Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

NTV 50 - Ngõ xưa


 
Ngõ xưa
Ngõ xưa rực nở hoa vàng mới,
Nắng vẫn hanh hao, gió đẩy đưa....
Sóng vẫn rì rào bên vách núi,
Tôi trở về đây, lữ khách thừa !
 
Sao nhớ thương hoài kỹ niệm xa ?
Một thời cơ cực tuổi ngây thơ...... 
Hoa vàng ngõ cũ bao niềm nhớ, 
Tình nghĩa cô trao chẳng bến bờ...! 
 
Cảnh cũ giờ đây đã đổi thay, 
Không còn mưa bão, bụi cát bay....
Trong tôi sao xót xa nhiều lắm,.
Gió bụi làm cho mi mắt cay ?!   
NM  

Ngõ xưa hoa vẫn nở vàng

Nơi ngày xưa tôi ở được mọi người đặt cái tên rất lạ: Rốn Bão. Bởi bất cứ cơn bão nào đi qua, nó cũng nhắm vào ngôi làng dựa vào hai vách núi, mặt nhìn ra biển kia mà đổ. Mỗi năm có khi làng hứng tới gần chục cơn bão. Bão đổ vào suốt nên rồi cả làng cũng quen. Quen nhìn những bao cát chắn trước nhà để ngăn những cơn sóng biển giận dữ đổ vào, để tránh những cơn mưa tạt rát cả mặt. Quen những đôi chân trần đen vì nắng táp cứ chạy trên cát biển, cứ lội xuống biển mà leo lên những chiếc thuyền thúng bơi ra ngoài khơi, đón những chiếc thuyền đánh cá trở về. Làng Rốn Bão của tôi cũng khá đặc biệt vì chỉ có một con đường độc đạo từ quốc lộ đi vào. Đó là con đường rất buồn, được làm bằng đất sét trộn với sỏi trải ra cho dễ đi lại. Con đường đi qua một cánh rừng thông đã bị chặt gần hết, những gốc thông còn sót lại cố búng ra những mầm mới. Con đường đi qua một đồi cát trắng, mỗi khi gió bay, cát tràn xuống lấp con đường, thế là dân làng lại phải tập trung lại để dọn cát.
Vì đi lại khó khăn, vì thời tiết khắc nghiệt mà làng có một thời gian dài không có trường. Lũ trẻ chúng tôi đi học bằng xe đạp, có khi đi bộ trên con đường buồn tênh đó để tới ngôi trường cách làng cả sáu cây số. Nếu thời tiết không thuận tiện, chúng tôi phải ở nhà mà không đến trường.
Đó là câu chuyện ngày xưa. Ngày xưa luôn gợi nhớ những kỷ niệm. Ngày xưa của chúng tôi lại bắt đầu từ ngôi trường được dựng lên sát vách núi. Và ngày xưa lại nhắc cho tôi nhớ về cô giáo Liên, người đã truyền dạy cho những đứa trẻ ở Rốn Bão những bài học vỡ lòng.
Ngôi trường được huyện đầu tư xây dựng chỉ vỏn vẹn có ba phòng học. Nhưng ngày khánh thành ngôi trường là niềm vui ngợp trời của cả làng. Vì dẫu ngôi trường nhỏ, nhưng mấy chục học sinh ở làng có thể học cho hết cấp một.
Tôi có cả một thời gian dài học ở ngôi trường dựa vào vách núi đó. Nhưng vì làng của tôi buồn tênh, đêm xuống chỉ nghe tiếng sóng biển vỗ, chỉ nghe tiếng gió hú lồng lộng cho nên dẫu không phải là hải đảo hay miền núi, các cô thầy đến trường dạy dẫu chỉ dăm ba người
Cô Liên đến làng tôi vào một buổi chiều nhòa nhạt nắng, khi đó mọi gia đình đã vào trong căn nhà của mình, ngoài khơi xa chỉ có một màu biển đục. Cô đạp chiếc xe đạp với một túi xách đồ đạc, chiếc xe đạp của cô sau khi đi hết con đường đất đã bị lún vào trong cát biển. Tôi là người nhìn thấy cô đầu tiên trong buổi chiều đó. Lúc đầu tôi tưởng cô đi đến nhà một người quen, nào ngờ lại là một cô giáo tình nguyện. Bởi gần như tất cả thầy cô giáo đến làng họ đều đi xe máy hoặc có người thuê xe ôm chở vào, chẳng có ai đi xe đạp bao giờ.
Hôm đó tôi đã gọi thêm mấy đứa trẻ trong làng phụ mang vác đồ đạc của cô Liên, rồi đưa cô đến nhà ông tổ trưởng dân phố. Cũng từ ngày đó cô Liên đã trở thành công dân làng Rốn Bão của chúng tôi. Mà làng có cái lạ là nhà nào có đám cưới, đám giỗ hay tiệc tùng gì đó thì gần như trở thành ngày hội, cứ ới ới gọi nhau mà đến, mỗi nhà lại góp một ít thức ăn hoặc bia rượu để cùng vui. Cô Liên khá khéo trong cách chế biến các món ăn lạ, cho nên mỗi lần như thế cô trở thành đầu bếp.
Cho đến khi tôi rời làng, ngôi trường ba lớp học kia vẫn chỉ có mình cô Liên trụ lại, thỉnh thoảng cũng có dăm thầy cô đến, nhưng họ cũng mau chóng rời làng. Cuộc sống của cô giáo Liên với lũ học trò chân đất ở làng biển của chúng tôi chính là những ngày vui. Lúc đầu cô ở nhờ căn nhà của tổ dân phố, sau đó cô dọn về trường ở, cả làng cùng phụ xây cho cô một căn phòng khá khang trang. Chúng tôi gọi căn phòng nhỏ đó là: “Nhà của cô Liên”. Đặt biệt, cô đi tìm về rất nhiều hoa hoàng anh, vàng cả một đoạn đường vào ngôi nhà nhỏ của cô. Tụi học trò chúng tôi gọi đùa đó là: Ngõ hoa vàng.
Mỗi ngày, sau những giờ đứng lớp, cô Liên lại đi trồng rau xanh, đó là loại gia vị hiếm hoi của làng chúng tôi. Vì ít người nghĩ ra là phải trồng cây ớt, cây húng quế, cây xà lách…, để khi cần chỉ cần ra vườn nhón hái. Rồi cũng từ vườn rau nhỏ của cô Liên, cả làng rộ lên phong trào trồng rau xanh trong những thùng xốp. Vào những đêm thứ bảy, chủ nhật, cô Liên lại tụ tập đám học trò của mình lại tập hát, bày những trò chơi. Chúng tôi gom những cành khô đốt lửa giống như mọi người sinh hoạt lửa trại. Nhiều khi người lớn cũng tham gia góp con cá tươi mới lưới về, nướng trên lửa củi ấy để cô giáo cùng ăn với học trò.
Trong tuổi thơ của tôi, tôi nhìn thấy cô Liên giống như bà tiên trong truyện cổ tích. Cô gần như ở lại trong làng, chỉ khi nào đi họp hoặc đi lãnh lương, mua thêm lương thực cô mới đạp chiếc xe đạp của mình đi trên con đường đất của làng ra lộ đón xe về huyện. Dáng cô đi trong cái buồn buồn ấy là một hình ảnh gần như đã đọng mãi trong trí nhớ của tôi.
Trong một ngày biển động, một mình tôi chèo chiếc thuyền thúng ra vũng nước xoáy câu cá. Nơi vùng nước xoáy khi biển động có rất nhiều cá to tụ về, việc câu cá rất dễ dàng. Tôi mải mê chạy theo đàn cá nên bị một con sóng lớn bất ngờ đổ ập lên, hất tôi ra khỏi chiếc thuyền thúng, nhấn chìm xuống nước. Lúc đó tôi gần như kiệt sức thì cô Liên xuất hiện. Cô đã bơi thuyền ra cứu tôi thoát chết trong gang tấc. Tôi không hiểu tại sao một người con gái nhỏ con như cô lại có thể có sức mạnh phi thường như thế? Tôi đã chịu ơn cô từ đó
Việc xây dựng một nhà máy ở ngay đụn cát, nơi đoạn đường vào làng mà các cây thông bị chặt sát gốc đã làm cho làng Rốn Bão của tôi trở nên phồn thịnh. Một Công ty du lịch cũng đã chọn khu vực nhiều mỏm đá, nơi tôi bị tai nạn thành một khu du lịch. Làng Rốn Bão nay trở thành một điểm du lịch với cái tên hấp dẫn: Bãi Tiên. Nhưng đó là chuyện xảy ra gần mười lăm năm sau khi tôi xa làng, đi học. Cả nhà tôi cũng đã chuyển đi, nên ngần ấy thời gian, tôi đã không trở lại làng.
Tôi trở lại làng trước sự thay đổi ấy, chỉ một mình tôi. Tôi muốn tìm gặp cô giáo Liên của tôi. Chiếc xe ô tô chở tôi đã có thể thong dong phóng xe trên con đường nhựa tới thẳng sát ngay ngôi trường cũ. Trường giờ đây đã trở thành trường cấp một, hai khang trang và đẹp đẽ.
Nhưng cô Liên đã rời trường từ bảy năm về trước, không ai biết cô đi đâu. Ngay cả căn phòng nhỏ mà dân làng xây dựng cho cô nay cũng không còn. Còn lại duy nhất là con đường nở rực một màu vàng hoa hoàng anh. Trong nắng mai lộng lẫy kia, tôi tưởng chừng như cô Liên đang đi qua ngõ hoa vàng ấy.
Khuê Việt Trường
 
 
                                                                    Ngõ sau
Mỗi lần mẹ sai tôi mang đồ sang biếu hàng xóm, tôi lại băng qua cái ngõ phía sau nhà, vừa nhanh vừa tiện. Không chỉ nhà tôi, mà ở quê, nhà ai cũng có cái ngõ sau nho nhỏ ấy như thế. Nó được gọi là cái ngõ ân tình.
Nếu ngõ trước nhà là cổng chính, được chăm chút vì là bộ mặt của ngôi nhà, thì ngõ sau thật nhỏ, chỉ là con đường mòn băng ngang qua khu vườn, chẳng có cổng nẻo gì. Ngõ trước nhà thường dành cho khách khứa, ngõ sau chỉ có hàng xóm láng giềng, những người thân thuộc mới sử dụng.
Có những chiều, khi mọi việc trong ngày đã xong hết, mẹ tôi từ ngõ sau ấy ghé sang nhà hàng xóm nói dăm ba câu chuyện, hỏi han mùa màng thóc lúa để đợi tới giờ cơm. Nhờ cái ngõ sau ấy, khoảng cách của con đường được rút ngắn rất nhiều; tình làng nghĩa xóm cũng gần hơn, khắng khít hẳn lên.
Thuở nhỏ, mỗi chiều ngồi chờ bố mẹ đi làm đồng về, tôi thường dắt đứa em ra ngõ sau ấy, dõi mắt đến tận cuối con ngõ, chỉ mong thấy dáng mẹ xuất hiện ở đó rồi hân hoan reo “a mẹ về”. Những chiều như thế, không biết thời gian có trôi quá chậm không nhưng tôi luôn thấy buổi chiều như dài hun hút.
Tôi thường ngồi một góc ở ngõ sau khi trong lòng có những chuyện buồn vu vơ của trẻ con. Những lúc như thế, tôi thường ngồi im, đưa mắt nhìn bâng quơ, để nỗi buồn theo cơn gió rong chơi trong vườn rồi tan biến đi. Buổi chiều, nắng trong vườn đã nhạt màu, yếu ớt đến tội nghiệp. Tôi thích ngồi nghe tiếng chim tranh mồi trên cây chôm chôm ở góc vườn, nhìn những làn khói mỏng manh từ bếp hàng xóm lay lắt bay về trời và hít hà mùi thức ăn thơm lừng trong không gian. Tôi thích ngồi nhìn những bóng người nhỏ xíu ẩn hiện từ phía bên kia bờ sông rồi tự hỏi, ở phía bên ấy, cây có giống như trong vườn nhà mình. Mười tuổi, tôi chưa một lần bước chân ra khỏi làng.
Với tôi, cái ngõ sau ấy thân thuộc lắm, bởi tôi thường tót sang nhà hàng xóm chơi bằng con ngõ ấy. Tại cái ngõ sau ấy, không biết bao nhiêu lần tôi bị chị hai đét đít vì mãi chơi quên cả giờ cơm. Những lúc chị hai xách tai tôi lôi vào nhà từ cái ngõ sau ấy, thể nào tôi cũng khóc bù lu bù loa ăn vạ, mẹ lại nói dăm ba câu rầy chị hai vì tội ăn hiếp em. Khi đó, tôi sướng rơn trong bụng nên càng thút thít mãi, chỉ đến khi ba giảng hòa mới thôi.

Hồi còn be bé, mỗi bận trong làng có đám cưới, thể nào mọi người cũng tụ tập để xem cô dâu đẹp xấu thế nào, tôi và đám trẻ con trong làng cũng không ngoại lệ. Nhớ nhất là đám cưới chị Giang con bác Hoành ở xóm trên, về làm dâu xóm dưới. Bận đó, mọi người đứng trước cổng đợi mãi chẳng thấy đám rước dâu về, mãi sau mới biết đoàn rước dâu đã đi theo ngõ sau vào nhà. Người ta bảo, cô dâu đã mang bầu không được rước về nhà chồng qua cổng chính mà phải đi cổng sau, vì sợ mang lại điềm chẳng lành cho nhà chồng. Chẳng biết điềm xấu ấy có theo cô dâu vào cổng chính hay không nhưng bố mẹ cô dâu thì buồn lắm, chẳng dám ngẩng mặt nhìn ai. Cũng từ đó, tôi biết thêm rằng, cái ngõ sau thân thương ấy còn dành cho những cô dâu lỡ dại, mang theo nước mắt và những tủi hổ về nhà chồng.
Ngày xưa, những người con gái theo chồng xa, thường ra đứng ở ngõ sau ấy, sụt sùi nhớ về quê mẹ. Cái ngõ sau ấy đã giúp cô che giấu không biết bao nhiêu nỗi niềm. Tôi nghĩ, chắc chị Giang mỗi lần bước ra cái ngõ nhỏ sau nhà, hẳn sẽ nhớ lại ánh mắt buồn hiu hắt và cái cúi đầu cam chịu của chính mình hôm về nhà chồng qua ngõ ấy.
Lớn lên, tôi lấy chồng xa, nhà ở thành phố chật hẹp nên chẳng có sân chẳng có vườn và đương nhiên cũng chẳng có ngõ sau. Mỗi khi có chuyện buồn, tôi cứ ước mình có thể trở về cái ngõ sau yên bình và thân thương ấy, để thả nỗi buồn theo gió rong chơi và tan biến trong vườn như thời trẻ dại. Chợt thấy nhớ cái ngõ sau nhà mình biết mấy..
.Theo Phụ nữ TP

