Trời
bắt đầu mưa lâm râm, nhưng Ti vẫn
tranh thủ chụp thêm vài tấm hình ven biển, Google lại hướng dẫn thêm một địa
điểm du lịch mới "Trúc Lâm Thiền viện Trà Vinh" !! Quên đường hãy còn
xa, bỏ qua mối quan tâm cơn mưa sắp đến hai cô cháu quyết định ghé nơi
đây vì hơi tò mò, thật ra ở đất Trà Vinh nầy chùa Miên rất nhiều, những
chùa của người Việt đa phần nhỏ và kiến trúc khiêm tốn,cái tên Trúc Lâm Thiền
Viện Trà Vinh làm gợi nhớ dến Trúc Lâm Thiền Viện Đà Lạt, hẳn là đẹp và
rộng lớn lắm đây !!
Chùa
vẫn còn trong giai đoạn hoàn chỉnh các công trình phụ, nhưng khá quy mô
và rộng lớn, chùa tọa lạc trong khu rừng dương yên tĩnh, chúng tôi có
thể nghe được tiếng sóng biển rì rào của rừng dương trước mặt..., cát
chung quanh trắng tinh như cát biển miền Đông.... Nhưng phải từ giã nơi
đây, không thể chần chừ hơn nữa vì mưa sắp đến và phải tìm cho ra Mỹ
Long !!
NM Phan thị Ngọc Diệp
(Bài viết ngắn được trích trong chủ đề về Trà Vinh)
*****
Bài đọc thêm
Thiền Viện Trúc Lâm: Thiền phái Trúc Lâm duy nhất ở Trà Vinh
Thiền viện Trúc Lâm tọa lạc tại ấp
Khoán Tiều, xã Trường Long Hòa, thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh với diện
tích gần 10 ha trong quần thể Khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn biển
Ba Động.
Toàn bộ các kiến trúc tại Thiền viện
Trúc Lâm Trà Vinh được thiết kế và xây dựng theo mô hình các ngôi chùa
Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần (thế kỷ XII đến thế kỷ XIV), mà điển
hình là các mái ngói dạng hai tầng. Các đầu đao cuối mái được vuốt cong
nhẹ nhàng, thể hiện tính khiêm cung, hài hòa với tự nhiên của dân tộc.
Thiền Viện gồm các hạng mục chính: chính điện, hành lang, giảng đường,
nhà tổ, lầu chuông, lầu trống, cổng tam quan và nhà trụ trì.
Bước qua cổng tam quan, để vào đến Chánh
điện, là khoảng sân rộng, dài 150 m và được kết cấu thành hai bậc, là
nơi để vị sư trụ trì thuyết pháp hay nhà chùa, địa phương tổ chức các sự
kiện văn hóa Phật giáo. Ngôi Chánh điện Thiền viện Trúc Lâm có diện
tích 27 x 45 m, cao 11 m, trên nền đá cao 1,4 m, là ngôi Chánh điện lớn
nhất trong tất cả các tự viện Phật giáo trên địa bàn tỉnh Trà Vinh hiện
nay. Khác với các tu viện khác thì thờ Phật Tổ Như Lai (Phật Tổ đã thành
đạo và nhập niết bàn), thì Phật Tổ ở Thiền Viện Trúc Lâm trong tư thế
“Niêm hoa vi tiếu” (Phật Tổ cầm đóa sen đưa lên và Anan Hành giả mĩm
cười). Đây cũng là tượng Phật bằng đồng lớn nhất Trà Vinh, cao 3,5 m,
nặng hơn 3 tấn.
Ngoài thờ Phật Tổ Như Lai, các vị Bồ
tát, Hành giả theo giáo lý nhà Phật, ngôi Chánh điện Thiền viện Trúc Lâm
Trà Vinh còn trang trọng thờ phượng kim tượng Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu
Cảnh, người được xem là vị đại tiên hiền của vùng đất Nam bộ. Phía Hậu
tổ của Thiền viện, ba vị Trúc Lâm Tam tổ là Đức Phật hoàng Trần Nhân
Tông, Pháp Loa, Huyền Quang được tôn thờ cùng với Đức Đạt Ma và các vị
cao tăng Việt Nam có công với đạo và đời đã viên tịch. Thiền viện Trúc
Lâm Trà Vinh cũng thờ kim tượng Mẫu Âu Cơ, giúp phật tử gần xa hướng về
cội nguồn dân tộc.
Tượng Phật mẫu Quán Thế âm Bồ tát cao 25
m được an vị trên bệ tượng cao 6 m, tạo ra chiều cao chung đến 31 m,
cũng là tượng Phật mẫu cao nhất trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Trong giáo
lý Phật giáo, Quán Thế âm là vị Bồ tát ngàn mắt ngàn tay, có năng lực và
quyền lực siêu nhiên, nhìn thấu hết khắp cõi ta bà, kịp thời phát hiện
và ra tay cứu độ, cứu nạn chúng sinh. Do đó, tượng Phật mẫu hiền từ mà
uy nghiêm nhìn ra muôn trùng biển Đông bao la, giúp người dân đi biển
Trà Vinh an tâm hơn khi đối đầu với bao hiểm nguy từ gió to sóng dữ.
Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh là một nơi
có vị trí đẹp, phong cảnh hài hòa nằm trong quần thể khu du lịch sinh
thái rừng ngập mặn biển Ba Động, ngôi chánh điện có hướng nhìn ra biển
Đông, khuôn viên được bao bọc bởi nhiều động cát cao, phủ đầy dương xanh
ngát, rì rào cùng sóng biển. Được biết đây là cở sở thứ 58 Tu Viện của
phái Thiền viện thuộc Trúc Lâm Yên Tử.
Thiện viện Trúc Lâm được xây dựng với
mong muốn khôi phục lại những giá trị truyền thống của Phật hoàng Trần
Nhân Tông. Thiền viện Trúc Lâm là điểm tham quan du lịch hấp dẫn ở Đồng
bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng. Thiền viện Trúc
Lâm Trà Vinh là một địa chỉ hành hương Phật giáo và là địa chỉ du lịch
tâm linh thu hút mạnh mẽ phật tử, du khách gần xa về tham quan, vãn
cảnh, chiêm bái Đức Phật và hướng lòng mình trở về với cội nguồn dân tộc
hào hùng.
Ngoài ra, Thiền viện Trúc Lâm, khu du
lịch Biển Ba Động, khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn ven biển cùng các
di tích lịch sử Lầu bà Cố Hỷ Thượng động nương nương, Bến Tiếp nhận vũ
khí Cồn Tàu, Đình miếu Cồn Trứng, làng nghề Đáy biển Động Cao, làng Muối
Cồn Cù và những công trình công nghiệp hiện đại như Luồng cho tàu biển
có trọng tải lớn vào sông Hậu, Trung tâm Điện lực Duyên Hải… có vị trí
gần nhau, tính chất và loại hình bổ sung cho nhau để hình thành một
chuỗi các địa chỉ có tiềm năng lớn về du lịch ven biển Trà Vinh.
- Gái lùn! Gái lùn, dậy!
Dậy! Sắp sáng rồi! Gọi, lay. Đập tay, giật chân. Không khéo phải cấu
véo, đấm đạp, dựng nó lên nó mới chịu dậy cũng nên. Đêm đang khép cánh.
Mặt đất đã âm ấm khí dương. Ừ thì con gái hai mươi là tuổi ăn tuổi ngủ,
nhưng tuổi này cũng là tuổi làm lụng chứ. Không thì lấy gì mà ăn. Không
bớt ăn bớt ngủ dậy từ lúc này, khi thiên hạ còn ngủ cả, không lấy sự
chịu thương chịu khó để bù lấp chỗ kém cỏi của số kiếp thì làm sao mà
sống được, làm sao năm giờ có hàng cho khách đến lấy kịp chầu ăn sáng
của mọi người!
- Gái lùn! Dậy, con !
Lần này bà Gái mới chỉ gọi giật hai câu, con bé đã vùng dậy, ngáp
dài một cái rồi vừa gãi mớ tóc bù, vừa thò chân xuống quờ tìm guốc. Lát
sau thấy tiếng nước trong chảo bột vỗ óc ách. Rồi bốc lên mùi bột gạo
ngâm chua khẳn và mùi than bén lửa khen khét mùi của sự sống, trong bóng
đêm đen nhờ.
- Này, cẩn thận, lược cho kỹ, không bún giót như hôm qua. Mà xem lại cái khuôn đi, mẹ thấy không khéo nó thủng, con à.
Tuy vậy, bà Gái nói mà vẫn cảm thấy tiếng mình không thật. Nó vang đi
đâu, trong căn nhà mái thấp đã mù mù hơi khói, hơi nước, chìm nghỉm
bóng hai người đàn bà, một già một trẻ. Hóa ra ở đây, lúc này không cần
ngôn ngữ. Lúc này, ngõ xóm khéo chỉ có hai mẹ con bà dậy bắt đầu việc
làm bún.
Mọi người đang giấc. Không ngủ lúc này chỉ có ma, không ngủ lúc này
họa chăng chỉ có kẻ trộm đang hành nghề. Thức giấc lúc này chỉ có hai mẹ
con bà Gái. Hai mẹ con như hai cái bóng âm thầm, quờ quạng, cắm cúi vào
công việc đầu tiên để làm ra sợi bún là gạn bột và nhóm lò.
Những sợi bún làm trong đêm đem lại lời lãi trông thấy. Một cân gạo
làm được ba cân bún ngon. Nhưng khách chỉ được đổi có hai cân rưỡi. Làm
bún tậu được ruộng, xây được nhà. Nhưng, đó là nói người có sức vóc và
bỏ qua cái vất vả, cực nhọc của công việc này. Nó để lại di chứng trên
hình hài, vóc dáng, cung cách của hai mẹ con bà. Người gì mà kiệm lời,
mà cứ xo xo xúi xúi, cắm cắm cúi cúi, cấm có thấy gương mặt ngẩng lên.
