng và bảo hai mươi năm rồi ông mới lại được ăn một
bữa cơm đượm khí vị quê nhà như thế. Mẹ con Vàng được dịp khoe hắn nấu
nướng giỏi, coi bộ chịu chơi vậy chứ nếu cần cũng đảm đang lắm. Còn con
Vàng bảo chuyện đó đối với hắn dễ dàng như ngồi sơn móng tay.
Hai mươi tám tết, chú Tâm vẫn chưa về.
Tôi phải thay chú canh nồi bánh tét. Nhà chị Thời cũng nấu. Hai bếp lửa
chụm đầu nhau bên rào. Cây mai nở rộ, toàn thân như tỏa ánh vàng trong
bóng đêm, phả một mùi hương nhớ. Chị Thời kể cho tôi hồi bé chị hay trèo
lên cây mai mở to mắt không chớp để rình coi mai nở. Thế nhưng chẳng
bao giờ chị chộp được khoảnh khắc ấy vì chú Tâm ác lắm cứ nắm áo kéo chị
xuống. Có lần chị kéo bị té gãy chân phải bó bột, còn chú chuộc lỗi
bằng cách cõng chị đi chơi cả tháng... Chị phụ mẹ làm mứt bán tết từ
thuở mười ba. Khi mẹ đẻ con Xanh, con Vàng chị làm một mình, tay sứt
sẹo, nứt ra vì gọt me, gọt quất... Chú Tâm thấy tội hay qua gọt giùm.
Chú gọt me giỏi vì thế... Chị ngồi bó gối, giấu ánh mắt trong ngọn lửa
bập bùng, gương mặt buồn và kiêu hãnh có phần héo hon bởi năm tháng, mái
tóc để dài lại gói trong chiếc kẹp cứng ngắc. Tôi lục tung đống sách cũ
tìm chiếc nơ nhung đen bị gián gặm lỗ chỗ đưa cho chị. Chị cài lên tóc,
cười mà mắt như có nước.
Chú Tâm về vào chiều 30 tết. Nghe tiếng
reo mừng chú bên kia rào, chị Thời luống cuống suýt đổ cả nồi chè đậu
xanh đánh nấu cúng giao thừa. Mặt chị tái đi nhưng đôi mắt ngời ngợi một
niềm vui không tả nổi, xôn xao chảy tràn trên khuôn mặt vốn trầm tĩnh
của chị. Môi chị run run nửa cười nửa mếu. Dưới thứ ánh sáng kỳ diệu của
tình yêu mãnh liệt mà câm nín ấy trông chị đẹp lạ lùng. Tôi và chị chạy
ào ra cửa bếp. Chị nhìn sững chú Tâm, còn tôi nhìn sững một bóng người
đứng dưới cội hoàng mai. Đó là bóng một cô gái. Trái tim tôi bỗng thắt
lại bởi một linh cảm vừa ào tới. Tôi quay lại nhìn chị Thời như cố khắc
ghi thoáng hạnh phúc mong manh rờ rỡ trên mặt chị trước khi nó lịm tắt.
Mứt của chị Thời năm nay không ế. Chị bỏ
bùa trong những món mứt khiến ông Việt kiều quanh quẩn mãi bên nhà con
Vàng nhấm nháp mứt với nước trà. Hắn khoe cá sắp cắn câu vì ổng tưởng
hắn làm. Ông khen món ăn nhà nó đậm hương vị quê hương, có mùi văn hóa,
ăn ngậm mà nghe. "Kiểu này lấy ổng, tao phải đem theo bà Lạc Thời!" -
con Vàng cười. "Rồi ổng biết mi không nấu được nước sôi thì mần răng?".
"Dễ ợt. Qua đó không hợp thì ly dị. Khối người rứa. Chết ai mô!". Tôi
ngắm đôi môi tô son tím lịm mốt Hàn Quốc của nó đang dẩu ra và không
hiểu tại sao nó là em ruột chị Thời.
Ông Việt kiều chính thức ngỏ lời với nhà
chị Thời, nhưng không phải xin cưới con Vàng mà là chị Thời. Đúng là
một quả bom nổ! Mẹ chị ngồi sững không biết nói thế nào. Con nào cũng là
con. Con Vàng há hốc miệng rồi nanh nọc: "Tân thời không ưa, lại ưa lạc
thời. Dắt nhau về thế kỷ 19 mà sống, đây đi lấy chồng Hồng Kông!". Nó
nguýt ông Việt kiều cổ lỗ sĩ một cái tưởng như cắt ông ta làm mấy mảnh
rồi rú xe ra khỏi cổng, chấm dứt những ngày đóng vai yểu điệu thục nữ,
công dung ngôn hạnh.
Tôi không ngạc nhiên. Tôi không tin một
người sâu nặng với kỷ niệm và quá khứ như ông Việt kiều lại chọn một tạo
vật xinh đẹp phù phiếm như con Vàng thay vì một người lặng hơn nước,
thấp hơn cỏ nhưng sức sống tâm hồn vẫn trào dâng ngay cả khi ngồi im
lặng.
Chị Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một ngày. Không đẹp, lớn tuổi, coi như thuộc loại ế thế mà chị từ chối không luyến tiếc cơ may vừa có chồng giàu vừa được xuất ngoại. Mặc cha mẹ và con Xanh phân tích hơn thiệt, cả chú Tâm cũng khuyên vào, chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú Tâm thường thờ thẫn đi lui tới lẩm bẩm mấy câu
Chị Thời không nhận lời cầu hôn lại được xem là quả bom nổ thứ hai trong vòng một ngày. Không đẹp, lớn tuổi, coi như thuộc loại ế thế mà chị từ chối không luyến tiếc cơ may vừa có chồng giàu vừa được xuất ngoại. Mặc cha mẹ và con Xanh phân tích hơn thiệt, cả chú Tâm cũng khuyên vào, chị ngồi im, lặng lẽ ngó qua bên kia hàng chè tàu, nơi trước kia chú Tâm thường thờ thẫn đi lui tới lẩm bẩm mấy câu
"Tình thơ dại ai ngờ sâu nặng thế.
Năm tháng đi mà tình yêu vẫn ở
Mai cho dù tóc trắng với ngàn lau" (*)
Nắng hoàng mai vừa tắt, chú Tâm đã bàn
chuyện hôn nhân của chú. Cô kia cũng dạy học, mồ côi, neo đơn nên cưới
hỏi một lần cho tiện, sau đó dắt nhau vào lập nghiệp ở quê người. Chú
bảo trong đó dân tình ấm áp, đơn giản, dễ sống lắm. Chú đã tìm lại niềm
bình an. Mấy mâm cỗ cưới chú trông cậy vào đôi tay khéo léo đảm đang của
chị dâu (tức là mẹ tôi) và cô bạn thân từ thuở thơ ấu. Chị Thời nhận
lời và bắt tay vào việc chuẩn bị. Tôi hay xót xa nhìn trộm chị nhưng chỉ
gặp một chị Thời lặng lẽ, khép kín không thể thấm qua. Ngày cưới càng
kề, chị càng bận rộn như thể đám cưới chị. Ánh đèn trong bếp vẫn đỏ cho
đến nửa đêm. Chị thức làm bánh gatô, bánh phu thê... Thấy chị ngồi tỉ mỉ
dưa chua, tôi bỗng cáu:
- Kệ họ! Đi ngủ cho khỏe!
- Em cưới vợ, chị còn thức hơn thế nữa.
- Em không khiến. Dọn nhà hàng. Đã rứa... còn hành người ta!
- Làm việc luôn tay... khỏi nghĩ trong đầu.
Chị cười ngu ngơ rồi lại cắm cúi tỉa
dưa. Chẳng biết làm gì, tôi xúm vào giúp chị cho mau xong việc. Chị vẫn
tỉ mỉ như ngày nào làm dưa món. Tôi chợt thấy trên tay chị rơi xuống
những chiếc lá mất cuống, thiếu răng cưa, thuôn thuôn hình giọt lệ,
những giọt lệ đu đủ đẹp như ngọc, những giọt lệ cà rốt hồng tươi như
máu. Tôi nhận ra chị Thời đang khóc.
Quế Hương
Một Cõi Đi Về
Đêm Thấy Ta Là Thác Đỗ
Ngộ
Tạm vứt bỏ chuyện hơn thua phù phiếm,
Ủ trong tay cánh lá bồ đề non...
Lá từ bi xanh mát giữa tay con,
Tâm bỗng ngộ cuộc đời là cõi tạm !!
NM
LÁ BỒ ĐỀ
(KẺ SÁT NHÂN LƯƠNG THIỆN TRỞ VỀ)
(KẺ SÁT NHÂN LƯƠNG THIỆN TRỞ VỀ)
Liên Xô, Đông Âu sụp đổ vì
những suy nghĩ ngu xuẩn, xúc phạm nhân dân như vậy. Đừng bao giờ mở mồm
là đòi “giáo dục nhân dân”. Hãy quì xuống xin được nhân dân dạy dỗ!
Tháng 5.2012, sau 22 năm thụ án chung thân về tội giết người, hắn được đặc xá, trả tự do.
Trước cơ quan điều tra cũng như ngày ra tòa, hắn
kiên quyết không nhận tội sát nhân, một mực cho rằng việc xả súng làm
chết một người, bị thương bốn người ở Villa Pensée (Trong tiếng Pháp
pensée: tư tưởng) là hành động… đấu tranh giai cấp! Hắn tự nhận mình là
“sản phẩm hoàn hảo” của nền giáo dục căm thù bóc lột và nuôi ý chí xóa
bỏ áp bức bất công. Cơ quan ngôn luận trong nước đồng loạt gọi hắn là
“Kẻ sát nhân lương thiện”, trong khi đài báo Việt ngữ lưu vong nguyền
rủa hắn là “kẻ thù ý thức hệ”. Có hãng thông tấn nước ngoài đưa ra câu
hỏi gay gắt: “Các ông tuyên bố đổi mới, kêu gọi hòa hợp hòa giải dân
tộc, tại sao bênh vực cho hung thủ bắn vào Việt kiều?” Luật sư bào chữa
cho hắn thản nhiên đáp lại: “Thân chủ của tôi không bắn vào Việt kiều,
anh ấy chỉ bắn vào áp bức bất công!”
Cuối cùng bản án dung hòa cũng được tuyên: “Bị
cáo đã sử dụng chất kích thích (rượu) nên không làm chủ được mình. Hơn
nữa bị hại Lâm Quang Vinh có một phần lỗi là đã hành hung bị cáo trước.
Vì vậy tuyên phạt bị cáo tù chung thân về tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động…”
*
* *
8 giờ, chiếc xe tải mui bạt với ba hàng ghế gỗ,
chở ba mươi bảy con người vừa được trả lại quyền công dân, từ từ ra khỏi
cổng trại giam. Hai cánh cửa thép to lớn khép lại, tất cả bỗng òa khóc.
Khóc vì tự do!
Năm mươi cây số từ cổng trại ra đến quốc lộ IA
đã thay đổi nhiều quá. Ngày hắn đi vào chỉ là con đường đất với làng mạc
thưa thớt xen kẽ những bãi hoang, rừng rậm. Nay nhà cửa san sát nhau
như phố cùng những thị trấn sầm uất. Người ta vào, ra trên con đường này
bằng xe máy chỉ mất cỡ hai giờ đồng hồ, còn hắn mất… hai mươi hai năm!