Ngõ quê

Ngày bé, cứ dịp tết hay hè tôi náo nức về quê. Ngõ xóm quanh co trước nhà bà nội là nơi tôi cùng lũ trẻ ẩn tìm, trèo rào, víu cây và bao trò chơi khác. Ngõ hẹp và sâu hút. Đường gạch, vỉa nghiêng nghiêng. Hai bên chỗ tường đất, chỗ bờ rào duối rậm rịt, hay dải cúc tần hăng hắc. 
Có nhà lại trồng râm bụt, thấp thoáng những bông hoa phớt đỏ. Về làng, từ xa tôi đã thấy cây gạo bóng cao vút, đỏ ối hoa. Làng tôi có câu:
 Đầu làng cây gạo
Cuối làng cây đa.
Con gái làng Đà,
Như hoa thiên lý.
Từ đường cái vào làng có hai trụ gạch sừng sững, người ta gọi ấy là cổng làng. Bà tôi bảo, trước cổng làng to lắm, có mái, phía trên đắp nổi mấy chữ Nho, nay cổng làng sót lại là hai cái trụ gạch đấy. Cổng làng có cánh cửa lim to dày, đêm đêm đóng lại phòng cướp. Tôi ngây thơ hỏi: Đóng cổng lại kẻ cướp vòng qua bên cạnh vào thì sao – đấy là cánh đồng và những bờ rào lúp xúp sát ngay bên trụ gạch. Bà cười bảo: Ngày trước, làng không trống tềnh, trống toàng như bây giờ, mà có luỹ tre dày trồng trên bờ đất bao quanh, đến đạn Tây bắn còn không xuyên nổi. Tôi không hình dung được luỹ tre và bờ đất dày đến cỡ nào mà đạn cối tây bắn không qua, nên cứ ngạc nhiên mãi cái cổng làng phòng cướp…
Cổng làng như vậy, nhưng cổng của ngõ xóm nhà bà nội tôi lại còn khá nguyên vẹn. Thành cổng tường xây dày đến ba, bốn mươi phân, trên là vòm xây khum cong cong. Từ đường làng rẽ vào, phía trên nhìn thấy mấy chữ Nho đắp nổi, to bằng cái bát ô tô. Chỉ còn mấy cụ cao niên trong làng là đọc được. Đấy là chữ ghi lại năm xây dựng cổng. Nghe nói xây từ đời vua Tự Đức. Đôi cánh cổng lim dày, vẫn còn đóng ra khép vào được. Lớp gạch hai bên bị xe cải tiến va quệt và trâu, bò qua lại gõ sừng, làm vẹt lõm, trơ ra mạch vữa và những hàng gạch mỏng quẹt. Người ta bảo ngày trước vữa xây bằng mật mía, muối và vôi cát đánh nhuyễn; còn gạch dùng rơm rạ đốt. Tôi cứ phân vân, cổng ngõ to lớn thế, phải tốn nhiều mật mía để xây và rơm rạ đốt gạch lắm. Thảo nào bao năm, vữa xây còn bền, gạch thì không phồng mà mỏng đều và một màu gan gà, trơ trơ trước thời gian cùng mưa nắng.
Làng tôi đường đất, duy nhất con đường ngõ nhà bà nội tôi là vỉa gạch nghiêng nghiêng. Quãng giữa ngõ, có cái bệ thờ. Không hiểu sao tôi lại nhớ như in cái bệ thờ đó. Nó bé nhỏ, khiêm nhường, không mái, nằm hơi lùi trên một khúc tường đất. Bát hương trong bệ thờ bao giờ cũng có cụm chân hương. Chân hương cái thì màu phẩm còn đỏ tươi, cái lâu ngày xỉn thẫm. Bà tôi gọi là thờ hậu và bà kể: Trước ở làng có những người mua hậu – tức là nộp tiền, hiến ruộng cho làng, cho chùa để làm một công trình nào đó. Thường là những nhà ấy không có con giai, mua hậu, sau này họ mất đị, được làng xã, hương khói, cúng giỗ. Trước tiên họ phải bỏ một số tiền nộp lệ cho làng, cho chùa, cho bản tộc làm công trình, sau đó hiến một số ruộng để làng xã lấy hoa lợi cúng giỗ. Hậu có ký hậu làng, ký hậu xóm, ký hậu chùa, ký hậu họ. Ngõ nhà bà nội tôi trước có gia đình không con cái, ông bà mua hậu ở chùa, ở đình và còn mua hậu ngõ bằng con đường gạch. Chuyện mua hậu con đường gạch của gia đình ấy mất nhiều công sức và cũng cầu kỳ lắm, phải bao lần lên xuống, làng và dân xóm mới đồng ý. Chỉ riêng khâu cuối cùng là việc xây dựng đã rất nhiêu khê, kỹ càng. Gạch đặt trước, rồi chọn lựa từng viên. Xem xét, chọn lựa mãi qua mấy ông thầy, mới được ngày giờ tốt khởi công. Công trình xây dựng rất kỹ càng. Trước hết người ta san phẳng nền đường ngõ, rồi dải một lớp ba ta vữa, sau lát một lớp gạch nằm, tiếp đó lại một lớp ba ta vữa và trên cũng vỉa gạch nghiêng. Công trình cẩn thận như vậy, trước đây lại chỉ độc người đi bộ, cùng trâu bò gia súc, chứ không công nông, xe máy như bây giờ, nên trải qua mấy chục năm, nó vẫn tốt như nguyên. Thế nên sau khi ông bà già mua hậu mất, đã thành lệ, hàng năm vào lúc trước giao thừa cúng thổ công, cúng gia tiên, dân ngõ ra bệ thờ dâng đĩa hoa, thắp nén hương, khấn người mua hậu ngõ con đường.
Ngày bé mỗi dịp về quê, đi qua bệ thờ, tôi thấy sờ sợ, nhưng vẫn lấm lét nhìn vào, rồi rảo cẳng bước nhanh. Tôi cứ tưởng tượng ấy là nơi ma quỷ trú ngụ. Sau này lớn về quê, nhớ chuyện xưa, qua bệ thờ tôi lại bâng khuâng nghĩ về tuổi thơ, dừng lại thành kính thắp nén hương, cúi đầu lẩm rầm khấn tiền nhân. Nhìn làn hương mong manh mà nghĩ về thời gian trôi, nghĩ về một tập tục, nét văn hoá chốn quê.
Giờ quê tôi đường làng mở rộng, đổ bê tông. Con đường ngõ nhà bà nội tôi cũng bê tông phẳng phiu. Nền đường tôn cao, làm cổng ngõ thấp xuống, vướng chắn tầm cao người qua lại, nên nó bị dỡ bỏ. Còn gạch vỉa đường, trước nhà nào, nhà ấy khuân về, mỗi nhà được dăm chục, một trăm viên. Khuân về nhưng ít ai biết gạch ấy nguồn gốc do đâu. Bà nội tôi sai xếp thành đống ngay ngắn trong sân và bà lại kể câu chuyện mua hậu con đường xưa…
Trước hai bên ngõ là bờ duối, hay rặng cúc tần, râm bụt, người ta còn để đất rộng, nay tường gạch nên nhà nào nhà ấy đều xây sát đất, tường cao vượt cả tầm nhìn. Nhà nào cũng một cổng xây, tường gạch bao quanh, cánh cửa sắt ra vào tiếng đẩy kót két.
Đâu rồi dậu râm bụt điểm hoa phớt đỏ, bờ duối lấm tấm quả vàng. Bâng khuâng tôi dõi tìm bệ thờ mua hậu xưa mà không rõ là đâu.
 Trọng Huấn
Về qua ngõ .....
Mỗi lần về ghé ngang qua xóm nhỏ,
Chút ngại ngần xen lẫn với băn khoăn....
Giữa trần ai lắm bụi bám khó khăn ,
Vẫn ẩn chứa những tấm lòng nhân hậu !!
NM

Ngõ nhà nghèo 

           Nó bước ra từ một con ngõ nghèo xác nghèo xơ, ngõ của những khúc đường đèo dốc quanh co len lỏi qua từng ngọn đồi trơ con suối vắng. Vùng đất ấy là nơi của những người đi tha phương cầu thực, rời bỏ quê xưa để mong tìm cho mình một vùng đất hứa, gia đình nó nằm trong số đó.
          Thuở ấy đất vẫn còn hoang vu, chỉ cần phát một bờ ranh sẽ trở thành chủ nhân khu rừng ấy. Ba đi ranh nguyên một quả đồi đâu hơn chục héc ta và nơi đó trở thành đất sống. Ba làm ăn thất bại thẹn trong lòng bỏ xứ đi. Ngày ở quê, năm 1989 nhà nó cất cái nhà lầu đầu tiên ở xóm, có ti vi màu, có tủ lạnh, có chiếc cub cánh én,… cũng gọi là khác so với hàng xóm một chút. Làm ăn thua lỗ, nhà nước tới phát mãi nhà đâu được nửa giá. Đời ba nó lênh đênh từ đó, đi qua nhiều vùng đất rồi trôi dạt đến đây. Cũng vì cái cơ duyên ấy nên nó hội ngộ cùng cái ngõ nghèo này.
          Tay trắng lập nghiệp đã tiềm ẩn trong mình những lận đận, bao năm trôi qua vẫn cứ nghèo và nó lớn lên cùng cái nghèo ấy.
          Con ngõ nằm im lìm theo năm tháng nhìn nó lớn khôn qua hết thời cấp hai, cấp ba rồi vào đại học. Ngày ngày đi trong lòng con ngõ ấy, từ bước chân trẻ con bước ngắn bước dài vô ưu, cho tới bước chân thấm đẫm những ưu phiền, nó đi tìm cái chữ, mơ một ngày thành đạt để có thể trở về quê xưa mua lại căn nhà cũ, xây mái nhà thật đẹp nằm giữa triền đồi. Sống ở đây bao năm nó yêu chốn này yêu đến từng cành cây ngọn cỏ và yêu cả những con gió lao xao.
          Hết thời phổ thông, nó đi tìm ước mơ và hoài bão.
         Thi rớt vào ngành báo chí, như bước chân hụt hẫng khi vừa mới bắt đầu, và nó như kẻ bơi chơi vơi giữa biển chưa biết bấu víu vào đâu. Nó thích làm báo, thời cấp hai có viết, và nó nhận thấy viết báo kiếm tiền thật dễ dàng chỉ cần viết đều tay lại tự do tự tại. Nhưng đời vốn dĩ đâu như mơ! Nó với nghề báo như những kẻ yêu nhau thắm thiết nhưng chưa có duyên nợ ba sinh để có thể nên vợ thành chồng, và rồi nó rẽ sang hướng khác, học du lịch, nhưng niềm đam mê vẫn còn tiềm ẩn sâu trong lòng nó.
         Xuống Sài Gòn học đại học, dường như đời nó gắng chung với những con ngõ nghèo thì phải. Nó cứ thế đi từ cái ngõ nghèo này sang cái ngõ nghèo khác. Xóm trọ nằm trong một ngõ vắng, nơi đó có những người buôn gánh bán bưng: bán hủ tiếu, bán võng, bán đậu hủ, bán bánh mì, bán vé số,… và trăm vạn nghề khác của những khách trọ đến rồi đi như nó. Xóm trọ nghèo nàn lụp xụp nhưng được cái sạch sẽ. Chiều xóm trọ buồn tênh, từng cơn gió lùa chút rác rưởi vào cuối góc tường như gom hết những dơ bẩn vào một góc giữ lại cái sạch chung, như giữ cái sạch chung trong nhân cách mỗi người. Nỗi buồn đó phả lên nét mặt mệt nhoài của chị bán vé số, phả lên tiếng thở dài của một ngày buôn bán ế ẩm, hay chỉ là một ánh mắt ngại ngùng vì tiền nhà qua nữa tháng mà chưa có trả.
          Phòng nó nằm trên gác, căn gác duy nhất trong xóm trọ, cao ráo và thoáng đảng. Nó ngồi trên có thể quan sát hết mọi vui buồn vươn trên nét mặt từng người. Nó là con bé sinh viên duy nhất trong xóm ấy, và vì những cái duy nhất ấy nên luôn nhận được sự cảm mến yêu thương từ những con người cùng khổ. Nó vẫn hay thích ngồi trên gác nhìn xuống như nhìn xuống từng số phận con người với sự đồng cảm sâu sắc nhất. Nó không biết cụ thể họ ở đâu, nhưng điều nó biết là họ cũng như nó cũng bước ra từ một con ngõ nghèo nào đó, chỉ có cái khác, nó bước ra để đi tìm ước mơ và ước mơ của nó có thế bay xa, còn họ, học bước ra chỉ để đi tìm nguồn sống cho những nhu cầu đủ ăn đủ mặc rất đổi trần trụi của con người.
          - Tuyền, xuống đây chị cho cái bánh trán.
          - Tuyền, ăn bom không xuống anh lấy.
          - Tuyền xuống đây chị cho mấy cũ khoai.
          Những câu nói ấy vang lên hằng ngày trong xóm mỗi khi đi học về với vẽ mặt bơ phờ vì đói, vì mệt, nó sống trong tình yêu thương của những người nghèo giống nó.
 Nó nghèo, nhưng ở đây nó nhận ra cái nghèo của vẫn còn cao sang lắm, vì nơi nó bước tới những con ngõ nghèo ấy không phải là một kẻ khố rách áo ôm cùng đinh mạc vận, mà là sự thất cơ lở vận của một kiếp người. Ba vun đấp ước mơ đi tìm tri thức cho nó để vươn lên sống không thẹn với đời và nó chưa từng sống cảnh “ăn mấm mút giòi” trần ai khổ cực. Một mình trên căn gác trọ hai mươi mét vuông, có đầy đủ bàn ghế, tủ nệm, ti vi, đủ tiện nghi để nó thư thái tâm hồn mà học. Còn những con người nơi đây họ làm ngày nay không biết ngày mai ăn gì, cơm áo gạo tiền làm họ già nua trước tuổi, làm đủ ăn với họ đã là cái mừng cho những ngày bon chen, tương lai mù mịt.
          - Tuyền, em còn tiền cho chị mượn năm chục mua thuốc thằng ku, tối anh lãnh lương về chị trả.
          - Em còn có ba chục, chị cầm đi.
          Chị Thu đi lên cầu thang, nhẹ nhàng bước vào phòng, nó ngồi học bài không để ý cho tới khi chị lên tiếng. Trong túi nó hết tiền chỉ còn nhiêu ấy, chị cầm tiền và bước xuống cũng nhẹ nhàng như lúc bước lên, nét mặt u sầu nhưng bước chân lại cố đi nhè nhẹ, bước chân ngại ngần của những người đi nhờ cậy người khác dù việc nhờ nó nhỏ hơn hạt bụi.
          - Tuyền, em có tiền cho anh mượn hai chục anh mua đồ ăn cho con bé, mẹ nó đi làm tăng ca chưa về anh không giữ tiền.
          - Anh cầm năm chục đi.
          Anh Hiền cầm tiền cảm ơn nó và bước xuống cầu thang, đàn ông nhưng sao anh cũng có bước chân nhẹ nhàng đến thế, không tiếng động.
          - Bác cho con nợ tiền nhà tới ngày mười lăm con lãnh lương trả, công ty phát lương trể quá!
          - Ừ, mà mày cứ trể miết.
          Nó ngồi học bài nghe tiếng vọng lên dưới cầu thang, cửa nhà chủ nhà nằm ngay cầu thang lên căn gác của nó, tiếng anh Vũ hẹn tiền nhà.
          Những cuộc trò chuyện bâng quơ như thế vẫn vang đều trong xóm trọ mỗi ngày. Nó cũng đôi lần hẹn nợ tiền phòng khi má chưa xuống, và cũng đôi lần mượn tiền của một ai đó trong xóm trọ, đời nghèo nhưng dường như ai cũng cuối xuống những nỗi trăn trở khó khăn của nhau mà chia sẽ cảm thông thì phải.
          Mối nhân duyên sâu đậm nhất ở xóm trọ nghèo này có lẽ là với anh chị Hủ Tiếu. Nó vẫn gọi anh chị bằng cái tên theo đúng đặc điểm nghề nghiệp. Ngày đầu tiên đến đây nó không mấy cảm tình với đôi vợ chồng này, vì thấy ở họ một sự tính toán chi li, ki bo từng đồng một, dẫu biết nghèo nhưng tính kĩ quá thế nó không thích. Và rồi càng ngày nó càng nhận ra sau vẻ bề ngoài lúc nào cũng lắm lem nhớt đen thui đen thít của anh là một tấm lòng rất sạch và ấm. Sau những câu nói không mấy thiện cảm của chị là một trái tim biết yêu thương sâu sắc. Anh chị vào Sài Gòn đã hơn mười năm, từ ngày mua xe hủ tiếu này bán lời dăm ba đồng bạc lẽ không đủ ăn, cho đến hôm nay, anh chị  dành dụm cũng được kha khá, số tiền tích lũy lên đến ba bốn trăm triệu. Nhưng cái nghèo đã thắm sâu vào máu, sài đồng tiền vẫn ki cóp từng cắc một, vẫn biết là tiết kiệm mới giàu, nhưng tiết kiệm đó có chút gì hơi quá trong suy nghĩ của nó. Ngày anh ăn từ sáng, đi mua nhớt tới hai ba giờ chiều mới về ăn rồi ngủ, tối lại ra phụ bán cho chị. Mười năm trời ở sài Gòn không hề biết một tô phở vị nó ra sao, chỉ ăn cơm nhà, nghe chị bảo, "Anh kẹo lắm", đi xa về chẳng bao giờ mua kẹo bánh cho con, cho nó tiền nó mua gì thì mua, chứ anh mua anh tiếc. Một cách suy nghĩ của những người nghèo.
          Có lẽ thâm tình bắt đầu bằng một tối nó ăn hủ tiếu.
          - Sao không nấu cơm ăn mà ăn hủ tiếu tối đói sao?
          - Em hết tiền mua đồ ăn rồi, mốt má mới xuống, ăn hủ tiếu trừ cơm.
          Chị nấu cho nó tô hủ tiếu mì nhiều gắp đôi và bỏ thêm vài miếng bò viên, nó ăn no căn bụng. Tô hủ tiếu gõ ngon gắp vạn lần món ăn cao lương mĩ vị ở một nhà hàng Tây nào đó. Món ăn của tình người.
          - Chị cho mượn một trăm nè, má xuống trả chị.
          - Dạ thôi!
          - Cầm đi, chị “quánh” giờ, ngại gì, má xuống trả chị gấp đôi. Chị vừa cười vừa nói.
          Nó ngại ngùng đưa tay cầm mà muốn rưng rưng... Nó cảm ơn chị rồi bước về phòng trọ. Gió chớm đông lành lạnh, Sài Gòn bắt đầu chuẩn bị Noel, nhiều nhà đã trang trí cây thông trước ngõ, nhìn những ngọn đèn chớp chớp nó thấy vui. Buổi tối mùa đông ấm áp. Chị là một ngọn đèn nhấp nháy!
          Sau lần ấy bắt đầu nó hiểu tâm tính của anh chị, thấy được tấm lòng sau vẻ bề ngoài có vẻ bần tiện bủn xỉn ấy. Nhưng cũng lạ, xóm trọ lắm người nghèo, chị là típ người kín của nên hầu như không bao giờ cho ai mượn tiền dù là vài chục vậy mà với nó chị cho mượn năm ba trăm, có lúc nó kẹt tiền đóng tiền học những lớp ngoại ngữ, mượn ba triệu, bốn triệu gì chị cũng đưa. Nó học ngoại ngữ Anh, Nhật, Hoa… và những thứ linh tinh khác đa số là tiền chị cho mượn rồi má xuống trả lại. Đôi lúc nó hỏi.
          - Chị không sợ em giựt sao?
          - Mày giựt mà mày ăn được hết đời thì chị cũng cho mày giựt.
         Nó thật không hiểu, một người tiếc tiền mua kẹo cho con sao lại dám lấy tiền triệu ra cho nó mượn, và chỉ nó thôi chứ không một ai khác có thể mượn được ở cái xóm trọ thập phương này.
          Năm năm qua đi, nó ra trường, rồi lại học thêm một cái ngành khác, chị cứ hay hỏi” học gì học miết vậy em” nó lại cười trả lời "em còn thích học". Chị cũng có hai đứa con một trai một gái học ở quê, nhưng nó học dỡ rồi một đứa bỏ học năm lớp mười vào học sửa điện thoại, một đứa rớt tốt nghiệp rồi vô học hớt tóc, chị cứ hay bảo ”Con chị mà học được chị bán nhà cho nó học chị cũng cam.”
          Người dưng, nhưng chị cũng góp phần vào xây dựng ước mơ cho nó, dù biết là mượn nợ rồi trả, nhưng có ai không không đem cho một con bé sinh viên nghèo không biết rõ lai lịch, không khéo nửa đêm nó bỏ đi thì tiền mất tật mang chẳng lợi lọc gì. Người với người đôi khi cũng có thứ tình cảm chi chi đó gắng bó, lạ lắm và không thể giải thích được.
          Sự yêu thương quá đôi khi cũng làm người ta khó xử. Có nhiều lúc chị thương nó mà cho nó khúc cá kho, miếng thịt hầm, nhưng hương vị mỗi nơi mỗi khác nó không ăn được, từ chối thì chị giận, nên nó tránh những giờ cơm nhà chị. Và cũng bởi nó là một người ngại phải nợ nần người khác nếu không phải quá cùng cực.
           Một ngày cuối năm, chủ xóm trọ lấy lại nhà để sửa sang, nó lại chuyển qua một con ngõ nghèo khác, ngõ của những người công nhân áo xanh, lại bước tới và cảm nhận đời ở một khía cạnh khác. Người trong xóm cũ tản ra mỗi người một nơi, chị cũng chuyển đi khi nó về nhà nghĩ tết, và rồi cũng từ đó không còn liên lạc nữa.
            Cũng hơn một năm nó chưa ăn hủ tiếu gõ, hôm nay đi dạy về ngang một xe hủ tiếu mùi thơm ngào ngạt, nó dừng xe gọi một tô, cô bán hàng giọng cũng rặc chất Quãng làm nó nhớ về xóm trọ ngày xưa, không biết giờ chị ở đâu, đã về quê hay vẫn còn lập nghiệp ở Sài Gòn. Lâu lâu đi qua khu ấy, nó vẫn hay nhìn vào những xe hủ tiếu, hi vọng một ngày nào đó có thể  kêu lên một tiếng “Chị” khi bất ngờ gặp ở góc vĩa hè với xe hủ tiếu ngày xưa. Nhưng cũng có lúc nó không mong gặp lại chị trong tình huống ấy, vì như thế là chị vẫn còn nghèo, và chị vẫn còn phải vất vã mưu sinh giữa đêm sài gòn hỗn tạp.
           Từ những con ngõ nghèo đi ra, hi vọng một ngày không còn ai nơi con ngõ ấy nữa. Khó đó! Vậy thì ít đi một chút cũng được! Nó bâng quơ…
 
