Thứ Hai, 20 tháng 2, 2023

NTV - Mỗi mùa rau nhút


Mùa hoa nhút vàng,
Hoa nhỏ li ti ánh sắc vàng,
Điểm tô ao nhỏ chút Xuân sang....
Giúp người nông sản thêm ân sủng,
Đồng lúa giđây ngập nắng tràn...
NM
 
Mỗi mùa rau rút

Tháng 8, những cây rau rút đã không còn xanh mơn mởn với những “tay” vươn ra tua tủa. Tuy nhiên, người trồng rau vẫn còn tận thu được khoảng gần 1 tháng nữa. Được trồng từ tháng 4, khi những cơn mưa kèm theo tiếng sấm ì ùng vang vang, cây rau rút cứ thế mà lớn như thổi. Nhiều hộ gia đình bỏ cả ao cá để chuyển sang trồng cây rau rút bởi giá trị kinh tế của loại rau độc đáo này.

Cây rau “độc”

4 năm trước, bà Bùi Thị Hoan xóm Bồi Tây, xã Mỹ Phúc (Mỹ Lộc) có dịp đến chơi nhà một người bạn ở Tức Mặc, phường Lộc Vượng (TP Nam Định) thấy chủ nhà có trồng cây rau rút. Được chủ nhà “tư vấn”, loại rau này rất “dễ tính” chỉ với 2, 3 yêu cầu cơ bản là có thể trồng được và cho hiệu quả kinh tế cao: nước sạch và phải “loãng”, cộng thêm việc cho “ăn” đạm, lân phù hợp. Bà Hoan về nhà, cải tạo lại diện tích ao và bắt đầu trồng thử nghiệm vụ rau rút đầu tiên. Để cải tạo ao, ban đầu bà bơm sạch nước, sục bùn, dọn cỏ… sau đó tiến hành bơm nước lần hai, mực nước cao chừng 30-50cm thì thả bèo tấm. Bà cho biết lý do thả bèo: “Bởi vì rau rút là loại cây thảo nổi ngang mặt nước nhờ lớp phao xốp màu trắng. Khi vào mùa mưa, thân rau rút thường bị nặng, dễ bị chìm. Bèo ở trong ao sẽ giúp nâng thân, phao rau rút. Bên cạnh đó, việc thả bèo tấm trong ao rau rút còn giúp giữ thân rau ổn định trên mặt nước. Ngoài ra, bèo còn có tác dụng che phủ, làm trong và mát nước ao". Bà Hoan tuyệt đối “canh” trong ao không cho bèo cái vào, sẽ ảnh hưởng đến sự sống của rau rút. Trồng rau rút, bà Hoan còn chú ý diệt sạch ốc bươu vàng vì đây là đối tượng gây hại chính cho rau. Đầu tháng 4, bà Hoan nghe “dân” trồng rau rút có kinh nghiệm “mách” lên chợ đêm Phạm Ngũ Lão, Thành phố Nam Định mua ngọn cái (còn gọi là rau giống). Mua được giống, bà pha “loãng” nước ao (bơm thêm nước) và cấy rau rút. Khi cấy rau, bà cẩn thận cắm một cành tre nhỏ kế bên và dùng dây buộc gốc rau rút vào cành tre để gió không đẩy cọng rau đi nơi khác. Cấy rau xong, bà chờ khoảng 15-20 ngày, rau rút sẽ bắt đầu mọc. Ngọn cái nhu nhú thì bà ném đạm với lân. Ngọn cái ăn đạm, ăn lân bắt đầu mọc ra các tay (gọi là cành) và phát triển, lan rộng khắp cả mặt nước trên ao. Khi ngọn cái dài quá, người trồng cũng có thể cấu ngọn để bán cho những nơi mua làm giống... Theo bà Hoan “trồng cây rau rút rất dễ và cũng không cầu kỳ trong việc chăm sóc. Chỉ cần cho cây ăn đầy đủ dưỡng chất, giữ nước ao sạch là có thể yên tâm”. Ao rau của bà Hoan trồng 1 tháng là đã cho số ngọn khá nhiều và bắt đầu thu hoạch. Thu hoạch liên tục trong khoảng 1 tuần thì bà tiếp tục cho rau ăn. Thời gian thu hoạch rau có thể kéo dài khoảng 4-5 tháng tùy theo mức độ chăm sóc, kỹ thuật của người trồng. Đối với riêng ao rau của bà Hoan, do được chăm sóc, vệ sinh tốt, ruộng rau nhà bà thường “tàn” muộn nhất xóm... Rau rút ngon là những cây rau có ngọn cái đẹp, khỏe, dài. Các phao trắng, to. Muốn trồng được những cây rau như vậy, kinh nghiệm của bà Hoan cho thấy: “nước càng sạch thì phao càng trắng, càng đẹp. Ao càng bẩn, ngược lại, phao đen và xấu. Ngoài nước thì cách cho ăn phân cũng rất quan trọng. Nước bẩn, cộng với cho ăn quá nhiều, rau sẽ tự rút ngọn không lên được nữa”.

Mùa rau rút bắt đầu từ tháng 4, rộ lên vào tháng 6 hằng năm. Được những cơn mưa mát mẻ của mùa hè tưới tắm, ao rau rút lớn theo ngày, ken đặc mặt nước với những tay rau tua tủa. Mỗi ngày, bà Hoan đều dành thời gian để hái rau đem bán. Những hôm đông khách, bà phải hái từ chiều để hôm sau kịp lên các chợ Cầu Sắt, Lý Thường Kiệt… bán buôn. Có những hôm, nghe tiếng gà gáy canh 3, canh 4 bà đã dậy hái rau kịp đi chợ sáng. Cuối tháng 7, đầu tháng 8, một vài ao rau rút đã có dấu hiệu “tàn”. Những ngọn rau cứ tự động rời ra. Tuy nhiên, ở những ao rau được chăm sóc tốt, đây là thời điểm mà những chủ ao rau có thể tận thu.