Khi đi vào là một thanh niên tuổi ba mươi cường tráng, nghĩa khí. Lúc
quay ra đã năm mươi ba tuổi ốm yếu, già nua, cam chịu. Ngày bố hắn trở
về, cũng trạc tuổi hắn bây giờ. Ông không chỉ là trung tá trung đoàn
trưởng có xe com măng ca, tài xế, cận vệ riêng, mà còn có cả hào quang
của chiến thắng rúng động thế giới. Còn hắn trở về trên chuyến xe của
trại giam với tư cách ghê sợ là hung thủ một vụ thảm sát trong quá khứ.
Cha con hắn cùng thực hiện đấu tranh giai cấp. Nhưng sao cha hắn trở về
trong vinh quang, còn hắn bị coi là tên tội phạm hình sự kinh khủng
trong hệ thống pháp luật của một nhà nước được hình thành từ đấu tranh
giai cấp?
*
* *
Ngày hắn bị bắt, bố mẹ vẫn tá túc trong gian
chuồng ngựa phía sau Villa pensée. Ông, bà Trương Văn Sửu ngã quỵ bên
chiếc xe đạp thồ mấy bao cỏ ngựa khi nghe tin con trai là kẻ sát nhân.
Bao nhiêu đau thương đã tan chảy thành nước mắt. Khẩu súng kỷ niệm thời
chinh chiến của vị chỉ huy trung đoàn xung kích anh hùng từ Tây Nguyên
đến miền duyên hải, cửa ngõ Xuân Lộc, Biên Hòa về Sài Gòn… trở thành
hung khí của án mạng khủng khiếp. Cơ quan điều tra thu giữ súng trước
khi mọi sự trở nên tồi tệ hơn nếu rơi vào tay vị đại tá già đang tận
cùng tuyệt vọng, uất ức, đau khổ! Mẹ hắn vật vã than trách: “Sao con
nóng nảy, ngây thơ thế. Ở đời làm gì có công bằng mà cầm súng đi đòi hở
con!”
Đau thương nguôi dần, nhất là khi được tin con
thoát án tử hình. Ông bà lại mơ về ngày đoàn tụ nên gượng dậy, tiếp tục
chiến đấu với số phận. Trên mảnh đất năm trăm mét vuông ở ngoại ô vừa
được cấp, ông bà đã nỗ lực, gom góp dựng lên một căn nhà đơn sơ. Cứ ba
tháng vợ chồng lại dìu dắt nhau ra tận miền trung thăm con trai đang thụ
án chung thân. Mười năm sau ngày con đi tù, bà mất vì đau tim ở tuổi
ngoài bảy mươi, bỏ lại mình ông lặng lẽ trong căn nhà hiu quạnh. Đất
nước đổi mới, lương hưu đại tá của ông tăng lên. Ông tằn tiện để mỗi năm
thăm nuôi con vài lần và mỗi tháng dư vài triệu đồng gửi tiết kiệm. Ông
nhẩm tính đến ngày con ra tù cũng có được căn nhà, một ít vốn liếng để
nó lấy vợ, sinh con.
*
* *
Năm thứ hai mươi trong trại giam, hắn được tin
ngôi nhà ngoại ô của gia đình mình bị giải tỏa để cùng với đồi thông gần
đó, trở thành khu du lịch do một tập đoàn Hoa Kỳ đầu tư. Gần đến ngày
ra trại, hắn nhận thư, bố cho biết đã vào trung tâm dưỡng lão. Ông đã
tám mươi lăm tuổi và cứ chợp mắt là nghĩ đến ngày đoàn tụ với vợ. Điều
làm ông được an ủi là có sẵn phần mộ bên cạnh vợ. Ông ước mơ được thấy
con trai trở về trước khi đi hết cuộc đời này
- Anh tìm tướng Sửu?
- Không! Đại tá Trương Văn Sửu!
- Trông anh giống cụ ấy lắm!
- Tôi là con trai cụ …
- Ồ! Anh ra tù rồi à? Cụ cứ nhắc
anh mãi. Cụ ở khu cao cấp cùng các cụ lão thành. Ở đây người ta gọi cụ
bằng “ông tướng”. Tướng do dân phong “chuẩn” và “thọ” như thánh!
Cô hộ lý của trại dưỡng lão đưa
hắn đi theo con đường tráng xi măng rợp bóng cây. Hai bên đường là những
biệt thự xinh xắn nằm giữa những vườn hoa được cắt tỉa công phu. Bước
lên tam cấp tô đá rửa màu hồng ngọc, cô hộ lý đẩy cánh cửa ngôi nhà A9:
- “Ông tướng” ơi dùng cơm chưa? Có người đến thăm này, nhận ra ai không?
Trong phòng ăn nhỏ gọn có bốn cụ
đang ngồi quanh chiếc bàn vuông với mâm cơm đang ăn dở dang. Ông Sửu
tóc bạc trắng, mặc bộ pijama xanh nhạt, run rẩy đứng lên ôm con, miếng
cơm nhai dở trào ướt sũng vai áo hắn. Ba cụ ngồi cùng bàn cũng buông
đũa, khóc theo hai cha con. Cô hộ lý đứng bên cạnh la oai oái:
- Bình tĩnh, bình tĩnh nào ông tướng! Xúc động như thế huyết áp tăng là nguy!
Hắn ở với bố suốt hai tuần. Suốt ngày, hai cha
con trò chuyện không chán. Cơm chiều xong lại pha ấm trà mang ra vườn
vừa ngắm trăng sao vừa nói chuyện đến khuya. Cả đời ông Sửu mới được dịp
tâm sự với con. Mấy hôm trước, trung tâm cho ô tô chở hai bố con đi
viếng mộ cụ bà, ông sụt sùi khoe với vợ:
- Con mình về rồi, tôi đang kiện đòi nâng giá tiền đền bù. Nếu được một tỷ, nó sẽ giàu hơn vợ chồng mình ngày xưa nhiều…
Hắn thấy cay đắng trước hy vọng cuối đời của bố.
*
* *
Ông Trần chủ tịch tỉnh cùng cậu thư ký ôm một
gói quà to đến thăm ông Sửu. Sau trận kịch chiến Xuân Lộc, trung đoàn
xung kích hy sinh quá nhiều nên được bổ sung hơn hai trăm tân binh vừa
huấn luyện xong, trong đó có Trần khi ấy mới mười bảy tuổi. Trần khôi
ngô, nói giọng Huế. Gặp Trần lần đầu khi cậu ta theo y tá lên băng bó
vết thương trên vai trái cho ông, trung đoàn phó Trương Văn Sửu đã giật
mình. Giữa đạn bom đinh tai và khói lửa bao trùm, bỗng có linh cảm kỳ lạ
nên ông dồn dập hỏi cậu tân binh tên cha mẹ, quê quán. Hỏi để thất vọng
khi biết nó không phải là đứa con trai bặt tin mà ông đang cố tìm, dù
quê nó cách quê ông chỉ một cánh đồng. Cha nó cũng đi ở đợ cho nhà giàu,
cũng tham gia Việt Minh như khi ông còn trẻ. Ông giữ lại Trần làm cần
vụ. Cứ mỗi lần máy bay địch đến ném bom, Trần lại run lẩy bẩy ngồi ôm
đầu góc hầm. Có hôm cậu còn bậy cả ra quần làm căn hầm chỉ huy khét mùi
thuốc súng càng khó thở. Thiếu tá Sửu bực bội định quát vệ binh khiêng
ra ngoài. Nhưng rồi ông chợt nghĩ: “Biết đâu con trai mình đang là tân
binh ở một đơn vị nào đó, ai chở che cho nó?”…
Từ đó đến khi giải phóng Sài Gòn, “chiến binh”
Trần chưa phải bắn một phát súng và luôn quanh quẩn sau lưng thủ trưởng
cùng đội vệ binh hừng hực khí thế. Kết thúc chiến tranh, Trần vừa là lái
xe cho ông Sửu vừa đi học bổ túc công nông. Trần gọi ông là “thủ
trưởng”, xưng “con” và không nề hà trong việc phục vụ thủ trưởng. Sau
khi Trần tốt nghiệp cấp ba, ông Sửu lúc này đã là thượng tá, phó tư lệnh
sư đoàn, cho Trần vào học viện lục quân. Trước khi nối gót tổ tiên đưa
sư đoàn ra Bắc đánh “giặc đồng chí”, ông ký quyết định cho Trần chuyển
ngành ra làm phó giám đốc xí nghiệp khai thác lâm sản. Đồng đội của Trần
lần lượt hy sinh, hoặc trở về với thân thể mất mát. Còn Trần cứ phây
phây thăng quan tiến chức vì năm nào phá rừng cũng vượt chỉ tiêu. Vợ
Trần là con gái bí thư tỉnh ủy. Bà chuyên kinh doanh những biệt thự chưa
được hóa giá. Bà mua quá rẻ của những người có công cách mạng được cấp
biệt thự rồi về chạy hợp thức hóa, bán lại mỗi căn lời vài trăm lượng
vàng. Tiếng súng bắn vào áp bức bất công truyền kiếp của hắn ở Villa
penseé hai mươi hai năm trước qua cơn mưa thông tin trên báo chí, đã
giúp nhiều đồng đội của ông Sửu sực tỉnh. Họ bán nháo nhào hàng ngàn
biệt thự tránh viễn cảnh các chủ cũ từ nước ngoài trở về đòi lại. Mấy
năm gần đây Trần phu nhân lại sang Lào, Campuchia mua rừng, nhập gỗ về
nên càng giàu. Có lần về địa phương giảng nghị quyết, nghe cán bộ cơ sở
than nghèo kể khổ, ông Trần nổi nóng:
- Nghèo thì xin ra khỏi Đảng đi! Đảng viên mà bất tài, nghèo đói thì nói sao dân tin!
Hôm ấy có cựu chiến binh lụ khụ, đeo huân chương đầy mình, đi cái xe đạp lọc cọc đã… bật khóc!
Chủ tịch Trần bắt tay con trai ông Sửu, vui vẻ gợi chuyện:
- Ba mươi lăm năm trước chúng ta đã gặp nhau, anh còn nhớ không?
Hắn cúi mặt lí nhí đáp:
- Thưa cán bộ tôi nhớ, ngày đó cán bộ lái xe đưa ba tôi về tìm mẹ con tôi ở vùng kinh tế mới.
- Phải rồi, hồi đó tôi cũng chỉ lớn hơn anh một
hai tuổi, còn thủ trưởng thì đầu đã bạc. Ngày anh đi tù, tôi cũng điện
thoại gửi gắm cho anh!
- Dạ! Xin đội ơn cán bộ!
Hai mươi hai năm trong tù, hắn quen lối xưng hô của kẻ không còn quyền công dân. Chủ tịch Trần vỗ vai hắn cười xuề xòa:
- Đừng gọi tôi là cán bộ, tôi cũng là “con” của
thủ trưởng như anh vậy. Không có cụ, tôi làm sao được như hôm nay. Mình
là anh em!