Hai bàn tay thì lúc nào cũng nhớt nhèo nhèo, các kẽ chân kẽ tay bị nước
chua ăn mòn ngày qua ngày cứ bở bợt ra, trông thấy cả lớp thịt đỏ nhờ
bên trong, như tay chân người hủi.
Muốn có sợi bún đẹp, ngon, công việc phải tỉ mẩn ngay từ khâu chọn
gạo, không phải là hạt gạo mới lắm nhựa mà là hạt gạo cũ bụng bạc kia.
Gạo muốn thành bún trước hết phải xóc cho kỹ, rồi xay thành bột ướt và
ngâm cho nở ra. Nóng thì một, hai ngày. Rét thì có khi phải ngâm tới
bốn, năm ngày. Bột nở đủ độ là vớt, cho vào khăn, gói lại rồi lấy đá
lèn. Lèn cho khô rồi đem bột nặn thành quả. Quả bột hình thành nhờ tay
người, rồi cũng tay người cho nó vào quay, thả nó vào nồi luộc.
Đã tưởng luộc chín là xong, nhưng đôi tay vẫn chưa được nghỉ ngơi.
Nhấc quả bột đã chín phần da bên ngoài ra phải cho vào cối giã, sau đó
cho vào bồn thấu cho nhuyễn. Thấu khó lắm, quá tay cho nước nhiều là
nhão ngay. Ôi chao! Cái vất vả vẫn chưa buông tha. Vì bây giờ mới đến
khâu lượt bột, tức cho bột vào cái lượt có hình cái túi làm bằng tơ lụa
Hà Đông, bóp bằng tay thật kỹ cho bột mịn. Tuy nhiên, dùng sức nhiều hơn
là việc vặn bún tiếp sau. Vặn thật mạnh để bột tuôn xuống nồi nước đang
sôi, và trong mung lung hơi nước nhòe nhoẹt, khi bóng đêm đang tan,
trong cái cảnh huống ba chìm bảy nổi, mới thấy được sợi bún lập lờ trong
làn nước sôi cuộn.
Ôi, những sợi bún trắng muốt kết tinh từ trong bóng đêm vừa dai vừa
giòn, rất mực bóng bẩy ngon lành. Công phu thật, nhưng đúng là mới nhìn
sợi bún đã muốn ăn. Vừa đặt vào môi đã thấy nó trôi vào cổ họng. Người
ăn bún quen dạ chẳng cần nói cũng biết là đông, nhất là đàn bà. Người
nghiện bún cũng không ít. Ngày xưa trong ngõ này có cụ Thượng họ Bùi,
còn bây giờ, hằng ngày vẫn có cả chục người đến chờ bún khuôn một, còn
gọi là bún đầu nước, ngay từ lúc tinh mơ.
Bún đầu nước ít nhựa, dai giòn, ngon, một người ăn hết một cân bún
rối là thường. Mà đấy chỉ là chấm nước mắm hay mắm tôm chanh ớt thôi
đấy. Bún có nhiều loại. Sợi bún trong chậu lấy tay vóng lên, vuốt xuôi,
rồi trở tay đặt xuống, sợi dài trông như con len tở, gọi là bún con bừa,
con cúi. Bún nắm là vóng sợi bún lên tay, nắm cho nó kiệt nước, đặt
xuống, to nhỏ theo ý mình. Nhưng thích nhất là bún vảy ốc, còn gọi là
bún lá, bày ở mẹt bún chả, mười lá trắng tinh đẹp như hoa nhài, nhìn đã
thấy mê.
Mê bún, nghiện bún ở ngõ xóm này xưa là cụ Thượng họ Bùi. Bà Gái nhớ:
cụ Bùi Mỗ, người làng này, xưa học giỏi, tài cao, đức trọng, được thăng
Thượng thư, vào nhậm chức ở Huế, nhớ bún quá, phải mời ông Quảng, anh
giai bà vào chuyên làm bún cho cụ xơi. Sau, ông Quảng già, trở lại cố
hương, Bùi tiên sinh thưởng cho chức Trưởng bạ.
Ngồi nghe mẹ kể chuyện mà cậu út Nhớn cứ dửng dưng như không. Chỉ Gái
lùn là có vẻ lắng tai, nhưng lại nghếch mắt, lơ ngơ: "Thượng thư là
chức gì, hả mẹ?". Bà Gái ngẩn mặt: "Thì thấy người ta nói vậy rồi nói
theo chứ nào có biết. Mà biết để làm gì?".
Biết chẳng để làm gì cả! Vì quanh năm suốt tháng, từ đời cụ kỵ ông bà
cha mẹ chỉ duy nhất một việc là làm ra sợi bún. Chỉ một nhịp sinh hoạt
là ngày ngày trở dậy từ hai giờ sáng, hết gạn bột, luộc bột, giã bột lại
đến thấu bột, lượt bột, vặn bún, khép kín một chu trình để đến sáu giờ
giao hết hàng thì lăn ra ngủ. Ngủ tới hai giờ chiều là lại dậy chọn gạo,
xóc gạo rồi mười giờ lên giường để hai giờ sáng lại bắt đầu vòng tuần
hoàn mới.
Làm, chỉ có làm, đến mức da thịt hai bàn tay nát nhừ như bùn vữa.
Làm, cả năm cả tháng chỉ nghỉ độc ngày mồng một Tết, là ngày miệng thiên
hạ còn dành ăn cỗ. Làm như một thói quen. Như không có nhu cầu, không
có sinh thú gì khác. Không quan tâm tới bất cứ cái gì khác ngoài công
việc, vì đã chấp nhận sự an bài, không nề hà, suy bì so sánh, không biết
đến khổ ải, thiệt thòi. Cũng chẳng có yêu cầu gì cho bản thân.
Vì ngay đến cả cái tên gọi cũng không cần nữa là. Mẹ là bà Gái. Con
trai là Nhớn. Con gái là Gái con. Gái chị, Gái em, hoặc Gái lùn, Gái cao
tùy theo vóc vạc. Từ đời ông bà đã vậy. Nhà là xưởng làm bún. Số kiếp
lớn bé, nam nữ trong nhà thảy đều là thợ chuyên nghề làm ra món ăn dân
gian phổ biến này.
Có nhẽ phải đến đời này, chỉ đến đời này mới có chút ngoại lệ. Tức
cậu út Nhớn con bà Gái, từ lúc còn tuổi thiếu niên đã không tham gia
công việc cùng cha mẹ và các chị. Cậu út Nhớn được đi học. Cậu tách khỏi
đời sống lầm lũi cực khổ của mẹ và các chị. Mẹ cậu, chị cậu lấy ra từ
bóng đêm nguồn sức mạnh tăm tối; còn cậu, chỉ tìm thấy ở đó lòng căm hờn
và sự khinh miệt. Cậu bĩu môi, khinh bạc:
- Sống như dưới địa ngục thế này mà cũng chịu được!
Cậu út Nhớn mười bảy tuổi dong dỏng cao, da trắng mịn, mặt xương, mũi
dọc dừa, tóc dày rậm, rẽ ngôi giữa, thanh tao nhẹ nhõm như một mũi tên,
trông vẻ ngoài đã thấy đúng là cái tinh hoa vắt ra từ cuộc đời lam lũ
của mẹ và chị. Nhưng trông sáng sủa vậy mà cậu học kém. Trượt vỏ chuối
vào cấp trung học, cậu ở nhà chơi nhởn đã hơn năm.
Một hôm, tôi sang xưởng bún của bà Gái xin nước đãi bún, nước này có
chất chua của bột lên men, rất rít, rửa bát sạch còn hơn nước rửa bát
của Thái Lan, thì bà Gái níu lấy tôi:
- Cô ơi, cô đi làm, cô quen nhiều, cô giúp thằng Nhớn nhà tôi kiếm công ăn việc làm mới. Tôi sợ nó bị lôi kéo...
Nhưng tôi chưa kịp giúp cậu Nhớn được tí nào, đã thấy cậu vè vè cái
xe Honda nữ hoàng đỏ chót đằng sau đèo một cô gái mặc váy cộc vào ngõ,
mặt mày phớn phở khác thường.
Cậu út Nhớn thực hiện một cú nhảy vọt. Cậu đã có người yêu, đã có bồ
bịch, nhân tình. Và còn hơn cả nhân tình nhân ngãi nữa. Vì từ hôm ấy cô
gái nọ ăn ở với Nhớn ở nhà mẹ Nhớn, một căn buồng ở nách cái xưởng bún
nọ, như vợ chồng thật sự.
Cô tên Mùa đệm chữ Kim, một cái tên giao duyên tân cổ. Cô trạc ba
mươi. Chỉ nhận ra cô ở độ tuổi ấy mỗi trưa cô trở dậy, tóc tai rũ rượi,
đánh răng, súc miệng òng ọc. Lúc ấy phấn son đã bong sạch, da mặt cô xàm
xạm màu chì, lấm chấm nốt tàn nhang. Lúc ấy cô hiện hình thành một cô
gái quê có đôi mắt trắng dã, ngực độc cái xu-chiêng bọc cặp vú to dài
thõng thẽo như hai quả đu đủ, dưới cái quần hoa lửng là đôi chân vòng
kiềng khuệnh khoạng.
Cô đứng vung tay vung chân làm vài động tác thể dục. Rồi ngáp. Rồi
gãi nách, gãi sườn sồn sột. Rồi khịt mũi thấy mùi gạo ngâm, liền nhổ
đánh phịt. Mùi đ. gì mà chua phát tởm thế, ông Nhớn?
Cô Mùa dậy muộn lắm. Quãng hơn mười giờ cô mới cùng Nhớn vắt vẻo cái
ví đầm đi ăn trưa. Họ ăn trưa ở quán cơm bình dân về, lại đóng cửa buồng
im ỉm. Đây là lúc họ làm khổ tai nhức óc hàng xóm. Họ cấu chí nhau. Họ
đùa nghịch. Họ la hét. Rồi thi thoảng lại vóng vót lên tiếng ré chói tai
của cô Mùa: "Cắn đ. gì mà đau thế, bố ai chịu được". Rồi cô chửi: "Tiên
sư thằng nhãi, bà đã mệt phờ rồi mà mày còn hành bà à!".