Bỏ cá trồng rau

Ao rau rút trước đây của bà Hoan vốn là ao nuôi cá. Vụ rau rút hết, bà mới chuyển về nuôi cá. So sánh hiệu quả kinh tế giữa nuôi cá và trồng rau rút, bà Hoan kết luận nhanh: “Trồng rau rút hiệu quả hơn nhiều mà lại không vất vả, tốn công chăm sóc. Hơn nữa, trồng rau rút, dân chúng tôi không phải lo nhiều về những khoản như… thời tiết, bệnh tật”. Đầu mùa, ấy là khi dân trồng rau rút “trúng quả” nhất. Rau rút được bán theo mớ, 1 mớ 5 ngọn, bán cất ngay tại chợ có giá khoảng 5.000 đồng. Giữa và cuối mùa, giá cả hạ xuống đôi chút, khoảng 3.500-4.000 đồng/mớ. Ngày nào bà Hoan cũng xuống ao hái rau rút. Mỗi ngày bà hái khoảng vài ba chục mớ, tính ra mỗi ngày chợ, trừ chi phí cũng được hơn kém 100 nghìn đồng. Vào đầu mùa, khi rau rút được giá, bà Hoan có thể thu về khoảng 200 nghìn đồng/buổi chợ. Không chỉ bán rau ăn, bà Hoan còn bán rau giống. Mỗi ngọn cái, bà bán giá 3.000 đồng. Theo ước tính của bà Hoan, ao rau rút rộng 10 thước, sau 3-4 tháng thu hoạch, trừ chi phí, thu về khoảng trên 10 triệu đồng. Ngoài thu hoạch rau rút, người trồng rau còn có thêm thu hoạch từ “phụ phẩm” của rau là bèo tấm. 1 tuần/lần bà Hoan lại vớt được vài bì bèo bán cho những người nuôi cá với giá 30 nghìn đồng/bì. Hiện xóm Bồi Tây, Mỹ Phúc theo ước tính của bà Hoan có khoảng 6, 7 nhà chuyên trồng rau rút. Một số nhà trồng nhiều có thể kể đến như nhà Tĩnh Huê, Năm Dân, ông Bảo… Đây là những nhà có diện tích trồng tương đối lớn, khoảng 2 sào trở lên. “Đương nhiên, họ trồng nhiều thì thu nhập phải lớn hơn tôi rất nhiều. Đó là những nhà có thể đạt thu hoạch khoảng 40-50 triệu đồng/vụ rau. Những nhà trồng nhiều, đôi khi còn không phải đi chợ bán, thương lái thành phố về tận nhà lấy cất. Đó là lý do vì sao, nhiều nhà không nuôi cá mà chuyển sang trồng rau rút khi vào mùa”, bà Hoan chia sẻ. Hiện tại, không chỉ có Mỹ Phúc mà một số nơi như Tức Mặc, Thượng Lỗi, xã Nam Vân, Nam Phong (TP Nam Định)… nhiều hộ gia đình cũng đầu tư để trồng loại rau này. Không chỉ sử dụng ao tại gia đình, nhiều hộ còn sử dụng một số diện tích mặt nước gần các con sông để cấy thả rau rút. “Thị trường rau rút… không phải lo khi vào mùa. Giá cả lại tương đối ổn định. Đây là loại rau ngày càng được ưa chuộng và “dễ” ăn với mọi nhà bởi những đặc tính “tốt” như mát, giàu dinh dưỡng, mùi vị thơm ngon… Do đó, người ta không chỉ sử dụng rau vào việc chế biến các bữa ăn hằng ngày, mà giờ đây rau rút còn có cơ hội góp mặt vào những “sự kiện” trang trọng hơn trong mỗi gia đình như đám cưới, đám giỗ, ngày rằm… Chúng tôi thường nhận được những đơn hàng lớn mua hàng mấy chục mớ vào những dịp như vậy”, bà Hoan chia sẻ một cách thành thật, vui vẻ.

Mùa tháng 7, tháng 8 khi những cây sấu già đã thưa dần quả và hết hẳn, cũng là thời điểm dần “suy tàn” của rau rút. Rau rút và quả sấu, thường là những thứ đi kèm với nhau không thể thiếu khi muốn chế biến món ăn. Chưa biết làm cách nào để có thể giữ được giống rau rút cho mùa trồng kế tiếp, những hộ trồng rau rút như bà Hoan chấp nhận cảnh… rau tàn. Tuy nhiên, khi những gốc rau tàn, cũng là lúc đất được bồi đắp một lượng dinh dưỡng mới để chào đón những mùa rau tiếp theo. Bà Hoan cho biết thêm: “Cho đến thời điểm hiện tại, tôi chưa trồng loại rau nào đạt hiệu quả kinh tế cao hơn cây rau rút. Trồng loại rau này cũng rất sạch sẽ, mang một đôi ủng khi xuống ao hái rau, khi lên bờ, người nông dân chúng tôi, rửa qua cái tay là có thể đi chợ, thậm chí ngồi vào bàn nước được ngay. Quá trình thu hoạch rau nhanh, trồng rau ít sâu bệnh lại bán được giá. Vì vậy, chúng tôi hy vọng đây là cây thoát nghèo, hướng đi mới của nhiều nông dân”. Cây rau rút vì thế đối với nhiều bà con nông dân, là loại cây được họ “tin dùng”./.

Hoa Xuân 

 

Ngắm ánh trăng vàng,
Dưới ánh trăng vàng chỉ có ta,
Hoa đào chớm nở dưới trăng ngà...
Ngắm hoa có nhân tình cũ?
Ngày một xa rời xa cách xa !!