Khi ông Trần ra về, hắn nhìn gói quà có chai rượu Tây với mấy phong bánh, hộp sô cô la, nói với bố:
- Ông ấy tốt quá ba nhỉ!
Ông cụ cười như khóc, đôi mắt già nua nhìn xa xăm:
- Ở đời nên nhìn người ta làm, đừng nghe người
ta nói. Nếu nó tốt thật, ba không phải vào trại dưỡng lão và đi kiện mòn
hơi. Thời này làm quan oai quyền lắm, giàu sang lắm, chứ không chỉ có
mấy bộ quân phục, ít phong lương khô, cái ba lô như ba thời trước! Thế
hệ của ba đã trao lại giang sơn cho lớp của Trần, nhưng chúng nó chỉ
mong sớm được đọc điếu văn cho mấy ông già này để rảnh tay xây cơ đồ tư
bản!
*
* *
Năm Mậu Thân, ông Sửu chỉ huy đại đội đặc công
chín mươi lăm người tấn công vào thị xã. Đến lúc rút ra chỉ còn bốn mươi
bốn tay súng bị cả tiểu đoàn địch vây trên đồi thông. Sau ba ngày hai
đêm cầm cự, đánh bật hơn mười cuộc tấn công của địch, lực lượng của ông
chỉ còn lại bảy người hết đạn, kiệt sức, đầy thương tích. Đến đêm thứ ba
chỉ còn ông và hai chiến sĩ thoát được khi du kích địa phương đến hỗ
trợ mở đường máu. Về đến căn cứ ông ngất đi bởi sáu vết thương nặng trên
người và hơn một ngày nhịn đói, khát… Mảnh đất năm trăm mét vuông ông
được cấp vào đầu năm 1989 nằm cạnh khu đồi thiêng vẫn còn xương cốt của
bốn mươi mốt liệt sĩ ấy. Căn nhà của ông tuềnh toàng, với bốn bức tường
gạch không được tô và mái lợp giấy dầu. Nhưng ông vẫn dồn tiền xây một
cái am khang trang sau vườn để thờ những liệt sĩ đã chiến đấu cùng ông
trong thị xã và trên đồi thông này. Cả đại đội gần trăm người, chỉ còn
ba người sống sót. Nước mắt của ông không đủ để khóc họ! Cứ mỗi tối ra
thắp nhang, ông lại gọi tên từng chiến sỹ thân yêu của mình. Có những
đêm khuya thanh vắng, ông lại ra miếu ngồi trầm ngâm. Tiếng gió rít qua
đồi thiêng nghe như tiếng ai oán của những linh hồn. Ngày ông Trần làm
chủ tịch tỉnh, dự án khu du lịch đồi thông được triển khai. Ông Sửu hỏi
ông Trần:
- Bốn mươi mốt anh em mình đã nằm lại trên đồi này, sao cậu không cho xây đài tưởng niệm mà tính chuyện ăn chơi múa hát ở đó?
Ông Trần cười cười, vỗ vai ông Sửu:
- Đây là đất vàng, xây đài liệt sỹ phí lắm! Hơn
nữa… (ngập ngừng, đăm chiêu, ông Trần hạ giọng) biển Đông đang sóng gió,
cần thêm bạn bớt thù!
Khu đồi thông bây giờ đã là một đại công trường
với máy ủi, máy cạp ầm ì suốt ngày đêm. Những cần cẩu cao vợi và các
hạng mục công trình ồ ạt mọc lên trên nền đất sét đỏ thẫm. Nhờ tác động
của ông Trần, hắn đã trở thành nhân viên bảo vệ ở đây. Sáng nay có một
đoàn ba chiếc ô tô cực sang phăm phăm chạy vào công trường. Sáu, bảy
người trên các xe bước xuống, có hai ông Tây cao lớn và một bà Đầm tóc
vàng rực. Dư - người đồng nghiệp ở chốt bảo vệ phía Đông nói với hắn:
- Ba người Mỹ đó là nhà đầu tư dự án này. Còn chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty là cô Bích Ngọc mặc sơ mi trắng, đầm xanh đấy!
- Cái gì? Ông có nhầm không, cháu nó đang mặc đồng phục học sinh kia mà…
- Nhầm thế nào được! Cô ấy thi rớt đại học nên
phải vào trường đào tạo cán bộ phong trào của tỉnh. Mới tốt nghiệp tháng
trước, tháng sau có quyết định bổ nhiệm chức chủ tịch kiêm Tổng giám
đốc liên doanh Việt Mỹ này đấy. Coi thế chứ hai mươi hai tuổi rồi. Hơn
nữa lại là công chúa tỉnh nhà và mới đi Mỹ, Nhật học thêm quản trị doanh
nghiệp.
- Vậy là con gái ông Trần?
- Ừ ! đứa út đấy, cô chị là Bích
Ngà lớn hơn vài tuổi học thiết kế thời trang ở Châu Âu về, đang là phó
giám đốc sở tài nguyên môi trường, nay mai chắc sẽ lên phó chủ tịch
tỉnh.
- Thế tỉnh mình có nhiều nhân tài trẻ tuổi như vậy không ?
- Ít hơn thời phong kiến, bởi bây giờ mỗi gia đình chỉ có hai con. Ít con nhưng nhiều chức tộc, cũng thế thôi !
- Có chức tộc nào cho con du học ở Cu Ba, Bắc Triều Tiên… không?
Dư trợn mắt :
- Ông điên à?
Dư là con một phế binh Việt Nam
cộng hòa, cha của Dư là trung úy biệt cách dù, bị Việt cộng bắn rụng hai
chân ở trận An Lộc 1972. Sau khi đất nước thống nhất, ông không phải đi
cải tạo nên ngày ngày ung dung lê lết ở chợ, bến xe vừa xin ăn vừa bán
vé số. Vì không có ba năm ở trại cải tạo nên phía Mỹ không cho ông xuất
cảnh theo diện H.O. Ông bất mãn uống rượu, chửi trời, chửi đời, chửi
đồng minh lẫn tổng thống của mình. Còn Dư là thương binh bộ đội cụ Hồ,
anh chiến đấu ở Campuchia từ năm 1980 đến 1985. Sau khi xuất ngũ, anh
lấy vợ, sinh con, vất vả chạy xe ôm nuôi gia đình. Ngày liên doanh Việt -
Mỹ tuyển công nhân, Dư hí hửng ôm hồ sơ đến nộp và hãnh diện khoe với
ông Mỹ phụ trách nhân sự:
- Cha tôi từng hy sinh cho nước Mỹ, ông ấy bị cụt hai chân và được thưởng bội tinh của quân đội Mỹ !
Cô gái ngồi bên cạnh dịch lại bằng tiếng Anh, ông Mỹ cười khùng khục:
- Chúng tôi tuyển người cho công
việc kinh doanh chứ không phải cứu trợ cho người từng hy sinh vì nước
Mỹ. Nếu cha của ông là sĩ quan, công chức của chính phủ Việt Nam mà
chúng tôi đang làm ăn, ông sẽ được tuyển!
Trong những nhà đầu tư đến từ Mỹ, có tiến sỹ
Phan, nguyên là bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa. Ông Phan đại diện cho một
ngân hàng của Mỹ trong dự án này. Ông thường chơi golf với ông Trần và
các quan chức trong tỉnh. Ông Phan nhìn Dư thương hại qua đôi tròng kính
dày cộp rồi nhỏ nhẹ nói với thương gia Mỹ một tràng tiếng Anh. Ông Mỹ
miễn cưỡng gật đầu. Nhờ vậy hôm nay Dư được làm bảo vệ chung với con ông
đại tá bên kia chiến tuyến với cha Dư…
*
* *
Hai con gái ông Trần là Bích Ngọc, Bích Ngà dù
chưa lấy chồng vẫn được bố mẹ cho ở riêng. Hai cô có biệt thự Hồng gia
lộng lẫy màu đỏ son với hồ bơi nước nóng, có máy tạo sóng, lát men hồng
và vườn hoa cũng trồng toàn các loại cây ra hoa lá đỏ rực. Biệt thự này
chung hàng rào bên trái với chùa Bồ Đề. Dù đang là lãnh đạo, nhưng hai
cô gái trẻ còn tính khí rất vô tư. Cứ ngày cuối tuần hoặc nghỉ lễ, họ
lại mời bạn bè về biệt thự Hồng gia tổ chức tiệc tùng tưng bừng. Các
loại ăn mày, vé số, đánh giầy cứ bu lại làm vất vả các vệ sĩ ở đây.
Hôm nay sinh nhật lần thứ hai mươi hai của Bích
Ngọc, cô chỉ vào đám xe siêu sang của câu lạc bộ Rolls-Royce đang đậu
chật khoảng sân mênh mông, cười khiêu khích:
- Hãy xem quà sinh nhật “không đụng hàng” nhé!
Cô đưa chiếc còi mạ vàng óng ánh lên đôi môi đỏ
tươi thổi ba hồi dài. Từ con đường lát đá dẫn ra phía sau biệt thự, hai
người đàn ông mặc đồng phục trắng, cả nơ và găng tay cũng trắng, dắt ra
một con ngựa bạch tuyệt đẹp, to lớn dị thường. Hai ông giữ dây cương
cao chưa đến lưng ngựa, thân thể tròn lẵn, vạm vỡ của bạch mã nặng đến
cả tấn, gấp ba lần ngựa cỏ thông thường. Các bạn của Bích Ngọc trố mắt
bu lại xem, Bích Ngọc giảng rành rọt:
- Ngựa giống của hoàng gia Thái. Ông nội nó quốc vương cưỡi, cha nó Hoàng Thái tử cưỡi và nó…
Bích Ngọc điệu đàng, kênh kiệu leo lên lưng
ngựa. Bây giờ các bạn mới hiểu vì sao Ngọc mặc đồ kỵ sĩ trắng, đội mũ
bảo hiểm, đeo găng tay và đi ủng cao cũng màu trắng trong tiệc sinh
nhật. Đã được tập luyện rất kỹ nên Bích Ngọc tự tin, sành điệu dong con
ngựa khổng lồ len lỏi qua hai hàng xe hơi sang trọng để ra cổng, phi
nước kiệu. Vó ngựa hùng dũng nện lộp bộp xuống đường, Bích Ngọc biểu
diễn trên lưng ngựa cứ như cảnh thần tiên, lãng mạn trong phim Mỹ. Cô
lượn một vòng rồi quay ngựa về giữa tiếng hoan hô chúc mừng náo động của
đám bạn...
*
* *
Bích Ngọc mặc áo đầm như nàng Bạch Tuyết trong truyện cổ tích, chống nạnh quát:
- Mất trộm thứ gì?
- Dạ… Năm bao xi măng, sáu cây sắt phi hai mươi lăm, một máy cưa gạch… tổng thiệt hại gần mười triệu đồng ạ!
Hắn thay mặt anh em trong tổ bảo vệ công trường báo cáo với chủ tịch kiêm tổng giám đốc của liên doanh.
Bích Ngọc xỉa ngón tay nhọn hoắt sơn màu đen tím vào mặt hắn, đay nghiến:
- Nghe nói ông mới ra tù tội giết người, tôi mới
nhận ông để “lấy độc trị độc” bọn giang hồ. Ai ngờ ông vô tích sự như
thế! Hay ông đồng lõa với chúng nó?