Sưu tầm


Ngõ hoa Phù dung

“Ngõ” với “cổng” có gì khác nhau? Cả hai đều để gọi tên lối ra vào của một khuôn viên, như một cái sân, một cái vườn chẳng hạn, sau đó mới đến ngôi nhà. Nhưng từ ngõ gợi ra một không gian sâu vào mở, có thể nó không cần một cánh cửa. Vì thế mà anh con trai mới thích đi ngang qua ngõ nhà nàng, để “Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau”. Còn cổng gợi một cảm giác cạn, đóng và kín hơn.
Có lẽ cái ngõ thơ mộng và nổi tiếng nhất mà lại rất gần gũi với người Việt Nam là cái ngõ của nhà thơ Nguyễn Khuyến “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Cũng như những người yêu thơ cổ mê cái ngõ tre của thi sĩ kiêm họa sĩ nổi tiếng đời Đường của Trung Quốc là Vương Duy với cảnh “Trong núi đưa tiễn bạn, chiều tà đóng cổng tre…”
***
Ở quê tôi hồi đó, nhà nào mà chẳng có ngõ. Nhà giàu có ngõ xây bằng đá, bằng xi măng lợp ngói, gọi là ngõ ngói. Nhà nghèo đựng ngõ bằng tre. Nhưng nhiều nhất vẫn là những ngõ bằng cây trồng tự nhiên rồi người ta uốn lại, những ngọn cây giao nhau thành vòm, thành mái và tên ngõ cũng được gọi theo tên loại cây ấy. Ngõ trúc, ngõ dâm bụt, ngõ tường vi, ngõ hoa ngâu, hoa giấy. Cái ngõ như một nụ cười đón khách, hiền hậu, niềm nở
Hồi nhỏ tôi thích ra chơi ngoài ngõ, vừa chơi lò cò, chơi búp bê vừa ngóng ra ngõ đón mẹ đi chợ về, đón bà đi ăn giỗ về, có món quà trao tận tay mình. Ngõ hướng về hướng phía đông nên từ cái ngõ ấy tôi nhìn trăng lên. Mùa xuân buổi sáng tinh mơ sương mù dày đặc ngoài ngõ, mặt trời chìm trong sương có màu hồng và thơ mng chẳng khác nào mặt trăng. Chẳng hiểu sao ngõ nhà tôi lại trồng hoa phù dung, hoa này bây giờ ít thấy. Cành ph dung  mảnh khnh vươn cao, phải tựa vào cái gì đó thì mới đứng vững, một chút gió nhẹ cũng làm cành hoa lay động. Cây ra hoa không nhiều nhưng hoa lớn, bằng một bàn tay xoè màu hồng nhạt với những cánh hoa mềm mại, mùi thơm nhẹ có một vẻ đẹp não nùng và rất mong manh vì sớm nở tối tàn. Mỗi khi đi đâu về, qua bao nhiêu cái ngõ mới tới nhà, nhiều lúc tôi thử nhắm mắt bước, đến ngõ nhà mình tôi vẫn biết ngay vì cái  ngõ ấy có một hơi thở riêng. Có người cho tôi giàu tưởng tượng, nhưng đến giờ tôi vẫn tin rằng chỉ những cô gái nhỏ mới có được sự mẫn cảm như thế… Lớn lên bạn đến chơi, bạn quý, tôi tiễn ra tận ngõ mà câu chuyện vẫn chưa ngớt. Bóng ai thấp thoáng ngoài ngõ là tim yếu mềm hẳn đi. Muốn gặp ai đó giả vờ tình cờ đi ngang qua ngõ…
***
Ở thành phố tôi đang sống hiếm nhà nào có cái ngõ. Nhà mặt tiền, nhà hẻm không có ngõ, nhà chung cư lại càng không. Có những biệt thự với những cái cổng cao lớn làm bằng bê tông, sắt thép vô hồn, kín mít hay thâm nghiêm lạnh lùng, đôi khi còn đe dọa bằng hình vẽ con chó dữ nhe nanh… Có những cái ngõ kiến người ta nao nức muốn bước vào, tìm hiểu, hòa nhập với cái không gian bên trong, có những cái cổng khiến người ta ngại ngùng không muốn vào vì sợ đánh mất mình
Nhưng trong ký ức tôi vẫn còn cái ngõ thật nơi ngôi nhà tuổi thơ, lẫn lộn giữa bao cái ngõ mơ màng của thi ca hòa nhập lại…
nta

Ngõ sau trường

Bước chân ra khỏi trường, người ta thường nhớ nhiều thứ,
Cái ngõ sau của trường đã từ rất lâu không còn được sử dụng. Cổng luôn khóa im ỉm, ổ khóa gỉ sét. Tường mốc meo. Những bàn ghế hỏng được chất thành đống ở cái ngõ ấy. Ngay bên ngoài cổng là cây phượng già, mỗi mùa hè nở hoa đỏ rực cả con ngõ, nhưng chẳng nữ sinh nào đến đấy để nhặt hoa ép lên trang vở học trò. Ngõ sau trường u ám và tăm tối ngay cả lúc trời nắng gắt. Thế nên chẳng ai bén mảng đến cái ngõ ấy, có chăng chỉ một mình tôi. Cái ngõ ấy bỗng dưng được mình tôi chiếm cứ.
Cái ngõ sau của trường đã chứng kiến không biết bao nhiêu lần tôi đi học muộn. Để được vào lớp, tôi lén thầy giám thị quăng mình qua cái cổng già nua sập sệ ấy, cũng có nhiều bận bị thầy cô túm cổ, nhưng đa phần thì được tôi thi hành trót lọt. Cũng nhờ thế mà tôi yêu cái ngõ sau của trường nhiều hơn.
Nhớ nhất là một buổi sáng mãi la cà ngoài quán với nhỏ Nga, quá giờ vào lớp, tôi lôi nhỏ mon men tới ngõ sau của trường. Dạo ấy, nhỏ Nga và tôi đều vào lớp kịp giờ kiểm tra, nhưng tà áo dài của nhỏ Nga thì bị rách một mảng. Cũng từ dạo đó, nhỏ Nga không bao giờ dám vào lớp thông qua cánh cổng ấy. Không biết vì nhỏ sợ sẽ rách thêm một chiếc áo dài khác, hay sợ cái không gian u ám của ngõ sau, hay sợ bị mẹ mắng vì tội leo rào. Chẳng biết, chỉ biết rằng tôi không còn dịp nào nữa được chứng kiến cảnh nhỏ Nga luýnh quýnh vụng về khi leo qua cánh cổng già nua ấy.
****
Những lúc có chuyện không vui, tôi lại một mình ra ngồi ở cái ngõ sau của trường. Ở đấy, không gian im ắng, lặng như tờ, tiếng xe cộ náo động ngoài kia dường như không thể xuyên qua những bức tường thành để vượt đến đây, tiếng nói cười của học sinh cũng chỉ ẩn hiện đâu đó, nghe mơ hồ, mong manh. Chỉ có tiếng gió rung rinh nói cười trên cây phượng già, những chiếc lá phượng li ti là đà xoay mình trong gió. Nơi đó, tôi có thể thỏa thích khóc cho vơi đi những nổi buồn trong lòng mà không sợ ai biết mình yếu đuối. Nơi ấy, tôi tự do thả hồn mình đi rong, mơ về anh bạn lớp trên mà không sợ hội bạn biết… Nơi ấy, tôi cũng đã gặp mối tình đầu của mình. Mối tình thời chanh cốm với những ngọt ngào, vô tư và vụng dại.
Tôi về lại trường sau nhiều năm xa cách. Trường xưa vẫn thế, không đổi thay gì nhiều, chỉ có ngõ sau của tôi là không còn nữa. Nơi ấy đã từng ghi dấu những buồn vui của một thời cắp sách, nơi ấy đã chứng kiến mối tình đầu của tôi lớn lên từng ngày. Người xưa đã rẽ sang một con đường mới. Tôi quay về trường, mong tìm lại chút dáng hình xưa, nhưng dáng xưa đã mất dấu, ngõ xưa cũng không còn. Chỉ mình tôi đứng đó, lòng ngẩn ngơ...

Chùm ảnh: Con đường ở Hà Nội được tạo nên bởi 100 gốc hoa tường vi đẹp như  khu vườn cổ tích