Người muôn năm ấy đâu còn nữa...?
Người còn ở lại tâm vấn vương,
Hương vị quê nhà sao thương quá,
Dẫu biết lòng ta lắm đoạn trường !!
NM
 

Thềm trăng

Hoài về làng cũ, đó là ngôi làng hiếm hoi còn giữ được vẻ đẹp nếp xưa. Anh về hôm trước hôm sau cả xóm đã biết. Sáng xách làn đi chợ, cô hàng cá tủm tỉm nói vọng lên như hát:

/// Minh họa: Tuấn Anh
Minh họa: Tuấn Anh

- Anh Hoài chán vợ thành phố rồi à? Lại xách làn đi chợ thế này, đàn ông đàn anh vất vả quá, hay em đánh tiếng tìm cho một mối?

Có tiếng đàn bà con gái vang lên:

- Này anh Hoài ơi, đừng chê em xấu em đen, em như nước đục đánh phèn lại trong này…

Thế là cả khu chợ khúc khích xôn xao.

Ai đã từng đi chợ quê, thấy mớ rau mùi hành hoa thơm, thứ hương thơm nguyên thủy, xà lách non mơn mởn, cá tôm còn mùi bùn đất, đứng ở chỗ cô hàng xén hỏi thăm một chút, chỗ hàng thịt bỗ bã dăm ba câu, chỗ này gọi tên mình ới ơi, chỗ kia nằn nì ăn giúp vài đồng quà mới thấy được cái xôn xao, tươi tắn, ồn ào đến nao lòng mà những siêu thị đủ đầy ở thành phố không có được.

Mâm cơm quê nhà dọn lên là để thưởng thức vị ngon tự nhiên của nguyên liệu chứ không phải vị ngon nhân tạo của những loại gia vị đắt tiền. Mẹ già rồi, Hoài cũng không còn trẻ nữa, ăn uống có là bao, nhưng Hoài thèm được lui cui trong bếp, nấu bát canh cua khoai sọ thả thêm đọt rau nhút hay đĩa tép riu đỏ rọi rang với khế và lá chanh thơm phức rồi dọn lên cái mâm đồng. Khi mẹ trải chiếu ra hiên, Hoài bưng mâm cơm đặt lên giữa chiếu.

Mẹ con ngồi xếp bằng rồi so đũa, trăng sẽ rọi sáng mâm cơm suốt mấy mùa. Trăng sóng sánh trong bát canh, bóng mẩy trong bát cơm nấu bằng gạo tám, trăng tràn xuống thềm nhà hướng nam gọi gió, đầy ăm ắp khoảng sân gạch đỏ. Khoảng sân ấy ngày xưa mỗi dịp cuối xuân đầu thu ăm ắp rơm tươi. Mùa gặt ấy mà, mẹ cha sẽ lùa cơm thật vội, ăn xong còn đập lúa, thóc vàng tràn xuống sân, con cái cầm liềm cắt rơm giũ thật kỹ những hạt thóc còn sót lại rồi tung rơm ra ngõ, đợi nắng lên là có rơm thơm…

Mùa đông, một bát cà chua xào tóp mỡ nghi ngút khói hay yêu canh khoai tròn thêm vài lá thì là thơm phức là quây quần êm ấm giữa mùi tỏi tươi vừa nhổ về treo tăm tắp trên giàn tre trong sân.

Những điều giản dị ấy Hoài cứ nhắc nhớ mãi khiến vợ Hoài cáu gắt:

- Rơm thì dặm ngứa, tỏi thì hôi có gì mà đau đáu quá nửa đời?

Hoài chỉ cười thôi, nhớ quê thì trốn phố, có nơi nao an lành bằng bầu ngực quê hương. Hoài không bao giờ khiên cưỡng vợ theo ý mình. Có lẽ vì thế mà mỗi lần anh quẩy túi về quê chị cũng không cấm cản. Chỉ có điều mỗi lần Hoài ở quê lên phố nếp ăn ở lại thấy có chút gì xộc xệch, cần sắp xếp lại cho ngăn nắp, cần tập cho vào nếp. Nguyên - con trai Hoài từng trách:

- Bố về quê lâu quá, đến nhà mình mà cũng chẳng thấy thân quen.

Mẹ Hoài vẫn giữ thói quen ăn trầu, ngoài tám mươi mà hàm răng nhuộm thuốc vẫn còn đen bóng, khi mẹ cười răng đều tăm tắp hạt na. Nụ cười của mẹ bao dung và hiền hậu biết bao khi Mai cắp thúng ngô đi vào con ngõ, con Mực quen người chạy ra vẫy đuôi tíu tít, Mai chuyển thúng ngô ra trước bụng, ngượng nghịu rồi đặt xuống hiên. Mai ngồi ghé mép chiếu, từ tốn thưa rằng ngô mới bẻ, con mang biếu bác và anh Hoài ăn lấy thảo. Hoài dậy lấy thêm cái bát con và đôi đũa, nhưng Mai đứng lên, vân vê tà áo rồi về. Nhìn Mai đi khuất qua con ngõ, Hoài mới hỏi mẹ:

- Mai lập gia đình sao không ai báo con?

Mẹ gắt:

- Ai bảo nó lập gia đình?

- Nhưng con thấy bụng…

- Anh thấy đúng rồi đấy, lỗi cũng do anh.