Hắn cúi đầu nhẫn nhục. Hai mươi hai năm trong trại giam hắn được rèn nhẫn nhục. Lúc Bích Ngọc đi rồi, Dư nói với hắn:
- Chiều nay tôi với ông đến chuộc lỗi với cô ấy đi! Tôi có cách làm cô ấy hài lòng, không đuổi việc anh em mình!
Dư đoán thật tài, Bích Ngọc vừa xuống ô tô đã
vội vã đi về chuồng ngựa. Thấy hai ông bảo vệ công trường đang hì hục
tắm rửa, chải chuốt cho bạch mã triệu đô của mình, cô hài lòng ra mặt.
Rút trong túi xách hàng hiệu có giá bằng mười năm lương giáo viên ra
chai nước hoa Pháp, cô thảy cho hắn, dặn:
- Lau khô rồi xịt cho nó. Từ ngày mai hai chú
được về sớm để sang đây tắm cho ngựa của tôi. À nghe nói ngày xưa trước
khi đi tù chú từng cắt cỏ, chăm sóc cho mấy con ngựa của chủ Villa
pensée phải không? Thế thì kinh nghiệm quá còn gì! Làm tốt tháng sau tôi
tăng lương cho…
Đêm nay sau khi tắm ngựa cho cô chủ, trên đường
thẫn thờ đi bộ trở về chốt bảo vệ công trường, hắn thấy buồn ghê ghớm.
Nhớ đến bảy năm “ở đợ nước ngoài” suất ưu tiên cho con cán bộ trung
cao cấp mà hắn được hưởng ba mươi năm trước, càng thấy ngậm ngùi. Hắn
bỗng thèm được tâm sự với cha và quay gót về hướng trại dưỡng lão. Phòng
của ông Sửu còn sáng đèn, ông và năm sáu cụ ông cụ bà lão thành khác
đang say sưa vỗ tay hát bài quốc tế ca “… vùng lên hỡi các nô lệ ở thế
gian. Vùng lên hỡi những ai cực khổ, bần hàn…” Thấy hắn bước vào với bộ
đồ công nhân ướt nhẹp, bốc mùi ngựa, một cụ bà gọi:
- Này! Vào đây hát với các bác, vui lắm cháu à!
Hắn không thấy vui, chỉ rùng mình, lạnh gáy khi
nghe lại lời hiệu triệu khốc liệt đó. Một chiều hè oi bức, hắn đã “vùng
lên với hờn căm sôi sục” và được… án chung thân!
*
* *
Cả ngàn công nhân mặc đồng phục các hãng nổi
tiếng thế giới, xuống đường với ảnh Các Mác và rừng biểu ngữ đòi tăng
lương, giảm giờ làm. Ngược chiều với họ là cuộc biểu tình của mấy trăm
nông dân cầm quốc kỳ, ảnh lãnh tụ và hô vang các khẩu hiệu đòi đất, nâng
giá đền bù giải tỏa, việc làm và… trừng trị quan tham. Hai đoàn người
từ hai hướng rầm rập kéo về bùng binh trung tâm thành phố. Ở đó có sẵn
đám đông văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên học sinh… đang tuần hành chống
“giặc đồng chí” và “đường lưỡi bò”
Ông Trần mặt xám ngoét ngồi trên ô tô, căng
thẳng dùng điện thoại chỉ đạo các lực lượng giải tỏa biểu tình. Hàng
loạt xe cứu hỏa, cứu thương, xe búyt chờ sẵn sau hàng rào đông đặc cảnh
sát chống bạo động đội nón sắt, mặc áo giáp, cầm khiên, dùi cui… Hắn chở
ông già trên xe máy mượn của Dư, đi thăm mộ mẹ về. Tấp xe vào đám đông
ven đường, cha con hắn cùng xem biểu tình. Hắn nói nhỏ vào tai cha:
- Liên minh công – nông – trí, sao giống y thời sinh viên con học về cách mạng vô sản?
- Ừ! Thế hệ của ba từng khởi đại nghiệp bằng cách này!
- Cha con mình theo phe nào?
- Nhân dân!
- Nếu nhân dân bị bọn phản động xúi giục thì sao?
Ông Sửu giận đỏ mặt, vung tay, nghiến răng:
- Liên Xô, Đông Âu sụp đổ vì
những suy nghĩ ngu xuẩn, xúc phạm nhân dân như vậy. Đừng bao giờ mở mồm
là đòi “giáo dục nhân dân”. Hãy quì xuống xin được nhân dân dạy dỗ!
*
* *
Trong vụ án mạng ở Villa pensée hai mươi hai năm
trước, Việt kiều Lâm Quang Vinh bị bắn chết. Ông Lâm Quang Sang – cha
của Vinh cùng vợ và hai quan chức cấp tỉnh cũng trúng đạn. Sau khi lo
tang lễ cho con và điều trị lành các vết thương, ông bà đã mang tro cốt
của con về Pháp và hiến Villa pensée cho giáo hội phật giáo. “Ngôi nhà
tư tưởng” đầy hận thù, máu và nước mắt đã được dựng lại thành “chùa Bồ
Đề”. Chùa nằm cạnh biệt thự Hồng gia. Mỗi khi đến chăm sóc cho con bạch
mã của cô chủ Bích Ngọc, hắn lại nghe văng vẳng tiếng tụng kinh êm đềm,
tiếng chuông mõ khoan thai từ chùa vọng sang. Rồi một buổi tối, khi ra
khỏi biệt thự Hồng gia, hắn đi vào chùa. Dấu vết của Villa pensée – ngôi
nhà “chiến lợi phẩm” của bố hắn ngày nào, đã không còn gì. Cảnh chùa
tĩnh mịch, mùi trầm hương thoang thoảng làm tâm hồn hắn dịu lại.
Hắn đứng thật lâu ngắm cây bồ đề xanh tươi trước
chánh điện sáng trưng. Ngắt chiếc lá non ép giữa hai bàn tay chấp lại
trước ngực, hắn thấy mát tâm lẫn dạ, minh mẫn lạ thường. Hắn lẩm bẩm một
mình: “Hai mươi sáu thế kỷ lá bồ đề vẫn xanh mát, còn hận thù giàu
nghèo trong ta mới vài chục năm đã héo úa, tàn lụi. Ta tin vào màu lá từ
bi hay tiếp tục làm khổ mình, khổ người, khổ đời bằng những tranh đọat
tàn khốc, phù phiếm…?”
Lại văn Long
Con Đường Có Lá Me Bay
Lá me bay
Trở về tìm kỷ niệm xưa,
Đâu con đường lá me bay thuở nào ?
Lá me chua vẫn ngọt ngào,
Mang bao hương vị dạt dào tuổi thơ...
Thoáng qua như một giấc mơ,
Nhưng trong tôi chẳng bao giờ nguôi quên !!
NM
Mùa lá me non
Ngày
trở về Sài Gòn, tâm trí tôi ngập tràn ký ức tươi đẹp về những hàng me
ven đường. Những chiếc lá me non ngon lành, những quả me chua chua là
cầu nối cho mối tình thật đẹp của tôi và em…
Tôi về từ chiều hôm qua. Sài Gòn đón tôi bằng cái nắng chiều rợp màu ngũ sắc.
Hình như đâu đó vừa có cơn mưa ghé qua. Con nắng chiều dịu lại, nằm
ngoan ngoãn như đứa trẻ con vừa được tắm. Cảm giác thoải mái đến kỳ lạ.
Tôi bước ra cổng. Gọi một chiếc taxi để đi loanh quanh thành phố trước
khi về nhà. Giờ này chưa đến giờ tan tầm, về nhà chắc gì đã có ai. Nghĩ
vậy, nên khi người tài xế taxi quay lại hỏi:
– Anh muốn đi đâu?
Tôi trả lời:
– Cho tôi loanh quanh Sài Gòn.
Anh chàng lái taxi mỉm cười, xoay vô lăng cho xe chạy đi.
Trước mắt tôi, những tòa nhà chọc trời hiện ra. Tôi mở lời với anh chàng lái xe:
– Sài Gòn bây giờ lạ quá hén.
– Dạ, thay đổi nhiều lắm anh.
Tôi
đề nghị anh lái xe mở giúp cửa kính để nhìn ra bên ngoài, để hít hà cái
mùi quê hương quen thuộc mà tôi đã từng gắn bó suốt gần hai mươi năm.
– Anh có nhớ đường Lê Lợi không? – Người lái xe chợt hỏi tôi.
– Có.
–
Hàng cây cổ thụ ở đó đã bị đốn để quy hoạch và trồng cây mới. Thương xá
Tax đóng cửa. Vòng xoay Trần Nguyên Hãn cũng di dời rồi anh ạ.
Tôi
cố mường tượng về nơi anh tài xế vừa nói. Chiếc xe vẫn bon bon trên
đường, dẫn tôi đi tham quan thành phố của mình. Còn tôi như đang lang
thang ở một xứ khác, một Sài Gòn còn vẹn nguyên trong ký ức.
Hồi đó, nhà tôi trên đường Nguyễn Trung Trực, chạy cái vèo là tới chợ Bến Thành.
Con đường đó có hai hàng me xanh ngắt, rợp trời. Buổi sáng, mùi cà-phê
thơm lừng xộc lên mũi, nếu cứ ngồi ở đó cả ngày cũng không biết chán.
Tôi thích ngồi nhìn những gốc me sần sùi bám đầy rong rêu của thời gian,
những chùm hoa me màu vàng chanh pha xanh đua nhau ùa xuống phố. Tôi
đợi đến mùa thay lá, đợi những cơn mưa lá me rớt lao xao xuống mặt
đường. Lá me mùa thay lá lạ lắm. Cứ gặp cơn mưa là thi nhau rơi xuống,
đường ươn ướt, lá bết dính, chỉ khổ cho người công nhân lao công, lát
chổi quét phải thật mạnh tay may ra đám lá mới chịu rời khỏi vỉa hè.
Tôi
nhớ hồi xưa, cũng nhờ cái tài trèo cây hái me mà tôi có người yêu. Nhà
cô bé ấy ở cuối đường. Chúng tôi học cùng trường, nhưng em nhỏ hơn tôi
hai tuổi. Rồi thì cũng là trò viết thư đặt ở ngăn bàn mà chúng tôi quen
nhau. Cứ đến mùa me chín, năm ba bữa tôi lại tót lên ngọn cây trước nhà,
hái một bịch to tướng. Mang đi học, sợ bạn giành hết chẳng có phần em,
lúc nào tôi cũng chia thành hai bịch, một bịch mang cho mấy đứa con gái
trong lớp tôi xách tòng teng trên tay. Những trái me dài, ngon lành,
không “sứt đầu mẻ trán”, tôi để dành riêng trong cặp. Cuối buổi học tôi
nấn ná ở lại, đặt gọn gàng trong ngăn bàn với hy vọng buổi chiều, khi em
thò tay vào ngăn bàn tìm thư, sẽ thấy quà của tôi gửi.