Mùa xuân qua ngõ

Bút ký của Hoàng Công Danh
Khó có điều gì huyền nhiệm như thiên nhiên buổi đất trời vào xuân, lúc sương làm thành màn và tiếng chim chèo bẻo sớm mai vén bức màn ấy lên. Hiện dần trong đôi mắt ngái ngủ của ngày tân niên là một ngõ quê với bước chân ai đó thả nhẹ trong bồng bềnh hương thơm hoa trái. 
Lật tờ lịch đỏ, mặt trời đánh vài sợi nắng đầu mùa và giữ khí trạng ấy cho đến cuối ngày. Mọi thứ bắt đầu bằng sự nhẹ nhàng khoan thai của một người yêu thủy chung mỗi năm ghé về chợ tình lấy duyên một lần, rồi nhận ra món hồi môn từ mấy ngàn năm trước đã trẩy lộc: bông hoa trên cỏ nở cười, trái cây trong vườn ửng má thẹn thùng, cau xòe tán làm chiếc lộng che trái dạm lời. Hình như mùa xuân đất trời bày một tiệc cưới hân hoan, thiên sứ trên cao xuống trần và bưng tất cả lễ vật vừa vào đến ngõ. Tình yêu khai sinh từ một ý niệm tìm ra quả mà Adam và Eva là hai kẻ may nắm đầu tiên. Có lẽ, trái bữa ấy là vật phẩm đánh dấu mùa xuân sang.
Tôi miên man những ý nghĩ ngây ngô khi vào nhà Bảo. Một cây bưởi đứng chào ngay ngoài ngõ trong tư thế cong cành thả từng trái tròn vô tư. Vài trái len hẳn ra ngoài vòm lá và nằm rất thấp, vừa tay người chạm.
- Nghe nói nếu có hơi tay người thì bưởi mau to?
Bảo cười khi nghe câu hỏi bâng quơ của tôi. Là một người đam mê cây cối, hẳn nhiên Bảo sẽ rất rành món này nhưng hắn vẫn giấu nhẹm câu trả lời. Đừng vội nghĩ đến một hành động thái quá của đàn ông. Nói một cách nghiêm túc, những kinh nghiệm chăm vườn có một sự liên hệ nào đó với việc chăm sóc người. Ví như người lớn thường xoa đầu trẻ con cho chóng lớn. Đấy là sự động viên chân chính. Cũng như khi sờ bưởi thì có ý nhắn nhủ rằng ta muốn có một món lễ xuân dâng cúng tiên tổ, hoặc làm quà cho người thương.
Nhà Bảo nằm ngay chỗ giao của hai con đường làng. Mỗi buổi sáng mấy cô gái quê thường đi qua thả những mùi hương tóc gội bồ kết, hay là trả tiếng cười khẽ khi gặp lời chào ban mai của chàng trai tuổi yêu. Mấy lần ngủ lại ở nhà Bảo, sáng thức dậy tôi đã nhận ra rất nhiều tín hiệu duyên dáng của ngày mới. Một chòm hoa bưởi trắng nội kết trong tàng lá xanh tự bao giờ vẫn giữ nét khôi nguyên và bung nụ như mở tấm lòng thơm thảo muốn hiến dâng. Có khi len lỏi giữa những vòm bưởi là chú chim sẻ vuốt cánh đánh nhẹ vào mấy chiếc lá, hoặc chim liếc mỏ sừng vào vỏ trái. Thành ra, trái bưởi có những chỗ bóng loáng lên như thứ gỗ được mài nhẵn. Mỗi trái bưởi hệt một khuôn mặt tròn đầy của thiếu nữ với làn da mịn màng được nuôi dưỡng bởi lớp kem sương xuyên đêm. Ba của Bảo đang bệnh, bây giờ mỗi ngày phải dìu ông đi quanh sân nhà, ra ngõ cho ông chạm vịn vào cây cối một chốc. Lần tôi dìu ông ra ngõ, ông nắm vào cuống trái bưởi cố gắng nân lên rồi ú ớ vài tiếng không rõ. Tôi hỏi có phải lấy tre chống cho cành đừng trĩu xuống không? Ông gật đầu lia lịa và rạng mắt mừng vì có người hiểu mình. Từ đó tôi biết rằng tình yêu thiên nhiên đã nâng đỡ rất nhiều cho con người. Trong nỗi bệnh tật, người ta làm bạn với cây cối, biết cách nâng niu và trân trọng sự sống thuần hậu.
Ngõ quê ít khi kín cổng cao tường, thay vào đó là một cây cho quả vắt nhành sang làm cổng và hàng cây leo dựng tường. Những loại cây leo làm phên dậu như mướp hay mùng tơi. Từ cuối mùa đông người quê rào tre làm phên và ươm hạt trong những túi nhỏ. Khi cây chừng một gang tay, bắt đầu ra tua cuốn thì xé bao đem trồng ở dưới những hàng phên. Vài bữa sau cây đã bắt ngọn leo lên và phủ xanh lá. Có nhà làm phên ngay ở hai bên lối vào, rồi bắc thêm phên ngang phía trên để trồng mướp. Đến khi mướp phủ kín, đi vào ngõ nhận ra ngay niềm hiếu khách của gia chủ, hồ như đấy là niềm hạnh phúc tao ngộ của người nhà quê. Có lần tôi lên nhà Đăng chơi, gã chỉ tay ra ngõ và khoe cái giàn mướp mới gầy tre: vài bữa nữa nó lên xanh đẹp lắm! Rồi đôi mắt gã mơ màng nghĩ đến một cuộc hôn nhân trong kỳ mướp cho quả. Từng trái xanh non vắt xuống vừa chạm đầu nàng dâu mới. Sẽ có vài con ong chơi trò đuổi bắt, chúng xuyên qua vòm rồi bò quanh trái mướp. Cuộc tự tình mỗi sớm mai hay khi chiều về của đôi lứa dưới vòm lá sẽ lãng mạn biết bao. Cây còn xanh đúng mùa, ngõ vẫn chờ đúng hẹn, nghĩa là tuổi xuân của bạn còn phơi phới. Biết bao lần ngồi với Đăng trên lớp cỏ ven đê, giữa đêm trăng mọc muộn phía đầu làng để nói về niềm tin yêu cuộc sống. Và mỗi độ xuân về, tôi đều nhận ra thiên nhiên bao la đã choàng lên mảnh làng bé nhỏ của mình những gửi gắm lạc quan. Trong sợi dây leo có tình gắn kết, dưới tờ lá xanh có sự chở che, quả đầu mùa móc cuống vào giàn có nguồn nâng đỡ. Bởi thế mà quê hương luôn hiện hữu trong từng ý nghĩ của bạn bè.
Mảnh vườn bên cạnh lối vào, người quê thường dùng để trồng rau màu, các loại rau kẹp ăn sống ăn quanh năm. Riêng cải thì chỉ thích hợp vào mùa xuân nên đến độ này, người ta ưu tiên đất để trỉa cải. Và không phụ lòng người trồng, cải làm màu xanh non tươi mơn mởn. Hạt cải chỉ cần trỉa xuống độ vài hôm là có thể nhổ ăn được rồi. Đi vào ngõ nhà Đăng, vườn cải trải ra một tấm thảm xanh dịu dàng. Có lẽ đó là màu xanh ngây thơ nhất, một thứ gam màu lạnh chưa hề nghĩ ngợi đến tuổi đời của mình.
Niềm vui của người làng không phải là của cải, mà đó là vật phẩm thiên nhiên. Bởi thế nên bà con khen nhau cái cây sây trái, cái vườn xanh tươi chứ ít khi khen của nả trong nhà. Đến chơi với nhau cũng muốn đứng ngoài sân vườn, hưởng cái bầu không khí yên tĩnh. Chén nước trà đãi bôi đôi khi chưa thực sự là niềm thân giao bằng lời mời chào của ngõ cây xanh. Tôi học được điều này qua những lần đi chơi với Bảo. Cứ thấy nhà ai có nhiều cây xanh là Bảo ghé vào chơi một cách tự nhiên, rồi nói chuyện sinh vật cảnh với gia chủ y hệt bạn quen từ thuở nào. Thế đấy, cây cối đã nối một vòng tay thân thiện cho con người.
Hồi ấy tôi và Sum hay đi qua đường làng Đại Hòa, bên cạnh đình làng có một ngôi nhà rậm rạp cây cối. Hai đứa có ý “sợ” cái nhà này vì nó kín đáo quá. Không ngờ vài bữa sau mới biết đó là nhà Phương Oanh, một người bạn gái của tôi. Buổi tối đầu tiên tôi đánh bạo vào nhà Oanh chơi, bạn mời ngồi ở ngoài sân. Mới đầu thấy hơi buồn, nhưng ngồi một lúc thì hương cau từ ngõ tràn vào thơm ngát, gió đêm lạc qua lá khẽ tiếng xôn xao. Tôi chưa kịp quở một lời nào thì Phương Oanh nói trước:
- Bạn đến chơi mà không có gì mời cả!
Trời ơi, cả một khu vườn với rất thanh âm trìu mến và hương thơm quyến rũ như thế chưa đủ hay sao. Phải quý lắm bạn mới cho ngồi ở sân để hưởng thứ ân sủng dồi dào của thiên nhiên. Chính những buổi tối như thế đã dậy lên trong tâm hồn tôi niềm yêu khôn tả và khắc lại hình ảnh một của quê nhà thân quen quá đỗi. Những đêm trăng đầu xuân, ngõ quê ảo mờ như dáng dấp khuynh thành mà duyên dáng, kín kẽ mà điệu đà.
Ngõ nhà gắn với nhiều kỷ niệm tuổi thơ nghịch ngợm của tôi. Hồi ở nhà còn cây vú sữa, tôi hay hái sẵn một chùm trái xoan (thầu đâu) leo lên trên chãng ba và ngồi vắt vẻo ở đó nhìn xuống. Đầu năm, chú tôi dắt một o con gái về nhà chơi. Tôi ngồi trên đó lặt từng trái loan tròn búng xuống chọc chơi. Chú tôi giận lắm nhưng không dám mắng, còn o con gái nớ chắc là không giận nên mới đồng ý lấy chú. Lần khác, đám bạn trong xóm núp sau dậu mùng tơi, đến khi có đôi trai gái đi qua thì cả lũ bạn nhảy ra hát: Cô dâu chú rể, làm bể bình bông. Xong, tất cả bỏ chạy để lại tiếng cười trêu đùa nơi ngõ.
Mùa xuân, đến bất cứ nhà ai chơi đều nhận thấy sự trổi dậy mãnh liệt ngay từ ngoài cánh cửa khu vườn. Mùi thơm mộc mạc của hoa cau, hay mùi bàng phấn tuyền đặc của dạ lý hương lan tỏa như thứ men xuân đắm say. Mỗi lá cây mỗi trái ngọt đều hết mình làm tốt nhiệm vụ kế nhiệm mà tổ tiên của chúng đã gầy dựng và giao phó. Chợt nhớ đến câu văn trong sớ cúng họ tộc: “Triệu tổ tiền bồi thùy vạn cổ/ Phụng tiên tư hiếu báo tam xuân”. Cả con người cũng phải góp phần bồi tù cho thiên nhiên để làm nên mùa xuân đẹp tươi.
Tạp chí Văn Hiến Phương Nam, số 3
 

Mùa xuân chạm ngõ quê tôi

Khi gió chướng bất chợt phất qua khung cửa lòng tôi bỗng nao nao, rũ mềm. Tôi nhớ quay quắt những mùa tết cũ ở quê nhà. Nhớ đến nghẹn thở những ngày cùng người thân, bạn bè gom nhặt từng chút một để làm nên mùa xuân đạm bạc, khó quên.
Vừa sang tháng chạp, ẩn trong vẻ tĩnh lặng làng quê là những gợn sóng ngầm náo nức, xen lẫn âu lo. Tôi bắt gặp tiếng chắc lưỡi hít hà: "Mau quá! Lại sắp tết rồi. Khổ tới nơi!”. Người thích than thở nhất là bà ngoại
Bà đi ra đi vào nhìn lên cái tủ thờ lạnh lẽo, trống trơn rồi đảo mắt vào cái bếp la liệt xoong nồi đen kịn lọ nghẹ treo cặp vách lá. Bà hạ thấp tầm nhìn xuống cái hũ gạo bé tẹo lúc nào cũng không đầy đến một phần tư.
Ngoại ra ngồi trên cái chõng tre, têm vội miếng trầu, đặt vào cái ống ngoáy vàng xỉn giầm tan nát lá trầu xanh đến khi nó chuyển sang màu máu. Bấy giờ mọi người lén đi nơi khác, để bà yên với những giọt nước mắt chực trào xuống đôi má hóp.
Mẹ bắt đầu quảy gánh hàng ra chợ sớm hơn và đến tối mịt mới quay về. Thỉnh thoảng mẹ lôi từ trong cái thúng khúc vải ú nâu để may áo cho bà, khi thì khúc vải kaki để may quần cho ông. Có hôm là một bộ đồ hoa vàng cho tôi. Mẹ cứ thầm lặng tha về từng món, chậm rãi, đủng đỉnh như không có gì phải vội.
Khi nghe tôi khoe, lũ bạn cằn nhằn: "Sao dì không mua một lần mà cứ vài ba bữa “rước” một món cho mắc công tụi tao… nôn nao từng chặp vậy hả?” Dù vậy tôi biết chúng hiểu. Bởi mẹ chúng có khác gì đâu. Cả tuần nhịn ăn sáng, cắn răng bớt thức ăn chiều mới gom đủ tiền mua một cái áo loại rẻ tiền sực nức mùi hồ vải.
Bác Tư, mẹ Hạnh, là "trùm sò" nhất. Bao giờ bà cũng lựa màu sặc sỡ, dài rộng để… trừ hao sang năm mặc vẫn vừa. Vì vậy khi trông thấy Hạnh xúng xính trong bộ đồ màu xanh đọt chuối mà lưng quần phải kéo lên tận ngực cho khỏi vấp, áo lại dài tới đầu gối, tụi tôi bò ra cười. Nỗi vui cứ ngất ngưởng tận chín tầng mây.
Sau mỗi buổi học bọn tôi vác bao đi hốt lá dầu khô hoặc nhặt củi để dành ba ngày tết nhóm bếp. Tôi xếp cẩn thận từng xấp lá vào bao. Nhờ vậy nó nhiều đến nỗi khi hai đứa bạn khiêng đặt lên lưng tôi thì tôi té sấp vì nặng. Thằng Phong càu nhàu: ”Đồ tham lam! Lá chứ phải tiền đâu mà mầy hốt cho cố, cõng nặng le lưỡi cho biết thân!”.
Tôi nhớ đến đôi quang gánh ngày ngày oằn nặng trên vai mẹ khiến dáng người còng xuống như một dấu hỏi giữa trời chiều. Tôi bỗng trở thành lực sĩ, vác cái bao nhẹ tênh như thể vác mây trên trời.
Khi chái bếp đầy củi, chúng tôi chuyển sang việc bám theo mấy người tát đìa cá. Tôi hăng hái lội xuống sình phụ xách giỏ. Tôi thừa biết khi xong việc thế nào người ta cũng ném cho vài con cá ngộp. Chỉ chờ có vậy chúng tôi mang “chiến lợi phẩm” chạy về nhà giao cho người lớn. Ngoại làm sạch rồi ướp muối, phơi khô, tết đến đem nướng chấm nước mắm me, lúc đó thì thượng đế cũng phải tràn nước bọt ra bên khóe.  
Nhà tôi nghèo nên không có mùa xuân nào gói bánh tét. Mãi đến ngày 30 tết mẹ mới mua về một, hai đòn để cúng kiến rước ông bà. Bao giờ mẹ cũng dùng sợi chỉ cắt thành sáu khoanh để chia đều cho mỗi người. Và bao giờ mẹ với bà cũng giành miếng bìa vì ngán mỡ và đậu. Tôi ngạc nhiên lắm. Mãi đến khi có con tôi mới hiểu lòng bà và mẹ...
Đã bao mùa tết tôi không có dịp quay về chốn cũ. Để rồi cứ ngậm nỗi buồn tưởng tiếc những mùa qua. Và, khi tiếng chuông chùa ngân nga giữa đêm trừ tịch, báo hiệu khoảnh khắc giao mùa đã điểm, tôi thắp nén hương trầm lạy tạ tổ tiên rồi khai bút.
Tôi trải lên trang giấy nỗi nhớ dạt dào những ngày mùa xuân chạm ngõ quê tôi.
NGUYỄN THỊ MÂY
 
Mưa phùn giăng kín ngõ quê

Điều làm tôi day dứt nhất khi bước chân lên chuyến tàu hành hương phương Nam cuối đông năm ấy là những cơn mưa phùn. Buổi sáng, mẹ tiễn tôi ở ga Hàng Cỏ, mưa phùn vướng vào chân tôi, giăng giăng bảng lảng trong ánh nhìn thân thương của mẹ, làm tôi nao lòng chực khóc. Trời mùa đông se lạnh, mẹ mặc chiếc áo bông cũ màu nâu vẫy vẫy dưới sân ga, chỉ có mưa ở cùng mẹ khi chuyến tàu mang số hiệu SE3 chuyển bánh…
Không hiểu sao những buổi sáng mưa phùn cứ làm tôi nhớ lâu và day dứt mãi. Cũng thật tình cờ, rất nhiều những kỷ niệm tuổi thơ tôi đều ở dưới mưa phùn. Mưa phùn miền Bắc là thứ mưa tựa như vô hình, nhẹ nhàng như sương mỏng, lây rây thành từng sợi, như tơ trời mà nâng níu chân người đến lạ.
Còn nhớ những buổi chợ sáng, mẹ dậy thật sớm gánh chuối ra chợ bán. Tôi cũng dậy lẽo đẽo theo mẹ đi chợ. Ngoài ngõ, dưới những cành xoan nở hoa tim tím, mưa phùn giăng giăng cộng với sương muối thấm vào da thịt lạnh buốt. Con đường đất trước ngõ không sũng nước nhưng âm ẩm vì mưa giăng cả đêm, chỉ những bụi cỏ gà là hớn hở ra mặt đón những cơn mưa phùn triền miên dễ đến mấy ngày ấy, coi đó như một ân huệ của đất trời ban phát trước ngưỡng cửa mùa xuân.
Mưa phùn thực ra không lãng mạn như lời tôi kể. Nó làm cho cuộc sống mưu sinh của gia đình tôi ngày đó thêm khó khăn bội phần. Mưa phùn làm cho vườn cà chua ba trồng khó đậu quả, do nụ hoa hay bị sun lại vì lạnh. Nhìn cơn mưa phùn, ba thường thở dài, bảo lại sắp mất mùa cà chua. Tuy vậy, ba vẫn tỉ mẩn lấy những tấm ni-lông che chắn từng cây cà chua cẩn thận với hy vọng sẽ vớt vát được một số quả. Vườn cà chua nhà tôi luôn thu hoạch vào dịp áp tết nên rất nhiều hy vọng trông chờ vào nó. Có thể hai anh em tôi sẽ không có quần áo mới, những gói mứt tết thơm ngon hay những đồng tiền lì xì mới cứng nếu vườn cà chua của ba không đậu quả. Còn nội, nội thường nhìn ra ngoài ngõ, nơi mưa phùn giăng mắc suốt đêm đọng từng giọt như châu sa trên giàn bầu cuối vụ mà chép miệng, chắc mấy tay trầu cũng không chịu được mưa phùn và sương muối lại héo hết. Và tết, nội cũng không có trầu ăn hay mời mấy người bạn già trong xóm. Đó là nỗi buồn không chỉ riêng nội vì giàn trầu nhà tôi vẫn thường dành cho các gia đình trong xóm.
Vậy nhưng không hiểu sao, khi vào miền Nam sống xa nhà, cái làm tôi nhớ nhất lại là những cơn mưa phùn. Nhớ mỗi buổi sớm thức dậy, dụi mắt nhìn ra ngoài ngõ, nơi con đường làng dài hun hút với thảm cỏ xanh mướt mà mọc đều hai bên. Ở giữa, một màu đỏ phù sa mịn màng đồng bãi in hằn dấu dép tổ ong của tôi và lũ trẻ trong xóm những buổi đi học sao mà thân thương quá đỗi. Mưa phùn làm mọi cái dường như đều mới mẻ, trinh nguyên hơn. Từ hàng xà cừ cho đến cánh đồng ngô đang trổ cờ, phấn hoa bay phấp phới. Rồi cả nương dâu cũng hùa vào nhu nhú những chiếc lá non tí xíu nơi nhánh cây cụt ngắn cũn cỡn. Khi đứng trên đê nhìn phía làng, thấy mưa phùn như một họa sĩ tài ba vẩy lên cảnh vật đồng quê những gam màu tinh tươm tràn trề sự sống. Mưa giục giã đất trời sinh sôi, mưa đánh thức giấc ngủ đông dài của muôn loài, mưa như hồi chuông báo, mùa xuân sắp sửa về, đâu đó trong giá rét và gió hiu hiu.
Năm nay, tôi lại về quê vào dịp cuối năm. Sau một đêm dài ngủ dậy, nhìn ra mưa phùn đã phủ khắp ngõ quê tự bao giờ. Kỷ niệm xưa theo những sợi mưa mỏng mảnh không chỉ giăng kín hàng xoan già mà còn kín cả tâm hồn tôi, đong đầy hình bóng nội thân yêu. Chợt nhói lòng vì một nhẽ, những cơn mưa phùn giờ không còn là gánh nặng mưu sinh như ngày xưa nữa, nhưng nó vẫn làm tôi buồn vô hạn, vì giàn trầu không và nội đã không còn…
Tạp bút: ĐOÀN ĐẠI TRÍ
 
 







Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

NTV 49 - Mùa lá tre bay

 Mùa lá tre bay .....
Ôi nhớ những mùa lá tre bay,
Ào ào trút lá theo gió xoay..... 