Mẹ nói có sai đâu, Hoài là trai làng Diềm mà không biết hát dăm ba làn điệu quan họ, bạn về không biết giữ chân bằng Người ở đừng về, bạn đến nhà cũng không biết hát Khách đến chơi nhà, đốt than quạt nước pha trà mời người xơi… Bảy tuổi Mai đã hát đúng vang rền nền nảy. Hội Lim, Mai làm chị cả ngồi tựa mạn thuyền rồng hát cho anh hai thổi sáo. Hội tan, chị cả anh hai lưu luyến mãi ở mom sông, anh hai qua bên kia sông là anh có người thương rồi, chỉ còn chị cả với rặng tre chắn lũ, với trăng non yếu ớt không đủ soi nước mắt nhạt nhòa, chị cả băng đồng về, áo tứ thân quét đất, nón quai thao gió giật bay đi. Có dài lắm đâu một thôi đê thế mà tiễn bạn hát hết một thời son trẻ.

Gái làng Diềm chẳng thiếu người như chị cả, họ kiếm một đứa con rồi đợi hội Lim. Vào hội hát “em còn son, anh cũng còn son”, “có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà”, hội tan lại gánh gồng cấy hái nuôi con…

Mẹ trách Hoài câu ấy xong thì vào giường nằm, Hoài thu dọn mâm bát rồi ra bể múc nước luộc ngô, ngô nếp bánh tẻ bẻ sơ lớp áo già xếp vào nồi, Hoài khua cái gáo gỗ trong bể nước thấy trăng lóng lánh tan ra. Nhà có bếp gas nhưng Hoài vẫn nhóm bếp, bẻ củi chất dưới kiềng. Mẹ giữ được tất cả nếp xưa, kể cả mấy cây ráy đã bóc lá không biết bao nhiêu lần, tàu cao nhất cũng vươn tới gần nóc bếp.

Sau thời bao cấp, trong khi dân làng thiếu thốn thì nhà Hoài vẫn sống phong lưu. Mẹ chăm chỉ ruộng đồng và không biết bằng cách nào mẹ bắt mối được với những bà vợ tận trên Hà Nội có chồng đi Liên Xô. Mẹ gom hàng của các ông chồng gửi về cho họ rồi phân phối khắp mấy huyện, từ giun xe đạp, thuốc men, vải vóc đến thau nhôm, bàn là… thượng vàng hạ cám. Trong số hàng mà mẹ bán, Hoài lục tìm được hộp màu vẽ, đó là món hàng xa xỉ chỉ dành cho đám cậu ấm cô chiêu. Nhưng mẹ để dành cho Hoài, mẹ xem tranh Hoài vẽ rồi bảo có triển vọng. Mai xem tranh thì cứ rúc rích cười suốt, Mai bảo có giống đâu, cổ con gái gì mà dài như cái cần câu, hoa lục bình sao không trôi líu ríu… Tranh ấy dân thành phố mới dám bỏ tiền mua về treo ở nơi trang trọng, bình phẩm hết ngày này sang ngày khác. Mai chỉ mê canh hát, mê anh hai thổi sáo tương ngộ tương phùng.

Mai sinh con gái đúng hôm rằm, gái hôm rằm trai mùng một, mẹ giục Hoài xúc ống gạo mang sang. Làng Hoài có tục lệ lâu đời, hễ người đàn bà nào trong làng không lấy chồng mà kiếm được đứa con, thì chòm xóm mỗi người mang sang nắm gạo, gạo ấy mang xay ra quấy bánh đúc, rồi thì phân phát mỗi người một miếng mang về. Hoài cứ chần chừ trong gian bếp chật ních, anh loay hoay sửa cái bóng điện nhấp nháy mãi mới chịu sáng, thắc thỏm nghĩ rồi đây một con một mẹ, không biết Mai xoay xở thế nào. Trên nhà mọi người đang bàn bạc hai sào lúa nếp muộn ở chân ruộng trũng nhà Mai còn chưa kịp gặt, rủ nhau mấy hôm nữa lúa chín đẫy thì đi gặt giúp, xưa nay xóm làng vẫn quen bảo bọc nhau. Hoài nói với mọi người anh cũng muốn xuống đồng, thế là trong nhà lại rộ lên một chặp đưa đẩy chòng ghẹo người thành phố. Mai phần Hoài cháy bánh đúc mang về biếu mẹ. Cháy bánh đúc nấu rơm vừa lửa, mẹ vẫn thích ăn từ ngày xưa…

Hoài và chòm xóm xuống đồng, đàn bà con gái thì gặt lúa, đàn ông xén rạ, bó lượm gánh ra đường lớn chất lên xe bò. Mỗi người một tay một chân, xế trưa là gặt hết hai sào nếp. Ai về nhà nấy ăn cơm hẹn trăng lên sang đập lúa cho mát. Nếp cái hoa vàng không ai mang tuốt cả, phải đập tay để giữ những cọng rơm cứng cáp, cột đầu bông lại rồi treo lên hàng tường gạch đều tăm tắp từ ngõ vào đến hết sân. Rơm ấy bện chổi, làm né tằm thì bền mà thơm lắm.

Hoài sang sớm nhất, anh ngồi bên hiên sửa lại mấy cái néo tuột dây, Mai đứng bên cửa sổ vừa đu đưa chiếc nôi mây cho con vừa khe khẽ hát. Cạnh chỗ Mai đứng là chiếc bàn mà lúc còn sống cha Mai ngồi khám bệnh bốc thuốc. Ở đấy lúc nào nắng cũng yếu ớt xuyên qua tán lá cây rọi vào, thìa đè lưỡi khám viêm họng luôn để trong cái nắp phích bằng nhôm đặt trên bậu cửa sổ, mỗi lần khám bệnh ông lại rót nước sôi vào tiệt trùng…

Thuở bé Hoài mắc chứng hen sữa, thành ra anh cứ qua lại nhà Mai suốt, lần nào khám cho Hoài xong cha Mai cũng vọng xuống nhà gọi: “Mai, ra vườn hái ít cam để anh Hoài mang về vắt nước uống cho nhẹ phổi”. Khi thì: “Mai, đào cho anh Hoài mấy nhánh gừng đặng về hấp mật ong con”. Giọng nói của cha Mai Hoài còn nhớ như in, như được thâu lại hàng trăm lần bằng trí nghĩ.