Cuối
cùng, tôi và em cũng thành “đôi bạn”. Tôi thường đến nhà phụ em bán
hàng. Thỉnh thoảng bày em bài toán khó. Cũng kể từ đó, những bịch me
chín dưới ngăn bàn không còn nữa, mấy cô con gái trong lớp tôi chẳng còn
được ăn quả nào. Cứ mùa me chín, tôi hái mang sang chỗ mẹ em để em bày
ra bán. Có lần tôi hỏi sao em không ăn đi mà để dành cho mẹ bán. Em rụt
rè trả lời em đã ăn chán rồi. Không biết em nói thật hay đùa, nhưng tôi
thấy lòng vui lắm. Rồi có lần. Tôi trèo cây me bị té gãy tay. Ba má mắng
tôi quá trời quá đất. Em rủ thêm thằng em trai đến thăm tôi. Thấy tôi
cười cười mà nước mắt em lăn dài. Nghĩ mà thương chi lạ.
Tôi nói người tài xế dừng xe ở một vỉa hè.
Trên vỉa hè có đôi vợ chồng ngồi bán me dạo. Thấy tôi bước tới, người
phụ nữ gần sáu mươi tuổi, khuôn mặt hiền lành, sạm đen vì nắng mỉm cười.
– Cháu mua giúp cô một ít về cho vợ nhé. Phụ nữ ai cũng thích món này hết.
Người
đàn ông gầy gò, đôi bàn tay trơ xương đang lấy me từ trong cái bao nhỏ
ra cho vợ phân loại. Tôi ngồi xuống bên cạnh, trên khuôn mặt người đàn
ông, lá me còn bết dính trên trán ướt mồ hôi. Trên lưng áo, màu rêu
nhuộm một mảng dài.
Sau khi lựa những
quả me ngon, người phụ nữ cho vào bịch và đặt lên chiếc cân đồng hồ để
nửa vời trong chiếc túi nilông màu đỏ. Tôi thử bẻ một quả đưa lên miệng
ăn ngon lành.
– Mày cũng mê món này à?
– Ngày xưa cháu cũng hay trèo me hái cho người yêu lắm đó bác. Rồi có lần sơ sẩy té gãy tay. Từ đó ba má cháu cấm tiệt.
Người đàn ông châm điếu thuốc, nhìn ra đường, khuôn mặt ông giãn ra:
–
Tao làm nghề này gần ba mươi năm rồi. Me ở quận này, cây nào ngọt, cây
nào chua tao biết hết. May trời cũng thương, chưa sơ sẩy lần nào.
Tôi
về nhà. Vợ chồng đứa em đã về từ bao giờ. Phố đã lên đèn. Sài Gòn lại
rực rỡ với đèn màu xanh đỏ. Bữa cơm gia đình ấm cúng sau những ngày dài
xa cách. Thằng em út vừa ngồi ăn tráng miệng vừa nhìn tôi.
–
Anh còn nhớ anh Tư con bà Né bạn anh không? Ảnh hỏi thăm anh hoài đó.
Còn gửi cho em số điện thoại, bảo lúc nào anh về thì nhắn cho ảnh một
tiếng.
Thằng út vừa dứt lời cầm ngay
điện thoại tìm số. Sau bữa ăn, tôi trở về phòng mình, bấm số điện thoại
gọi. Đầu dây bên kia, giọng thằng Tư chừng đã ngà ngà say.
– Mày đi lâu quá vậy mày. Quên hết bạn bè rồi chứ gì. Cái khỉ mốc. Sài Gòn bao nhiêu mùa thay lá me non rồi biết không?
Tôi chẳng biết nói gì, cứ thấy nỗi nhớ cuộn tròn lại, ném tôi về với ngày cũ.
Hai thằng tôi ngồi nhâm nhi cà-phê, nhìn lá me bay lả tả. Thằng Tư trầm ngâm:
–
Mày còn nhớ vụ tụi mình rủ nhau đi hái lá me non không? Lần đó mày trèo
tít ngọn cây, hái cho em Lan phải gần cả ký lá me non về nấu canh cá
cơm trắng. Hôm đó, ăn bữa cơm ở nhà nhỏ Lan đúng là giá trị thật. Tao
nhớ mãi.
Tôi rít thuốc, lắc lắc ly cà-phê đá đưa lên nhấp một ngụm. Thằng Tư hỏi:
– Qua bên đó em Lan có nấu canh lá me non cho mày ăn nữa không?
Tôi cười khà khà, nhìn nó.
– Làm gì có lá me non mà nấu canh mày. Mày nhắc làm tao thèm muốn chết.
– Ờ ha, tao cũng nghĩ lâu rồi mày chẳng được ăn đâu.
Nó nói rồi đứng dậy bảo:
– Mày tính tiền rồi đi với tao.
Thằng
Tư chở tôi lòng vòng qua mấy cái chợ. Chẳng tìm thấy mớ lá me non nào.
Mùa này, cũng là mùa lá me non, sao người ta không bán nhỉ? Tôi chợt
nghĩ rồi tự trả lời chắc ít người biết ăn món này. Cuối cùng hai thằng
tôi cũng tìm được một mớ. Cô bé bán hàng có má lúm đồng tiền cười rất
duyên, nhìn chúng tôi:
– Cái này trông vậy chứ đắt lắm hai anh. Đặc sản đó nha.
Nói
rồi, cô bé gói cho chúng tôi nửa ký lá me non với giá ba mươi nghìn
đồng. Thằng Tư ra đến chỗ gửi xe. Nó gọi điện về cho vợ. Trưa đó, chúng
tôi có một bữa cơm rất ngon với thật nhiều ký ức. Trong bữa ăn, thằng
Tư còn bảo:
– Khi nào mày đi, tao gói theo cho một ký, qua đó nói vợ mày nấu một bữa mà ăn. Chắc nó cũng thèm lắm chứ chẳng chơi.
–
Ừ, chắc chắn rồi. Vợ tao vẫn thường nhắc về những hàng me Sài Gòn, về
những bịch me trong ngăn bàn, về cả nồi canh lá me non một thời mày ạ.
Tôi trả lời mà thấy như nghẹn đắng ở cổ. Ừ, thì là vị của quê hương. Dường như, mọi thứ mới vừa gần đây thôi thì phải.
Nam Giao
Mục Truyện ngắn/Tiếp Thị Gia Đình
Lá rụng về cội
Nơi chàng ở nằm trên tầng
hai , phiá sau phòng ăn là một bancony nhỏ Ở đây có một chiếc ghế nhựa,
mỗi chiều chàng thường ngồi lên đó, vừa hút thuốc vừa nhìn thiên hạ phiá
dưới. Hoặc mỗi khi có điều gì phiền nảo chàng cũng thường nhìn trời đất
quạnh hiu thổi những ngụm khói cay xè đắng nghét vào không gian để trầm
tư mặc tưởng.
Phía dưới balcony là một khoảng sân rộng dùng làm
parking. Mỗi chiều sau giờ tan sở những chiếc xe đủ loại, đủ màu sắc, cũ
mới lẫn lộn từ các nơi về đậu san sát bên nhau. Và rồi không biết tự
lúc nào chàng phát giác ra chủ nhân cuả chiếc Toyota Cressida đời 89 màu
bạc cứ mỗi ngày vào khoảng 4 giờ chiều về đậu phía dưới parking là một
cô gái Việt Nam. Mặc dù chàng có thể quan sát cô gái từ phía sau lưng ,
nhưng chàng tự cả quyết như thế. Bởi vóc dáng mảnh khảnh của cô gái rất
dễ phân biệt trong đám Mỹ đủ màu. Huống hồ cô gái lại có một suối tóc
đen huyền thả ngang thắt lưng. Mái tóc đặc biệt này chỉ có ở những cô
gái Việt Nam mà thôi. Mái tóc đó cộng với vóc dáng hài hòa đã gợi cho
chàng nhớ lại vóc dáng ai kia, mỗi chiều quá khứ đậm nét trong lòng
Chàng đâm ra tư lự muộn phiền. Ở đâu đó trên quê nhà dịu vợi ,một hình
bóng đã đi qua,bi thương và nhức nhối không thể phôi pha. Điếu thuốc
trên môi chỉ có một khoảng thời gian ngắn ngủi để cháy vừa đủ cho cô gái
bước xuống xe, khóa cửa và bước vào khu Apartment trước mặt. Cô gái
không bao giờ ngước nhìn lên để biết rằng mình đang được theo dõi ,
thành thử khuôn mặt đẹp xấu cở nào chàng rất mơ hồ không xác định.
Cứ
thế mỗi chiều chàng ra balcony đứng hút thuốc để đợi con nhỏ về vào giờ
nhất định. Cho đến một hôm , cô gái chợt tình cờ nhìn lên bắt gặp chàng
đăm đăm nhìn mình. Trong khi chàng còn đang bối rối vì bị bắt gặp quả
tang nhìn lén , thì cô gái nhoẻn miệng cười gật đầu :
- Chào chú
Chàng ấp úng :
- Chào cô bé. Cô bé đi làm về ?
- Da.
Lần
hội ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi. Nhưng không hiểu sao khi thấy được rõ
ràng khuôn mặt cô gái chàng bỗng giật mình. Cảm giác cho chàng biết là
khuôn mặt đó rất ư quen thuộc , chàng đã từng gặp ở đâu nhiều lần trong
cuộc đời.
Khuôn mặt đó đã làm tôi choáng váng Những lúc đêm về ,
ngước nhìn lên bầu trời hồn lang thang một mình trong không gian bao la
giữa muôn ngàn vì sao lấp lánh bổng nhiên tôi quá cô đơn. Một quá khứ
tuổi thơ ở nơi nào xa thẳm trong tận đáy tâm tư bổng hiện về tê buốt hải
hùng buốt lòng. Đành cuả tôi giờ này đang làm gì ở thế giới miên viễn
bên kia Có thơ thẩn một mình nhìn lên bầu trời giống như tôi lúc này hay
không? Có còn nhớ con đường làng, mà dưới lũy tre im vắng là tàng lá
hai bên giao nhau trên cao để rớt xuống mặt đường những đóm nắng màu
hanh vàng. Những đóm nắng mỗi lúc đi qua rớt bám lên người, nàng thường
đưa tay ra hứng. Đứng dựa vào đám nắng đó tôi gởi nụ hôn đầu.
Lần
về phép đầu tiên từ quân trường Đồng Đế, năm đó thị trấn Ninh Hoà bị ảnh
hưởng cuả một cơn bảo không biết từ đâu đưa tới. Nước từ thượng nguồn
KrongBut Ban mê Thuột đổ về con sông Dinh nhỏ xíu nằm giữa thị trấn Con
sông lưu lượng không đủ chứa nên nước tràn ngập các lối đi. Nhà nàng nằm
trên bờ sông không hiểu sao vẫn còn đứng vững trước cơn phong ba bảo
táp Mưa đã tạnh , chỉ còn tiếng nước bì bỏm theo đôi giày nhà binh nặng
trĩu đối với anh chàng sinh viên sĩ quan non trẻ như tôi. Nhà vắng ,
không một bóng người chỉ có nàng đang nằm ngủ trên chiếc giường tre ọp
ẹp. Nàng nằm ngủ tỉnh bơ xem như chuyện gió mưa là chuyện cuả trời đất
còn chuyện ngủ là chuyện của riêng nàng , hai chuyện đó không dính nhập
vào nhau.