Gói bao ảo vọng, bao hoài niệm, 
Lắng đọng một thời tuổi thơ ngây !

 Giờ đã xa rời nơi quê xa ,   

  Vất vã đi tìm nan mo tre.....  
  Ấm nồng hương khét mùi tro lá, 
 Hình bóng bà tôi theo khói nhoà....

  Biết còn luỹ tre nơi chốn xưa,
  Còn mùa tre lá rơi như mưa ?
    Bao nhiêu phiến lá, bao hồi nhớ.... 
 Một thuở cùng tre vui tuổi thơ !!....

Vẫn mơ trở lại khung trời cũ,
    Đi dưới mùa thu lá tre bay....
 Búi tre ngày cũ vui chào đón,
  Tôi gặp lại tôi xưa chốn nầy !!
 NM

Có một luỹ tre làng trong ký ức tuổi thơ
Tôi sinh ra ở một vùng trung du xa hút hắt. Tuổi thơ của tôi gắn chặt với miền quê cằn cỗi ấy Nhưng đến năm tôi lên lớp năm, sau những trận đỏ đen ngút trời, bố mang cả gia đình bỏ đi biệt xứ 
Có những buổi chiều lặng gió, đứng giữa vườn dừa bạt ngàn của vùng Đông Nam Bộ, tôi ngơ ngác xăm soi từng thân cây một mong tìm lại chút thân quen. Cây tre bắc bộ ám ảnh tôi suốt cuộc đời. Những khi ấy tôi nhớ da diết cơn mưa lá tre ào ào của một vùng mờ mờ trong kí ức. Tất cả chỉ là ảo vọng của một đứa con tha hương sống lay lắt bên kia bờ hoài niệm mà thôi.   
Quê tôi có nhiều loại cây lắm: Cây mít, cây trôi, cây quéo… Mỗi độ bão tràn về, thế nào sáng ra cũng có dăm cây cổ thụ đổ vật xuống, chắn kín đường làng. Tôi hỏi ông tôi: “Ông ơi! Sao chúng lại bị đổ hả ông?”. Ông bảo tôi rằng: “Vì chúng chỉ đứng đơn độc cháu ạ!”. Tôi “À” một tiếng rõ to rồi phóng mắt nhìn ra xa, rặng tre ngoài kia quấn chặt lấy nhau vẫn đứng hiên ngang trong gió. 
Cây tre quê tôi cao vút, được ghép lại bởi hàng chục đốt xanh ngắt mỡ màng nhưng cũng có khi vàng óng ả. Lũ trẻ chúng tôi phân loại từng rặng tre: Búi tre ông Nghi, búi tre ông Đản, tre ngộc, tre hóp… Búi tre ông Nghi gày xơ xác, thấp lè tè nhưng chắc đến đanh lại. Cứ mỗi mùa quả đay đến vụ, quả xoan ương sắp chín hay thậm chí sang cả mùa cơm nguội, trưa nào lũ trẻ chúng tôi cũng rình mò, lén lút đâu đó quanh khóm tre ít ỏi. Chỉ lơ một cái, y rằng một cây cũng bị chặt phéng ngay đem về chia nhau làm súng hóp. Thằng nào chẳng may bị bắt, mặt nó xanh lét đến thảm hại bởi ông Nghi, chủ nhà, đã từng nổi tiếng vì thành tích chặt đứt đuôi con bò nhà thằng Tưởng chỉ vì nó dại dột liếm vài cái lá tre. Búi tre ngộc được biết đến nhiều hơn cả. Tôi còn đặt cho nó cái tên tre tây. Vì nghe bà kể bọn tây hồi xưa cũng to như tre ngộc vậy. Muốn nhìn thấy ngọn, tôi phải khum khum hai tay, nheo mắt lại. Trên đó chim kéo về hàng đàn vì chẳng mấy khi có người trèo lên được. Mo tre ngộc to như cái quạt nan, vàng xộm, đem bán cho các nhà đan nón phải đắt gấp hai tre thường. Mỗi độ thu về, nhiều đứa có khi chỉ vì tranh nhau cái mo tre mà  choảng nhau sứt đầu mẻ trán.
 
Ông tôi có tài làm mọi thứ bằng tre. Khoảng tháng tư, tháng năm hàng năm, lúc bão bắt đầu tràn về, ông ngả bớt những cây tre rìa búi sắp đổ. Sau đó ông ngâm xuống ao đến vụ cá đầu đông. Vào những ngày giá rét, tôi ngồi xem ông cắt khúc cây tre như cắt khúc một con lươn khổng lồ vừa kéo được dưới ao lên. Chỉ từ vài khúc tre như vậy ông tôi đã biến hoá ra bao nhiêu thứ: Cái rổ, cái giá, cái giần, cái sàng…
Ông tự làm cho mình một cái điếu cày rất đẹp, châm lửa hút thuốc bằng đóm tự chẻ luôn. Những ngày xẻ thịt cây tre, ông không bao giờ quên đan cho tôi cái bu gà trọi và cái giậm treo lên gác bếp chờ mùa lụt sang năm. Ở một nơi xa lắm, nơi cây tre chỉ có trong từ điển, tôi nhớ quá gốc tre cùng ông trồng những ngày cuối tôi sắp phải ra đi. 

Mùa lá tre về, đâu đâu cũng giăng mắc bao chiếc thuyền cong cong, xoay trong gió. Lá tre rụng ào ào như trút, rụng triền miên. Cây tre trút đi chiếc áo để mùa đông đứng xo ro chịu rét. Nhưng khi ấy bà tôi vào mùa. Vẫn chiếc áo nâu sờn khâu bao lần chỉ bên ngoài và bên trong là chiếc áo cánh gián toả ra mùi trầu hăng hăng quen thuộc. Một tay cầm chổi rễ cùn, tay kia bà kéo lê chiếc bao tải cũ mèm len lỏi khắp các búi tre.
Bà luồn bàn tay nâu xạm, đầy những đường gân vơ từng chiếc lá. Tôi chạy theo bà, thi thoảng cũng bẻ được vài cành củi rồi lại biến tót ngay để mặc bà nhặt mùa thu mang về. Tôi nhớ nhất cái dáng ngồi đun bếp của bà. Bếp thì nhỏ lại ọp ẹp. Mùa hè khói quyện đặc, cay xè mắt. Thế mà bà vẫn ngồi còng gập trên chiếc ghế con đủn đều đặn từng nắm lá tre dọc theo năm tháng.
Mùa đông bà dậy từ tinh mơ bắc bếp nhẩn nha luộc cho tôi nồi khoai củ mật. Nhớ ngày ấy, mỗi sáng vùng dậy, tôi không bao giờ chịu mặc quần áo rét ngay mà đánh chiếc quần cộc lao vù qua sân xuống bếp bó gối tựa lưng vào người bà. Ngồi buồn, tôi kiếm cành rào nhỏ phá bĩnh bếp lửa, lúc thì tranh bà đủn lá tre, lúc thì lấy tàn than giết lũ kiến xung quanh. Bà giơ cao cái que bời cháy nham nhở dứ dứ, tôi chạy biến.

Nhớ về tuổi thơ tôi nhớ day dứt nồi khoai củ mật và cái que bời cháy nham nhở ngày nào. Ngày tôi đi, lưng bà còng hẳn rồi. Tay bà thì run run ghê lắm. Ấy thế mà bà băm rau lang nấu cám cho lợn lại chẳng bao giờ bị đứt tay như tôi. Bà bảo tôi: “Nó có cữ rồi”. Tôi gật gật dẫu chẳng biết “cữ” là gì cả. Nhưng bữa cơm bà chan canh khó thực. Nước cứ sóng sánh trực trào ra bên ngoài. Tôi bất ngờ reo lên: “A! Bà chan canh không có cữ nhớ”. Bà bật cười móm mém: “Cha bố anh!”.

Bao giờ tôi cũng xí phần chan canh cho bà. Thế mà tôi lại phải đi…
Hôm đó ông bà đưa tiễn chúng tôi ra mãi tận đầu làng. Ông thì yên lặng nhưng bà thỉnh thoảng lại lau mắt bằng chiếc khăn mùi xoa mà lần nào đi chùa về bà cũng gói trong đó không quả chuối thì cái oản cúng cho tôi. Chiếc xe xa dần, xa dần. Tay bà run rẩy trong hơi lạnh. Lá tre đổ ào ào như bão.

Mùa này chắc lá tre quê tôi bắt đầu rụng. Hôm trước đọc báo thấy mặt hàng mây, tre đan xuất khẩu của Việt Nam được giá. Vui thì vui thật nhưng chẳng biết lũ trẻ quê tôi có còn chỗ để móc mo tre nữa hay không?

Cách đây vài tháng tôi bất chợt gặp thằng bạn ấu thơ phiêu dạt vào đây. Nó kể “quê mình giờ lấy đâu còn lá tre”. Ông bà nội tôi thì đã mất cả rồi. Thế mà chẳng hiểu sao tôi vẫn day dứt về một mùa lá tre. Có lẽ tôi phải về thôi. Biết đâu búi tre ông trồng cho tôi chả còn…
ST

HOA TRE
Trong cõi trần, có những loài cây nở hoa đẹp và buồn như những huyền thọai, như những triết nhân. Và có một lòai cây chỉ nở hoa lúc cuối đời, nở xong là chết; nở như biết mình đã đến và sẽ ra đi trong cuộc đời; nở như những giây phút dọn mình để giã từ thế giới; nở tưng bừng như điệp khúc một giai điệu tráng ca. Lòai đó là TRE. 
Tôi nghĩ đã là người Việt Nam, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, đó là nơi hội ngộ buồn vui của cả một cộng đồng người, của hàng bao thế hệ. Không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống con người như một thành tố không thể thiếu được. 
Chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa đã có cây tre trăm đốt. Và dẫu bây giờ nông thôn đã công nghiệp hóa, tre vẫn không thể thiếu được đối với người. Đó là cái đòn gánh có thể đàn hồi làm nhẹ vai cô thôn nữ gánh nước từ bến sông, gánh hàng ra chợ. Đó là mười sáu vành nón lá của mẹ tảo tần qua nắng qua mưa nuôi ta khôn lớn, của em dấu nụ cười e ấp mối tình đầu. Đó là giàn bí, giàn bầu nặng lòng câu ca” bầu ơi thương lấy bí cùng” mà cha ngồi hóng mát mỗi chiều. Đó là sợi lạc buộc chiếc bánh chưng xanh luôn gợi nhắc truyền thuyết Lang Liêu... Tre thủy chung một mối tình vĩnh cửu với người dân Việt 
Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng hiến của mình, tre dâng tặng con người âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo nên tiếng sáo Trương Chi làm điêu đứng người con gái cành vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây đàn bầu khiến cả thế giới phải nghiêng mình trước ngón độc huyền của một dân tộc, mà dân tộc ấy lại đa tình làm sao: Đàn bầu ai gảy nấy nghe, làm thân congái chớ nghe đàn bầu! Trên non ngàn Tây Nguyên, hồn tre nứa nhập vào đànt’rưng, nhập vào đàn klông put, đàn chim đing, đàn đinh pah, và cả ching kram (chiêng tre) nữa...tạo nên âm sắc núi rừng Việt Nam độc đáo, không nơi nào có được. Và trong những ngày hội tưng bừng trên đỉnh non ngàn này, không thể thiếu những ché rượu cần mà những chiếc cần như những chiếc cầu của tình bạn, tình yêu, của men nồng cuộc sống... 
Từ măng non, tre vươn thẳng làm bạn với người, làm ngọn roi dạy dỗ con người, giúp con người bao điều trong cuộc sống, để rồi một buổi sáng kia, tre nở một chùm hoa và chết. Rất hiếm khi được nhìn thấy hoa tre nở. Cho đến nay, tôi cũng chỉ thấy hoa tre nở hai lần. Lần thứ nhất vào năm tám mươi lăm thế kỷ hai mươi. Năm đó, vào một buổi sáng mùa hè, rặng tre la ngà dọc bờ sông Bồ trước làng tôi đột nhiên bừng nở. Cả một rặng tre bung nở từng chùm hoa vàng xuộm màu thổ hoàng. Cái màu đất bình dị nổi lên nhờ màu xanh của lá, bình dị đến nao lòng. 
Cả lũ học trò chúng tôi hồi đó chiều nào cũng rủ nhau nhìn ra sông vì nghe nói tre nở hoa xong là chết. Nhiều đứa, trong đó có tôi, cố cãi lại lời tiên tri ấy, đến mức phải chia phe thách nhau. Nhưng ngày qua ngày, cả rặng tre từ màu xanh dần chuyển sang ngà. Cho đến một chiều nọ, không tin nổi vào mắt mình khi rặng tre cứ nhạt thếch hẳn đi, chúng tôi chạy ra xem thì thân tre đã khô lại. Trên cao kia, những chùm hoa tre khô cong rủ xuống như một bàn tay tiễn biệt. Bất giác cả bọn cứng lưỡi không nói nên được câu nào, cũng không thấy mấy đứa thắng cuộc yêu sách một điều gì. Trong làng có chú Tin đã ngoài bốn mươi vẫn còn độc thân chưa vợ. Chú xin làng chặt một cây tre về làm đàn bầu. Đêm đêm, tiếng đàn của chú nỉ non vang vọng khắp làng. Chẳng bao lâu sau thì có người chịu cùng chú kết tóc se tơ. 
Người già nói, tre nở hoa cả rặng như vậy là có điềm lành. Quả nhiên sau đó ít lâu thì không khí công cuộc đổi mới cũng tràn về nông thôn, đời sống của người nông dân có đỡ cực nhọc hơn. Nhưng cũng sau khi rặng tre la ngà ấy chết, làng không còn một cây tre la ngà nào nữa. Bấy giờ cả làng mới thấy do tre la ngà nhiều gai nên ít người trồng. Sau này tôi lang thang khá nhiều nơi, chú tâm tìm gặp một bóng dáng tre la ngà, ấy vậy đến giờ vẫn chưa một lần thấy lại. 
Lần thứ hai tôi nhìn thấy hoa tre nở lúc chỉ vài tháng sau cơn đại hồng thủy tháng 11 năm 1999. Ấy là một hôm giá rét đầu năm 2000, qua khỏi cầu Tây Thành bỗng thấy một bụi tre nhỏ bên sông nở hoa trong mưa. Cũng những chùm hoa tre vàng nhạt như màu đất, vươn giữa trời xanh bất chấp mưa gió phủ phàng, rét buốt, bản lĩnh vô cùng. Bây giờ nghiệm lại, thấy loài tùng bách như người quân tử ẩn dật, tre lại như người quân tử dấn thân. 
Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa cho đất cho người, đến khi hoa tre nở lần đầu tiên, cũng là lúc tre từ giã sự góp mặt của mình trên trái đất. Đó là một cách đi vào cõi chết rất đẹp: cả tre và hoa đều chết đứng như phơi gan ruột cùng trời đất chứ không chịu rủ xuống, lụi tàn như bao loài hoa khác. Cái chết ấy không hề làm cho người ta thấy một chút bi ai nào, ngược lại, nó tạc dáng hình giữa trời đất mênh mông, giữa muôn vàn hoa lá như một triết nhân đã ngộ ra chân lý về lẽ sống chết của con người ...

(ST) Posted by CÀ PHÊ VÀ SÁCH

Cây tre của thầy

Mới đó mà đã 28 năm. Tôi kính cẩn thắp nén nhang lên bàn thờ thầy. Lòng tôi lắng lại. Bước ra ngoài sân, tôi nhìn quanh và ánh mắt tôi dừng lại nơi cổng trường nham nhở đám rêu phong  

Ngày trước, nơi đó có một khóm tre già rất lớn đầy gai nhọn. Tôi như thấy thấp thoáng bóng thầy đứng gần đưa tay hướng dẫn tôi và thằng bạn đang hì hục đào bới gốc tre con. Kỷ niệm ngày nào sống dậy trong tôi... 
Chủ nhật hôm đó, lớp 10B của chúng tôi lao động trồng cây làm hàng rào xung quanh trường. Theo quy định, mỗi học sinh đều phải mang nộp một cây tre. Trong lớp các bạn đều có tre mang theo. Riêng tôi và Hải là dân miền biển nên chẳng có tre để nộp. Trưa hôm đó, tranh thủ lúc mọi người đang nghỉ, tôi và Hải lặng lẽ ra cuối góc sân trường nơi có khá nhiều cây tre do học sinh các lớp khác vừa mới trồng.
Chúng tôi thật sự ngỡ ngàng. Cách hành xử của thầy vượt quá sức tưởng tượng của 2 đứa. Chúng tôi rối rít cảm ơn thầy. Sau một hồi hì hục đào bới, cả ba thầy trò trở về trường mang theo 2 cây tre cùng với nét mặt rạng ngời và tâm trạng đầy cảm kích của 2 đứa tôi.
Khỏi phải nói đám bạn cùng lớp ngạc nhiên như thế nào khi thấy chúng tôi trở về. Suốt buổi chiều chúng không ngừng dò hỏi, bàn tán và đưa ra những phán đoán ly kỳ. Thầy chỉ lặng im. Hôm đó, tôi và Hải thoát nạn nhưng cả hai đã được học một bài học để đời về lòng trung thực và sự vị tha.
Tôi bước lại gần hơn nơi mà cách đây 28 năm thầy đã đứng. Tôi có cảm giác như thầy đang ở đâu đây bên cạnh tôi. Có một làn hơi ấm lan tỏa khắp người tôi. Chẳng biết hơi ấm của những kỷ niệm đẹp về người thầy kính yêu hay hơi ấm của tình thương và nỗi nhớ thầy. Sống mũi tôi cay cay... Nhớ thầy, tôi đã khóc!