Rồi chòm xóm sang, tiếng thậm thịch dẻo dai của những lượm lúa mẩy vang trên cối đá, tiếng nhả rơm vun vút, tiếng giũ rơm, tiếng trang cào thóc, tiếng vò bông lúa sót, tiếng nói cười, tiếng bé con trong nhà ngủ dở giấc ré khóc lên, tất cả chan hòa và đầm ấm khơi lên trong lòng người những tình cảm tốt đẹp và dịu dàng. Ai đó đã rang xong mẻ thóc mới trong bếp, mùi nẻ rang thơm phức, đám đàn bà con gái nghỉ tay cắn chắt, đàn ông ngồi điếu đóm uống trà hãm trong cái ấm tích. Hoài cào gọn thóc vào một đống, đậy tấm bạt lên rồi chèn lại cho gió khỏi tốc, anh dặn Mai:

- Trăng quầng đấy, sáng mai anh sang trang thóc phơi cho, mới sinh hãy nghỉ ngơi đi đã.

Nhìn đứa bé ngủ say trong vòng tay mẹ, đôi má bầu bĩnh khiến anh muốn chạm vào nhưng mày thóc dính đầy người sợ làm dặm con bé.

Ngày vợ anh sinh con, anh đang đi tu nghiệp ở nước ngoài, khi trở về con đã biết đi lẫm chẫm thành ra cái cảm giác nhìn đứa bé con ngủ bình yên trong tay mẹ anh mới bắt gặp lần đầu.

Hoài về nhà khi trăng đã đứng giữa trời, vằng vặc sáng ngự trị cả khối thiên nhiên rộng rãi, trăng trùm lên xóm làng mảnh chăn ngà dìu dịu cho nhà nào nhà nấy ngủ an lành. Tiếng chão chàng rộ lên rồi im bặt khi Hoài múc nước bể lên xối cho mát, cho trôi đi mày thóc, mồ hôi. Đêm ấy là đêm hiếm hoi Hoài đặt mình là ngủ ngay đi được. Mẹ dậy sớm, ngồi trên phản têm trầu, bà nhắc Hoài rằng Mai nó nhắn có chị em hàng xóm phơi thóc cho rồi không phải sang nữa, bánh cuốn thì con bé Hằng cháu con chị cả mang cho, mẹ phần anh trong chạn bát, mệt thì ngủ tiếp, còn không thì dậy rửa mặt cho tỉnh táo chứ đừng nằm ươn nó hư người. 

  Hoàng Hiền

Con thôi rồi xa mẹ,
Mầm thương giờ không còn...
Quê nhà chừ xa lắm...
Người thương càng xa xăm !!

Giờ mầm thương lại nở,
Mẹ ch vắng nơi đây...
Lòng bỗng dưng ngây dại !
Tình ngoại vẫn đong đầy...
NM

 Mầm thương

Mỗi lần về thăm bà nội, tôi thấy mẹ ríu rít kể chúng đã biết chập chững những bước đi đầu tiên, biết bập bẹ những tiếng gọi ngọng nghịu đầu tiên. Kể chuyện về chúng chán, mẹ lại than thở với bà chẳng biết đến khi nào tôi mới lấy vợ. Mẹ về, ríu rít với bà nội như đứa con mới đi đâu xa về thăm nhà chứ không phải đứa con dâu đã đi lấy chồng khác.

Tôi đi theo bà nội trên con đường làng giăng đầy sương sớm. Sương đọng trên cỏ, bám vào hai ống quần. Ẩm ướt và lạnh lẽo. Tôi cúi xuống, nhìn đỉnh chóp nhọn của chiếc nón trên đầu bà lúc ẩn lúc hiện trong màn sương bàng bạc mà bước theo. Hai bên đường, cánh đồng lúa bốc lên mùi hoang hoải của rơm rạ đang dần mục đi, vùi tan vào đất. Đi hết con đường làng băng qua cánh đồng, ngược theo triền sông một đoạn nữa là đến bến đò. Ông lái đò già ngồi gạ gật trên bến chờ khách, nghe tiếng gọi choàng tỉnh. Bà cháu tôi không phải là người đi sớm nhất. Một vài người đàn bà đi chợ sớm đã ngồi đợi ở bến, quang gánh, thúng mẹt xếp quanh chân, những cặp mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ nhìn bà cháu tôi.

Ông lái đò đứng dậy, với cái điếu cày hút thuốc lào. Gió từ sông thốc lên, thổi bạt lửa. Đôi bàn tay ông lão khum khum che mãi mới hút xong điếu thuốc. Khà một hơi, ông lão xuống đò, cắm sào:

– Nào, mời các ông các bà.

Bà cầm chặt tay tôi dắt tôi bước xuống đò. Tự nhiên tôi bật cười. Bà nhỏ bé, cao chưa đến mét rưỡi, lưng đã hơi còng xuống nên nom càng thấp bé lại dắt tay đứa cháu gần ba mươi, to cao vạm vỡ hơn mét bảy. Nhưng tôi vẫn để yên cho bà dắt. Có lớn đến đâu, tôi vẫn là cháu nội của bà. Cũng như mẹ tôi. Bà bảo, dù thế nào, mẹ tôi vẫn là con dâu của bà.

Bà dắt tôi đi đón mẹ về.

Mẹ tôi đi lấy chồng ở ngôi làng bên kia sông từ hơn chục năm trước. Năm ấy tôi lên mười. Sang cát cho bố xong, mẹ chào bà nội, hôn lên má tôi một cái rồi qua sông làm vợ người khác.