Về phép không báo trước, tôi định dành cho nàng một bất
ngợ Ai dè ngược lại nàng dành cho tôi một bất ngờ lớn hơn. Nàng nằm đó,
nét con gái với những đường cong chưa phát triển hết của tuổi dậy thì đã
làm cho tim tôi bỗng nghẹn ngào thảng thốt. Trong giấc ngủ nàng như mỉm
cười, hơi thở nhẹ làm cặp vú bằng cái núm cau nhỏ xíu quên mặc áo ngực
nhấp nhô như mời gọi. Tôi chỉ biết quì bên cạnh giường nàng giữa giòng
nước để ngắm nhìn im lặng. Trong tôi là một nổi đam mê thánh thiện ,
tiềm thức đã in sâu khuôn mặt nàng và làn tóc rối. Hệ thống quay phim
trong đầu tôi làm việc , tôi quay đi quay lại khuôn mặt thánh thiện dầy
man dại kia trong giấc ngủ và lưu giũ nó vào từng sợi máu trong hệ thống
thần kinh nảo tủy Mỗi khi nhớ đến tôi chỉ cần nhắm mắt , khuôn mặt nàng
như một khúc phim quay chậm lần lượt hiện ra cùng với niềm thương yêu
đã theo tôi cho đến cuối đời.
Khuôn mặt đó rất thân quen , chàng
làm sao quên được. Chàng cố moi óc để nhớ , để suy luận cô gái này mình
đã từng gặp ở đâu, nhưng không thể nào nhớ nổi. Cô gái chỉ vào khoảng
ngoài 20, trong khi chàng đã quá 40, một khoảng thời gian cách biệt
không thể tạo ra trường hợp gặp nhau. Nhưng không hiểu sao từ lúc tình
cờ thấy được khuôn mặt cô gái chàng đâm ra vương vấn mơ hồ. Trước đây
mỗi lúc ghiền thuốc chàng phải ra balcony để hút vì sợ khói làm ngộp căn
phòng. Giờ thì chàng cố tạo ra cơ hội , chiều nào cũng vậy vào giờ nhất
định ra ngoài balcony để có lý do nhìn vớ vẩn xuống bải đậu xe , chờ
đợi được nhìn cô gái đi làm về. Còn cô gái từ lúc biết có người từ trên
cao nhìn xuống , không còn tắt máy lẳng lặng vào nhà như mọi khi nữa.
Sau khi đóng cửa xe lại ,thế nào cũng ngước lên cười với chàng một
tí.Chàng chỉ cần có thế, chỉ cần có bấy nhiêu đó mà thôi, hồn mình bỗng
nhiên dịu vợi. Hai người đã mặc nhiên trở thành người chờ và kẻ được chợ
Cô gái gọi chàng bằng chú, chàng gọi cô gái bằng cô bé để thay thế tên
gọi. Cả ngày chàng chỉ cần hai tiếng chào chú êm dịu phát ra từ cái
miệng hình trái tim nhỏ nhắn kia, Đến nỗi đôi lúc chàng tự giật mình,
không biết mình chờ đợi đến khát khao để nghe hai tiếng chào dịu dàng
hay là để tìm lại một khuôn mặt, một bóng hình đã xa trong dĩ vảng ? Chỉ
biết cuối tuần cô gái không đi đâu, vắng cô gái theo thói quen, chàng
đâm ra buồn vơ vẫn. Chẳng lẽ nào cô gái lại chiếm lấy tâm hồn già nua
đầy cằn cổi của mình ? Một trái tim héo hắt muộn phiền đã Ngủ quên một
thời gian dài nay bỗng nhiên thức dậy ?
Ngày ra trường tôi có mười
ngày phép để chuẩn bị về đơn vị mới. Mười ngày khoảng thời gian không
đủ dài để tôi dành tất cả cho nàng. Nhưng biết sao hơn, chiến tranh đang
tàn phá quê hương. Ngoài Đành ra tôi còn phải cầm súng. Ngày tôi ra đơn
vị, Đành đứng bên cạnh trong lúc chờ đón xe xuôi về miền trung, hai con
mắt nàng đỏ hoẹ Nàng nói:
- Khi nào em nhớ anh em sẽ tìm đến nới anh đóng quân.
Tưởng
nàng nói cho suông miệng.Không ngờ tháng 1/75 đơn vị tôi đang trấn thủ
đèo An Khê, Bình Định với nhiệm vụ ngăn chận sư đoàn 320 cuả Cộng Sản
Bắc Việt từ mật khu An Trường cắt quốc lộ 19 nối liền PleiKu - Qui Nhơn.
Giữa lúc hai bên đang ghìm nhau để thăm dò ý đồ chiến thuật của mỗi bên
thì Đành từ Ninh Hoà ra thăm tôi. Nhìn nàng bơ phờ hốc hác lặn lội
đường xa, sự xúc động khiến tôi nghẹn ngào. Nàng ở với tôi một tuần và
cho tôi tất cả, kể cả tuổi thanh xuân mà hai đứa tôi cùng giữ gìn. Biết
sao hơn, cả hai chúng tôi cùng ích kỷ trong tình yêu mà chiến tranh thì
khốc liệt sẳn sàng chia cắt bất cứ lúc nào. Những buổi sáng, sau một đêm
biết mình còn sống , tôi và nàng ngồi trên đỉnh đèo nhìn xuống đường 19
sâu thẳm chạy ngoằn ngoèo như một con rắn nhỏ. Buổi sáng ở đó, sương mù
bao phủ đầy cánh rừng phiá dưới giống như mây bay trong truyện cổ tích.
Tôi và nàng như là đang ở trên mây. Nếu không có chiếc áo jacket nhà
binh quấn chung quanh người nàng cho đỡ lạnh và trên người tôi không
trĩu nặng hai cấp số đạn trong tư thế sẳn sàng tác chiến thì tôi cứ ngỡ
tôi và nàng đang ở một thế giới khác, thật bình yên, không chết chóc,
không có chiến tranh và thù hận.Khi mặt trời vừa ló dạng ở phiá đông,
chim rừng đã thi nhau ca hát. Tôi choàng tay qua vai Đành, nàng nép mình
trong lòng tôi bé nhọ Tự lúc đó tôi biết rằng hồn tôi vĩnh viễn không
thể thiếu nàng. Vẫn mãi trong tôi đôi mắt mỡ to ngơ ngác khi đến lúc
phải chia tay, đôi mắt đó đã làm tôi choáng váng, không khóc nhưng sao
như long lanh ngấn lê Nhìn vào đôi mắt nàng, tôi thấy mình sao quá đổi
hắt hiu.
Chàng chạm mặt cô gái ở lối vào Apartment một cách cố ý :
- Chào cô bé
Cô gái đang suy nghĩ điều gì, giật mình mở to đôi mắt hốt hoảng :
- My God, chào chu.
Thoáng
một cái, chàng thấy mình biến thành hai người đứng trong lòng đen đôi
mắt cô gái.Trong khoảng thời gian một phần ngàn tích tắc, chàng chợt
rùng mình. Chàng tình cờ bước vào đôi mắt đó, mà cả chính chàng và cô
gái không hề hay biết. Cô gái hỏi chàng :
- Chú đi đâu thế ?
Chàng thật tình :
-
Chú đâu có đi đâu. Chú cố tình đụng đầu với cô bé, cũng không biết để
làm gị Hình như chú đã từng gặp cô bé ở một nơi nào mà chú không nhớ
nổi.
Sợ cô gái hiểu lầm với lối tán gái củ rích, xưa như trái đất, chàng thêm :
- Chú nói thật đó
Cô gái cười :
- Cháu đâu có nói chú dối đâu. Hay là mời chú ghé lại phòng cháu chơi.
- Cô bé không ngại à ?
- Ngại gì. Cháu sống một mình, quen được chú, thêm một đồng hương nơi xa lạ này cũng là một điều tốt thôi.
Phòng cuả cô gái ngăn nắp, sạch sẽ không giống như cái ổ chuột cuả chàng. Chàng hỏi :
- Cô bé ở một mình ?
- Dạ Ở một mình
- Còn gia đình cô bé ?
- Đây này ...
Cô gái chỉ chung quanh căn phòng
- Không, ý chú muốn hỏi về ba me.
Mặt cô gái thoáng buồn :
- Cháu không có ba me.
Sợ vô tình khơi lại một nỗi niềm thầm kín nào đó cuả cô gái, chàng lúng túng
- ... cho chú xin lỗi, chú không cố ý.
- Không sao đâu, cháu quen rồi. Còn chú ?
Chàng đùa:
- Chú cũng vậy, chú không có ba me
- Ý cháu muốn hỏi vợ con chú kià
- Vợ con chú chết từ lâu lắm rồi
- Thế ai bảo lảnh chú qua đây ?
- Không ai bảo lảnh hết. Chú là dân HO đi theo kiểu con bà phước.
Sợ cô gái không hiểu con bà phước là gì, chàng giãi thích:
- Con bà phước nghiã là tứ cố vô thân đó cô bé
Cô gái nhìn chàng thương hại :
- Như vậy , đứng về một phương diện nào đó, hoàn cảnh cuả hai chú cháu mình giống nhau.
+ + +
Kết
quả những ngày ở với tôi trên đỉnh đèo An Khê, Đành mang thai. Đầu
tháng 3/75 Tiểu đoàn trưởng cấp cho tôi ba ngày phép đặc biệt để về Ninh
Hoà cưới vợ.Thị trấn hiền lành này cuả những ngày tháng 3/75 sống trong
tình trạng lo âu hốt hoảng. Ban mê Thuột mất , phòng tuyến đơn vị Dù
trấn giữ Khánh Dương tan vỡ, Cộng Sản Bắc Việt đang theo quốc lộ 21 tiến
quân về Nha Trang. Tất cả dân Ninh Hoà gởi gấm niềm tin vào sự chiến đấu
cuả các trung tâm huấn luyện Đặc khu Dục Mỵ Tôi cưới vợ trong cơn hấp
hối cuả chính quê hương mình. Trước ngày trở lại đơn vị, tôi ngồi với
nàng suốt đêm bên bờ sông Dinh để chờ trời sáng. Giòng nước đen xanh
dưới chòm sao lấp lánh, thấp thoáng một vài đám lục bình trôi dật dờ
không biết giạt về đâu giữa cơn bão nổ hứa hẹn đổ ập xuống vùng đất hiền
lành.
Nàng hỏi tôi :
- Khi nào chiến tranh kết thúc hả Tấn?
-
Anh làm sao biết được. Anh chỉ là người lính chiến đấu theo lệnh. Nhưng
anh nghĩ Ninh Hoà là ngã ba giao liên giữa hai quốc lộ 1 và 21. Đó là
hai quốc lộ chính huyết mạch để phòng thủ Nha Trang, bất cứ giá nào cũng
phải giữ không thể mất. Mà thôi, em đừng nói chuyện chiến tranh nữa,
nói chuyện mình đi.
Anh chỉ còn ở với em vài tiếng đồng hồ thôi.
Giống như trăm ngàn đàn bà con gái trên cỏi đời này, nàng ngã đầu trên vai tôi khi nói về tương lai
- Anh thích con mình là con trai hay con gái ?