Người Lao Động 
LŨY TRE XANH
Miền thơ ấu bao giờ cũng ngọt ngào dịu êm... là nơi để cho hồn đậu cánh bình yên mỗi khi đời dâng gió bão... cũng là nơi cất dấu những ý niệm tiên khởi, những hình ảnh với sắc màu không phai, trong đời sống nội tâm của một con người.
Những xao xuyến trong miền thơ ấu thỉnh thoảng trở về lay động vùng tiềm thức tưởng đã ngủ yên...
Nơi đó, tôi vẫn thường trở về... trở về thăm lại "thằng bé" ngày xưa khi còn ấm áp trong vòng tay mẹ, khi còn trố mắt ngây thơ nhìn những kỳ lạ của cuộc sống đang xảy ra chung quanh.
Hình ảnh xưa cũ nhất, mở màn cho sân khấu của hồi ức là hình ảnh của một "thằng bé" choàng một chiếc khăn len trùm kín mặt mày chỉ còn chừa đôi mắt vừa đủ thấy mặt đường gập ghềnh trước mặt để đôi bàn chân non khỏi vấp vào những mùi đá nhọn hoắt, những mũi nhọn đầu đời trên đoạn đường tản cư theo mẹ.
Cũng là lần đầu tiên hắn được giao phó một trách nhiệm là xách một ấm nước bằng nhôm, hắn thấy hắn quan trọng vì ai trong nhà, người này đến người khác đến tu bình nước vừa kêu khát kêu mệt. Cũng là lần đầu tiên hắn thấy cuộc sống không chỉ là những buổi trưa chạy theo bắt những con chuồn chuồn hay len lỏi sau vườn đi tìm ổi chín. Cuộc đời không chỉ là những khung vườn xanh để cùng chị em trong nhà bắt bướm hái hoa chơi trò buôn bán bắt chước người lớn. Cuộc đời không chỉ là dưới mái hiên nhà nhìn nắng chiều tắt dần trên hàng cây và tiếng hát như đến từ trong mơ "quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm..." Và kể từ dạo đó gia đình tôi cũng không còn những chiều nắng êm đềm. Chân thấp chân cao trên đường tản cư khi thành phố đang bị Tây chiếm đóng, thằng bé bắt đầu thấy đất trời rộng hơn, thấy núi đồi trùng điệp, hơi núi tỏa mờ và đời cũng mênh mang hơn.
Mái nhà tản cư là một mái tranh ủ dột xiêu vẹo và một bầy con thơ loanh quanh bên mẹ trong một ổ rơm. Ban đêm khi không còn dầu thắp, ngọn đèn được thay bằng câu hạt bưởi đốt lên một vùng sáng nhỏ không đủ xóa tan bóng tối hãi hùng bao quanh. Trong vùng tối đó có những bước chân ai rình rập, có tiếng súng từ đồn Tây xuyên thủng những lũy tre xanh. Cũng dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn hột bưởi, cả gia đình đã có một đêm giao thừa với truyền thống gia đình có từ khi anh cả của tôi vừa biết nói là phải biết sửa soạn lời chúc tết dâng lên cha mẹ. Cùng tháng năm lớn khôn hơn những tờ chúc cũng dài hơn với nhiều chi tiết ghi lại bước đi của đại gia đình. Đến lứa tuổi tôi, trên tôi là hàng dài của mấy anh chị em nên đêm giao thừa tôi chỉ thấy mẹ tôi chan hòa nước mắt và tôi ngủ thiếp đi từ lúc nào không hay. Qua sáng hôm sau tôi lại phải một mình đứng vòng tay để chúc tết mẹ cho mẹ rơi thêm vài giọt nước mắt.
Những ngày tản cư khổ cực và âu lo tuy vậy vẫn không làm vẩn đục tâm hồn ngây thơ và miền thơ ấu cũng có những phần dịu dàng đáng yêu. Hương đồng cỏ nội cho đến hôm nay vẫn thơm ngát một trời hoài niệm "còn đó tiếng tre êm ru... còn đó bóng đa hẹn hò... còn đó nói lên bao lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa".
Cuộc sống êm đềm sau lũy tre xanh trong hồn tôi đậm đà hơn bất cứ đoạn văn nào tôi được đọc trong đời. Lũy tre xanh với tôi là một định nghĩa rõ rệt nhất cho hai chữ "quê hương" thiêng liêng và đầy xúc cảm. Thằng bé trong tôi đã sống, đã thở, đã bị mê hoặc bởi bóng mát của lũy tre làng. Những hoa nắng nhảy múa trong bờ tre vẫn còn lung linh trong những giấc mơ trở về quê hương. Bờ tre đã dệt những sợi nắng tơ vàng vương trên mái tóc buông dài bên cầu ao và tiếng tre êm ru làm lim dim con trâu đầm mình trong nước.
Thằng bé trong tôi còn có một kỷ niệm riêng về lũy tre làng.
Trong những ngày tản cư, trò chơi của trẻ con thành phố đã được thay bằng chim chóc sâu bọ, thay bằng những buổi đi bắt dế. Khi hoàng hôn xuống, đi rình rập nghe trong đám cỏ rậm tiếng gáy của những con dế vô địch trong cuộc chọi dế với lũ trẻ trong làng. Bắt được một con dế than lớn đen tuyền với hai vạch vàng ở cánh hoặc một con dế lửa màu hung đỏ có đôi cánh thật nhiều nếp vằn, đôi nanh thật lớn, hai chiếc đùi vững chãi, và tiếng gáy hung hãn... đó là những báu vật với niềm vui tưởng như bất tận. Những buổi sáng dậy sớm đi tìm những gốc cây lớn, những con kiến cam lờ đờ trên mặt đất sau một đêm bay mỏi, những con nắc nẻ chưa kịp trốn... Cột một con kiến cam vào đầu dây để nghe nó bay vù vù, ép một con nắc nẻ lên vỏ hộp diêm để nghe nó gõ lóc cóc mà thấy sướng tê trong hồn.
Cũng vì những buổi sáng dậy sớm mà thằng bé vô tình đã trở thành một thám tử. Thằng bé dậy từ lúc tinh mơ nhưng bao giờ cũng có một người dậy sớm trước nó. Đó là một cụ già bí mật, đầu trùm kín bởi một chiếc khăn chỉ để lộ đôi mắt đanh ác và có lẽ ông già cũng có hai chiếc răng nanh dài đủ để ăn thịt những đứa trẻ con. Không biết ông làm gì mà cứ mỗi buổi sáng ông đi loanh qoanh bờ tre, nhìn trước nhìn sau rồi cất giấu vật gì trong các bụi tre. Thằng bé tò mò muốn phanh phui cho ra bí mật này. Nó theo dõi ông già. Nó sẽ mở tung màn bí mật và dân làng sẽ phục tài trinh thám của nó.
Có một lần hắn đến ngay chỗ cất giấu bí mật của ông già... eo ôi! Hắn tìm thấy một cánh tay trẻ con máu me bê bết ngoi lên từ đống cánh lá tre phủ kín, nó la lên thất thanh, gào kêu thật lớn đến nỗi mẹ nó phải ôm nó vào lòng và lay tỉnh "con, con nằm thấy chi rứa con".
Giấc mơ hãi hùng đó không làm thằng bé từ bỏ ý định làm thám tử và những buổi sáng tinh mơ hắn tiếp tục theo dõi ông già. Vẫn chưa có đứa trẻ nào trong làng bị mất tích. Có lẽ ông già bí mật đi dấu vàng chăng? Nó đã nghĩ như vậy. Có ngày hắn sẽ tìm ra một kho tàng bí mật có những thỏi vàng sáng rực và những hạt kim cương lóng lánh như trong các câu chuyện hải tặc có chiếc cờ sọ người và hai chiếc xương gác chéo. Nếu ông già bí mật kia có mang thêm một miếng che mắt màu đen thì chắc chắn ông ta chính là thủ phạm! Nhưng ông già chỉ có đôi mắt đanh ác lườm lườm trong khe hở của chiếc khăn trùm đầu, mỗi khi thấy nó từ phía xa.
Một buổi sáng, đợi ông già đi khuất trên lối mòn về xóm "hắn thu hết can đảm đến ngay chỗ cất giấy bí mật, dùng một nhánh nè hất tung những cành lá mà ông già vừa phủ lấp một vật gì bên dưới...
Đang chăm chú tìm kiếm, chợt một bàn tay khô đét chộp lấy vai hắn... Thôi rồi chính là ông già bí mật. Hai chân nó khịu xuống và miệng chỉ há hốc ra... Chuyến này thế nào hắn cũng bị ăn thịt. Ông già cởi tung chiếc khăn trùm đầu... nhưng không, ông không có đôi răng nanh dài và đôi mắt ông không đanh ác. Ông cười hiền từ:
- Ông giấu mấy mụt măng non con đừng chỉ cho ai nghe con.
Ông còn giải thích thêm:
- Họ cứ hái bừa những mụt măng non đem đi bán. Cắt hết măng rồi lũy tre sẽ thưa đi nên ông giấu các mụt măng non cho đến khi măng quá già thì không cắt đi bán được.
Thằng bé giã từ giấc mơ làm thám tử và mỗi buổi sáng hắn theo ông già đi giấu các mụt măng non
...Ngày cuối tuần, tôi lái xe đến phố Việt Nam cách nhà hơn mấy chục "miles". Đôi khi không cần mua sắm gì tôi cũng lái xe đi. Tản bộ loanh quanh ở góc phố có người Việt Nam qua lại nghe tiếng Việt lao xao bên tai cũng đủ thấy hồn đổi nhịp vui tươi. Hình như nỗi buồn ray rứt trong lòng được chia xẻ với thiên hạ dù chung quanh chẳng có ai quen. Bước vào trong chợ Việt Nam xem người mua kẻ bán, tiếng Việt nói ran rản tự nhiên như một khu chợ nào đó trong góc trời Việt Nam. Đôi khi một vài hình ảnh trên các mặt hàng, những tên gọi thân quen... nước mắm Phú Quốc, cà phê Ban Mê Thuột đến cả những hương vị đậm mùi dân tộc của quầy hàng dưa mắm làm mình quên hẳn là đang sống trên đất Mỹ cách xa quê hương đến nửa quả địa cầu. Chính vì những thiếu thốn tình cảm đó mà mỗi khi có chút thời giờ là nghĩ ngay đến chuyện lái xe đến khu phố Việt Nam. Chiều nay hệ thống thông tin trong siêu thị loan báo "có măng tươi từ Việt Nam mới gởi sang". Mọi người đổ xô về một phía của góc chợ, nhìn những mụt măng quả thật còn tươi, phần gốc còn trắng muốt, phần ngọn với màu lục non pha lẫn sắc hồn... vô số mụt măng dầm trong những chậu thiếc lớn có chứa nước trong. Những mụt măng thật bắt mắt, những bà nội trợ. Bà này bảo "măng này hầm giò heo ngon hết sẩy", bà kia "làm gỏi măng tôm với mè rang tha hồ mà nhậu", một anh chàng lại ngôn ra điều văn học "măng giang nấu cá ngạnh nguồn"... Riêng tôi đứng sững trước những mụt măng quê hương. Sóng sánh trên mặt nước của thùng măng tôi thấy... hình ảnh cụ già ngày xưa của miền thơ ấu. Tôi thấy nét mặt cụ buồn bã và những lũy tre làng chạy dài trước mắt ban đầu con xanh tươi, rồi màu xanh phai dần, lũy tre tàn úa xác xơ cho đến khi tất cả ruộng đồng thôn xóm hóa thành một màu trắng ma quái chập chờn... trên nền trắng đó những giọt máu đỏ rỉ ra lan lớn dần... Tôi bất chợt lẩm bẩm: - Trời ơi, quê hương đang rướm máu Bên tai tôi có tiếng người nói "Ông nói gì? Máu đâu?". Chung quanh lao xao "Cái ông mắc dịch này muốn phá chợ hay sao?" Tôi lẳng lặng bỏ đi, tiếng nói còn đuổi theo "rõ đồ khùng"... Trên đường về nhà trời cũng vừa tối, mỗi lần lái xe trên xa lộ trong bóng đêm tôi vẫn thường có ảo giác là không gian hai bên đường như phủ rợp bóng tre. Tôi miên man nghĩ đến những mụt măng non từng đợt xuất khẩu, không những chỉ một siêu thị mà hàng ngàn siêu thị của người Việt trên khắp thế giới. Không những chỉ có măng xuất khẩu mà còn biết bao nhiêu sản phẩm làm bằng tre: chiếc đũa, cây tăm, tủ, giường, bàn, ghế, nghệ phẩm xuất cảng ào ạt ra nước ngoài. Khi chặt phá những mụt măng, những cây tre, có ai nghĩ đến loài tre sẽ tuyệt giống, những lũy tre làng sẽ không còn nữa. Trong lịch sử loài tre, riêng tại Việt Nam đã có biết bao loại tre không còn tìm lại nữa mà chỉ còn ghi dấu trong những trang sử oai hùng của đất nước. Sau những cuộc xâm lăng bị thảm bại, bị đánh bật tung ra khỏi lãnh thổ nhỏ bé ở phương Nam, sử sách Trung Hoa đã ghi rằng: "Dân giao Chỉ ra trận đã dùng những vũ khí rất lợi hại chế tạo từ các loại tre". Những loại tre mang tên Huân Trúc cứng hơn sắt đâm xuyên thủng áo giáp, loài Lân Trúc làm cung nỏ có sức bật khủng khiếp, loại Lao Trúc làm tên tự nó đã mang sắn thuốc độc giết người làm tàn đời quân Minh ở Ải Chi Lăng. Loại Bái Trúc thân lớn chỉ cần bổ đôi là có ngay hàng ngàn thuyền độc mộc vây khốn quân Nguyên trên sông Bạch Đằng. Khi khôn lớn hơn tôi còn hiểu thêm cụ già trong miền thơ ấu của tôi về nỗi lòng của Cụ gởi gắm vào lũy tre làng, không những chỉ là xác quyết cho sự tồn tại của thôn xóm mà còn là nét hồn độc đáo của Đông Phương tin rằng tre trúc là biểu tượng của chính nhân quân tử. Hơn thế nữa người xưa còn tin rằng vận nước có thể đoán được qua sự xanh tốt của các bờ tre vì tre chỉ tươi tốt ở những nơi có phong khí hưng vượng. Niềm mơ ước cho thôn làng giữ được vượng khí đã khiến cụ già mỗi sáng tinh sương đi thu dấu những mụt măng non. Từ miền thơ ấu bước ra, "thằng bé" ôm cụ già và khóc tức tưởi. "Ông già ơi, ông còn đủ sức để giữ gìn những mụt măng non không... con cũng muốn thấy quê hương tươi đẹp với những lũy tre xanh và đất nước còn nhiều vượng khí"...
Hà Thúc Như Quý    