Thi thoảng, tôi vẫn mơ thấy ngày cưới của mẹ. Một ngày mùa hè oi bức. Mẹ mặc chiếc áo mới may từ mảnh vải được mua bằng tiền bòn những mớ rau muống, rau nhút thả bè dưới ao của bà nội. Chiếc áo màu xanh nhạt xa dần rồi lẫn vào màu xanh ngắt của những rặng cây um tùm mọc lên phía bờ bãi bên kia sông. Tôi đứng trên bờ sông, nhìn theo mãi. Chẳng biết tại trời trưa oi nồng làm mồ hôi chảy cay xè mắt hay tại những lời trêu chọc của lũ bạn kéo một đoàn rồng rắn phía sau lưng mà trong lòng chợt nảy lên những hờn tủi. Ngày ấy, tôi đã trách bà nội sao lại đồng ý để mẹ tôi đi lấy chồng. Bà ôm tôi vào lòng, nhẹ nhàng bảo khi nào lớn lên cháu sẽ hiểu. Mùi trầu cay nồng phả ra từ bà dỗ tôi vào giấc ngủ còn nghẹn những tiếng nấc.

Bà tôi dọn căn phòng ngày còn ở nhà mẹ vẫn ở. Căn phòng có cánh cửa sổ nhìn ra khu vườn bốn mùa xào xạc gió. Mẹ ngồi tựa vào thành giường, nhìn ra. Chẳng biết mẹ nghĩ gì, còn tôi nhìn mẹ, đau xót. Mẹ gầy quá. Cơ thể mỏng dính, trong ánh sáng hắt ngược qua khung cửa sổ, trông mẹ như những vết gạch rời rạc, đứt gãy cố nối vào nhau mà tạo thành. Bà hái lá ngoài vườn, nấu nước cho mẹ gội đầu. Tóc mẹ rụng đầy bàn tay già cỗi, nhăn nheo, lổn nhổn những xương của bà. Bà cúi đầu. Giọt nước mắt người già rơi xuống chậu nước lá đặc quánh những chua xót. Bà phải đánh trống lảng:

– Phải có đứa cháu dâu rồi thì nó gội cho mẹ chồng nó, bà đỡ phải làm.

Tôi chẳng dám đáp lời bà. Tự nhiên tôi nghĩ đến M. Giờ này, em đang ở góc nào trong thành phố ngột ngạt. Em có trách tôi khi tôi hèn nhát không dám dũng cảm đối diện với tương lai của hai đứa.

Chẳng biết vì những lời thủ thỉ của bà nội hay bởi mẹ tôi vẫn giữ sự kết nối với bà nội và tôi trong những năm mẹ đã làm dâu nhà khác mà từ lâu, tôi đã chẳng còn giận mẹ. Có thể là còn cả vì người đàn ông mẹ lấy làm chồng là một người hiền lành và chất phác. Ông ít xuất hiện ở nhà bà cháu tôi nhưng tôi và bà nội vẫn biết đến ông qua những câu chuyện kể của mẹ, qua vẻ mặt rạng ngời của mẹ và những món quà ông gửi cho bà khi người làng tôi qua bên ấy làm thuê. Có khi là ít lá vối khô để bà pha nước uống, khi là chục trứng gà so. Ngày giỗ ông nội, giỗ bố tôi, mẹ tất tả trở về từ sáng sớm, đi chợ, nấu cơm cúng. Những ngày bà nội bị ốm, chẳng biết ai báo tin, mẹ về, chăm sóc bà, chờ bà khỏe hẳn mới lại qua sông về bên nhà chồng. Hơn mười năm mẹ sang sông, căn nhà của bà cháu tôi vẫn lưu lại dấu vết của mẹ. Chiếc gương soi nhỏ, cái lược sừng lên nước đen bóng, cây chanh năm nào cũng sai trĩu quả tự tay mẹ trồng trước sân. Cả cái nón mẹ hay đội đi làm đồng về treo trên chiếc đinh đóng bên hiên nhà. Mẹ đi lấy chồng nhưng những bước lớn khôn của tôi vẫn có mẹ bên cạnh.

Ngày chồng mẹ mất, bà ra bưu điện gọi tôi về. Tôi theo bà sang tiễn đưa ông ấy một đoạn đường cuối cùng. Mẹ tôi như người mất hồn trong chiếc áo tang, bước thấp bước cao trên bờ ruộng mấp mô. Chẳng biết có ai bên nhà chồng mẹ bảo nhìn mẹ gò má cao nên có tướng sát phu. Hai đời chồng đều mất đột ngột. Bố tôi đi làm thuê gặp lũ, đất sạt lở vùi xác cả nửa tháng tạnh mưa, lũ rút mới tìm được. Người chồng sau của mẹ đang khỏe mạnh tự nhiên đột quỵ, ra đi không lời trăng trối. Bà nội tôi cũng nghe thấy những lời không hay người ta dành cho mẹ. Khi đám tang kết thúc, bà bảo riêng mẹ:

– Nếu không thể sống được ở bên này thì về nhà với mẹ.

Mẹ tôi nghẹn ngào không đáp. Tôi chẳng biết phải an ủi mẹ như thế nào, chỉ có thể lặng lẽ theo bà nội về nhà.

Lời bà nội tôi nói thành sự thật. Khi người chồng sau của mẹ còn sống, mẹ tôi còn chỗ dựa. Ông và người vợ trước có hai người con trai, đều đã cưới vợ ra ở riêng hết. Khi những đứa cháu nội của chồng mẹ ra đời, mẹ chăm sóc, cưng nựng chẳng khác gì những đứa cháu ruột của mình. Mỗi lần về thăm bà nội, tôi thấy mẹ ríu rít kể chúng đã biết chập chững những bước đi đầu tiên, biết bập bẹ những tiếng gọi ngọng nghịu đầu tiên. Kể chuyện về chúng chán, mẹ lại than thở với bà chẳng biết đến khi nào tôi mới lấy vợ. Mẹ về, ríu rít với bà nội như đứa con mới đi đâu xa về thăm nhà chứ không phải đứa con dâu đã đi lấy chồng khác. Tôi thấy mẹ hạnh phúc. Hạnh phúc của một người đàn bà được chồng yêu thương, chiều chuộng và được hai đứa con riêng của chồng chấp nhận và tôn trọng – ít nhất là ngoài mặt.