- Con gái giống hệt em
-
Em thích con trai. Con gái cứ phải hồi hộp đợi chờ cả đời, khổ lắm. Con
trai bay nhãy đây đó khỏi phải bận tâm. À này, con mình ra đời anh đặt
tên nó là gì ?
- Em chọn đi
- Không, cho anh chọn trước
Thấy nàng tha thiết đến nghiêm trang, tôi đề nghị :
- Hay là em chọn tên con trai , anh chọn tên con gái
- Cũng được
Như đã có chủ ý từ trước, nàng dứt khoát :
- Nếu là con trai em sẽ đặt tên cho nó lạ Đăng Quang. Đến phiên anh.
- Anh à ... Nếu con gái anh sẽ đặt tên cho nó ...
Bây
giờ đang cuối xuân, quê tôi đã là chớm ha Cây sầu đông ven sông, những
cánh hoa li ti bắt đầu rụng để kết nụ thành trái. Tôi nhìn những cánh
hoa nhỏ xíu trắng loang loáng trên mặt nước, không khí thật yên lành như
thể chiến tranh đã dừng chân ở một nơi nào xa lơ xa lắc.
- Anh sẽ đặt tên cho con là Uyên Ha.
Tôi giãi thích thêm :
- Uyên là đôi uyên ương giống hai đứa mình. Hạ là mùa hạ, cái mùa con mình được tạo nên hình dáng. Em đồng ý không?
- Nghe hơi cải lương, nhưng em đồng ỵù
Tôi đưa ngón tay trỏ ra móc ngoéo với nàng. Đành chỉ vào đám lục bình trên sông :
- Cuối cùng nó sẽ về đâu anh nhỉ ?
- Ra cửa biển. Tất cả đều ra cửa biển.
Nàng thì thầm :
-
Biển, đó là nơi đến cuối cùng. Sóng lặng yên lành hay bão tộ Trong
chiến tranh kiếp sống cuả một con người đâu khác gì đám lục bình trôi
bềnh bồng trên mặt nước ?
Sáng hôm sau tôi trở lại đơn vị trên
chiếc xe đò trống trơn. Bù lại, ngược chiều là những chiếc xe chật ních
người. Dân chúng miền Trung bắt đầu di tản về các tỉnh phiá Nam. Trên
báo chí hình ảnh cuộc tháo chạy khỏi Pleiku theo liên tỉnh lộ 7 của quân
đội đã gây sự bất ổn cho mọi người. Pleiku bỏ trống, đèo An Khê trở
thành tiền đồn chính để giữ vùng duyên hải trên quốc lộ 19. Việt Cộng
pháo kích như mưa vào thị trấn Bình Khê , trước khi ào ạt xua quân chiếm
lấy. Bỗng nhiên đơn vị tôi trở thành ốc đảo không ai ngó ngàng. Chúng
tôi không còn cấp chỉ huy và hậu cứ, đành phải tan hàng. Chúng tôi chia
nhau từng toán nhỏ xé rừng thoát thân số mạng giao cho hên xui may rũi.
Khi về đến Qui Nhơn, không thể nào diễn tả nổi tuyệt vọng cuả tôi khi
thị xã không bóng người. Tiểu Khu Bình Định và Bộ chỉ huy Cảnh Sát đang
còn ngùn ngụt cháy. Hai cơ quan quyền lực nhất tỉnh bị mất bởi những tên
du kích đia. phương không đáng một đồng xu bát gạo. Những tên không
đáng một đồng xu bát gạo đó khi nghe chúng tôi còn kẹt lại Quân y viện
Qui Nhơn đang tìm cách thoát ra biển đã tặng chúng tôi khoảng 10 trái
súng cối 82 ly trước khi bao vây bắt loa kêu gọi chúng tôi đầu hàng.
Ngày 31/3/75 lợi dụng trời đang chạng vạng tối, tôi và một thằng nữa vừa
bò vừa lết ra bờ biển. Chúng tôi bò lết trong trạng thái vô thức,vô tri
giác, bò không biết về đâu, làm gì, trong khi tứ bề thọ địch. Đang bò
bỗng thằng bạn cắm đầu về phía trước. Tôi chưa kịp đưa tay ra đở thì
nghe tiếng hét lanh lảnh :
- Đứng dậy. Giơ tay lên.
Tôi
ngoan ngoãn đưa tay lên khỏi đầu thật hiền lành. Suốt mấy ngày gần như
không ăn uống thêm sự lo âu không biết bị bắt lúc nào đã khiến thần kinh
tôi căng thẳng muốn nổ tung. Giờ bị bắt tự nhiên tôi thở phào nhẹ nhỏm.
Biển rì rào bên cạnh. Tôi hít một hơi thật dài, khẻ nhắm mắt để lắng
chờ một tiếng nổ thật bình thản. Tiếng hét lúc nãy lại vang lên:
- Một tay để trên đầu , một tay tháo giày ra mau.
Khi
tôi vừa buông đôi giày, hai thằng xông đến. Bằng tất cả sức vũ phu sẳn
có, chúng kéo giật hai khuỷu tay tôi ra đằng sau, dùng dây dừa trói
chặt. Đầu mũi súng chọt mạnh vào ngực tôi đau điếng :
- Đi ...
Tôi
nhẹ nhàng đi trên biển, gió từ ngoài khơi thổi vào mát rượi. Lần đầu
tiên được đi chân trần sau mười ngày đôi giày không cởi, ngay cả trong
giấc ngủ, tôi có cảm tưởng mình đang đi trên nhung. Cát biển mịn dưới
chân về đêm âm ấm chui vào từng kẽ ngón. Biển khiến tôi chợt nhớ có lần
hứa với Đành
khi nào về phép sẽ đưa nàng đi dạo biển Nha Trang về đêm.
Chuỗi
ngày sau đó dưới mũi súng của những tên Việt Cộng trẻ con đầu óc đã
được nhồi sọ chất đầy căm thù, đám tàn quân chúng tôi áo quần tơi tả
hằng ngày phải bươi móc, dọn dẹp từng đống gạch đổ nát ở Quân y viện Qui
Nhơn, đem từ trong đó những xác người mà đầu, mình, tay chân không còn
nguyên vẹn. Những xác người này mới đây thôi còn là chiến hữu chia xẽ âu
lo về số phận cuả một con người giữa cơn bão lữa. Nay họ đã bình thản
ra đi về cõi vĩnh hằng. Dù uất ức, nhưng ít ra không còn phải bận tâm lo
nghĩ một điều gì. Giống như lăn bột những con tôm trước khi cho vào
chảo dầu, xác người chết được tẩm đầy vôi trắng trước khi vứt xuống một
cái hố đào sẵn. Hơn 30 đồng đội bất hạnh được chôn còn thua một con chó
ghẹ Những đôi mắt mở trừng trừng không chịu nhắm lại dù tôi cố lén đưa
tay vuốt mắt từng người. Những đôi mắt ngữa thao láo nhìn lên bầu trời
dường như vẫn còn hy vọng tận cuối phương trời phía Nam những chiếc máy
bay xuất hiện như một kỳ tích để phản kích lại đối phương như mọi lần.
Bây giờ là đầu tháng tư những chiếc loa hàng đêm trong trại giam ra rã
hét ỏm tỏi vào tai về những chiến thắng bất ngờ dễ dàng ngoài dự trù mơ
ước của chúng trên đường tiến quân về Sài Gòn. Những hy vọng mơ hồ của
chúng tôi trở thành tuyệt vọng hoàn toàn.
Nhưng tôi vẫn phải sống
vì tôi không được chết. Nói cho đúng hơn, tôi thèm sống trong tuyệt vọng
một cách bình thản lạ lùng. Bọn chúng vẫn khai thác hàng ngày trên xác
thân ốm yếu càng lúc càng tàn tạ này bằng mọi phương cách. Tôi là một
người lính bại trận không còn gì để nói, cho nên bọn chúng xem tôi là
một tên ngoan cố, cứng đầu. Để tránh đau đớn cho mỗi lần tra tấn mà da
thịt tôi dù thiếu ăn đói khát vẫn còn cảm nhận, đêm đêm trước mỗi ngày
chúng dẫn tôi từ phòng biệt giam ra để hỏi cung, tôi tự diệt sức lực còn
sót lai của mình bằng cách thủ dâm. Chỉ có cách đó mới đối phó với
những ngọn đòn thù của bọn chúng. Tôi muốn mình không còn đủ sức để tỉnh
khi ngọn đòn tra tấn đầu tiên phủ lấy lên người. Trước khi chìm vào cơn
mê loạn,hình bóng cuả Đành hiện về nhức nhói đến buốt dạ Tôi liên tưởng
đến nàng, vì nàng là cứu cánh trong tâm hồn và thể xác khô cằn này. Khi
thể xác cuả tôi bất chợt rung lên những khoái cảm đớn đau đến nghẹt thở,
tôi gọi tên nàng mà không khóc được, bởi cơ thể không còn năng lượng để
tạo ra nước mắt..
Mười năm biệt xứ từ trại tập trung cải tạo tôi
được thả về Tôi trở lại con xóm nhỏ ven sông thị trấn Ninh Hoà ngày xưa.
Cảnh củ đã không còn. Căn nhà tranh nơi nàng nằm trãi tóc tuổi thơ, bão
tố năm nào không làm sụp đổ, nay giặc về chỉ còn là mô đất trống với cỏ
dại mọc bao quanh. Cây sầu đông nơi đêm cuối cùng ngồi bên nàng trước
ngày trở lại đơn vị đã bị chặt ngang lưng. Cạnh đó là đầu cuả một con
đập bằng tre chắn qua sông. Rác rưới phiá trên giòng không lối thoát
vướng vào hàng cây chắn ngang cứ dật dờ , dật dờ làm cho màu nước thêm
đục ngầu. Những điều tôi biết về nàng rất ít. Chỉ biết sau khi mất nước ,
nàng sinh con gái, và khi chắc chắn tôi đã chết không còn hy vọng sống
sót trên cỏi đời này, nàng đã ẳm con đi đâu không rọ Sau có người nói là
nàng đã vượt biên,toàn thể chiếc ghe đều chết chìm trên biển. Tôi đứng
trên thành cầu nhìn xuống giòng sông. Con đập làm giòng nước lặng lờ
không muốn chảy. Phải chi tôi còn nước mắt để nhỏ xuống con sông , những
giọt nước mắt sẽ làm đầy con nước, để tất cả khổ đau cuốn phăng ra biển
để gởi đến vợ con tôi. Con đập chắn ngang giòng sông nơi kỷ niệm giống
như vết dao chặt ngang thân xác này mà không chảy máu. Mười năm,... tù
tội đã biến bên ngoài hình dáng tôi thành một con người khác, nhưng bên
trong những nổi khổ đau không thể nào phai dù năm tháng có chất chồng
dày dày lớp lớp.Vì nàng đã bất diệt trong tôi.
+++
Chàng hỏi cô gái :
- Hoàn cảnh chú và cô bé giống nhau ở điểm nào ?. ..
- Cháu từ đảo qua đây cũng theo diện con bà phước giống như chú.
Nhìn bên ngoài cô gái gần như là Mỹ hoá , chàng không tin cô gái nói thật. Tuy thế chàng vẫn tò mò:
- Cô bé có thể kể cho chú nghe tại sao cô bé không có ba mẹ hay không ?