  Trúc Nguyệt
Một sáng mùa thu, trời còn tinh mơ, sư tổ Huyền Quang sau những phút ngồi thiền, ông bước ra khỏi Am Dược. Bên ngoài, cây cỏ ướt sương đêm, tuy hơi đất, sương núi còn giăng mù nhưng đôi mắt còn tinh anh của ông vẫn đủ thấy vòm trời thu xanh non buổi sớm đang dần nhuốm hồng khi vầng nhật chồi lên ngang đầu núi, chỉ cách ông trong tầm tay với. Ông khẽ giơ tay vươn người, và dường như giây phút này, ông quên mình là người tu hành, ngỡ đang là đấng anh hùng quân tử có chí nuốt núi ôm biển. Ông bước lên phía trước vài bước, chợt một loài cây thuốc đập vào mắt ông, làm ông bừng tỉnh thoát ra khỏi ánh hào quang, trở về với thực tại. Ông nghĩ, đây là loài thuốc quý, ta phải hái ngay, mà tại sao mọi ngày ta lại không thấy nó nhỉ, mặc dù nó ở cách Am Dược của ta vài chục bước chân?...
Khi hái thuốc, sư tổ Huyền Quang nghĩ về ca chữa bệnh cứu người đêm qua. Đã mấy ngày rồi, ông rời chùa Hoa Yên sang Am Dược, ông đang dồn tâm sức vào nghiên cứu, luyện một loại thuốc chữa chứng bệnh mà dân gian quen gọi là cảm nhập tâm. Sau nhiều năm làm thuốc, chữa bệnh cứu người, đi đây đi đó trong thiên hạ, ông hiểu đây là chứng bệnh cực kỳ nguy hiểm mà người nghèo lam lũ thường gặp phải. Không có gì lạ cả, người dân lao động, nhất là nông dân nghèo khó, bất kể gì mưa nắng, gió bão, làm lụng quần quật quanh năm, ăn uống chỉ quanh quẩn rau dưa, tương cà, lại chẳng mấy chú tâm đến việc dưỡng sinh, gặp cơ địa bất lợi là đổ bệnh ngay. Mà bệnh đến như núi đổ, thuốc thang thì chẳng có tiền, sinh mạng người coi như thí cho trời đất, may rủi… Tối qua, ông đã chế xong thuốc, khi đang lật giở mấy cuốn sách y cổ, xem lại đôi chỗ còn ngờ ngợ, thì chú tiểu hớt hải từ ngoài chạy vào am báo tin có con bệnh nguy cấp từ làng dưới chân núi chuyển lên. Ông còn chưa kịp hỏi chú tiểu thì người lực điền khiêng võng, một người đàn bà nạ dòng và một cô gái trẻ đi theo, chừng là người nhà con bệnh, đã vào đến nơi. Ông vừa nghe người đàn bà khóc mếu kể bệnh của con mình và cầu xin ông ra tay tế độ cứu mệnh, vừa xem bệnh. Cậu con trai chừng mười ba mười bốn, người lạnh toát, mắt nhằm nghiền, hơi thở thoi thóp, đứt đoạn. Ông vừa xem bệnh, bắt mạch vừa thầm chẩn đoán, đúng là ca bệnh mà mình có thể thử nghiệm loại thuốc vừa chế xong. Ông không dám chắc cậu bé có qua khỏi không, nhưng đã đến nước này thì một liều ba bẩy cũng liều, may ra…. Quyết đoán, rồi ông làm luôn. Cô chị gái của con bệnh vừa khóc lạy ông vừa luôn miệng một điều sư tổ, hai điều sư tổ rón tay làm phúc… Ông phải bảo họ đừng làm thế, mà hãy cố gắng bình tâm, đừng làm rối lên, để ông tập trung vào việc cứu chữa. Bảo họ vậy thôi, chứ ông hiểu lòng họ, làm sao bình tĩnh được cơ chứ. Chỉ có người tu hành coi sinh mệnh như mây khói mới có thể bình tâm trong lúc nước sôi lửa bỏng như thế này. Trời Phật phù hộ độ trì, may quá thuốc mới công hiệu, người cậu bé ấm dần lên, hơi thở điều hòa, qua được cơn nguy kịch. Cậu bé được đưa về Nhà Tổ chùa Hoa Yên tiếp tục thuốc thang. Ông định bụng, lát nữa sẽ rời Am Dược về Hoa Yên, mang theo ít thuốc đã làm xong…
Về đến Nhà Tổ, ông xem bệnh và bắt mạch lại cho cậu bé, lòng cảm thấy yên tâm vì con bệnh đang hồi phục. Rồi ông kê đơn, điều chỉnh một vài vị đưa cho chú tiểu bốc thuốc và căn dặn người nhà. Bà mẹ bảo cô con gái cố ghi nhớ lời Lão tổ dặn, chứ bà đầu óc u mê chẳng thể nhớ nỗi gì. Tối qua, vừa vội vàng, vả lại với bản tính của người tu hành, ông không để ý nhiều đến công việc ngoài đời, sáng nay, ngồi bình tâm, đối diện với hai mẹ con, ông mới nhận thấy, cô con gái khá sắc nước. Đôi mắt cô gái đen láy, sâu thẳm, ẩn chứa sự quyết liệt. Hình như chỉ một thoáng mắt ông và mắt cô gái rõi vào nhau, khiến ông cảm nhận thế. Ông sực mình, ngước cái nhìn lướt trên đầu cô gái. Cô gái quỳ nghe ông căn dặn như nuốt lấy từng lời. Xong việc, ông lặng lẽ trở lui, bỏ mặc hai mẹ con, còn nghe phía sau lưng tiếng hai người luôn miệng “Mô Phật”, “Bạch Tổ”. Chú tiểu đã pha sẵn ấm trà mộc, bưng ra. Ông khoan thai rót một chén, đưa lên nhấp. Hương trà thanh khiết khiến đầu óc ông khoan khoái, minh mẫn. Ông rõi mắt ra ngoài xa, bên dưới là đường tùng, những cây xích tùng, thủy tùng được trồng từ thời Điếu ngự giác hoàng Trần Nhân Tông, xanh tốt. Còn phía dưới nữa, xanh mờ xa xa là làng xóm. Chợt ông như cảm thấy mùi khói bếp thơm nồng, tai như thoảng nghe tiếng chó sủa, tiếng lợn đòi ăn. Những âm thanh, hương vị của đời sống trần tục vẩn lên trong lòng ông. Khác mọi lần, ông không kiềm chế, mắt mơ màng, thả hồn về chốn quê nhà…
Gần tám mươi năm về trước, có một cậu bé ra đời nơi hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Cậu bé Đạo Tái, thuộc dòng dõi quan lại, song đến thời cha cậu là Lý Quang Du, gia cảnh không còn bề thế nữa. Ngay từ khi mới sinh, Đạo Tái đã có tướng kỳ dị. Cha cậu nhìn tướng mạo con mình thì lấy làm mừng bởi ông thấy ở đó nét dị thường, báo hiệu sự xuất chúng khác thường sau này. Còn người mẹ, bà không phát hiện thấy điều gì may mắn ở sự kỳ dị của con, mà chỉ cảm thấy lo lắng cho việc dựng vợ, sinh con đẻ cái về sau. Cậu bé Đạo Tái càng lớn, sự kỳ dị trong tướng mạo không bớt, bù lại, cậu vô cùng thông minh dĩnh ngộ, có chí hướng học hành. Đạo Tái nổi tiếng khắp vùng về tài học rộng biết nhiều. Người cha thì chỉ muốn cho con học hành, thi cử đỗ đạt, khôi phục lại danh gia, tiếng tăm dòng dõi. Người mẹ lại chỉ nhăm nhăm dạm vợ cho con, vì bà luôn bị ám ảnh bởi tướng mạo kỳ dị của con. Dùng dằng mãi bởi chí cha, ý mẹ khác nhau, rồi đến năm mười lăm tuổi, gia đình cũng dạm vợ cho cậu. Nhưng ngay lần đầu, bên nhà gái đã từ chối khéo. Người ta không nói toạc ra, song cha mẹ và bản thân Đạo Tái cũng hiểu được ngụ ý bên trong, người ta chê cậu xấu trai, dị dạng. Cậu chỉ tự ái đôi chút và cho rằng, bên nhà gái tầm thường, không thấy được vẻ đẹp trí tuệ ẩn chứa trong cậu, không thấy được sự xuất chúng sẽ bộc lộ nay mai. Cậu tự an ủi, rồi sẽ có ngày ta sẽ gặp được người nhận biết, trân trọng và khâm phục tài năng của ta. Dân gian chẳng có câu " Gái tham tài , trai tham sắc " là gì. Bần hàn đến như thằng mõ ở làng còn lấy được vợ, nữa là mình, dòng dõi quan lại, học rộng tài cao, chí trùm thiên hạ!
Sau đám ấy, cha mẹ cậu mấy lần định đánh tiếng đám này đám nọ, nhưng cậu đều nằng nặc không chịu. Gặng hỏi mãi, cậu mới chịu nói, cậu chỉ muốn được cưới cô Mơ, con gái một thấy đồ nho ở làng bên. Hồi nhỏ, khi mới ê a Tam Tự Kinh, cậu có theo học ông thầy này, chẳng bao lâu thì hết chữ thầy, đành phải theo thầy khác. Cậu để ý, cô Mơ hơn cậu hai tuổi, sắc nước, phổng phao nõn nà, hơn đứt hẳn đám con gái trong vùng. Thêm nữa, cô có đôi mắt lá răm đen láy, lúng liếng như hút hồn người ta, mỗi bước đi, mỗi cử chỉ, đôi trái đào tơ căng mẩy như quẫy trong yếm thắm. Từ lâu rồi, cậu thầm yêu trộm nhớ cô Mơ. Cậy cha mẹ dạm hỏi cô Mơ, cậu thầm nghĩ, thế mới xứng đôi vừa lứa, trai anh hùng sánh gái thuyền quyên. Người đẹp như cô Mơ, gia đình như ông đồ nho kia mới thấy được tài cán của cậu. Nhưng rồi sự thể diễn ra không như cậu nghĩ. Ông thầy đồ kia mừng lắm, đồng ý gả ngay, song cô Mơ lại quầy quậy chối từ. Thoạt đầu, hai nhà và cả cậu đều nghĩ, cô Mơ chối từ chẳng qua chối vờ làm cao lấy giá. Thế nên, khi cô Mơ nhất nhất cự tuyệt, thì mọi người hết sức ngạc nhiên. Đám học trò trong làng chơi với cậu dò hỏi và báo cho cậu một tin, thật như sét đánh ngang tai, cô Mơ phải lòng một anh kép hát đẹp trai người trong vùng, đang lưu diễn nay đây mai đó. Ông bà đồ bảo cậu cứ yên tâm, sẽ thuyết phục cô Mơ bằng được. Cha mẹ cậu lấy làm bực bội, có ý cho rằng ông đồ là người có chữ mà không biết cách dạy con, và người như cô Mơ có bỏ đi cũng không tiếc. Cậu không nghĩ thế. Quả thật, lần bị cự tuyệt này, thoạt đầu cậu cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, nhưng là người trẻ tuổi, sớm đọc nhiều sách, hiểu chữ Thánh hiền nên sau cú choáng váng, cậu nhanh chóng vỡ ra, tự nhủ, mình nên tôn trọng tình cảm riêng tư, nên hiểu nỗi lòng cô ta. Ở đời, chuyện quả kiếp nhân duyên là vậy. Người đời chẳng dạy rằng "Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên " là gì, và cũng chẳng phải vô cớ mà nhà Phật tự răn mình, răn đời "Tu là cõi phúc, tình là dây oan " là gì ! Có điều, cậu cảm thấy thương cô Mơ, bởi cậu linh cảm rằng, cô Mơ cứ nhất nhất lăn lóc với mối tình ấy, rồi thì cuộc đời cô ấy cũng sẽ chẳng ra gì. Cậu lựa lời xin với cha mẹ thôi không hỏi cô Mơ làm vợ cho cậu nữa.
Quả nhiên, khi cậu cố quên hình bóng cô Mơ để sôi kinh nấu sử chờ ngày ứng thí, thì được tin cô đã trốn nhà theo chàng kép hát bảnh trai dẻo mỏ đi đâu không biết. Cậu thở dài, ngửa mặt nhìn trời mà than. Với cô Mơ, thôi như thế là xong một kiếp người. Không báo hiếu cha mẹ, không nuôi chồng làm nên sự nghiệp, còn việc sinh đẻ, dạy dỗ con cái nên người hay không thì còn chưa rõ, chỉ được mỗi cái tình... nhưng ôi thôi, tình chỉ là cái tình tang!...
Dường như, ngay từ độ ấy, cậu đã ngộ ra được một điều gì đấy, xem như chân lý ở đời, dẫn dắt cuộc sống sau này. Cậu chỉ dồn sức vào chuyện dùi mài sách vở. Khoa thi hội năm Bảo Phù thứ ba, triều Trần Thánh Tông (1275), Đạo Tái đỗ Trạng Nguyên. Thông thường, nếu là người có vợ, khi vinh quy bái tổ sẽ là cảnh võng anh đi trước võng nàng theo sau, còn như chưa có vợ thì sau đại đăng khoa cũng sẽ là tiểu đăng khoa, nhưng với Đạo Tái lại không tất. Lúc thong dong trên đường cái quan về làng, thoảng trong suy nghĩ, Đạo Tái mường tượng, đi sau võng mình là võng của cô Mơ. Chỉ thế thôi, còn sau đó, tất cả là niềm vinh hạnh cho cha mẹ, dòng họ, làng xã choán ngợp tâm hồn chàng. Những ngày ở quê với cha mẹ chờ ngày đi làm quan thiên hạ, niềm vinh hạnh vơi đi thì nỗi cô đơn trong lòng chàng lại lớn dần lên. Chàng cứ tự hỏi, sao cô Mơ kia không biết nhìn người, cái bền vững của đời người thường tiềm ẩn nơi nội tại, đâu phải ở vẻ hào nhoáng bên ngoài. Thế nhưng, cái phù du thì bao giờ cũng hấp dẫn, nó như ngọn lửa cứ bùng lên, như rượu nồng tỏa trên miệng chén, như ánh lân tinh xanh lét ma quái trong đêm đen, làm con người ta mờ mắt, lú lẫn lý trí, xô dạt người ta vào với nhau, bất cần hậu quả và cái đó được người đời gọi là tình yêu.
Chàng có tình yêu hay không? Đã nhiều lần chàng tự vấn mình như vậy. Rõ là chàng có mối tình của mình. Hễ thấy mặt cô Mơ, hay chỉ là mơ tưởng về cô ta hay thôi, chàng đã thấy lòng mình bùng lên ngọn lửa, thấy môi miệng mình đượm vị rượu nồng, thấy đầu óc phiêu diêu không theo sự điều khiển của lý trí. Không là tình thì còn là chi nữa? Khi chưa học hành đỗ đạt thì chàng còn kìm nén được. Nay công thành danh toại, ước vọng ấy lại bùng phát, thiêu đốt, hành hạ chàng. Nhưng trời đất trớ trêu thay, cho chàng sự hanh thông hơn người thì lại lấy đi của chàng vẻ bình thường của một con người. Tướng mạo kỳ dị của chàng che khuất sự hanh thông, mà không phải người thường nào cũng phân biệt nổi, nhất là đàn bà. Nếu làm quan, chàng sẽ phải lập gia đình, lấy vợ sinh con như ngàn vạn đàn ông khác. Không thể không như thế! Song chàng không đủ can đảm, không dám hỏi vợ một lần nữa, vì sợ bị từ chối. Trước đây thì không sao. Song giờ, đã làm quan Trạng thì không thể bị từ chối như kẻ thư sinh bạch diện. Và chàng tự biết, nếu có lấy được vợ, rồi suốt đời, chàng cũng chỉ sống với hình bóng cô Mơ trong tâm tưởng. Và còn bởi, chàng không chiến thắng nổi hình hài của chính mình. Vậy thì chỉ còn cách sống một cuộc đời khác người thường, xa lánh bụi trần mà thôi?!...
“Bạch thầy” – chú tiểu khẽ thưa khiến ông bừng tỉnh – “Người nhà bệnh nhân muốn đưa bệnh nhân xuống núi về nhà… ý Thầy thế nào ạ?”. Ông khẽ xua tay: “Bảo với họ… để ta theo dõi bệnh thêm vài ngày nữa… đề phòng bệnh biến chứng… Chuyện thuốc thang cứ làm như ta đã dặn”. Chú tiểu đi rồi, ông lại thần người ra, tự vấn, ta giữ họ lại thêm vài ba ngày nữa làm gì nhỉ, thực ra, bệnh cậu bé đã thuyên giảm nhiều, có thể cho về nhà tĩnh dưỡng được rồi? Phải chăng ta lưu luyến gì họ? Họ cũng như bao người bệnh khác mà ta từng cứu giúp?...
 
Huyền Quang nghĩ đến pháp danh của mình, nghĩ đến ngày mình quyết định từ bỏ chốn quan trường và cuộc đời trần tục, xuất gia đầu Phật. Khi ấy, nhân một lần theo Quan gia (vua Trần Nhân Tông), ông gặp Pháp Loa ở chùa Vĩnh Nghiêm. Tuy Pháp Loa trẻ tuổi hơn ông nhiều lắm, nhưng có lẽ sớm giác ngộ, nên ông đã nhận thấy ở vị cao tăng này sự siêu nhiên tịnh độ đến mức hút hết tâm trí ông. Và dường như ngay lập tức, ông linh cảm mình sẽ theo con đường của Pháp Loa thiền sư. Sau khi nghe Pháp Loa thuyết giảng, ông lĩnh hội được sự minh triết ở đó, và thấy rằng, lòng mình đã hướng về Đức Phật, hướng đến tư tưởng cao siêu từ bi hỉ xả của nhà Phật rồi. Rời quan trường về tu tại chùa chỉ còn là thời gian nữa mà thôi. Và chặng đường tu luyện dài dằng dặc dần đi qua, không nhẹ tựa lông hồng như lúc đầu ông nghĩ. Để từ bỏ những ham muốn, thói quen trần tục, ông đã phải chiến đấu thực sự với bản ngã của mình, và để thắng được mới cực khổ làm sao! Các vị tiền Tổ thay nhau khuất bóng. Hương Vân Đầu Đà Trúc Lâm Điều Ngự (Trần Nhân Tông) và Pháp Loa thiền sư nơi niết bàn có thể mỉm nụ cười nhà Phật mà hài lòng vì ông – vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm đã giác ngộ và truyền bá tư tưởng của dòng trong loại chúng sinh. Ở cái tuổi bảy sáu, trụ trì nơi Yên Tử, ông thấy đầu óc mình vẫn minh mẫn lắm, nhưng sương khói đã phủ ánh nhìn, cơ gân đã dão, dòng máu trong huyết mạch không còn sôi sục như thuở nào nữa, tuy chưa nguôi, song ông đã có thể yên tâm, thư giãn, buông lỏng cơ gân không cần phải kiềm chế, mà chờ cái ngày Phật gọi theo hầu. Vậy mà, dạo này tự nhiên ông thấy lòng mình chộn rộn, cứ như đang chờ đợi một cái gì đấy, là lạ…
Một buổi sáng, sư tổ Huyền Quang thong thả bách bộ trong sân chùa Hoa Yên, rồi chợt thấy lòng mình phấn chấn, ông quá bộ đi dạo theo đường tùng xuống sâu dưới sườn núi, nơi mà lâu nay ông không đặt chân tới. Cây gậy trúc mấu trong tay ông không rờ rẫm mà linh hoạt hẳn lên. Chợt ông nghe phía dưới một chút có tiếng gì như là tiếng người thở dốc vẻ nặng nhọc lắm. Dừng trên bậc đá, ông nhìn xuống, thấy một người đặt đôi thùng gánh nước trên quãng đất khá bằng phẳng. Người đó khẽ vặn người cho đỡ mỏi và nhìn dáng vẻ, cử chỉ của người đó, ông đoán là đàn bà, mà không chừng còn là một cô gái thanh tân. Người đó vuốt chiếc khăn màu thâm đất choàng kín đầu xuống vai, để lộ gương mặt đàn bà, rồi cởi tung khăn, lau mồ hôi trên mặt và cổ. Đúng là một thiếu nữ. Tất cả những cử chỉ đầy nữ tính ấy không qua được ánh mắt già nua sương khói của ông. Chợt cô gái ngước nhìn lên và bắt gặp ông từ trên cao nhìn xuống, cô lúng túng choàng lại chiếc khăn lên đầu, nhấc đòn gánh lên vai thì thấy ông giơ tay làm cử chỉ hãy khoan, cứ nghỉ đi, nên cô gái lại thôi. Ông xuống theo từng bậc đá và cảm thấy bước chân mình không bình thường, tuy nhiên, ông cố gắng giữ vẻ khoan thai. Cô đứng, ngước mắt lên, chờ đợi và dường như ông cảm thấy cô nhấp nhổm định chạy phăng lên đỡ ông dìu xuống vì mấy lần ông khẽ vấp chân. Rồi cuối cùng, ông cũng xuống tới nơi cô gái đỗ gánh. Cô gái cúi đầu “Bạch sư cụ”. Ông nhìn cô gái, khuôn mặt bị chiếc khăn chùm thâm che khuất chỉ lộ đôi mắt to đen và chút vầng trán trắng mịn, thấy như quen quen, rồi lại nhìn gánh nước, đôi thùng đều mức già lưng, phủ lên mặt một tàu sen úp, vừa che bụi đường vừa làm cho nước đỡ sóng, hỏi cô gái: “Nữ thí chủ từ đâu đến? Mang nước đi đâu?”. Cô gái cúi đầu e lệ: “Bạch sư cụ… Con tên là Bích… Đào Thị Bích ạ… Nhà con ở xóm Giếng, ngay dưới chân núi này… Chắc sư cụ chưa hạ sơn đến đấy bao giờ nên không biết… Xóm con có một cái giếng nổi tiếng nước ngọt, pha trà thơm ngon nhất cả vùng… U con bảo, từ nay, mỗi tháng đôi lần gánh lên núi hầu sư cụ và nhà chùa nước pha trà… Hình như sư cụ không nhận ra… sao ạ?”. Cô gái cởi chiếc khăn quàng đầu bảo: “Giờ hẳn sư cụ nhận ra!.... Mới tháng trước, em trai con gặp bạo bệnh, u con và con cùng người nhà võng lên núi phiền sư cụ cứu giúp, gặp thầy gặp thuốc may mà qua khỏi. Cả nhà con nguyện đội ơn tái sinh suốt đời không dám quên!”. Ông nhớ, khoát tay bảo: “Không phải như thế… Mà cũng không cần thế… Nhà chùa coi việc giúp người làm việc thiện, cứu nhân độ thế là bản tính của mình… Không ơn huệ chi đâu!...”. Cô gái cúi gằm, thưa: “Bạch. Không dám ạ!... Dẫu sư cụ và nhà chùa không xem làm trọng, nhưng mà… về phần bản thân gia đình con vẫn luôn đội ơn trời bể ạ!”. Ông khẽ cười: “Thôi được! tùy thí chủ… Dẫu sao ta cũng cảm ơn nhớ tói, mang cho nước ngon nấu trà… Nhưng lần này thôi nhé… Sau không phải vất vả thế… Đường núi hiểm trở khó đi, mà nữ thí chủ thì… yếu sức”. Ông định nói còn trẻ, song kịp nói chệch đi. Cô gái hồn nhiên: “Bạch sư cụ… Con khỏe lắm… U con thường bảo con, là gái mười bảy bẽ gãy sừng bò mà!”. Ông suýt bật cười thành tiếng: “Ơ… vậy à! Thôi bây giờ nữ thí chủ hãy cất gành theo ta lên chùa”. Ông đi trước, cô gái gánh nước theo sau. Chỉ vài chục thước là lên đến sân chùa mà ông trèo đã run chân, thế mà cô gái gánh như không, lại vừa đi vừa ríu ran đủ thứ chuyện. Cô bảo cha cô trước là thầy đồ, nhưng yểu mệnh mất sớm, nếu không thì giờ cô cũng viết được chữ Nho, rằng tuy là phận gái nhưng cô ham thích học lắm. Ông nghe, chỉ ầm ừ qua chuyện. Tự nhiên ông nghĩ, sao ngày xưa, cái cô Mơ kia cũng là con nhà tử tế có học hẳn hoi mà không được như cô gái này, lại không yêu người nhiều chữ, đi say mê anh kép hát dẻo mỏ? Âu cũng là quả kiếp nhân duyên mà nên cả thôi!... Ngần ngừ một lát, ông ướm hỏi: “Thế nhìn tướng mạo ta, nữ thí chủ không thấy… gì sao? Cô gái tròn mắt vẻ không hiểu: Sao cơ ạ… Con thấy như tiên ông giáng trần cứu thế… Con mạo muội nghĩ…. lúc còn trai trẻ, hẳn sư cụ thông minh dĩnh ngộ lắm!.. ". Ông nghe mà chấn động trong lòng, và cảm thấy mặt mình nóng lên. Suốt một thời trai trẻ, ông chưa bao giờ được nghe một lời khen về diện mạo mình như thế, nên ông mang mặc cảm về tướng mạo kỳ dị của mình ngần ấy năm trời đã thành quen, nay bỗng dưng vậy, ông bỡ ngỡ như cậu bé mới lớn. Ông hít một hơi thật sâu, phẩy tay bảo: “Thôi nữ thí chủ làm đi”.
Đổ nước xong vào chum, cô gái còn lau chau kể đủ thứ chuyện ở xóm của cô, ông nghe câu được câu mất. Nhìn dáng vẻ trẻ trung, thanh tân, hồn nhiên của cô gái, ông hồi tưởng lại tuổi trẻ của mình ở quê nhà. Giá như ông không học hành đỗ đạt, không tình nguyện vào cửa thiền phụng sự Đức Phật, mà chỉ là một anh nông phu thuần phác, thì có lẽ bây giờ cũng con đàn cháu đống, có đứa áng tuổi như cô gái trẻ kia. Cô gái chào ông, vẻ như dùng dằng xuống núi. Ông đứng ở sân chùa nhìn cô gái quẩy đôi thùng không, ngúng nguẩy men bậc đá xuống, cứ như làm dáng, làm duyên với ai ấy… Ông mỉm cười một mình, nhìn trời đất, cây cối thấy xanh non đằm thắm lạ. Ông cứ đi đi lại lại nơi sân chùa, không để tâm đến thời khắc trôi qua. Mặt trời đằng sau lưng đã khuất núi tự khi nào chẳng rõ. Sương núi dâng lên tỏa hơi lành lạnh. Ngay trước mặt, trăng thượng thuyền như con thuyền tròng trành trên vòm trời làm vành trăng nhỏ cũng sóng sánh trong khuôn miệng chum đầy nước. Tự nhiên tứ thơ nảy trong óc, rồi ý, rồi lời ào ạt đến. Ông lẩm nhẩm đọc thành tiếng: “Vằng vặc trăng mai ánh nước/ Hiu hiu gió trúc ngâm sênh/ Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ/ Mâu Thích Ca mà thú hữu tình”. Tối ấy, khác mọi ngày, ông không làm sao tập trung tư tưởng, ý nghĩ hướng về Đức Phật khi tụng kinh.
Sư tổ Huyền Quang thấy mình đang vân du tới một miền non xanh nước biếc, chim chóc líu lô. Đang bỡ ngỡ nhìn ngắm cảnh sắc và tự hỏi đây là miền đất nào thì ông chợt thấy mấy khóm trúc gần nơi mình đứng khẽ rung rinh và một người đàn bà hiện ra, ăn vận như một nữ sĩ, hỏi ông: " Cảnh mới nhưng người xưa, Huyền Quang đại sư có nhận ra chăng? ". Giọng nói quen quen, như ông đã từng nghe nhiều lần. Ông ngập ngừng: “Nữ thí chủ…”. Người đàn bà như là đang cười nụ: “Thế là đủ biết đại sư vẫn chưa nhận ra người cũ rồi. Vậy… thiếp xin mạn phép dùng tên tục… Đạo Tái…. Chẳng nhẽ chàng vẫn chưa nhận được tiện thiếp là ai ư?”. Ông tròn mắt, thốt lên: “Cô Mơ!... Thôi đúng là…. Người xưa… Có dễ đến dăm mươi năm rồi mới thấy đây… Nhưng mà… những tưởng kiếp truân chuyên đã giải, người khuất bóng lâu rồi?”. Người đàn bà e lệ: “Vậy là không uổng… Vì thiếp mà chàng ôm hận suốt đời… Có lẽ khi xuống tuyền đài cũng chưa tan?”. Ông chợt ý thức thân phận mình, nghiêm nghị: “Nữ thí chủ nhầm rồi… Bần tăng đã rửa sạch bụi trần… Dốc lòng theo Đức Phật…”. Người đàn bà khẽ ngúc ngắc đầu: "Nhầm ư? … Thiếp không nhầm đâu… Có phải vừa mới đây thôi, chàng vẫn nặng lòng với bụi trần?... Vằng vặc trăng mai ánh nước. Hiu hiu gió…”. Ông sửng sốt ngắt lời: “Nữ thí chủ…. biết bài thơ của ta ư? Ta cảm hứng mới nhẩm trong óc, chưa viết ra và cũng chưa đọc cho một ai… Vậy mà…”. Người đàn bà khẽ cười: “Thế chàng quên rằng thiếp siêu hình, là người của cõi khác rồi ư?”. Ông sượng sùng, bẽn lẽn cứ như người làm điều gì xấu bị bắt quả tang: “Phải chăng, nàng… nàng nhập vào, xui khiên cô gái xóm Giếng đến thử lòng ta?”. Người đàn bà không trả lời, hỏi lại: “Chàng nghĩ như thế ư?... Thì cứ cho là vậy thì đã sao!...”. Ông thở dài não ruột: “Thôi… dẫu sao ta cũng cảm ơn nàng… giúp ta hiểu rõ lòng mình… Già nửa đời người từ bỏ vinh hoa phú quý, những tưởng giũ sạch được bụi trần… ai ngờ đến lúc nghĩ mình đắc đạo… lại hóa ra vẫn thơ ngây, ham hố… Ôi kiếp trần gian, căn quả mới nặng nề làm sao! Chả trách… Đức Phật gọi ngàn vạn người theo nhưng tới bến không đầy nửa mống”. Người đàn bà cảm thông: “Xin người đừng tự dày vò mình như thế!... Ngay thiếp đây sớm đa đoan, chịu đủ mùi đắng cay mặn chát trần đời cũng không đến mức phải trách mình như vậy. Mình làm mình chịu. Thế mới là can đảm, thực lòng… Ngay cả những người đã từng trót bị vấy bẩn, Đức Phật cũng không xa lánh, bỏ rơi, chỉ cần có tâm phục thiện và gắng sức làm theo thì chẳng cần phải khổ hạnh, căn chay niệm Phật… Thiếp hiểu Phật tại tâm là vậy , thấu thế nào là thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ…. cũng là vậy!”. Ông thẫn thờ như tự nhủ mình: “Không ngờ… người ấu trĩ lại là ta… Giữ chay tịnh nhưng tâm…”. Thấy ông bỏ dở chừng câu than, người đàn bà an ủi: “Được Đức Phật gọi theo ngài nhiều năm nay, bản thân ngộ thêm bao điều mà trước đây mù mờ sáng tối… Người như đại sư rồi thế nào cũng tới được bến thanh minh.. Chỉ có điều, với sự rối lòng vẩn trí như vừa rồi, đại sư sẽ mang tiếng với hậu thế đấy. Và cũng không dễ gì rửa sạch ngay được…!”. Ông điềm tĩnh: “Đa tạ lời chỉ giáo. Giờ thì ta chẳng quản ngại gì, kể cả tai tiếng với người đời… Trời đất chắc thấu hiểu cái tâm của ta!”. Người đàn bà biểu lộ sự hài lòng: “ Vậy là cuộc tái ngộ với người xưa không uổng. Thời khắc đã mãn… Hẹn gặp lại ở nước Phật!...”. Ông còn chưa kịp định thần để nói lời tiễn biệt thì chớp mắt, người đàn bà đã mờ nhân ảnh, không thấy đâu nữa. Ông tần ngần: “Kìa… Sao lại vội vàng làm vậy!”.
Huyền Quang mở bừng mắt. Ông nhìn trân trân, ngộ mình. Sư bác thấy ông mở mắt, mừng quýnh: “Ôi… sư tổ tỉnh rồi. Ban nãy thấy sư tổ biền biệt, mạch trẩm, những tưởng sư tổ… Rồi chợt lại thấy sư tổ … môi cứ mấp máy liên hồi thành tiếng nhưng không rõ lời, cứ như là đang nói chuyện với cõi người khác… chúng tăng nghĩ… cơ chừng… sư tổ đang vân mộng về cõi Phật… mới bớt lo”. Huyền Quang khẽ ờ trong cổ và thầm nghĩ, thì ra mình vừa qua một giấc mộng. Bần thần hồi lâu, ông cố nhớ những gì xảy ra trong mộng. Ừ, bây giờ ông chẳng sợ gì nữa. Cái đáng sợ nhất là bản ngã, thì ông đã vượt qua rồi. Tiếng để đời ư? Rồi một ngày kia người đời sẽ hiểu. Chân lý có con đường riêng của mình, dù rằng vòng vèo khuất lối. Ông phẩy tay ra hiệu bảo mọi người đỡ ngồi dậy. Thấy ông đứng lên định đi thì sư bác và mấy chú tiểu xúm ngay lại đỡ hai bên. Ông bảo mọi người cứ để ông tự mình, không cần phải giúp sức, bởi ông muốn ra bên ngoài một mình: “Chừng canh mấy rồi nhỉ?”. Sư bác thưa: “Bạch thầy… còn chưa tới canh một”. Ông đi chậm rãi, từng bước một ra sân chùa. Nhìn trời, trăng thượng huyền đã xế khuất chân trời phía Tây, ánh sáng mờ mờ song vẫn còn đủ để ông thấy rõ những cây đại xung quanh và đường tùng dưới kia, cả những vạt trúc nhấp nhô miên man như vô tận…
Lòng thanh thản lạ thường, ông cảm nhận một trạng thái chưa từng thấy ở mình. Một vì sao đổi ngôi vạch sáng chéo vòm trời. Vậy là có thêm một sinh linh nơi phàm trần được Đức Phật gọi theo. Ông cứ muốn một mình, đứng mãi nơi sân chùa này với cảm giác hạnh ngộ như vậy!...”
 
Nguyễn Chu Nhạc