Nhưng người đàn ông gánh vác, che chở cho mẹ không con nữa, hai người con trai riêng bóng gió xa xôi về căn nhà. Căn nhà họ cho rằng là của cha họ, phải chia đều cho ba người. Mẹ muốn ở lại phải trả tiền. Từ bóng gió xa xôi, họ nói thẳng. Họ đã chẳng nhớ những lúc vợ chồng đi làm ăn xa, con họ một tay mẹ chăm sóc. Họ chẳng nhớ đến những lúc vợ họ sinh nở, mẹ tận tình như một người mẹ ruột. Rồi mẹ đổ bệnh. Bác sĩ kết luận mẹ chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Họ gọi người vào bán nhà, tính đuổi mẹ đi. Bà nội nghe tin, dẫn tôi qua sông đón mẹ về.

Tôi buộc tóc cho mẹ. Có cơn gió ngoài vườn đưa vào hương hoa chanh thơm dịu. Mẹ nhìn tôi, mỉm cười:

– Sắp ba mươi đến nơi rồi, bao giờ mới tính chuyện vợ con đây.

Thấy tôi không đáp, mẹ cũng chẳng hỏi nữa. Chỉ có tiếng gió ngoài vườn thổi vào xào xạc.

Tôi có một đứa bạn học cùng lớp ở làng bên. Nó cũng giống tôi, mồ côi cha, mẹ đi lấy chồng, ở với bà nội. Có lần qua nhà nó chơi, thấy bà nội nó cầm chiếc làn của mẹ nó vứt ra ngoài rồi đóng cổng, cấm mẹ nó bước vào nhà, tôi về hỏi bà sao không ngăn cản mẹ tôi lấy chồng mà vẫn đối xử tốt với mẹ như thế. Bà không đáp, lặng lẽ quết vôi lên lá trầu rồi ngồi bất động. Mãi đến khi vệt vôi trắng trên lá trầu xanh ngắt khô lại, bà mới thở dài:

– Khi nào lớn cháu sẽ hiểu.

Tôi đã chờ đợi ngày mình lớn lên để hiểu bà, hiểu mẹ. Lần đầu tiên biết yêu, tôi nghĩ đến tình yêu và trong lòng bật lên một câu hỏi, không biết mẹ tôi yêu bố tôi hơn hay yêu người chồng sau này hơn. Câu hỏi ấy ám ảnh tôi đến mức đã có lần suýt nữa thì tôi thốt lên hỏi mẹ nhưng rồi lại kìm nén được. Trải qua vài mối tình đổ vỡ, tôi tự tìm ra câu trả lời cho mình. Ở từng thời điểm, mỗi người sẽ có một người phù hợp với mình, có một người mà mình yêu sâu sắc. Tôi đã từng thầm lặng thương K suốt những năm cấp III. Thương mà không dám nói, cũng chẳng thể giãi bày cùng ai. Để rồi cuối cùng, niềm thương đau đáu ấy đọng thành một vệt sẹo trong lồng ngực, đến giờ tuy không còn buốt nhói nhưng vào thời điểm đó đã khiến tôi nghĩ rằng nếu như yêu thích một người khiến mình đau đớn thế thì có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ thích ai nữa.

Mẹ than thèm một miếng bánh đúc, thứ bánh đúc chính tay bà nội làm, có vị chát chát, nồng nồng của nước vôi trong, quệt với mắm cáy chứ không phải thứ bánh đúc nhạt nhẽo người ta cho thêm đủ thứ biến tấu như bây giờ. Bà lui cụi cả buổi trong bếp. Tôi ngồi bên cạnh bà, lau cẩn thận từng tàu lá chuối cắt từ vườn nhà, đặt vào chiếc mẹt tròn khói bếp hun lên nước bóng loáng. Bà đổ bánh vào lớp lá chuối, dàn bánh mỏng kín cả chiếc mẹt, chờ bánh nguội rồi cắt. Tôi nhón một miếng, đưa lên miệng. Bà nhìn tôi cười:

– Ngày xưa bố anh mê món bánh đúc này lắm. Lấy bố anh, mẹ anh cũng nghiện món này. Lúc có anh chỉ nghén bánh đúc.

Giọng bà tự nhiên nghẹn ứ lại:

– Mấy hôm nay chẳng ăn uống được gì, giờ lại tự nhiên thèm bánh đúc…

Miếng bánh đúc vướng víu trong cổ họng tôi. Có một cái gì đấy chua xót dâng lên từ lồng ngực. Từ lúc theo bà đi đón mẹ về, tôi đã chuẩn bị cho những điều mà tôi biết chẳng thể nào tránh khỏi. Nhưng biết thế, mà vẫn thảng thốt. Vọng qua hàng xóm tiếng ai ru con “Mấy đời bánh đúc có xương…”. Tiếng ho của mẹ từ trên nhà vọng xuống, ám khói căn bếp đã tàn lửa, mờ tối.