- Tại vì ba mẹ cháu đã chết
- ... cho chú xin lổi
- Không sao đâu chú.
Cô gái buồn buồn. Hình như có một hấp lực nào đó xui khiến, chàng buột miệng:
- Kể cho chú nghe về ba mẹ đi
Cô
gái khẻ gật đầu rồi ngồi yên. Chàng đưa mắt thử xem con nhỏ tiếp tục
làm gì.Bổng nhiên khuôn mặt cô gái xa xăm nhìn ra cưa? ...
... Mẹ
nuôi tôi trong nỗi nhớ thương người chồng đã mất,chất chồng và áp bức
chung quanh. Đối với xã hội hiện tại, mẹ con tôi chỉ là những cọng rơm
khô được hiện hữu bên lề. Tôi vô tư và cầu mong mình yên lành mhư vậy,
miễn cạnh tôi lúc nào cũng có mẹ bao bọc chở che. Nhưng chính quyền lúc
đó lại không muốn như thế, họ muốn đốt cháy luôn cọng rơm bé nhỏ này,
bởi không gian đất trời đã là tài sản mà suốt 30 năm họ cố chiếm cho
bằng được bằng đủ mưu đồ. Ba tôi khi còn sống là lính, một trong những
lý do đã ngăn chận phần nào thời gian sớm hơn ý đồ của họ. Cho nên khi
chiến thắng chuyện họ ngồi tính sổ là chuyện đương nhiên. Căm thù trút
lên đầu mẹ tôi, người đàn bà trở thành goá bu.a ở tuổi hai mươi.
Mẹ
tôi 20 tuổi với bào thai 5 tháng còn nằm trong bụng. Mờ tinh sương đã
thức dậy tảo tần đón những gánh rau của dân làng ven thị trấn, để sáng
đem ra chợ ngồi bán. Kiếm sống theo nhu cầu sinh tồn lại thường xuyên bị
kết tội là chai lười lao động, quen thói ngụy ăn bám hút máu nhân dân.
Mẹ tôi là một trong những đối tượng bị kiểm điểm phê bình hằng đêm bởi
những tội lỗi mà ngay bản thân mẹ không hiểu được. Nhan sắc cuả một goá
phụ Ở tuổi 20 giống như một bông hoa đang nở, thêm một lý do để đám
cường quyển cấp hạ tầng cơ sở đóng vai anh hùng cứu mỹ nhân, gia ân bố
thí để mong đòi hỏi một giây phút ngã lòng nào của người thiếu phụ cô
đơn. Mẹ âm thầm chịu đựng, luồn lách tránh né, cầm cự qua ngày để mong
sinh được tôi ra, dạy dỗ tôi nên người. Trong lòng mẹ tôi là chứng tích
kết hợp bởi máu và tim từ một mối tình bất tự Mẹ vẫn âm thầm hy vọng
trong một nhiệm mầu ba tôi vẫn còn sống trên thế gian này để mà trở lại.
Nhưng thực sự ba tôi đã chết. Mẹ kể ở năm tôi lên 8 tuổi, cái tuổi chưa
thấu hiểu nổi chuyện đời, nhưng có thể ghi nhận được những gì mà mình
không thể nào quên. Mẹ kể vào một ngày cuối tháng 3, khi chiến tranh kể
như chấm dứt tại thị xã Qui Nhơn thì ba tôi đã nằm xuống trong tư thế
cuả một người chiến bại. Đối với kẻ chiến thắng, đó là cái chết tất yếu
cuả một tên làm tay sai Mỹ ngụy đầy nhục nhã. Nhưng đối với mẹ , ba là
một anh hùng vì người đã nằm xuống trên mảnh đất mà người có nhiệm vụ
cầm súng để bảo vê Ba tôi đã chiến đấu cho đến phút cuối cùng không hề
bỏ chạy như một số người. Ba đã chiến đấu chống lại cái phi nhân, bất
nghĩa mà hôm nay mọi người đã thấy. Ba tôi không thành công vì ngươi là
lính chịu chung số phận nghiệt ngã theo một qui luật,nhưng ba đã thành
nhân, ít nhất ra đối với mẹ và sau này là tôi. Tám tuổi, một đêm mưa
buồn trong túp lều tranh xa xôi quê nhà, mẹ Ôm tôi vào lòng kể lại
chuyện tình giữa ba với me Mẹ kể có những buổi sáng mây mù bao quanh
trên đỉnh đèo An Khê , mẹ dựa vào vai ba bềnh bồng trên mây. Ba vững như
ngọn núi để mẹ là mây quanh năm bao phủ. Mẹ chỉ con đập chắn ngang
giòng sông trước nhà, mẹ nói nơi đó trước đây có một cây sầu đông. Đêm
cuối cùng ba ngồi với mẹ nhìn những cánh hoa sầu đông nhỏ xíu lăn tăn
gợn trên mặt nước để đặt tên tôi. Có một thoa? ước giữa ba và mẹ, mẹ đặt
tên con trai, ba đặt tên con gái. Khi ra đời vì tôi là con gái nên thừa
hưởng cái tên do ba để lại như một di sản của người. Tôi còn nhớ có lần
mẹ dẫn tôi đến biển, mẹ nói đây là Gành Ráng, mẹ chỉ mô đất, một lùm
cây nhỏ đúng hơn, mẹ bảo đấy là ngôi mộ mà người ta đã vùi xác ba cùng
tập thể hơn 30 đồng đội cuả người. Mẹ nói những người đã chết trong lúc
bất ngờ không thể nào nhắm mắt. Mẹ còn nói đời mẹ giống như những đám
lục bình bập bềnh trên giòng sông quê nhạ Tất cả cuối cùng đều ra biển
để phó thác cho may rũi. Thế rồi mẹ quyết định ra đi.
Cô gái xuất
thần tiếp tục nói với khoảng không trước mặt, gần như chẳng hề biết có
chàng đang ngồi bên cạnh. Cơ hồ như nếu không có chàng, cô vẫn có thể
nói một mình, nói với chính mình nổi đau chất chứa bao năm. Còn chàng,
những giọt nước mắt tưởng đã khô cạn bao năm trong quá khứ đắng cay,
trong hiện tại phủ phàng, trong tương lai muôn trùng bỗng nhiên rơi đầy
khuôn mặt.
Ngày thứ 15 lênh đênh trên biển vì lạc hướng đi, mọi
người trên thuyền chỉ còn biết mong chờ phép la Trong cơn nguy nan tâm
lý chung người ta thường cầu xin đấng thiêng liêng vô hình thương xót.
Thượng đế, hoặc là không có thực, hoặc là những người trong chuyến đi
nặng đầy nghiệp chướng, cho nên đáp những lời cầu xin bi thương đó ,
biển đem lại cho họ một lũ người dã man hung dử còn hơn loài cầm thu.
Những tên ác nghiệt này giật mạnh tôi từ trong tay mẹ vứt vào góc
thuyền. Mẹ hét lên trong phản xạ của một con cọp cái bị cướp mất đứa
con, nhào tới cào cấu cố dành lại được tôi. Mẹ mạnh mẽ phi thường trong
tim óc, nhưng thể xác mẹ yếu đuối mỏng manh. Một tên đập báng súng vào
mặt mẹ, tôi nghe một tiếng súng nổ và mẹ tôi rơi xuống biển..Tôi chỉ
biết thét lên hải hừng, sau đó tôi ngất lịm không còn biết gì nữa.
Sau
này tôi được biết tôi là một trong năm xác chết còn sống bị bỏ sót lại
trên ghe mà người ta cứu được. Tôi đã mất thời gian bao năm tháng để lấy
lại quân bình ,và cứ thế tôi lớn lên đầy muộn phiền trong trại tị nạn
Bidong Mã Lai cho đến khi được một gia đình từ tâm bên Mỹ nhận bảo trợ
để qua đây.
Hiện tôi đang sống bình thản như một người đã chết,
còn những người đã chết thì đang sống muôn đời trong tận cùng nỗi đớn
đau mà tôi ấp u.
Cô gái ngừng nói. Tự nhiên cô nhoẽn miệng cười
đưa chiếc khăn tay lên chậm chậm hai con mắt của mình. Ở đó là những
giọt lệ long lanh :
- Cháu bỗng dưng bắt chú nghe chuyện cháu, kỳ
ghệ Nhưng cháu cũng không hiểu sao ở chú có một cái gì khiến cháu cầm
lòng không nổi. Chú có một cái gì đó đã gây cho cháu vô cùng xúc cảm.
Chàng không trả lời cô gái, chàng chỉ hỏi một điều gần như lạc đề :
- Cô bé có còn giữ tấm hình nào của mẹ hay không ?
- Dạ còn, chú muốn xem à ?
Chàng
gật đầu. Cô gái đứng dậy lục trong xách tay, lấy đưa cho chàng một tấm
hình đen trắng. Tấm hình đã muốn ố vàng vì thời gian năm tháng. Trong
hình một người đàn bà khoảng 24,25 tuổi đứng gần bên một đứa bé gái. Sau
lưng là căn nhà tranh, một bên chái quỵ hẳn xuống được chống lên bằng
cây nạng gộ Căn nhà trông giống như một phế binh lạc loài cô đơn.
- Đây là mẹ cháu. Đứa bé gái này là cháu lúc đó lên năm tuổi.
Người
đàn bà mái tóc đó, khuôn mặt đó làm sao chàng quên được. Khuôn mặt đã
tan thành máu nuôi cơ thể chàng suốt bao năm.Chàng hốt hoảng quay sang
nhìn cô gái. Lúc này chàng mới phát giác ra rằng: mái tóc, khuôn mặt
,đôi mắt , vóc dáng là cuả Đành hai mươi năm về trước. Thảo nào khi gặp
cô gái chàng đã có cảm giác thân quen như đâu từ muôn kiếp. Thật giản
dị, tại sao mãi đến giờ phút này chàng mới biết được ? Chàng cũng chợt
nhớ , từ lúc quen cô gái đến giờ chàng vẫn chưa có dịp hỏi tên. Giờ thì
chàng hỏi mà giống như kiểm chứng , xác nhận một điều :
- Cô bé có phải tên là ... Uyên Hạ ?
Cô gái ngạc nhiên gật đầu, chàng tiếp :
- Mẹ cô bé tên ... Đành ?
Cô gái thảng thốt:
- Tại sao?... Tại sao chú lại biết tên mẹ cháu ?
Giống
như vừa kéo xong một bi thuốc lào vào buổi sáng bụng trống, chàng nói
trong cơn say dật dờ choáng váng như là nói cho riêng mình đã trở thành
một hồn ma hiện về báo mộng:
- Vì sao ả ..Vì tấm hình này là hình
của vợ con tạ Vì mái tranh nghèo đổ nát phiá sau là chứng tích nơi ta đã
từng đến đó , từng ở đó từ những năm tháng còn thợ Trước mặt còn có một
giòng sông, lần cuối ta ngồi bên ai vào một đêm tối trời để đặt tên cho
con là Uyên Hạ Và bởi vì ta là người lính thua trận mà hơn hai mươi năm
về trước, mẹ con tưởng rằng ... ta đã chết.
Quan Dương