Chí chóe cho đến năm giờ chiều thì Nhớn mở cửa dắt xe máy ra. Chàng
đèo nàng đi làm. Bây giờ thì thật là nàng vì nàng đã thoát hẳn cái lốt
thô phàm quê mùa vốn dĩ. Nàng mặc váy cộc màu tím, hoa đỏ. Nàng mặc áo
vai bồng, riềm cổ chồm tới rìa cặp vú phồng. Mặt nàng biến dạng hoàn
toàn. Son phấn phủ một lớp dày, trên đó bàn tay thẩm mỹ đã vẽ lên một
cái mặt nạ đàn bà mắt to thô lố, miệng cười toe toét, thần thái nồng nã,
như thấy đàn ông là vồ lấy ngấu nghiến. Nách cắp cái ví đầm, nghiêng
nghiêng mái tóc dính hờ cái mũ nồi đỏ cờ, tay kẹp điếu thuốc, ngồi vắt
vẻo ở sau xe, nàng rõ là một tiểu thư đài các đang đến chỗ làm.
"Thôi, đậu ở đây. Chờ em. Bai, bai!". Nàng hôn vào bàn tay, rồi giơ
lên vẫy vẫy ra hiệu tạm biệt chàng. Chàng quành xe, chạy một quãng rồi
rẽ vào quán nước. Đám người ngồi quán đang đánh bài, quay lại, nháy mắt:
"Nhớn, vớ được cô em thơm thịt nhẩy!". "Con nhà làm bún chuyến này đổi
đời thành công tử rồi. Cơm no bò cưỡi, sướng chưa? Sao không mời chúng
tao một chầu bia, mày?".
Công tử Nhớn không nói, nhấc bao 555, rút một điếu, châm lửa, trả
tiền rồi đi ra. Nổ máy xe, Nhớn chạy về nhà. Cậu đi qua sân, thấy mẹ và
chị đang xóc gạo, không nói một lời, dựng xe, vào buồng xách cái làn
đựng đầy quần áo nữ, quàng vào tay lái, đánh xe đi.
Lát sau nghe tiếng xe cậu trở về, tôi nhìn sang thấy cậu đang giở
từng cái áo quần đã qua máy giặt phất lên cái dây phơi giăng qua sân.
Cái dây phơi như có đàn bướm sặc sỡ vừa đậu xuống. Áo đủ các màu các
kiểu, may-ô, váy dài, váy ngắn đủ màu, và những chiếc nịt vú, quần lót
rung rinh trong gió, lấp cả lối qua lại của mẹ con bà Gái lúc này đang
sửa soạn đồ nghề cho buổi tinh mơ sớm mai.
Mẹ con bà Gái đi ngủ từ chập tối. Ti vi không có. Ra-đi-ô cũng không.
Nhưng dẫu có, họ cũng chẳng xem, chẳng nghe. Họ nhờ vào bóng đêm để lấy
sức, để trở dậy lúc hai giờ sáng làm mẻ bún mới. Tuy vậy, giấc ngủ của
họ, kể từ ngày Nhớn kiếm được chiếc xe và đèo cô Mùa về ăn ở, lại bị
quấy rầy. Mười một giờ rưỡi, chiếc Honda nữ hoàng đỏ nổ máy ầm ầm. Đón
cô nhân tình về rồi, căn nhà còn ầm ĩ thêm một lúc nữa, đến tận lúc cô
Mùa gắt: "Sao hôm nay gặp toàn bọn đểu thế không biết! Thôi đi! Đang nẫu
cả ruột đây, đang mệt bỏ cha đây!"...
Ngày nào cũng như ngày nào, lịch sinh hoạt của cậu út Nhớn cứ đều đều
diễn đi diễn lại như thế. Thật chẳng còn hiểu quan hệ của họ thuộc kiểu
gì. Vợ chồng thì không phải. Vì chẳng nhẽ Nhớn khinh mẹ cậu là con mụ
làm bún đần ngu không biết gì nên không thèm hỏi qua một câu. Gì thì
cũng phải có ăn hỏi cưới xin chứ. Mà xem cái cung cách con đàn bà đi đêm
về hôm, ở nhà người ta cả tuần mà không biết chào hỏi ai lấy một câu,
lại hợm của toàn lên giọng mỉa mai, ăn nói chỏng lỏn, cợt nhả, thô lỗ,
thì hẳn không phải là con nhà tử tế đứng đắn rồi.
Bà Gái, Gái lùn ngậm miệng làm thinh. Đã quen với một thế giới không
ngôn ngữ. Đã nhận ra chẳng thể thay đổi được tình hình. Hơi sức của họ
chỉ đủ để hoàn thành công việc của người lao động làm ra sản phẩm để
nuôi thân thôi. Dầu tôi biết là họ giận lắm, và nếu giận cô Mùa một thì
họ giận cậu Nhớn hai. Cậu Nhớn bám vào cô Mùa để vinh thân, để ra khỏi
kiếp phận. Cậu rủng rỉnh tiền bạc tiêu pha. Cậu mặc áo sơ mi hãng Pierre
Cardin, đi giày Ý, đeo đồng hồ Seiko, hút thuốc ba số. Cậu chẳng đoái
hoài gì đến mẹ và chị. Cậu quát: "Vứt mẹ nó cái nghề chết tiệt của các
bà đi. Tởm đ. chịu được!".
Cái phải đến cuối cùng đã đến. Một trưa, đang đọc sách, bỗng nghe thấy tiếng la lối om sòm bên nhà bà Gái, tôi vội chạy sang.
Bà Gái đang ngồi sàng gạo ở cửa buồng. Mặt gằm xuống cái sàng, bà
không dám ngẩng lên vì tiểu thư Mùa mặc bộ đồ cộc, hở nách mỏng tang ở
cạnh cái dây phơi la liệt váy áo, đang nhảy chồm chồm, chao chát:
- Cha tiên nhân đứa nào ăn không ăn hỏng lấy của tao cái đồng hồ
Lông-din giá hơn mười vé. Bà báo cho mà biết, duyên ai phận nấy chớ ghen
mà nồng. Ừ, bà là cave đấy! Bà thuê thằng Nhớn làm vệ sĩ, bà nuôi nó,
cho nó tiền bồi dưỡng sức khỏe để nó ôm ấp bà đấy. Này, đừng có nói bà
đã chán chê mê mải vì khách chơi vầy vò, lại còn quyến rũ thằng Nhớn vì
bà là con nặc nô dâm đãng chưa đã cơn thèm nhé! Cave là nghề của bà. Còn
thằng Nhớn là tình nhân của bà. Hai việc khác nhau nhé!
Dẫu là Mùa chửi một mình, từ trong buồng, Nhớn vội nhao ra để can
ngăn. Nhưng vệ sĩ vừa ra khỏi cửa, còn đang mắt nhắm mắt mở đã bị cô
cave thực hiện ngay một cú nhà nghề, tay đẩy chân ngáng khiến cậu quay
lơ ra đất.
- Cả ông nữa. Ông còn liếc ngang liếc dọc con mắt xanh mỏ đỏ nào nữa
thì tôi cho một nhát xong đời đấy, hiểu chưa? Chó nào, chủ ấy chứ! Đ.
mẹ, không có tao nằm ngửa ra thì lấy c. mà đổ vào nồi à! Nói cho mà
biết, không có tiền của bà thì mày lấy đâu đồng hồ mà đeo, áo quần sang
trọng mà mặc, xe máy mà đi. Mày mở mày mở mặt nhờ con cave này đấy, hiểu
chưa? Chứ cái thứ con nhà làm bún như mày, chỉ đáng giặt xi-líp cho bà
thôi. Con sãi ở chùa thì quét lá đa thôi, chứ tưởng của báu đấy, hả!
Thấy mình hèn quá, Nhớn vận nội công bật dậy, định xông tới vả vào
mồm cô cave mấy cái, nhưng chưa kịp làm đã sững người há hốc mồm. Tiểu
thư cave mặt hầm hầm quay lại đưa tay giật liên hồi đám quần áo phơi,
rồi vào buồng xách túi ra, nhét đầy vào đó, đoạn đi tới cái xe Honda đỏ
chót ngồi lên, không cả thay quần áo, dận máy nổ ầm ầm.
- Kim Mùa! Kim Mùa! Cho anh xin lỗi! Anh xin lỗi em mà!
Không nơi nương tựa, Nhớn lại trở thành kẻ thất nghiệp ăn bám mẹ và
chị. Nhưng một tháng sau, nhờ mẽ người cao ráo, bảnh bao, cậu lại làm vệ
sĩ cho một ả cave khác. Cậu lại có xe máy, quần áo đẹp mặc và tiền tiêu
rủng rỉnh. Nhưng lần vẫy vùng này để cố ra khỏi bóng tối của số kiếp
cũng lại không ăn thua. Vẫn lại là kịch bản cũ, có thêm hồi kết thúc bi
đát hơn.
Trong một trận tranh chấp quyền lực, Nhớn bị đối thủ tẩn cho trận bò
lê bò càng. Phải phục thuốc đến ba tháng sau Nhớn mới lại sức. Bà Gái
nói: "Thôi, con ở nhà làm bún với mẹ và chị đi. Vất vả, nhưng đồng tiền
kiếm được nó chắc chắn vì nó lương thiện, con à". Thấy ông con im, bà
liền hấp hay con mắt, khấp khởi: "Mẹ già, chị con cũng yếu rồi, giờ làm
buổi đực buổi cái thôi, cần có con giúp đỡ trông nom cơ nghiệp này. Nếu
con bằng lòng, mẹ sẽ đưa con ít tiền để lo việc mua máy móc. Mẹ nghe nói
giờ người ta đã chế ra máy xay, máy nhào, máy vắt bún rồi". Mẹ vừa dứt
lời, Nhớn liền nhổm dậy: "Mẹ có được bao nhiêu tờ?".
Giờ thì Nhớn giữ chân bảo vệ khách sạn Rose ba sao ở phố Q. Đó là
những nỗ lực tột bậc để cố giành lấy cái cậu không có, để đổi thay số
phận của cậu.
Cậu khoe với tôi: "Phải mất năm vé đút lót mới được nhận vào việc
ấy". Thấy tôi nhún vai, cậu liền mím môi cười: "Chị y hệt mẹ em. Nhưng
chị ơi, chỉ cần một năm tiền boa là em lấy lại đủ vốn thôi".
Rồi cậu con trai nhà làm bún ngả người, giang hai tay vênh vang một cách hồn nhiên:
- Cứ sấp mặt xuống làm nên có biết gì đâu. Bây giờ mở mắt ra mới biết
thiên hạ ăn chơi khủng khiếp. Một bữa tiệc vài ba triệu là chuyện
thường. Một tay giám đốc cắp theo con bồ cỡ Kim Mùa đến bao ăn ở cả
tháng khách sạn là chuyện thường... Em hầu bọn này còn sang hơn cả ông
bác em theo cụ Thượng nào đó vào Huế làm bún cho cụ ăn chị ạ... - Cậu
thêm, vẻ rất đắc ý - Tất nhiên còn nghìn lần sướng hơn cái công việc đầu
tắt mặt tối của mẹ em, chị em, chị ạ...
Ma Văn Kháng
Sợi Bún Trong
Không biết gia
đình O Hạnh làm bún đã bao lâu rồi, từ khi mạ O về làm dâu thì đã quần
quật với nghề mưu sinh của nhà chồng, rồi đến O được tiếp nối... Một
nghề vất vả nặng nhọc, những trưa hè oi bức, mồ hôi ướt đầm đề chiếc áo
nâu bạc. Cả mấy thúng gạo đem đi vo sạch rồi ngâm nước cho mềm, muốn bún
trắng thì phải vo gạo thật kỹ, vo nhiều thì bún sẽ trắng. Sau đó đem ra
cái cối đá hì hục xay, một tay quay cối, một tay bỏ gạo với nước, từng
giọt mồ hôi chảy ướt đẩm khuôn mặt của cô gái tuổi xuân thì, cầm cái
khăn quẹt nhẹ rồi xay tiếp... Say cả tiếng đồng hồ mới xong, lại hì hục
đem ngâm vào từng thùng để lên chua. Từng công đoạn một O làm thuần
thục, từ lúc lên 10 đã phụ ba mạ rồi, không ai dạy mà O thấy răng làm
rứa... ngâm xong thì đem bột nước đổ vào bao vải chờ cho ráo, vo thành
cục tròn như trái dừa rồi bỏ vào nồi luộc, sau đó đem ra đánh cho
nhuyễn, bỏ vào khuôn ép thành sợi, rồi lại luộc, xong thì vớt ra và rửa
bằng nước lạnh. Những sợi bún màu đục lại đưa ra chợ, quán hàng... đời
cơm áo gạo tiền đâu phải dễ, oằn mình mới đủ cái ăn với mặc.
- O ơi, quán sá với nhà hàng họ chê bún O đục quá, lại chua chua
- Bún nhà tui
làm sạch, và phải chua mới là bún O nờ... mần trắng thì dzệ và mất mùi
mô khó, nhưng "thất đức" rứa răng tui mần. Nhà tui chỉ làm gạo không,
còn nơi khác họ bỏ bột năng, bột lọc nữa đọ... Còn muốn trắng và giữ lâu
thì phải dùng hóa chất, có người méc cho tui nì: " Cho các chất phụ gia
được sử dụng trong bún có huỳnh quang được gọi là Tinopal để sợi bún
sáng, trong, nhìn ngon hơn" Nhưng chất này lại gây ảnh hưởng đến sức
khỏe con người O nờ. Chưa kể họ dùng hàn the cho sợi bún trở nên giòn,
không nát... ăn nhiều thì nát thận, rối loạn tiêu hóa.
- O nói cứ như chuyên gia, nhà nghiên cứu hi?
- Bây chừ vì tiền, cấy chi họ cũng làm hết, chẳng còn tính người. .
Cối đá xay gạo bằng tay.
Vì cái tâm nên
bún nhà O Hạnh vẫn làm theo kiểu truyền thống, xưa bún chỉ ăn ngon trong
vòng 20 tiếng đồng hồ, nay nhờ tủ lạnh nên thời gian bảo quản được lâu
hơn. Mỗi lần đi lên Sài Gòn, O chộ dĩa bún là biết chất lượng ra sao, an
toàn thực phẩm hay không? Bệnh nghề nghiệp ấy mà, con mắt nghề nhìn bao
nhiêu năm đã thành "quen". Bữa tiệc đang vui thì Hòa nhân viên của Tuấn
cầm dĩa bún và quát nhân viên phục vụ.
- Ê phục vụ, sao mang bún cũ ôi thiu ra cho khách như này!
- Dạ bún quán em mới mua về đó anh ạ!
- Cô còn cải à? Bún mới sao có mùi chua?
- Dạ em xin lỗi anh, em đi đổi ngay...
Cô gái cầm dĩa
bún đem bỏ vào ngăn đá của tủ lạnh chừng 5 phút, xong bỏ qua dĩa mới và
mang vào cho khách, cái mùi lúc nãy biến mất tiêu, sợi bún săn chắc
lại... khách hàng vui vẻ gật đầu hài lòng. O Hạnh ngồi im lặng theo dõi
từ đầu đến cuối và chỉ mĩm cười, trong đầu khen tặng cô gái quá thông
minh... Mọi người vui vẻ trở lại, bữa tiệc tất niên lại rộn vang những
lời thăm hỏi, chúc phúc nhau năm mới làm ăn phát đạt, tài lộc đầy nhà...
- Mạ ơi, con múc bún với lẩu cho mạ nghe
- Tuấn ơi, Mạ không ăn bún ni mô con
O Hạnh quay qua
đứa nhân viên của con trai và nói: Cháu à, nhà O mần bún cả mấy đời ni,
để có dĩa bún như này là bao nhiêu công sức, mồ hôi và nước mắt... kiếm
đồng tiền khó lắm cháu à, quê cực hơn phố thị như của cháu. Gia đình O
tiện tặn, bóp bụng ăn ít lại, mặc áo quần cũ không sao, gom tiền lại cho
con trai O ăn học, may sao giờ mở được công ty làm ăn khấm khá... hắn
bắt O bỏ nghề mần bún, nhưng O quen rồi, vẫn làm thủ công như ông bà nội
Tuấn xưa vẫn làm. Đừng nạt nhân viên mà tội nghiệp, mấy đứa hắn cũng vì
kiếm tiền nuôi cuộc sống, cực khổ và đôi khi nhục lắm cháu à... khách
hàng chửi bới thậm chí xúc phạm, chưa kể say vào lại sờ mó khắp người.
Hãy thương họ cháu nhé!
- Dạ, cháu... cháu...
- Cứ coi những
đứa phục vụ ni là em út hay người thân của mình, nếu không may bị chửi
vậy thì hỏi có buồn không? Ông bà dạy: "Không ai giàu ba họ, không ai
khó ba đời" cháu ạ!
Mọi người trong
bữa tiệc tất niên của công ty đều im lặng, không gian chùng xuống. Dừng
một lúc O Hạnh lại nói tiếp: Nhân đây O chỉ cho mấy cháu phân biêt bún
có chất phụ gia, hàn the với huỳnh quang không? Nếu sợi bún hơi nát, dễ
đứt gãy và chạm vào có cảm giác hơi dính, nhuyễn... thì đó là bún an
toàn. Ngược lại bún dai, khó đứt là bún độc hại đó nghe các cháu. Ăn bún
ít mập hơn ăn cơm vì lượng calo ít, nhưng các cháu nên ăn bún vào buổi
sáng sẽ tốt hơn. Ai bị tiểu đường thì ăn cơm nguy hiểm hơn ăn bún nhiều
nhé! Thôi mấy cháu vui vẻ đi, mần chi mà mặt ai cũng như mất sổ gạo rứa
hè?
Sài Gòn 13/01/2017
Kts. Đinh Thanh Hải
Bún bò Huế mụ Rớt
Vừa xuống sân bay
Tân Sơn Nhất, chưa kịp tay bắt mặt mừng sau bao năm xa cách quê hương,
câu đầu tiên khi cô thấy tôi là: “O về ăn bún bò Huế!”.
Cô
tôi qua Mỹ năm 1975 đến năm 1995 thì có về thăm Huế. Nhưng khi trở lại
Mỹ, cô gọi điện cho tôi và nói: “Bún bò Huế bữa ni không giống bún bò
Huế năm xưa nữa!” “Không giống năm xưa nữa e mụ Rớt vào Sài Gòn rồi. Con
thấy ở Sài Gòn có mở tiệm bán bún bò Huế mang tên mụ Rớt. Khi nào O về
VN, con dẫn O đi ăn bún bò Huế ở Sài Gòn!”. Cô tôi reo lên mừng rỡ. Thật
ra thì tôi nói cho cô vui chứ không biết chính xác là mụ Rớt có phải
vào ở Sài Gòn rồi hay không và cũng không biết mụ Rớt có còn sống hay
không nữa. Nhưng tôi đã thấy ở đâu đó trên đường phố Sài Gòn có treo
biển Bún Bò Huế Mụ Rớt. Tôi có đi ăn bún bò Huế ở gần nhà thờ Dòng Chúa
Cứu Thế, ở đường Bùi Thị Xuân, ở gần chợ Tân Định hoặc Tân Bình. Một vài
nơi cũng được nhiều người nhớ đến nhưng không hiểu sao tự nhiên dẹp
tiệm. Như tiệm bún bò Huế ở đường Bùi Thị Xuân chẳng hạn. Chắc là nhường
chỗ cho chợ vi tính chăng? Bún bò Huế ở Sài Gòn cũng không thua chi bún
bò Huế ở Huế. Phần nhiều là do người Huế nấu. Nhưng để nhận ra bún bò
Huế giống như xưa thì tôi chịu.
Trong những năm
của thập niên 1970, mỗi buổi sáng, gia đình tôi thường canh chừng mụ Rớt
gánh bún bò Huế đi ngang qua là gọi vào. Mụ Rớt mặc áo dài, gánh một
đầu là cái nồi thiết, hình bầu, có đường kính khoảng 40 -50 cm, chứa
nước dùng (lèo). Phía dưới nồi có mấy thanh củi đang ngún cháy. Một đầu
là cái mẹt đặt trên cái thúng rồi xếp tô, đũa, và những dụng cụ đựng ớt,
chanh, nước mắm…Mụ Rớt đặt gánh bún trước thềm nhà tôi rồi mở nắp nồi
nước dùng ra. Hương vị từ nồi nước dùng hòa lẫn với khói củi phía dưới
nồi tỏa lên một mùi vị đặc trưng khó tả. Chẳng biết mụ Rớt dùng củi gì
mà khói củi tỏa lên không làm cay mắt ai. Hay là mụ đun một hai thanh
củi thôi và chỉ để lửa liu riu nên ít khói chăng? Gia đình tôi là khách
ruột của mụ Rớt nên mụ biết rõ tính nết của mỗi người. Thế nên khi mụ
vừa đặt gánh bún xuống là làm liền cho mỗi người một tô mà chẳng cần
phải hỏi han gì. Mụ gắp những nùi bún trăng trắng cỡ bằng nửa chiếc đũa
bỏ vào tô, thêm một nhúm rau sống mà hồi đó chúng tôi gọi là rau và –
rau sống của mụ Rớt đơn giản chỉ là bắp chuối cắt ra mà thôi chứ không
trộn chung các thứ rau khác như sà lách, giá sống…như sau này chúng tôi
ăn ở Sài Gòn. Xong, mụ lấy cái vá khỏa khỏa màng màu mỡ trên mặt nước
dùng rồi bất ngờ vục cái vá xuống một cái và múc lên một miếng giò heo
đúng y như ý thích của mỗi người trong gia đình tôi. Kế tiếp, mụ lại
khỏa khỏa cái vá lần nữa rồi vục xuống múc lên một miếng huyết hình khối
khoảng chừng hơn hai ngón tay. Những miếng thịt bò mỏng cũng được mụ
múc nhanh gọn như thế. Chúng tôi chưa ăn mà đã thấy ngon khi vừa chú mục
theo động tác của mụ Rớt vờn miếng thịt vừa nghe cái mùi vị bún bò Huế
tỏa lên. Đặc biệt, ăn bún mụ Rớt chỉ cần một cái tô mà lúc bấy giờ người
Huế gọi là cái đọi và một đôi đũa tre thôi. Vì chỉ có một cái tô và một
đôi đũa thôi nên chúng tôi phải bưng tô bún vừa và vừa húp. Ngẫm lại
thấy cũng có lý, con bún vừa dai dài vừa tròn trơn thì múc muỗng là tuồn
tuột hết. Chỉ cần kê tô vào miệng là không có một con bún nào rơi rớt.
Chúng tôi rất thích tính hào phóng của ba tôi. Thường thì ông phán: “Ai
muốn ăn bao nhiêu tô thì ăn!”. Thế là chúng tôi ăn thoải mái. Mà ăn
nhiều nhất chính là cô tôi, hai tô. Còn chúng tôi ráng lắm là một tô
rưỡi. Mụ Rớt không ra giá nhất định một tô là bao nhiêu. Ăn bao nhiêu,
mụ bán bấy nhiêu. Nhưng một tô bún đúng giá chuẩn mà mụ Rớt định ra thì
có đủ thịt bò, giò heo, huyết…
Chỉ nghỉ ngơi một
đêm, sáng hôm sau, cô tôi đã biểu dẫn đi ăn bún bò Huế. Quán bún bò Huế
mà tôi và cô tôi đến trước tiên là ở gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Đây
là một tiệm chuyên bán những món ăn Huế nên thực đơn toàn là những món
ăn Huế như bánh Bột Lọc, bánh Nậm, bánh Ít, bánh Bèo…Chủ quán cũng nói
giọng Huế. Nhưng khi tô bún vừa mang đến thì cô tôi đã lắc đầu nguầy
nguậy: “Bún bò Huế chi mà lạ rứa!” “O chưa ăn thì răng mà biết được!”
“Bún bò Huế làm chi có hai miếng chả lụa như rứa!”. Cứ mặc cho cô tôi
khen chê thế nào tôi cứ ăn và thấy cũng ngon lắm. Có gì khác đâu? Chất
lượng và hình thức tô bún còn đầy đủ hơn nữa đó chứ! Một tô bún và một
miếng giò heo to gấp đôi tô bún mụ Rớt. Rồi còn chất vào đó nào thịt bò,
chả lụa, huyết…Rau sống thì đủ loại. Còn gia vị thì tương đỏ, tương
đen, ớt chua, ớt mặn, tỏi tươi, tỏi dấm, hành thái lát, hành ngâm dấm
đường. Có cả nước mắm ngọt, nước mắm tôm chua, ruốc Huế, ruốc mắm nêm…Ăn
bún thì khỏi cần và, húp vì đã có muỗng. Thậm chí có cả nĩa để đâm vào
miếng giò heo nữa. Thế mà cô tôi thất vọng cho rằng chẳng giống bún bò
Huế mới oan nghiệt chứ! Hôm sau, chúng tôi lại đi tìm ăn bún bò Huế nữa.
Lần này chúng tôi lại tìm đến một tiệm bún bò Huế sau lưng chợ Tân
Định, cũng do người Huế nấu nhưng cô tôi cũng lắc đầu. Một tiệm bún bò
Huế ở gần chợ Tân Bình có tiếng, người ăn đông quá chừng. Nhưng cô tôi
cũng thất vọng, buồn lòng. Tôi quyết dẫn cô tôi đi thật xa về quận Tân
Phú để may ra tìm một quán bún bò Huế có vẻ dân dã một chút cho giống
cái món bún bò Huế trong lòng cô tôi. Nhưng khi chủ quán vừa bưng tô bún
ra thì cô tôi đã thốt lên: “Răng lạ rứa! Đã bún bò giò heo thì phải có
thịt bò giò heo mà răng lại từng lát thịt heo luột như rứa!”. Chủ quán
xổ ra một tràng giọng Quảng: “Lạ, lạ chi mà lạ hè! Bún bò Huế như rứa
chứ reng lạ! Bà ăn bún bò Huế chưa nà? Tui bán bún bò Huế mụ Rớt bao
nhiêu năm rồi đó nghe!”. Đúng như cô tôi nói, tôi ăn mà tưởng chừng như
mùi vị của hủ tíu. Nhưng tôi chợt nhận ra một điều mà trước đây khi tôi
bắt gặp đâu đó trên đường phố Sài Gòn treo biển bán bún bò Huế mụ Rớt
thì tôi nghĩ đơn giản là do mụ Rớt đã vào Sài Gòn ở rồi mở tiệm bán bún
bò Huế mà thôi. Bây giờ thì tôi đã hiểu, hóa ra chỉ một gánh bún bán
rong như thế mà trở thành một thương hiệu nổi tiếng ở đâu cũng biết.
Nỗi
buồn của cô tôi không ăn được một tô bún bò Huế giống như xưa lan tỏa
đến cả vợ con tôi. Vợ tôi cho rằng, sở dĩ không giống là vì không có món
ruốc chính gốc Huế để nêm vào nồi nước dùng. Bún bò Huế phải nêm bằng
ruốc Huế là chính chứ không phải nhờ vào bột ngọt. Nhưng cô tôi cho
rằng, chuyến trước về Huế cô đã đi ăn khắp thành phố mà cũng chẳng thấy
giống như xưa. Bó tay! Nhưng vợ tôi thì không bó tay, bởi cô ấy cũng
thường nấu bún bò Huế cho cả nhà ăn. Cô ấy tin chắc vào món ruốc mà mình
gởi mua từ Huế vào. Còn tôi thì quyết định tái hiện lại khung cảnh nấu
bún bò Huế trong nhà với nồi bầu, vá múc, thúng, mẹt…và chỉ ăn bún bằng
cách và, húp thôi.
Vợ tôi đang hầm cho mềm thịt
trên bếp ga nhưng tôi vẫn thấy thiêu thiếu một điều gì đó. Và tôi chợt
nhớ ra làn khói bay bay từ củi lửa dưới nồi bún của mụ Rớt. Thế là tôi
phóng xe đi tìm mua một bếp lò và một bó củi.
Khi
vợ tôi bưng đến cho cô tôi một tô bún, chưa kịp ăn mà bỗng dưng cô tôi
rơm rớm nước mắt. Còn tôi thì cũng đã nhận ra hương vị đặc trưng bún bò
Huế của mụ Rớt ngày xưa. Chính cái mùi khói củi hòa lẫn với mùi vị bún
bò Huế tạo nên một hương vị đặc biệt khó tả của bún bò Huế mụ Rớt và
đồng thời cũng khiến cho cô tôi nhớ lại niềm hạnh phúc đầm ấm của gia
đình mình năm xưa.
Trung Kim
Cơm mùi khói bếp
TT - Bốn năm từ ngày lấy vợ, tết này anh mới
đưa được cả vợ và con về quê. Từ Sài Gòn về miền Trung không hẳn quá xa,
nhưng vì có đứa con nhỏ nên chuyện đi lại khó khăn.
Mấy lần trước anh chỉ về một mình, dăm hôm lại trở vào. Lần này cả nhà mới được về quê, cho đứa con ăn tết quê nội lần đầu.
Bà ngoài sáu mươi đon đả chạy ra tận ngõ đón. Lưng bà đã bắt đầu
cong hình đòn gánh. Tay phải bà cắp bồng đứa cháu nội, tay trái vẫn chèo
móc thêm một túi xách.
Đặt xong đồ đạc vào góc nhà, bà bảo: “Chắc bây đói bụng rồi, để mẹ đi
nấu cơm cho ăn”. Cô con dâu còn mệt hơi xe đáp: “Chúng con ghé ăn trên
thị xã rồi mới về đây”. Nói xong cô quay sang chồng: “Bún nuốt chả trôi
nữa là cơm”.
Bà hơi chạnh lòng: “Về tới xứ mình rồi còn ăn chi dọc đường dọc sá
cho tốn tiền. Thôi ra rửa ráy, để mẹ đi pha nước chanh cho bây uống.
Chanh vườn nhà mình chứ không phải chanh Tàu đâu. Uống vô cái khỏe
liền”.
Anh cười bảo mẹ khách sáo quá, con cái chứ có phải ai xa lạ mà cung
rước mời mọc. Bà móm mém: “Thì bây đi cả, nhà vắng vẻ mấy lâu. Thấy có
người mừng quá. Ba năm là cả ngàn ngày chứ có ít ỏi chi”.
Hôm sau bà lọ mọ dậy từ lúc trời chưa hửng sáng, nhóm lửa rơm bắc nồi
cơm. Thằng cháu nội ba tuổi chạy xuống thấy khói bếp bốc ngùn ngùn,
khiếp quá hét toáng lên: “Cháy nhà”.
Anh chị đang ngủ giật mình vùng dậy. Anh bảo nhà đã có bếp gas, mẹ nấu gì thứ rơm đó nữa cho cực.
Bà cười: “Tụi bây ăn cơm nồi cơm điện thành phố quen rồi, về quê mẹ
nấu cơm lửa rơm cho thơm mùi đồng mùi rạ. Mà cơm nấu rơm mới có miếng
cháy ăn giòn. Mấy hồi anh nhỏ, bữa ăn không có miếng cơm cháy là giãy
nảy lên bướng bỉnh chẳng chịu ăn. Nhớ không?”.
Trời rạng tưng tửng sáng, thấy khói bay lên lèn qua mái tranh, anh
chợt bùi bùi. Nhớ ngày xưa còn nhỏ, sáng sớm anh chạy xuống bếp nằm cuộn
trong lòng mẹ ngủ nướng thêm một lúc. Thức giấc giở nắp nồi ngửi mùi
cơm.
Rồi lấy đũa xới hết cơm lên để lột ra miếng cháy ở đáy ăn trước. Lớn
lên vào Sài Gòn lập nghiệp, cưới vợ sinh con ở đấy, xa cái bếp quê dần
thành quên.
Với lại ở trong đó đâu có mấy ai ăn sáng ở nhà. Cái bụng cũng “lười”
và “yếu” đi, sáng phải bún hoặc cháo mới nuốt nổi. Giờ về thấy cơm thèm
thì thèm thật nhưng ăn chi vô.
Cô con dâu bảo: “Mẹ bày ra nấu bữa sáng làm gì cho cực. Chúng con ra quán ăn miếng là rồi việc”.
“Bây
nói chi lạ. Ăn uống phải đàng hoàng chớ. Bữa sáng là quan trọng lắm.
Không ai thương bằng cơm thương đâu con. Ăn cơm chắc bụng no lâu. Mấy
cái thứ bún cháo nước õng ệu, chỉ nhoáng là đói lại liền à” - bà vừa san
cơm ra chén vừa nói.
Ba chén cơm trắng, đĩa cá đồng kho nghệ. Anh háy mắt qua vợ ý bảo ăn
đi, ăn lấy lòng mẹ một miếng. Chị lại háy mắt qua anh lắc đầu, có mà sức
Thánh Gióng mới nuốt trôi. Thằng cu con nhìn chằm chằm chén cơm.
Cuối cùng chỉ có anh trệu trạo làm được ba miếng, như là ăn tượng
trưng cho mỗi người một miếng. Tranh thủ lúc mẹ đi ra giếng, anh lùa cả
ba chén cơm trắng vào lại nồi.
Sáng hôm sau bà lại dậy sớm. Lại nhóm bếp rơm nấu cơm. Xong bữa nồi
cơm không vơi được là mấy, vẫn đầy như lòng mẹ. Anh gắng ăn được nửa
chén. Chén lòng san đôi cho mẹ cho vợ. Anh dối mẹ chở vợ con đi xem chợ
tết, đi thăm thú làng quê, thực chất là để ghé quán cho vợ con ăn bún ăn
cháo.
Anh tự nhủ sáng mai phải thức sớm ngồi nấu bếp với mẹ như xưa. Tự nhủ
sáng mai phải ăn chén cơm đầy với mẹ, nhai một miếng cơm cháy giòn
thơm. Nhưng lâu ngày giờ về quê gặp lại bạn bè người thân, chỗ này mời
chén rượu, chỗ kia mời bữa cơm. Cơm rượu quê hàn huyên câu chuyện ngày
dài tới tận khuya. Hôm sau thức dậy đã sáng trợt sáng trời, cổ họng khô
khốc không ăn nổi cơm dẻo, huống hồ là miếng cơm cháy.
Chưa hết tết, mới ngày mùng bốn anh lại phải đưa vợ con vào Sài Gòn.
Bà mẹ dậy sớm làm gà, nấu cơm. Vẫn một mình bà cặm cụi với cái bếp. Bà
xúc đầy đơm cơm vào chiếc cà mèn. Gà luộc cho vào hộp đựng. “Bây đem lên
xe mà ăn. Cơm dọc đường dọc sá không ngon đâu”.
Con cháu lên taxi rồi bà còn dặn theo: “Vào trong nhớ ăn uống đàng
hoàng nghe bây. Đừng bỏ bữa sáng. Không ai thương bằng cơm thương”.
Vào tới Sài Gòn cà mèn cơm vẫn còn một nửa. Vợ định đem đi đổ. Anh can bảo để đấy, phơi khô cất giữ làm kỷ niệm.
****
Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường,
gặp con câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa? Mẹ không bắc cơm được.
Thôi ra đầu chợ ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.
Nhưng mẹ không khỏe nữa, yếu dần, được thêm hai bữa thì nhắm mắt.
Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chén cơm trắng đặt trên bàn thờ, anh
thấy nhói lòng. Ân hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm
sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu “không ai thương bằng cơm thương”.
Tiếc nuối. Thèm miếng cơm cháy mẹ nấu quá. Giòn và thơm, mùi hương
đồng mùi nước quê, cả mùi khói bếp. Chỉ có mẹ mới nấu được miếng cơm
cháy ngon như thế.
Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ
mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà
đầy khói. Và khói...
Tin con gái chú Út nhà hàng xóm sắp về khiến làng xôn
xao. Gã nghe vợ bàn với mẹ mua thêm ít thùng mì, mấy lon sữa, vài lốc
giấy vệ sinh, mấy cân mì khô, mắm muối xì dầu… Cứ mua hết những thứ cần
thiết dùng trong vài tháng.
Vuông
vườn được xới cẩn thận gieo hạt xanh ươm, cải con chen nhau mọc. Giàn
mướp vươn mình bên hồ cá lúc lỉu quả, mấy luống cà phơn phớt những đóa
tím mênh mang. Bầy gà dẫn con bới giun tục tục quanh gốc mận già, nhánh
mận sai quả oằn mình rơi đầy gốc. Gã vịn tay vào một nhánh cụt, kỷ niệm
cũ tràn về xâm kín buồng tim.
Ngày ấy, mỗi độ hè, gã thường về
nhốt mình trong căn gác chật hẹp. Bằng trang lứa chúng bạn đã vợ con đề
huề. Cuộc mưu sinh của đất nghèo chưa bao giờ là dễ dàng. Những thửa
ruộng cằn khô cỏ chỉ, những đám sình chi chít hàn the, những bờ bãi
khoai bắp nối nhau san sát. Chúng như vắt kiệt tuổi xuân của người nông
dân. Nhìn lũ bạn mải lo cơm áo, nhìn lại mình sạch sẽ tinh tươm dưới
giảng đường, gã thấy mình thật may mắn.
Sáng ấy, chú Út mang cày
qua thật sớm, lúc sương còn ngái ngủ trên các tán lá, lúc bầy gà chưa
kịp rời chuồng bới đất tìm mồi, đã nghe chó sủa inh ỏi. Bếp mẹ rực lửa,
những nhánh tàu cau khô ngùn ngụt cháy, lửa liếm chiếc ấm sứt một bên
quai như vuốt ve âu yếm. Gã chẳng buồn dậy, đêm qua thức thật khuya bên
bản vẽ, những gam màu sáng tối nhập nhoạng dưới ánh đèn mờ. Gã nhớ cô
bạn gái cũ và cái bĩu môi khinh rẻ, chiếc váy hường điệu đà lẩn khuất
giữa dòng người vội vàng. Lời chia tay nhẹ bâng không tốn của nàng một
giọt nước mắt, nhưng đọng lại trong gã cả vũng tăm tối. Gã nhúng bút vào
nghiên mực, rồi thẳng tay ném vào khoảng không, tường loang lổ chi chít
màu, tấm giấy điều hứng lấy những giọt vô thức tạo nên bức tranh hư
thực. Gã nằm thêm hồi lâu, lại có tiếng nhặng xị của con Ki. Gã cố kéo
chăn trùm kín đầu, giấc ngủ về theo mướt mát, xanh xao.
Giật mình
bởi tiếng hét thất thanh, gã lật đật chạy xuống, căn gác rung lên theo
mỗi bước chân qua. Nơi gốc mận, cô bé bị treo lơ lửng trên cành, nhánh
mận gãy cụp với mớ quả đỏ mọng nham nhở vết răng dơi, quả rơi đầy gốc.
Chiếc áo cũ bị móc vào một nhánh cụt, mặt con bé xanh rờn khiếp đảm. Gã
vừa hoảng vừa buồn cười, vội đưa tay hứng lấy. Vừa hay chiếc áo không
chịu được sức nặng, rách toạc một đường. Con bé lăn lông lốc từ mái
chuồng heo xuống tay gã. Cú va chạm khá mạnh khiến gã suýt ngã dụi. Mẹ
gã ôm lấy con bé hú hồn hú vía. Mặt nó cắt không còn giọt máu.
* * *
Quê
gã có nghề trồng lài, mẹ gã là người đầu tiên mang giống cây từ vườn
ươm về thực nghiệm. Ban đầu nhiều bỡ ngỡ. Từ khâu chọn đất bón phân, đến
tưới nước tỉa cành, rồi khử sâu trừ bệnh. Lài thuộc giống dễ trồng,
sống được trên nhiều loại đất, nhưng phải cao ráo đủ ánh sáng, tưới nước
đều đặn mới cho năng suất cao. Để có được những nụ hoa to khỏe múp míp,
không bị tím bông, đốm lá, không chết bụi khô cành, hoa thơm hương, mẹ
gã đã phải quần quật suốt ngày. Chú Út được mẹ tin cậy thuê giao trọng
trách đó.
Mỗi trưa, khi mọi người trong nhà nghỉ ngơi sau một buổi
làm mệt nhoài thì gã lại thấy cô bé ấy xuất hiện. Với chiếc mũ rộng
vành, chiếc áo khoác ngả màu cháo lòng, một chiếc túi cài bên hông. Hai
tay cô bé thoăn thoắt hái những đóa lài bung nụ. Dưới cái nắng gay gắt,
mặt cô bé ửng đỏ, mồ hôi mướt ướt đẫm cả vạt áo. Những ngón tay cứ thoăn
thoắt một động tác quen thuộc. Không có tiếng cười đùa, chỉ có bước
chân vội vã của những người hái lài thuê. Họ như chạy đua với thời gian.
Lài
thường được hái từ lúc mười giờ sáng đến tận chiều muộn. Nhưng phải tầm
ba giờ đến sáu giờ chiều, chính là lúc lài tụ hương. Những bông hái
không kịp, qua đêm sương ủ, sớm mai nở bung coi như bỏ, không bán được.
Hôm
nào trời trở dông, cả nhà tập trung hái sợ gặp cơn mưa sớm. Những luống
đất chen chúc chân người, những đôi tay thuần thục hối hả. Những nụ hoa
chúm chím trốn lẫn trong tán lá xanh như chơi trò trốn tìm, thách thức
đôi mắt tinh tường vạch nhặt.
Mưa. Từng giọt lộp độp rơi trên mái
đầu, chiếc mũ rộng vành oằn xuống. Con bé cố gập người nhặt nốt những nụ
còn sót lại nơi tán lá. Nó bảo, mấy bông này không hái được, gặp cơn
mưa sẽ bung tơi tả, nhạt hương. Lúc đó không dùng được nữa. Lài chỉ có
giá trị khi căng nụ mà thôi.
Gã từng thấy cô bé ấy trầm ngâm bên
những đóa hoa trốn nơi góc lá, vẻ tiếc nuối pha lẫn hối hận. Như thể
chính mình đã để các em hoa ấy chịu mưa, dầm sương mà bung bét. Con bé
theo ba mỗi sớm dắt trâu cày, mỗi trưa hái lài thuê kiếm tiền sách vở.
Chiều chăn trâu thường ôm theo cuốn sách nhàu cũ. Chắc được đọc đi đọc
lại nhiều lần đến sứt gáy, lờn chỉ.
Gã bị ấn tượng mạnh bởi đôi
mắt xanh như hồ thu, vầng trán rộng thông minh cùng mái tóc dài đen
mượt. Mười hai tuổi, con bé phổng phao dù cơm độn, muối vừng. Ai cũng
gọi bằng cái tên Gái mặn mà duyên dáng. Gái thường hay lân la bên giá
sách của gã mỗi độ qua nhà, đôi mắt ánh lên niềm khát khao.
* *
Bẵng
đi một thời gian gã không về thăm quê, thăm mẹ. Cuộc mưu sinh cuốn gã
vào những dự án triền miên. Cô bé nghèo phải bỏ học theo người quen vào
tận Sài thành hoa lệ. Cuộc đời lam lũ không vùi được nét đẹp quê mùa
chân chất. Lọt vào mắt xanh của người thương lái giàu có, rồi theo người
ta làm lẽ tận bên Tàu. Cuộc đời cô rẽ sang chương mới, chắc có thênh
thang.
Bao nhiêu năm Gái không về thăm nhà, nhưng quà cáp cho mẹ
cha vẫn đều tăm tắp. Thi thoảng gã nghe mẹ kể chuyện cái Gái nhà chú Út
giờ giàu lắm, ăn trắng mặc trơn. Còn gửi quà cho cả xóm. Những thùng
quần áo cũ được giặt tinh tươm sặc mùi long não, những lọ dầu trị bệnh
đau nhức xương khớp, những gói rễ cây bọc bằng mấy tấm giấy chằng chịt
tiếng Tàu, chú Út bảo thuốc quý. Cả xóm chen chúc chia nhau từng hũ cao
dầu, xúm xít lựa những chiếc áo đủ màu sắc, rộng thùng thình lạ lẫm. Ấy
là những ngày khốn khó. Giờ khu công nghiệp mọc lên như nấm, cuộc sống
đổi thay. Những thùng đồ Gái gửi về cũng thưa thớt hẳn.
* *
Rồi
cả thế giới quáng quàng vì dịch giã. Bên kia biên giới, đôi chân Gái
bồn chồn tìm về cố hương. Cú vượt biên trái phép khiến Gái và những
người đi cùng bị bắt lại nơi cửa khẩu. Qua xét nghiệm cho kết quả dương
tính với Covid, Gái cùng đứa con nhỏ được đưa đến trạm cách ly tập trung
gần đó để điều trị.
Thông tin rò rỉ về. Làng xóm xôn xao. Chú Út
chết ruột chết gan. Gã nghe buồn quá, lòng chấp chới những câu chuyện
rời rạc. Nhớ ánh mắt thảng thốt ngạc nhiên pha lẫn thẹn thùng của Gái
lúc vô tình nhìn thấy bức tranh gã vẽ cô bé bên đóa hoa lài, ánh mắt rực
sáng nhưng không giấu được nét u buồn bên khóm hoa trắng nở dè dặt. Là
Gái. Gái in đậm trong tim gã những ngày hè xa xưa.
Gái không qua
khỏi. Nhúm tro được đậy kín trong chiếc lọ nhỏ và bọc trong một vuông
vải đỏ đầy ám ảnh. Cả thế giới để tang cho những số phận không may mắn.
Bên kia, nhà chồng Gái cũng không ai còn vì dịch, đứa con nhỏ bơ vơ được
đưa về Việt Nam.
Ngày đón cháu, chú Út như ngã quỵ. Vuông vải đỏ
ôm lấy hũ tro cốt lạnh tái lòng. Đứa nhỏ đã qua thời gian cách ly, xanh
xao gầy gò trong mớ đồ nhàu nhĩ. Ánh mắt nó thẳm sâu. Nó ít nói và trầm
buồn. Chắc được Gái dạy nói tiếng mẹ đẻ từ lúc lọt lòng, cất giọng Việt
lơ lớ.
Đứa nhỏ được ông bà thương yêu hết mực, nhưng không giấu
được vẻ côi cút. Suốt ngày chơi bên mớ cọ vẽ, lặng lẽ với những gam màu
vàng cam rực rỡ. Thi thoảng, nó đưa mắt nhìn vào xa xăm vô định, như tìm
kiếm điều gì.
Gã nhìn qua bức vách, chỉ một bức tường mỏng, dăm
hàng cây thưa. Phiên bản hoàn hảo của Gái ngồi đấy, mái tóc đen mượt phủ
kín đôi vai gầy xanh xao. Phải làm một điều gì đó cho Gái, cho con bé.
Nó đã quá thiệt thòi rồi. Bên kia, chú Út đang quàng thêm khăn cho cháu,
miệng húng hắng ho không thành tiếng. Cơn gió mùa tràn về mang theo cái
lạnh mơn mơn.
Gã bước xuống ra tháo cổng. Từng tia nắng nhảy múa
nơi hàng râm bụt. Nhánh mận già có bầy chim chuyền cành tíu tít vui
nhộn. Từng chùm bông mận li ti rải trắng một bên lối đi. Gã lên phòng
lục mớ giá cọ giấy vẽ, ống màu. Bên kia khu vườn, con bé giương mắt nhìn
người lạ, nhìn giá vẽ và ống giấy kè kè bên sườn, mắt nó ngời lên hạnh
phúc.
Gã ngoắc tay, mắt con bé mở to ái ngại, tay ôm chặt lấy tay
ông. Chú Út vuốt tóc cháu trấn an, nhìn gã bằng cái nhìn đầy ắp nỗi
niềm.
Gã lại nhớ Gái với cánh bông trắng tinh khiết nở bung trên
tay. Gã tự nhủ lòng đã biết cách đưa con bé ra khỏi khu vườn chật hẹp
của chú Út rồi, hay ít ra, gã cũng sẽ đưa được con bé về với thiên
nhiên, với cuộc sống bình thường theo cách của riêng gã. Mong rằng nơi
xa ấy, Gái sẽ an lòng. Cõi vô vi thơm hương một loài hoa cánh trắng.
HỒ LOAN
Như bông hoa nhài...
Bác bỏ mặc lời mọi người nói, vẫn cương quyết cho
thằng con trai dở hơi của mình lấy bằng được một con vợ. Cái gì là bi
kịch, cái gì thiếu văn minh, cái gì là cố đấm ăn xôi? Bác quyết tâm ngồi
xổm lên tất cả.
Rồi bác lặn lội về tận một vùng quê nổi
tiếng là nghèo và các cô gái muốn đổi đời thì nhiều vô kể. Rồi bác cũng
kiếm được một cô đạt đúng “tiêu chí” ba “cực”, đó là cực nghèo, cực lành
và cực trẻ. Chị Quyến về làm con dâu bác trong một chiều mùa đông gió
bắc rét cắt da cắt thịt. Có lẽ đây là chuyến ra thủ đô đầu tiên của bố
mẹ cô dâu – thông gia của bác. Nhìn họ ngơ ngác trong bộ quần áo chắc là
đi mượn để diện trong ngày cưới của cô con gái đầu, mọi người trong họ
xì xào hình như bố mẹ chị Quyến là người dân tộc, nói còn không “thõi”
tiếng Kinh nữa. Cô dâu hơn 18 tuổi mặt non choẹt, phấn son lòe loẹt nhìn
rất hài hước trong bộ váy cưới mầu trắng đục lờ với hàng đăng ten cũ
kỹ. Nhưng hàng xóm láng giềng thán phục lắm. Làm dâu thủ đô kia mà. Bố
mẹ cô dâu ngây ngô như thế chắc cũng chả biết gì, còn khen thằng con rể
đàn ông nên ít nói. Đám cưới huyên náo cả một vùng quê hẻo lánh trọn vẹn
3 ngày đêm rồi cũng hết, trả lại sự im ắng muôn thuở hệt như chưa từng
có nhạc xập xình, chưa từng có đám rước dâu đi dọc đường làng. Nhanh hệt
như một bông hoa chớm nở đã vội tàn trong một sớm mai.
Người trong nhà ai cũng ái ngại cho nàng
dâu mới của bác. Trẻ người, non dạ, quê mùa, sẽ thế nào với người chồng
bệnh tật trong một gia đình lạ lẫm chốn thành thị. Còn cả chuyện làm vợ
của chị ý nữa, một ông chồng bị tâm thần liệu có thể làm chồng? Nhưng
đó chỉ là thời gian đầu thôi, sau dần những câu hỏi đó không ai còn hỏi
nữa, giống như một sự kiện đã hết tính thời sự, không ai còn quan tâm.
Bác đối xử với chị Quyến không tệ, cũng
chăm sóc, mua sắm và lo cho mọi thứ ở mức khá tốt. Chỉ có điều bác hầu
như không cho chị tiếp xúc hay đi ra ngoài với ai. Cả ngày chị ở nhà bận
rộn bán hàng xén với mẹ chồng và chăm sóc người chồng lẩn thẩn. Thời
gian thấm thoắt trôi…
Thế rồi tin chị Quyến có bầu lại khiến
mọi người được dịp xì xầm. Bác thì hoan hỉ lắm. Như vậy là thằng con
trai dở hâm dở hê của bác cũng làm được cái việc của một thằng đàn ông
phải làm. Ấy là bác nghĩ thầm trong bụng thôi chứ hàng xóm láng giềng mà
nói thế bác chửi cho rẽ đất. Dở hơi đâu mà dở hơi, con trai bác chỉ hơi
chậm và buồn thôi. Mọi người cũng phập phồng hy vọng bệnh không di
truyền đến đứa trẻ. Nhưng người nhiều kinh nghiệm sống thì chép miệng
bảo: “Chả biết được bao lâu”.
Đúng là chả được bao lâu thật. Khi thằng
bé con vừa tròn 1 tuổi thì chị Quyến ôm con bỏ đi, không ai biết đi
đâu. Chồng chị, người đàn ông lẩn thẩn vẫn chậm và buồn vậy, không hơn.
Sự biến mất của vợ và con không tác động gì đến khuôn mặt vô cảm của anh
ta. Mẹ anh thì như cây chuối bị đốn gốc đổ gục tưởng như không bao giờ
có thể dậy được nữa. Nhà cửa chả ai ngó ngàng…
Mãi bác mới gượng dậy được. Phải đấy,
con người ta sốc mấy rồi cũng hết sốc thôi, ấy là do người ta đã quen. 2
tuần sau khi chị Quyến đi, bác mới tìm thấy lá thư chị để lại. Đọc xong
mà bác khóc tu tu làm cả phố lại một phen nhốn nháo.
Bức thư rất ngắn, chỉ mấy dòng thôi nhưng làm bác đi từ nỗi ân hận này sang nỗi ân hận khác. Nét chữ của chị Quyến khá đẹp.
“Mẹ ơi, nhẽ ra con rất giận mẹ khi con
nhận ra là chồng con bị tâm thần. Nhưng khoản tiền mẹ cho nhà con đã cứu
sống mẹ con khỏi trận ốm năm ấy. Nên con không nghĩ gì nữa mẹ ạ, coi
như đó là số phận. Con xin phép mẹ đi khám bệnh cho cháu xem nó có bị
giống bố nó không. Rồi con đưa cả bác sĩ về để khám cho chồng con nữa.
Hình như mẹ chưa bao giờ cho anh í đi khám thì phải? Vài hôm nữa con cho
cháu về. Mẹ đừng giận con nhé”
Thuy miny
Sự tích hoa Nhài – Loài hoa đẹp tinh khôi mang mùi hương thơm ngát
Chuyện kể rằng, từ thuở xa xưa tất cả các loài hoa đều có màu trắng.
Đến một ngày kia có một người họa sỹ đến khu vườn và mang theo một hộp
to đựng các loại mực màu và một nắm bút lông. Chàng nói với các loài hoa
và các khóm hoa:
– Tất cả hãy lại gần ta và nói cho ta biết ai thích màu gì.
Ngay lập tức, các đóa hoa và cây cối trong vườn bèn đứng vào chỗ theo
hàng lần lượt, bởi vì loài nào cũng muốn chọn cho mình thứ màu rực rỡ
nhất. Riêng có mỗi hoa Nhài nó đứng gần Họa sĩ và nói rằng nó cũng muốn
hoa của mình phải có
Chỉ có Nhài là đứng gần hoạ sỹ hơn cả. Nó nói rằng, nó muốn hoa của
nó phải có màu vàng vàng như màu của tóc của thần Mặt Trời mà nó hằng
yêu mến.
– Mi dám cả gan len lên trước nữ hoàng Hoa Hồng? – Hoạ sĩ đẩy Nhài sang một bên.
– Tôi không hề len lách, tôi từng đứng ở đây nhiều năm rồi, – Nhài tức giận đáp lại.
– Nhưng mi cần phải hiểu rằng, ai là ngời có quyền được đứng lên hàng đầu – Hoạ sỹ giải thích
– Mi phải chịu hình phạt đứng cuối và muốn gì thì phải xin ta.
– Ngài nhầm rồi, thưa ngài, tôi sẽ không cầu xin ai hết – Nhài trả lời và vẫn đứng yên tại chỗ cũ.
Họa sỹ trò chuyện rất lâu với các chị Hoa Hồng. Các bà hoàng kiêu
hãnh này không chọn cho mình được một thứ màu nào cả! Họ muốn cả màu đỏ
thắm, màu vàng, màu hồng rồi màu da cam. Họ chỉ chê màu xanh lá thôi,
bởi đó là thứ màu quá xuềnh xoàng, quê kiểng. Ðể màu xanh lá không khỏi
uổng phí, hoạ sĩ bèn đem quét lên hoa Lu Ly và hoa Xa Cúc, mặc dù hai
loài hoa này rất mê màu đỏ thắm. Nhưng hoạ sĩ cứ khăng khăng rằng, với
các anh chị nhà quê này thì màu xanh lá là hợp hơn cả.
Hoa Anh Túc mỉm cười thật nhã nhặn với hoạ sĩ và hoạ sĩ đã phóng tay
phết màu thật dày lên người nó. Hoa Cẩm Chướng thì hết lời phỉnh nịnh
hoạ sĩ và nó đã được đền bù một cách xứng đáng. Hoạ sỹ lưu lại ở khu
vườn mấy hôm liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc
khác nhau.
Hoa Ngu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn. Khi được hỏi
thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: “Màu gì cũng được!”. Hoạ sỹ bèn
bôi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lòng không, nó chỉ nói: “Tôi biết,
tất cả các màu mực có sắc rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng thích
rực rỡ như nữ hoàng Hoa Hồng thì không còn ai nhận ra được vẻ đẹp riêng
của từng loài hoa nữa!”
Những nàng Păngxê bé xíu vây quanh hoạ sỹ và chào mời rất lịch thiệp.
Ðối với hoạ sỹ, chúng chẳng khác những đứa em gái bé bỏng, và chàng đã
dùng sắc màu biến chúng thành những bông hoa nho nhỏ vui nhộn.
Hoa Tử Ðinh Hương lại muốn trả ơn hoạ sỹ theo cách riêng của nó, nếu chàng không tiếc màu cho nó:
– Về mùa Xuân, chàng có thể bẻ cành của tôi và đem tặng người yêu của
mình được đấy. – Tử Ðinh Hương nói – Cành của tôi càng được bẻ nhiều
thì tôi càng khoe sắc lộng lẫy.
– Mi nói năng bất nhã lắm, vậy mi phải mang màu trắng, – hoạ sĩ giận
dỗi gạt Tử Ðinh Hương sang một bên. Nhưng rất may là nó đã được các chị
gái của mình ban tặng cho những thứ màu tuyệt vời.
Hoa Bồ Công Anh dâng lên hoạ sĩ một cốc Xmêtana (váng sữa).
Hoa Nhài chỉ biết tròn mắt nhìn hoạ sỹ chuyển giao cơ man nào là màu vàng, loại màu mà Nhài vốn yêu thích, cho Bồ Công Anh.
Trong lúc mải mê với màu vàng, hoạ sỹ bỗng sực nhớ tới Nhài, loại hoa đầu tiên mà chàng đã gặp.
– Thế nào cô bạn? Hoạ sĩ nhếch mép cười với Nhài – Thứ màu này còn ít lắm, nhưng nếu mi tỏ ra biết điều, ta sẽ cho tất.
– Ta không cần cầu xin. – Nhài đáp.
– Vậy là sao? – Thái độ bướng bỉnh của Nhài khiến hoạ sĩ bực mình –
Thôi được, nếu mi không dám nêu yêu cầu của mình thì mi hãy phục xuống
đất, cho dù phải chịu còng lưng.