T đã kéo tôi ra khỏi mối tình câm lặng không thể nói với với K. Năm ấy, tôi học năm cuối Đại học. T cho tôi thấy tôi không phải là đứa lập dị. Ít nhất, T giống tôi. Nhưng chúng tôi yêu nhau lặng thầm. Không dám nắm tay ngoài đường, ngồi quán uống một ly cà phê cũng phải nhìn trước ngó sau sợ bắt gặp người quen. Tôi ngột ngạt trong mối quan hệ với T, chẳng biết trước rồi sẽ đi đến đâu nhưng vẫn cố chấp yêu. Cho đến khi bắt gặp T dẫn một người con gái khác đi thử đồ cưới trong chính tiệm váy cưới tôi làm thêm để mua tặng T món quà sinh nhật mà T mong ước từ lâu. Thoáng lúng túng, rồi T thản nhiên nhờ tôi lấy hộ đồ để cô dâu tương lai của T thử. Chỉ một dòng tin nhắn giải thích nhà cô dâu có gia thế, sẽ hỗ trợ T trong công việc. T nói vẫn yêu tôi, lấy vợ chỉ là bình phong, chúng tôi vẫn sẽ yêu nhau trong bóng tối. Tôi xin nghỉ làm, thay số điện thoại, cố gắng hoàn thành nốt những môn học cuối để tốt nghiệp rồi chuyển đến một thành phố khác sinh sống, tự gặm nhấm vết thương của mình, lòng đã nghĩ, sẽ chẳng thể nào mở lòng ra để yêu thương thêm bất cứ một ai khác.

Bởi vì nghĩ như thế, nên tôi trở nên khắt khe với chính mình và với chính cả M. Tôi nghĩ, M chỉ coi mình như một người để dựa vào giữa thành phố xa lạ khi em trải qua cú sốc mất người thân. Còn tôi, tôi coi M như người thế chỗ trống T để lại. Chúng tôi gặp nhau vào một đêm đầy gió, em say khướt, ngồi khóc trước cửa căn nhà cũ kỹ có giàn dây leo nằm tuốt trong con hẻm nhỏ tôi thuê để ở. Lúc ấy tôi vừa tan ca. Mệt mỏi và trống rỗng sau những ngày dài vùi mình vào công việc, nhìn cậu nhóc gục đầu khóc, tự nhiên thấy mình cũng đầy ứ nỗi buồn. Sau này em kể, căn nhà nhỏ có dây leo là mong ước của hai bà cháu lúc bà M còn sống nên lúc say em nhìn thấy giàn dây leo trước cổng căn nhà tôi thuê mà khóc. Tôi chẳng phòng bị, ngồi xuống cạnh M. Rồi cứ thế bước vào nhau và chẳng muốn nghĩ gì xa xôi. Vậy nên, khi tôi quyết định rời thành phố, tôi đã không trả lời câu hỏi “Còn em thì sao?” của M. Tôi bỏ ngỏ cả ước mơ được cùng trở về thăm bà, thăm mẹ cùng tôi, bỏ quên khát khao có một người thương bên cạnh, cùng sẻ chia vui buồn của M. Tôi cố không để ý đến những xao động trong lòng mình, cố quên đi cảm giác mỗi ngày tan làm háo hức trở về cùng M. Tôi cố tình không hiểu bằng tình yêu dịu dàng của mình, M đã xoa dịu những tổn thương trong tôi. Bên em, tôi cười nhiều hơn, ngắm nhìn cuộc sống nhiều hơn và tôn trọng chính mình. Nhưng tôi vịn vào vết thương T để lại cho mình để trốn tránh M. Và còn trách nhiệm. Lúc bà gọi điện, tôi hiểu, mình chẳng thể sống ích kỷ cho riêng mình. Mẹ chỉ có một mình tôi, bà nội cũng chỉ có một mình tôi. Tôi không đủ dũng cảm để lựa chọn bên M. Mẹ tôi còn bao nhiêu ngày tháng. Bà nội tôi còn bao nhiêu ngày tháng. Tôi chỉ có thể trở thành một kẻ nhẫn tâm, đối xử với M như cách T đã khiến tôi thương tổn.

Tôi vĩnh viễn mất mẹ vào một chiều mùa đông ảm đạm. Mẹ nằm giữa cánh đồng mênh mông gió, lòng tôi hoang hoải nỗi niềm của một đứa mồ côi. Tấm lưng của bà nội như càng thấp xuống, trĩu nặng. Trước khi mất, mẹ cầm tay bà nội, xin kiếp sau được làm con gái của bà. Mẹ nhìn tôi, bảo chỉ cần tôi hạnh phúc. Đêm đưa mẹ ra đồng, tôi gọi cho M, khóc như một đứa trẻ. M lặng im nghe tôi khóc. Hình như em khóc cùng tôi.

Bà nội kể cho tôi nghe câu chuyện bà giấu kín nhiều năm về trước. Bà góa chồng khi còn trẻ, có người đàn ông làng bên thương bà, muốn cùng bà xây dựng gia đình, hứa sẽ chăm sóc con riêng như con ruột. Bà cũng thương ông ấy nhưng lo bố tôi bị ảnh hưởng nên không đồng ý. Người đàn ông ấy bỏ làng lên mạn ngược, bao năm rồi chẳng có tin tức. Sau này khi đã có vợ, có con, bố tôi vẫn tự trách mình là nguyên nhân khiến bà không dám bước theo hạnh phúc. Bởi vậy, khi mẹ tôi đi lấy chồng, bà mừng vì mẹ tôi đã tìm được hạnh phúc, mừng vì mẹ tôi đã không coi bà nội và tôi là gánh nặng cản trở ước mơ có một mái ấm trọn vẹn vợ chồng của mình.

Bà nắm tay tôi, thủ thỉ:

– Bà vô tình nghe được cuộc điện thoại mấy đêm trước. Bà đã mất ngủ. Nhưng cũng như lúc mẹ cháu đi lấy chồng, bà mong cháu đừng coi bà là gánh nặng. Mẹ cháu cũng mong cháu sống thật hạnh phúc…

Tôi gục đầu vào lòng bà. Thấy mình thơ dại và hồn nhiên trong mầm thương bà gieo trồng, vun xới.

Đào Thu Hà


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét