Mai trắng, cõi về...!
Hoa mai trắng như tấm lòng thanh thoát
Tiếng chuông ngân giải toả chút lòng mê...
Thoắt đưa ta sớm tìm được nẻo về,
Tâm chánh niệm dẫn người tìm bờ Giác...!!
mai trắng xưa nay còn rơi lác đác,
Xuân dẫu tàn nhưng vẫn giữ sắc Xuân...
Mai đã rơi, đã nở biết bao lần ?!
Xuân Tâm ý , mãi hoài Xuân Chánh niệm !!
NM
Hoa mai trắng như tấm lòng thanh thoát
Tiếng chuông ngân giải toả chút lòng mê...
Thoắt đưa ta sớm tìm được nẻo về,
Tâm chánh niệm dẫn người tìm bờ Giác...!!
mai trắng xưa nay còn rơi lác đác,
Xuân dẫu tàn nhưng vẫn giữ sắc Xuân...
Mai đã rơi, đã nở biết bao lần ?!
Xuân Tâm ý , mãi hoài Xuân Chánh niệm !!
NM
Đồi hoa mai trắng
Ngôi
chùa còn chìm trong màn sương im lặng. Ánh trăng rằm tỏa sáng khắp núi
đồi. Sư chú Viên Thể thong thả đi từng bước lên gác chuông. Bóng chú đổ
dài trên từng bậc thang, cơn gió mát thổi nhẹ, phảng phất hương thơm từ
cánh đồi Mai làm chú cảm thấy khoan khoái, lâng lâng trong từng bước
chân theo hơi thở chánh niệm. Chú đứng im lặng trước đại hồng chung, thở
nhẹ ba hơi, ý thức đuợc sự có mặt của chuông, đưa hai tay kính cẩn nâng
vồ chuông lên ngang trán niệm:
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sinh tử
Giác ngộ tâm tư một hướng về.
Từng tiếng chuông thong thả nhẹ buông, rồi từ từ nhanh, dồn dập từng hồi, cuồn cuộn như sóng hải triều kêu mọi loài tỉnh thức.
Đại
chúng đã có mặt đầy đủ ngoài sân. Sau ba tiếng khánh của thầy Tri
Chung, mọi người đi thật nhanh trong im lặng. Ánh trăng văng vặc trên
sân gạch đỏ, in những chiếc bóng đổ dài đang chập chờn như từng đợt lá
cuốn khiến chú Viên Thể mỉm cười. Hôm nay trong lòng chú rộn ràng một
niềm vui.
Giờ ngồi thiền sáng nay chú thấy hạnh phúc. Trên bàn
thờ Phật hoa quả được chưng bày trang nghiêm đẹp mắt. Ngôi Tam Bảo rực
rỡ trong buổi sáng Rằm tháng Giêng.
Sư chú hôm nay có nhiệm vụ
trông nom chánh điện và vườn cây cảnh. Khách thập phương mặc quần áo đẹp
chỉnh tề đến mỗi lúc một đông. Mỗi người đều đốt một cây hương khiến
chánh điện và khuôn viên chùa ngào ngạt khói.
Sư chú Viên Thể đi
rút bớt chân hương từ các bát hương, rồi chú đi vòng quanh trong vườn
chùa để canh người hái lộc. Hái lộc đầu năm là một niềm vui của khách
thập phương, nhưng hành động thiếu ý thức ấy, gây thiệt hại lớn cho nhà
chùa.
Từ xa, dưới gốc cây cam, một thiếu nữ dáng mảnh mai đang
kiễng chân vin cành, hái một chùm hoa cam. Chú Viên Thể đi nhanh tới,
nhìn chùm hoa cam trên tay thiếu nữ mà nóng mắt. Chú chắp tay, định cự
nự thì ánh mắt ranh mãnh của thiếu nữ nhìn chú mỉm cười, làm cho chú
khựng lại, lúng túng.
- Xin chú cho Thơ Thơ cành hoa cam này để
biếu mẹ đầu năm cúng Phật. Mẹ Thơ Thơ đang bị bịnh nặng ở nhà. Mẹ rất
thích hoa cam. Chú vui lòng, chú nhé.
Lời nói nhẹ như tơ phát ra
từ đôi môi xinh xắn đỏ hồng của cô thiếu nữ khiến sư chú thấy lòng dịu
lại, hai tai chú nóng ran, tim chú đập nhanh, chú không có phản ứng gì
khác là đứng chết trân, một lúc sau chú mới lấy lại bình tĩnh, nói nhỏ
nhẹ:
- Lần sau cô muốn hái hoa, phải xin phép thầy Tri Viên. Cô tự ý hái như vậy, cô sẽ bị phạt tiền, còn tôi thì bị phạt quì hương.
Ồ, Thơ Thơ không biết, xin lỗi sư chú. Để Thơ thơ tìm thầy Tri Viên, xin thầy đừng bắt phạt sư chú nữa.
- Thôi, lần này lỡ rồi, thầy Tri Viên đang bận. Mà mẹ cô đau bệnh gì, có nặng không?
- Mẹ em đau đầu cả mấy tháng nay. Cứ ngửi mùi hoa cam là mẹ thấy dễ chịu.
- Nhà cô có ở gần đây không, ở trên núi có thứ lá uống vào là hết nhức đầu, để bữa nào tôi đi hái đem biếu bà một
ít.
- Nhà em cách đây năm ấp, sư chú đến Thôn Đoài, hỏi nhà Thơ Thơ là ai cũng biết.
Thấy hai sư huynh từ đằng xa đang đi tới, chú Viên Thể chắp tay xá chào Thơ Thơ rồi tiếp tục đi kiểm tra vườn cây cảnh.
Mấy
hôm nay sư chú cảm thấy lâng lâng. Hình ảnh cô gái xinh đẹp dưới gốc
cây cam cứ lăng xăng trong đầu chú. Chú thương mến cô là người con hiếu
thảo, rồi chú lại thấy tội nghiệp cô có bà mẹ đang bị bịnh. Chú trở nên
thẫn thờ, đi, đứng, làm việc thiếu chánh niệm khiến mọi người không vui,
nên chú hay bị nhắc nhở, la rầy.
Chú cảm thấy đơn độc, không ai thương chú cả. Chú sống khép kín như một hải đảo với riêng hình bóng Thơ Thơ.
Nỗi
nhớ càng tăng thì chánh niệm vắng bóng, chú trở nên lười biếng công
phu, chấp tác. Chú thấy đời sống trong chùa trở nên vô nghĩa.
Chú
muốn vào đời làm một hiệp sĩ, giúp đỡ những người hoạn nạn khó khăn,
nhất là Thơ Thơ, mẹ nàng đang bệnh, mẹ con nàng đang cần sự giúp đỡ của
chú.
Ý tưởng hiệp sĩ như là một chính nghĩa bùng vỡ trong chú,
thúc đẩy chú phải rời bỏ mái chùa thân yêu mà mười chín năm nay vị thầy
nhân đức và Tăng chúng thương yêu, đùm bọc chú từ khi còn là một đứa bé
bơ vơ ngoài chợ.
Khăn gói lên đường với hai bàn tay trắng, chú
bỏ trốn thầy, ra đi tìm Thơ Thơ. Lần theo con đường, đi hết ấp này sang
ấp khác, chú đã tim thấy nhà nàng. Khác với trí tưởng, nhà nàng chỉ là
mái tranh đơn sơ, thì hiện tại trước mặt chú là ngôi biệt thự sang
trọng, kín cổng cao tường. Viên Thể đang đứng tần ngần thì bóng nàng
xuất hiện. Nàng đẹp như một tiên nữ, nhìn chú nhoẻn miệng cười. Chú đứng
lặng thinh, không mở miệng nói thành lời. Nàng mở cổng. Chú bị sức hút
lôi cuốn đi vào trong, như người mất hồn.
Nàng mời chú ngồi, rót
nước mời chú uống rồi bắt đầu hỏi chuyện. Chính nghĩa lúc trốn thầy ra
đi để làm hiệp sĩ cứu giúp nàng tan biến trong đầu. Bây giờ thì chú mới
thấy mình sai, nhưng đã muộn rồi. Chú trốn ra đi viết cho thầy những lời
khí phách, nhưng chính sắc đẹp quyến rũ của Thơ Thơ biện hộ cho hành
động lỡ lầm của chú.
- Gió nào đưa sư chú đến nhà Thơ Thơ vậy?
Nàng nhìn chú tinh nghịch hỏi.
Chú ấp úng chưa biết trả lời sao thì ba Thơ Thơ bước vào nhà.
- Thưa ba, đây là sư chú chùa Thiên Vân trên núi Bửu Long. Hôm rằm thàng Giêng con lên chùa, xin sư chú nắm hoa cam cho mẹ.
Ông
Hội Đồng rất thương vợ và con gái. Ông làm việc bận rộn và mải mê kiếm
tiền cũng chỉ vì ông muốn cho bà Hội Đồng và ThơThơ được sung sướng mà
thôi. Nay thấy con gái quí mến sư chú, ông cũng quí mến lây. Ông tươi
cười chào sư chú, ngồi xuống hỏi chuyện. Chú Viên Thể thấy mình rơi vào
cảnh chẳng đặn đừng nên đành phải nói dối. Chú nhỏ nhẹ thưa rằng nhà chú
rất nghèo, mẹ chú bị đau nặng, chỉ có mình chú là con nên chú đành phải
vì chữ hiếu mà về lo phụng dưỡng mẹ, chú cần có một việc làm, để có
tiền lo thuốc thang cho mẹ.
Cảm động trước tầm lòng hiếu thảo
của chú, ông giúp cho chú công việc trông nom vườn cây cảnh. Chú nhìn
Thơ Thơ bằng đôi mắt thương yêu và biết ơn.
Chú Viên Thể có diện
mạo khá đẹp trai, thân hình dong dỏng cao, dáng đi đứng, nói năng dịu
dàng. Chú ít nói, trầm tĩnh, nhưng mỗi khi chú nói đều biểu lộ sự chín
chắn, lễ độ. Nhà ông Hội đồng có nhiều người giúp việc, họ thường tỏ ra
sợ sệt khi gặp ông Hội Đồng và tiểu thư Thơ Thơ.
Nhưng khi vắng mặt chủ, họ thường bông đùa hóm hỉnh.
Họ thấy chú mới đến mà được ông chủ và tiểu thơ quí mến, ưu đãi nên tỏ ra ganh tị, qua những lời nói và nụ cười châm biếm:
Bác Tám tài xế cười hô hố:
-
Chà, coi bộ chú em siêng năng dữ à, suốt ngày ở ngoài vườn, hết cuốc
đất lại trồng cây, vườn xanh tốt hẳn ra. Chả trách ông chủ và tiểu thơ
có vẻ đặc biệt với chú em. Ráng nữa đi, ổng thương, sẽ nhận làm con rể
đó.
Chị Xuân nhà bếp cuời, tiếp lời:
- Coi bộ cũng hơi
khó đấy. Nhìn chú em còn dáng điệu thầy chùa lắm. Đã vào tới nhà quan
rồi mà vẫn còn mặc áo nhật bình, ăn chay. Sáng thì thức thật sớm ngồi
thiền, tối thì thức thật khuya tụng kinh, thiền tọa. Còn bụng dạ nào mà
làm rễ nữa.
Bác quản gia cười hóm hỉnh:
- Thầy chùa thì cũng có trái tim như người ta chứ, nhất là trước sắc đẹp kiều diễm của tiểu thư, phải không chú em?
Trước
những lời nói bông đùa đó, chú không tỏ vẻ giận, cũng không hùa theo
tán đồng câu chuyện, chỉ im lặng mỉm cười. Chú luôn quan tâm, giúp đỡ
khi có người nhờ đến.
Thái độ hiền lành của chú dần dần được mọi
người quí mến, tin tưởng. Khi gặp chuyện buồn, họ hay tìm đến chú tâm
sự, có khi kể lể, trách móc người này, phê phán người kia. Chú chỉ im
lặng ngồi nghe để chia sẻ nỗi buồn giận đang đốt cháy tâm can họ mà
không hùa theo, đôi khi pha trò cho họ cười, xua tan bầu không khí u ám
trong đôi mắt họ. Chú có lòng thương người và hào hiệp khi có chuyện
nguy hiểm xảy đến. Có một lần khu nhà lá trong huyện cháy. Chú có mặt và
tỏ ra tháo vát nhanh nhẹn tìm phương cách dập tắt ngọn lửa.
Bỗng
có người đàn bà hốt hoảng chạy từ xa đến, kêu gào đứa con nhỏ đang bị
kẹt trong nhà đang cháy bị khóa cửa khi bà đi chợ. Chú Viên Thể dùng
toàn lực lao tới, đá tung hai cánh cửa.
Chú nhanh nhẹn bồng đứa bé chạy ra. Rất may là cả chú và đứa bé chị bị phỏng sơ sơ.
Sau
vụ đám cháy đó mọi người trong huyện đều biết đến tên chú qua hành động
can đảm, nghĩa hiệp. Chú được quan Tri Huyện ban giấy khen và tặng
phẩm, tiền bạc. Chú đem số tiền thưởng giúp đỡ các gia đình nạn nhân
nghèo bị hỏa hoạn. Tiếng lành đồn xa, nhiều cô thiếu nữ trong huyện
ngưỡng mộ và thầm thương chú.
Gia đình ông Hội Đồng càng thương
chú hơn. Ông giao cho chú công việc quản gia thay thế bác Tư đã lớn
tuổi. Còn Thơ Thơ thì luôn tìm cách để được gần gũi, chuyện trò với chú.
Nàng hay nhõng nhẽo, đòi chú làm diều cho nàng thả, thổi sáo cho nàng
nghe, dẫn nàng vào rừng để tìm hoa quí. Đi bên cạnh chú, nàng ngây thơ
như con nai nhỏ, hồn nhiên chạy đuổi theo đàn bướm lượn, cười tươi như
những đóa hoa đang chúm chím trên cánh rừng xanh biếc. Niềm hạnh phúc
trào dâng trong trái tim chú, chú thầm cám ơn Trời Phật đã ban cho chú
tặng phẩm quí giá nhất là tình yêu thương của nàng. Chú nhìn nàng với
ánh mắt tôn kính như nhìn một thánh thể, chú không khởi lên một ý tưởng
vẩn đục khi ngắm dung nhan nàng. Chú thương yêu nàng như hình bóng người
mẹ mà chú vẫn đi tìm trong ký ức tuổi thơ.
Ông bà Hội Đồng thấy
con gái quấn quít chú Viên Thể thì bắt đầu e ngại . Ông đã hứa gả Thơ
Thơ cho Minh, con trai ông Tuần Phủ, đang du học ở Pháp, cuối năm Minh
về hai họ sẽ tiến hành lễ thành hôn. Ông bàn với vợ nên đem Thơ Thơ về
quê ngoại một thời gian, còn ở đây ông tìm cách đổi chú Viên Thể nhận
việc ở đồn điền cà phê trên Ban Mê Thuột.
Tình cờ chú nghe được
câu chuyện bàn tính giữa hai người. Chú lặng lẽ ra ngoài vườn. Vầng
trăng mười sáu tỏa sáng trên cao như soi rõ tâm tư đang quặn đau, vò nát
trái tim tràn đầy tình yêu thương của chú. Hình ảnh Thơ Thơ tung tăng
chạy nhảy trong trò chơi đuổi bắt dưới ánh trăng, nàng nhanh như con
sóc, như chiếc lá cuốn tròn trong gió, mắt chú bị bịt kín, quờ quạng tìm
nàng theo tiếng cười khúc khích mà không tài nào bắt đựơc, đang hiện
rõ, cuồn cuộn như cơn gió lốc trong trái tim thổn thức của chú. Hai chân
chú nặng trĩu không nhấc nổi. Chú ngồi bệt xuống sân cỏ, hai tay ôm đầu
nhức nhối, nước mắt ràn rụa. Chợt chú nhớ đến lời thầy dạy:
-
Con hãy đóng hết các cửa lại khi nhà con bị giông bão tràn vào, hãy thắp
ngọn đèn chánh niệm, con sẽ tìm thấy sự bình an và cách sáng suốt giải
quyết vấn đề.
Chú ngồi kiết già, nhắm mắt theo dõi hơi thở vào
ra. Chỉ chừng mười hơi thở đều trong chánh niệm, chú đã tìm lại sự bình
tĩnh. Tất cả hình ảnh dĩ vãng, như cuốn phim, lần lượt hiện rõ trong trí
nhớ của chú.
Theo lời các sư huynh kể lại: Trên đường chạy
loạn, thầy đã tìm thấy chú nằm thoi thóp bên cạnh người đàn bà đã chết
cứng. Thầy thấy thương tâm quá, bồng chú về nuôi. Vì đang chạy loạn, chú
lại rất yếu, thầy nuôi chú thật vất vả. Thầy phải đi xin từng miếng cơm
trắng, nhai thật kỹ rồi từ từ mớm cho chú.
Mọi người nhìn cái
cảnh thầy tu nuôi con mọn, họ vừa thương hại, vừa nghĩ xấu cho thầy.
Nhưng thầy đã vì từ tâm, bỏ ngoài tai những dư luận thị phi. Thầy thường
dậy các sư huynh:
Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người
Khi trở lại chùa thầy giao chú cho dì Tư làm công quả trông nom.
Chú
được mọi người thương yêu, dậy chú học chữ Hán và chữ quốc ngữ khi mới
sáu tuổi. Chú rất sáng dạ, mau hiểu, mau thuộc bài. Chú thuộc chú Lăng
Nghiêm khi lên bảy tuổi. Và hầu hết các kinh công phu hàng ngày chú đều
thuộc lòng. Chú thỉnh chuông tiếng rất trong và hùng. Mọi người cảm thấy
an lạc khi nghe tiếng đại hồng chung ngân vang vào buổi sớm mai. Chú có
giọng xướng, tụng kinh rất hay khiến mọi người ưa thích chú.
Thầy
thương yêu chú, nhưng bản tính trầm mặc, thầy ít khi biểu lộ tình cảm.
Chú sống hạnh phúc, bình an. Nhưng, đột nhiên Thơ Thơ xuất hiện, như
nàng tiên ma quái, đã lôi kéo chú ra khỏi mái chùa với bao tình thương
của thầy và các huynh đệ. Vọng tưởng lại tiếp tục đưa chú vào chân trời
đầy hoa bướm, chú gặp hình ảnh người mẹ đã gục chết bên lề đường, mẹ chú
mặc áo dài trắng, quàng khăn voan trắng, đẹp như nàng tiên, dắt tay chú
chạy nhảy tung tăng trong rừng hoa sim tím. Mẹ hái cho chú một bông,
chú đưa tay cầm, thì lạ thay, tay mẹ biến thành tay Thơ Thơ. Cành hoa cứ
giơ lên cao, lên cao khiến chú không thể nào với bắt được. Mắt chú đột
nhiên bị bịt kín lại, chú nghe tiếng cười Thơ Thơ trong vắt như thủy
tinh, vỡ rời từng mảnh vụn. Chú đuổi bắt nàng vòng quanh, vấp vào tảng
đá khiến chú ngã gục, mê man. Khi chú tỉnh dậy, chú thấy mình nằm trong
chùa, chung quanh giường là thầy và huynh đệ đang chăm sóc chú. Hai dòng
nước mắt lăn dài trên má, chú bật khóc, gọi: thầy ơi !
Cơn gió
mạnh làm chú sực tỉnh. Ánh trăng khuya vẫn treo lơ lửng trên cao, sáng
rọi khuôn mặt chú. Chú cảm thấy nhẹ nhõm, như vừa thoát qua cơn ác mộng.
Chú lặng lẽ bước vào trong phòng, thu xếp vài bộ quần áo thầy tu, viết
cho ông bà Hội Đồng và Thơ Thơ vài dòng cảm tạ, để hết lại số tiền, nhờ
nàng đem giúp người nghèo khổ. Chú thong thả bước ra khỏi căn nhà đã hơn
một năm ru chú vào cơn huyễn mộng.
Chú về tới chùa thì trời đã nhá nhem tối. Cảnh vật quen thuộc êm đềm đã cho chú một cảm giác ấm áp.
Tiếng
mõ hòa với tiếng tụng kinh công phu tối của thầy và huynh đệ đệ làm tim
chú bồi hồi xúc động, hai giọt nước mắt lăn dài trên má, chú rón rén
bước vào chánh điện, quì phủ phục xuống. Chú lạy như thế rất lâu. Tiếng
tụng kinh trầm ấm của thầy và các huynh đệ như dòng suối ngọt ngào tuôn
chảy trong tâm thức chú, ru chú vào giấc ngủ êm đềm sau một ngày đói,
mệt.
Chú tỉnh giấc khí ánh nắng ban mai ùa vào song cửa, tiếng
chim hót líu lo trong cây mận trưóc sân. Chú dụi mắt nhìn lại cảnh vật
thân quen mà ngỡ như là giấc mơ. Thầy bước nhẹ đến bên giường, đưa tay
sờ lên trán chú, dịu dàng nói:
- Con còn mệt, con cứ nằm nghỉ ngơi cho khoẻ.
Chú ngồi dậy, sụp lạy dưới chân thầy.
Nước mắt tuôn trào niềm hối hận, chú không nói lên lời.
Thầy vỗ tay nhè nhẹ lên đầu chú, nói ngọt ngào:
Con vừa trải qua một tai nạn, nhưng rất may là nhờ hồng phúc, con đã tỉnh ngộ mà quay trở về.
Chú nghẹn ngào:
-
Con cúi xin thầy tha tội cho con. Con đã phạm lỗi lầm lớn làm cho thầy
và các huynh đệ buồn và lo lắng cho con. Con đã làm cho cả chùa mất
thanh tịnh vì sự mù quáng của con.
Thầy nâng cầm chú lên, tỏa cái nhìn từ ái vào đôi mắt chú, chậm rãi nói:
Phàm
làm người thì ít khi tránh khỏi lỗi lầm. Nhưng cái quan trọng là biết
nhận ra sai lầm rồi quyết tâm sám hối, đó mới là cái quí giá. Thầy và
các huynh đệ rất lo ngại cho con, vẫn thường theo dõi tin tức về con,
thầy yên tâm khi thấy con vẫn giữ được bồ đề tâm, sống giữa sắc giới mà
không bị nhiễm ô. Thầy tin chắc là con trở về, đã may cho con chiếc y,
đợi con về thọ giới Tỳ Kheo trong lễ đàn được tổ chức sau Mùa An Cư.
Trong
buổi lễ sám hối, sư chú Viên Thể đã quì lạy trước đại chúng xin ăn năn
sám hối về lỗi lầm chú đã gây ra. Toàn đại chúng hoan hỷ khi thấy Viên
Thể trở về. Mọi người chăm sóc thương yêu chú hơn xưa. Chú tìm lại tình
thương yêu cao đẹp thuần khiết nơi các huynh đệ. Chú cố gắng tu học,
công phu chấp tác, trau dồi đạo hạnh để chuộc lại lỗi lầm.
Thời
gian thấm thoắt trôi nhanh. Bây giờ sư chú Viên Thể đã trở thành một
thượng tọa giảng sư đạo hạnh nổi tiếng. Thầy đã cùng Tăng chúng mở những
khoa tu ở chùa cho các Phật tử gần xa đến tu học, giúp họ chuyển hoá
những khổ đau, tạo được lại đời sống bình an, hướng về nẻo thiện. Nhiều
chùa ở các tỉnh xa mời thầy đến giảng pháp và tổ chức ngày tu chánh niệm
cho Tăng Ni và Phật tử. Thầy không quản ngại đường xa vất vả, vui vẻ
nhận lời, cùng đi với các huynh đệ.
Trong một chuyến đi hoằng
hóa chánh pháp, thầy đã viếng thăm một thiền viện trên núi Yên Sơn.
Những ngọn núi đá nối tiếp nhau, nhấp nhô như con rồng lượn. Đường lên
núi quanh co, cao dốc. Những thác nước ào ào tuôn chảy tung bọt trắng
xóa giữa bầu trời cao rộng, tạo nên khung cảnh hùng tráng.
Mái
tam quan hiện ra giữa hai hàng thông xanh biếc, vẻ trang nhã, u tịch.
Thầy bước vào sân chùa cùng với phái đoàn, có hai sư cô kính cẩn chắp
tay xá, mời mọi người vào trai đường. Sau khi mời khách uống trà, hai sư
cô lui vào. Lát sau, vị Ni sư buớc ra, dáng dấp thanh tao, nét mặt tuy
lớn tuổi nhưng vẫn còn nguyên vẻ đẹp đạo hạnh. Ni sư chắp tay cúi đầu
xuống thấp xá chào. Thầy Viên Thể đứng dậy chắp tay xá chào lại. Cả hai
người cùng ngẩng đầu lên, bốn măt nhìn nhau. Thầy ngỡ ngàng như trong
cơn mơ. Ni Sư đứng trước mặt thầy là Thơ Thơ ngày trước. Ni sư cũng
không kém sững sờ. Cả hai đều bối rối. Thầy lấy lại bình tĩnh, hỏi thăm
Ni sư về sự tu học và sinh hoạt của Ni chúng. Ni sư cho biết thiền viện
này do Ni trưởng Huệ Nghiêm thành lập để dành cho ni chúng chuyên tu.
Các sư cô lên đây học giáo lý, văn hóa và tịnh tu năm năm. Sau khóa thi
tốt nghiệp, đạt được cả bốn mặt Giới, Hạnh, Văn hóa và Phật Pháp thì sẽ
đựơc là một vị nữ tu tài đức song toàn.
Sư cô đã phụ trách những
lớp dậy Phật Pháp cho Ni chúng trong Viện và sinh hoạt thanh thiếu
niên, hướng dẫn các em có một lý tưởng sống cao đẹp, hiếu thảo với mẹ
cha, thương yêu gia đình, giúp đỡ mọi người, đem tài đức ra phụng sự cho
quê hương và nhân loại... có một lý tưởng sống cao đẹp, hiếu thảo với
mẹ cha, thương yêu gia đình, giúp đỡ mọi người, đem tài đức ra phụng sự
cho quê hương và nhân loại...
Sau thời gian dài sinh hoạt ở Ni
viện Diệu Nghiêm, sư cô Liễu Nghiêm thấy cần được tịnh tu và nghiên cứu
thêm giáo điển. Ni Trưởng đã đề cử sư cô Liễu Nghiêm lên làm Trụ trì
thiền viện Thiều Quang trên núi Yên Sơn để hướng dẫn ni chúng tu học.
Nhìn
nét thanh thoát của Ni sư Liễu Nghiêm, thầy thấy trào dâng niềm vui. Ni
sư dẫn thầy cùng phái đoàn đi thăm thiền viện. Thời khóa chính là ba
buổi công phu, thiền tọa, thiền hành. Ngoài giờ học Phật Pháp, các sư cô
còn được dạy may, thêu, nấu ăn, cắm hoa, học đàn, học hát trong các
buổi sinh hoạt của Ni chúng. Cách trang trí tu viện đơn giản, đậm màu
thiền. Mọi thứ đều ngăn nắp, qui củ. Ni chúng dáng dấp thanh thản, dịu
dàng, nét mặt toát lên vẻ an lạc, đầy tình thương. Thầy và phái đoàn ngỏ
lời khen và tỏ lòng ngưỡng mộ công hạnh của Ni sư trụ trì và sự tu học
nghiêm mật của Ni chúng.
Mùa Xuân lại về trên khắp quê hương.
Chùa Thiên Vân đã được trùng tu lại theo kiến trúc truyền thống chùa cổ
Việt Nam. Vườn chùa được sửa sang qui hoạch lại thành khung cảnh thanh
nhã, thoáng mát. Theo con đường dốc thoai thoải lên đồi Mai, tịnh thất
của Sư ông được làm bằng ván gỗ, kiến trúc đơn giản nhưng rất đẹp. Sư
Ông năm nay đã ngoài tám mươi, ngài nhập thất chuyên tu và dịch kinh
sách, mọi việc trong chùa được giao cho Tăng chúng quản lý.
Thượng
tọa Viên Thể được Tăng thân tôn cử là trụ trì, cùng năm vị lớn khác
thay nhau những chức vụ điều hành Tăng chúng. Bao năm tu học dưới sự dạy
dỗ của Sư ông, các vị thầy lớn đều sống trong tinh thần lục hoà, đạo
hạnh khiêm cung, nghiêm mật tu tập, dậy dỗ chúng Tăng giữ gìn giới luật,
oai nghi nghiêm túc, tạo nên một Tăng Thân có uy đức, mang lại hạnh
phúc cho Sư ông và Tăng thân, làm nơi nương tựa vững chãi cho đồng bào
Phật tử.
Trăng rằm tháng giêng tròn như một khối pha lê vàng
óng, tỏa ánh sáng dịu dàng trên đồi hoa Mai trắng, hương thơm mát dịu
làm thanh thoát lòng người. Dưới ánh trăng, Sư ông và các thầy cùng nhấp
ly trà thơm, hương trà nhẹ bốc thành làn khói mong manh, Sư ông nhìn
thầy Viên Thể và các vị đệ tử thật sâu, thong thả nói:
- Này các
con, mặt trăng kia có lúc tròn lúc khuyết, nhưng thể tánh của trăng thì
luôn trong sáng. Đám mây đen chỉ che khuất ánh sáng tỏa xuống thế gian,
chứ không làm cho vầng trăng tối đen như mực được. Con người cũng vậy,
nếu không biết tu, để cho vọng tưởng, vô minh che khuất, tham đắm, sân
hận, si mê tràn ngập tâm trí, tự mình dìm thân tâm trong ngục phiền não,
làm khổ đau cho bản thân và những người chung quanh. Đại nguyện của
người xuất gia là đạt quả vị giải thoát, bồ đề tâm sáng rỡ mãi như vầng
trăng, thoát ra ngoài phiền não, ô trược của kiếp nguời, mang cái bản
tâm thanh tịnh ấy để độ đời, cứu giúp muôn vạn sinh linh.
Muốn
thực hiện ý chí độ đời một cách viên mãn, các con phải biết nương tựa
vào nhau, sống hoà hợp trong một Tăng đoàn, sát cánh bên nhau cùng chung
Phật sự, đó là cách các con trả hiếu cho chư Tổ và thầy. Thầy biết
chẳng còn tại thế với các con được bao lâu, chỉ có bấy nhiêu lời cuốì
cùng dậy bảo các con. Thầy rất vui khi thấy các con thầy, người nào cũng
đạo hạnh, tài giỏi.
Các con nhìn kìa, rừng mai nở trắng cả khu đồi, rồi Sư ông cất tiếng sang sảng ngâm:
Xuân đi hoa rụng hết
Xuân đến, nở trăm hoa
Trước mắt, đời chuyển biến
Đầu xanh tuyết điểm pha
Đừng nghĩ:
Xuân tàn hoa rụng cả.
Bên thềm, mai nở trắng đêm qua*
Chân Y Nghiêm
Duyên mai....
Thân hàn sĩ trót đang thời vị ngộ,
Khéo đa đoan vướng bận chút hương tình....
Nào dám mơ duyên kiếp nợ ba sinh ?
Sao lòng vẫn vương mang tình tri ngộ !!
Trách con tạo lá lay luôn thách đố,
Khách anh hùng đâu dễ sánh thuyền quyên....?
Luôn ước mơ gặp lại mối lương duyên,
Được thoả nguyện đáp đền ân tình cũ !!
Vườn mai trắng bao lần hoa nở rộ....
Hương xa bay duyên khéo hội ngộ đây ?Hoa dẫu còn mà sắc đã tàn phai,
Thoắt gặp lại tưởng chừng quên nhau hẳn ?!
Cành mai trắng khiến tình thôi quên lãng,
Quá khứ xưa nay lại hiển hiện về...
"Hàn mai tuyết diễn" đã thoát cơn mê,
Nay gắn kết cho mối tình chung thuỷ !!
NM
Hoa mai nở rộ
Bấy giờ là tiết hoa mai nở rộ
Chưa
đến Tết, khí hậu ở biên giới phía Bắc đã lạnh và rất hanh heo nhưng hoa
mai thì bất chấp tất cả cứ đến kỳ là nở. Mai trắng như tuyết, mai đỏ
thì tựa ráng chiều, từng cây từng lùm thấp thoáng trong khe, trên sườn
núi, dọc theo bờ suối và nhiều nhất là trong các vườn, nhất là vào tháng
Chạp sau độ tuyết đầu mùa, hoa mai càng rực rỡ. Hoa đỏ in trên tuyết
trắng mới lộng lẫy làm sao! Tất cả các con cái nhà quan nhà quí, trong
thành hầu như đều thấy phấn khích, thế là đã đến mùa được đi "đạp tuyết
ngắm mai" rồị
Chùa Nhàn Vân nằm ở ngoại ô
phía Tây Thành, tuy chỉ là nơi ở của nhà tu hành, nhưng vì hoa mai mà
trở nên nổi tiếng. Trong vườn nhà chùa toàn là hoa mai, đâu đâu cũng ẩn
hiện toàn màu hoa trắng hoa đỏ. Mỗi bận đến tiết mai nở rộ hương bay xa
hàng mươi dặm, người du ngoạn đến như nước chảỵ Rất nhiều tiểu thư khuê
các ngày thường không dễ ra khỏi được khuê phòng, chỉ thỉnh thoảng lấy
cớ lên chùa thắp hương mới được ra ngoài dạo chân một chuyến, năm nào họ
cũng dạo đến chùa Nhàn Vân nàỵ Lại càng rất nhiều niên thiếu con em các
nhà giàu lắm tiền bạc, lấy dịp này làm cơ hội đi săn sắc đẹp, ngày ngày
lượn lờ đến chốn này kiếm tìm "kỳ tích". Vì vậy tiết hoa mai rộ thế này
cũng là thời gian thịnh nhất về hương hỏa của chùa Nhàn Vân.
Chùa
Nhàn Vân náo nhiệt hẳn lên, chủ trì chùa là Đại pháp sư Tịnh Tu cùng
các chú tiểu tới tấp chạy ra chạy vào đón tiếp các "quí khách" Vậy thì
Tịnh Tu pháp sư còn làm sao mà "tịnh" mà "tu" được đâỷ Đây là một vấn đề
khá có triết lý đấy! Hà Mộng Bạch người đang tá túc tại chùa Nhàn Vân
đã từng cười mà hỏi Tịnh Tu pháp sư câu hỏi nàỵ Pháp sư cũng mỉm cười mà
trả lời:
- "Tịnh" là ở trong hồn, "tu" là tại tâm, chứ còn cái thân xác mọn này chỉ là "thai phàm" mà thôi!
Quả thật mà không cần phải ăn đến khói lửa của nhân gian thì trên đời này có được mấy người đâỷ
Mộng
Bạch đã từng suy nghĩ rất nghiêm túc về mấy câu nói đó của vị hòa
thượng già, mới nghe thì cảm thấy có vẻ hơi “tự biện bạch" nhưng nghĩ kỹ
thì lại thấy có ý vị sâu xa riêng. Mộng Bạch không thể không bái phục
vị pháp sư già đó. Nhớ lại là mình đã tá túc ở chùa này gần một năm rồi,
đã nhiều phen đàm luận chuyện cổ kim với pháp sư, Mộng Bạch thấy rất
khâm phục học vấn và tấm lòng rộng rãi của nhà tu hành nàỵ Chàng không
bao giờ quên cái đêm mùa đông năm ngoái, khi đi tìm người thân mà không
gặp, trong mình lại chẳng có một đồng tiền bát gạo, lưu lạc đến đây, đói
rét khổ sở ngã trước cửa chùa và được hòa thượng cưu mang giúp đỡ.
- Tiểu thí chủ, người định đi đâu nữả
- Con là một tú tài, vốn định đi tìm họ hàng thân thích, vay chút tiền ăn đường để về kinh đô ứng thí.
- Cha mẹ người đâủ
- Thưa, đều tạ thế rồi, gia đạo suy vi, mới đi tìm họ hàng để nhờ giúp đỡ.
- Người biết những môn gì.
- Thưa: cầm, kỳ, thi, thư, họạ
Vị hòa thượng già cười:
- Tiểu thí chủ ơi, biết năm môn đó, không phải là người, mà là thần đấy!
Mộng Bạch ngạc nhiên và giật mình.
- Thế bây giờ người định làm gì? - Vị hòa thượng tiếp tục hỏị
- Con cũng không biết nữạ
-
Ta biết - Pháp sư Tịnh Tu gật gật đầu - Con đã mệt rồi, đã đi cả một
chặng đường dài, con cần phải nghỉ ngơi, mà chùa Nhàn Vân là nơi nghỉ
ngơi tốt nhất, con hãy ở lại đây, đến mai ta sẽ cùng với con xem xét
những thứ mà con đã biết kiạ
Và thế là,
Mộng Bạch đã ở lại chùa Nhàn Vân ngay từ ngày hôm sau, khi hòa thượng
bắt đầu luận bàn về thi thư với chàng, thì chàng mới sợ hãi nhận ra rằng
mình thật là quá nhạt nhẽo và ngô nghê! chàng không còn dám nói là mình
“biết" cái gì nữa cả, chàng chỉ có phận “học" mà thôị Mười ngày sau
chàng thành tâm nói với pháp sư Tịnh Tụ
-
Con thấy rằng con không nên đi ứng thí để cầu công danh nữa, dứt khoát
con muốn ở đây, xuống tóc đi tu, xin hòa thượng nhận con làm đồ đệ.
-
Con ấy ử - hòa thượng cười tủm tỉm và lắc đầụ - Trần duyên của con còn
không vào cửa Phật được đâu, hơn nữa xuống tóc hay không thì cũng chỉ là
hình thức mà thôị Con còn quá trẻ con đường trước mắt còn dài lắm! con
phải đi con đường riêng của con. Con nên biết, những người vào cửa của
ta là có hai loại: một là những kẻ ngốc nghếch không hiểu biết một chút
gì, loại kia là những con người siêu phàm thoát tục. còn con? con không
thuộc loại nào trong đó cả.
- Thế thầy thuộc loại nàỏ - Mộng Bạch hỏi lạị
Hòa thượng già trầm tư giây lát.
- Ta ử - hòa thượng chậm rãi trả lời - ta nửa thuộc loại này, nửa thuộc loại kiạ
Mộng
Bạch không truy hỏi thêm nữa, chừng như chàng đã hơi hiểu ra, lại chừng
như chưa hiểu một tí nàọ Nhưng chàng có biết hay không, có hiểu rõ
không, đều không can hệ gì, Tịnh Tu vẫn là một ông già lạ lùng độc đáo
mà chàng hằng thán phục, hâm mộ; trái lại ông già đó cũng rất thú vị với
chàng. Thế là chàng đã ở được một năm trong chùa Nhàn Vân.
Trong
một năm đó, Tịnh Tu đã không phải nuôi không chàng một ngày ba bữạ ông
già đã nhanh chóng phát hiện ra, quả thật tài thư họa của chàng rất phi
phàm; nên nhân việc quen biết rộng rãi, ông đã giúp Mộng Bạch bán tranh
để kiếm sống, lại còn khuyên chàng dành dụm lấy một khoản tiền để tiếp
tục lên kinh đô dự thị Nhưng mà, Mộng Bạch rốt cuộc chỉ là một thư sinh
trẻ tuổi đang lưu lạc, ai đã chịu bỏ nhiều tiền ra để mua chữ mua tranh
của một gã vô danh tiểu tốt? Mỗi ngày có giỏi, cũng chẳng qua kiếm được
năm ba đồng bạc đủ cho chàng nuôi miệng mà thôị Còn may là chính chàng
không hề vội vã. Sống ở chùa Nhàn Vân, chàng cũng sinh ra tâm trạng
“Nhàn Vân dã hạc" thích tiêu dao ngày tháng. chỉ phải đến độ hoa mai nở
rộ, du khách hàng đàn, nhìn thấy mọi người dắt díu bồng bế con cái đến
chùa, chàng mới bắt đầu cảm thấy quạnh hiu buồn bã, lòng rưng rưng một
mối sầu quệ Đó có thể chính là lý do mà pháp sư Tịnh Tu đã từng nói,
rằng chàng không thể nhập “cửa không đầu Phật" đây chăng? tình cảm của
chàng quá phong phú, tâm linh chàng quá yếu đuối, tâm trạng u uất, tự
buồn tự tủi rất dễ dàng xâm chiếm con người chàng.
Hôm
đó, cả một ngày tâm thần chàng cứ xốn xang thảng thốt, sách không đọc
nổi, viết không thành văn, vẽ không ra tranh. Sau bữa cơm trưa, hòa
thượng bảo với chàng rằng có nhà vọng tộc họ Giang ở trong thành sắp đến
dâng hương, vì nhà có cô con gái nên chàng phải tránh đi một lát. Chàng
bèn đi ra phía sau chùa, ở đó có một khe nước nhỏ, trên mặt khe có
chiếc cầu gỗ cong cong, hai bên bờ khe đâu cũng có hoa mai nở, hương
thơm ngan ngát, hoa rụng lấm tấm như thêu trên mặt đất. Chàng ngồi xuống
một gốc mai ở đầu cầu, tay cầm một cuốn sách nhưng mắt lại đăm đăm nhìn
mặt nước dưới khe đã hơi hơi đông kết sắp thành băng, đầu óc chàng dần
dần tản mạn đi, mặt mũi trở nên bần thần.
Tiết
trời rất lạnh, ở đây lại lộng gió, vì là phía sau chùa nên du khách
không đi tới, bốn bề lặng ngắt; chàng khoác một tấm áo lông rách, không
chịu được rét, phải ngồi co ro dưới gốc câỵ một cơn gió thổi tới, làm
cho bao nhiêu cánh hoa rơi lả tả trên mình chàng rồi rắc lên đầy mặt đất
và rắc lên cả mặt nước đang kết băng non. Nhìn những cánh hoa trôi dập
dềnh nghe tiếng nước à à cùng tiếng mảnh băng non va vào nhau lanh canh,
chàng bất giác thở dài một tiếng. Nghĩ đến thân mình tiền đồ mờ mịt lưu
lạc tha hương, chàng thấy lòng trĩu nặng.
Đang
mải nghĩ ngợi thẫn thờ, bỗng chàng nghe thấy một hồi rung nhẹ nhẹ của
vàng ngọc va chạm nhau thánh thót trong veo, tiếp đến một vật gì đó rơi
xuống đầu rồi tuột vào lòng chàng; nhìn xuống xem hóa ra là một cành hoa
mai trắng. Chàng giật mình “ối" lên một tiếng. Cùng lúc từ phía trên
đầu vọng xuống một tiếng khe khẽ, có vẻ hốt hoảng và một giọng nói trong
trẻo vang lên.
- Chết rồi! có người kìa!
Chàng
ngẩng lên nhìn về nơi phát ra tiếng nói, thấy ngay trên chiếc cầu gỗ đó
dáng người thướt tha yểu điệu của một cô thiếu nữ chừng 15, 16 tóc búi
theo cách cung đình, cài trâm có hạt trân châu, mặc chiếc áo màu hồng
phấn, vấy bằng gấm đoạn trắng tinh, bên ngoài khác một chiếc áo choàng
lông có mũ trùm, Mới chợt nhìn thấy như là nàng Vương Chiêu Quân ngày
xưạ Cô nàng đang ngạc nhiên mở to đôi mắt trong sáng nhưng sợ sệt nhìn
chàng. Trong tay cô là một nắm cành mai mới bẻ. Cách trang điểm phục sức
cùng dáng điệu, thần thái ấy lại thêm đôi “làm thu thủy nét xuân xanh"
khiến cô có một vẻ đẹp mê hồn, làm cho Mộng Bạch chỉ còn biết đứng ngây
ra mà nhìn.
Mãi mà cô nàng vẫn chưa hết
ngạc nhiên hốt hoảng, hiển nhiên là cô không thể ngờ phía dước cầu lại
có người, mà cô thì đã vô ý để rơi cành hoa mai xuống đó. Trông cô rất
giống một đứa trẻ trót dại gây ra tội lỗi gì đó, đang không biết làm sao
cho phải, chỉ biết ngây người ra mà nhìn chàng. Mộng Bạch bèn đứng dậy,
tay cầm cành mai, tự nhiên bước tới trước mặt cộ Cô gái nhìn thấy chàng
sắp tới thì càng hốt hoảng, vội nhìn chàng một cách dò xét suốt từ đầu
đến chân một lượt rồi đưa ngay ra một cử chỉ hết sức sai lầm: cô lấy
trong người ra một ví nhỏ bằng vải thêu vứt về phía chàng, miệng khẽ
thét:
- Không được lại gần! cho anh tiền được chưả
Mộng
Bạch ngạc nhiên dừng lạị Cô ta nghĩ chàng là ai nhỉ? kẻ cướp? thổ phỉ
hay là ăn màỷ Chàng há miệng định giải thích nhưng lại không biết giải
thích thế nàọ Đang lúc chàng đứng lại ngớ người suy nghĩ thì cô gái nọ
đã quay mình vội vã bỏ chạy về chùa, y như người chạy trốn bọn ôn dịch.
Mộng Bạch mới giật mình, nhặt vội lấy túi tiền dưới đất sải chân đuổi
theo, miệng kêu rối rít:
- Cô ơi, cô đợi một chút! cô ơi, cô đợi chút!
Cô
ta càng chạy nhanh hơn, Mộng Bạch cố đuổi theo, được một lúc chàng chợt
nghĩ ra, mình cứ đuổi theo một cô gái như thế này thì người ngoài trông
vào sẽ thấy chướng mắt lắm, Nhìn lại bản thân mình rất dễ gây hiểu lầm.
Vì vậy chàng mới dừng bước lại, ngửa cổ lên trời than thân:
- Ôi! không ngờ Mộng Bạch ta, một gã thư sinh mang đầy hoài bão, lại khốn khổ đến mức bị người ta coi như là một kẻ ăn mày!
Ai
ngờ mấy câu oán than của chàng lại làm cho cô gái nọ lập tức dừng chân,
cô ta kinh ngạc ngoái cổ, hơi thở dốc và nỗi hoảng hốt còn chưa tan
hẳn, cô vẫn mở to đôi mắt ngây thơ ra nhìn chàng không chớp. Miệng hé
mở, cô ấp a ấp úng, nửa ngạc nhiên nửa vui mừng, nửa thẹn nửa hãi, do dự
mãi mới nói ra được một câu:
- Anh... anh chính là... Hà Mộng Bạch?
- Saỏ... Mộng Bạch càng ngạc nhiên - cô biết tôi ử
- Thế... thế những đôi câu đối mới viết lại ở trong chùa đều do anh viết đấy à? - Cô gái nhìn anh có vẻ hiếu kỳ.
- ôi - hóa ra là cô đã đọc những câu đối, câu liễn đó à? - Mộng Bạch chợt hiểu ra - Vâng, thưa do là tại hạ viết.
Sự
ngạc nhiên lạ lùng càng hiện rõ trong đáy mắt cô gái, lại một lần nữa,
cô nhìn xét xét chàng từ đầu đến chân. Mộng Bạch như muốn thu mình lại
trước cái nhìn của cô, chàng biết cái hình dung lôi thôi lếch thếch của
mình không thể nào mà giấu đi đâu được. Chưa lúc nào như trong khoảng
khắc này, chàng ao ước mình có thể áo mũ đàng hoàng, phong độ ung dung.
Chàng thụt lùi một bước, kéo hai vạt áo bông rách lại, nhưng lại càng có
vẻ lúng túng như chân tay thừa ra mà chỗ vạt áo rách lòi cả bông trong
lõi, lại càng không che được. Cô gái hít một hơi dài lại kèm theo một
tiếng thở ra kín đáo:
- Đã có học hành, sao không lên kinh tìm đường tiến thủ?
- Tiểu sinh cũng muốn lên kinh, chỉ phải tội người thân chưa gặp mới lưu lạc thế này!
-
Ồ! - Cô than khe khẽ, nét mặt không giấu được vẻ đồng tình thương cảm.
Đang định nói gì đó thì từ trong chùa, một a hoàn hớt hơ hớt hãi chạy
đến, vừa chạy vừa hổn hển la to:
- Trời
ơi, tiểu thư! cô lại đi lung tung cả lên rồi! Làm em tìm muốn chết! lão
phu nhân đang bực cô đấy! nhanh nhanh đi, kiệu đã chờ sẵn để về phủ rồi!
Cả nhà đang chờ mỗi mình cô thôi!
Cô gái không kịp nhìn chàng một lần nữa, quay lại phía a hoàn đang giục giã, cô cố ném lại cho chàng một câu:
-
Hãy giữ lấy túi thêu đó, mang ra mua được tấm áo cừu để chống rét, trời
lạnh kinh khủng quá! Giữ được rừng thì lo gì thiếu củi đun!
Nói
xong, cô bỏ mặc chàng ở đó, cung cúc chạy theo a hoàn để trở lại chùa
Nhàn Vân. Mộng Bạch bất giác chạy theo mấy bước, giơ túi thêu ra gọi:
- Cô ơi! cô ơi!
Nhưng
cô gái và a hoàn đã chạy mất tăm mất dạng rồi, chỉ còn những bóng cây
mai thấp thoáng trên con đường nhỏ chẳng lưu lại dấu chân người, nhưng
hương thừa hãy còn quanh quất. Đằng sau rặng hoa mai, ráng chiều đã
nhuộm đỏ chân trờị Trong chùa Nhàn Vân, chuông chiều đã đổ, tiếng chuông
lan trong không gian, đập vào vách núi vọng xuống khe sâu, tỏa trên mặt
nước, phá vỡ hoàng hôn, lay tỉnh một người đang ngẩn ngơ cầm chiếc túi
thêụ
Cuối cùng thì Mộng Bạch cũng đã định
thần lại, chàng cúi xuống bắt đầu xem xét chiếc túi kia, nó được khâu
bằng gấm màu đỏ tươi, trên có thêu một cành hoa mai trắng, rất khéo léo
tinh xảo, miệng túi thắt bằng dây tơ đỏ, một đầu dây thắt nút hoa maị
Hoa mai! người con gái này sao có duyên với hoa mai đến thế! chàng nhắc
thử chiếc túi, nó chẳng có gì là nặng, có lẽ chỉ là một ít bạc vụn thôị
chàng lại đứng ngẩn ngơ một lúc, mới chợt nghĩ ra, phải biết tên cô gái
ấy là gì mới được. chàng bèn vội chạy về chùa, nhưng chỉ thấy người qua
kẻ lại, người thì xin thẻ người thì thắp hương; khắp các điện trong
chùa, chẳng tìm thấy bóng cô gái và a hoàn ở đâụ Chắc cô ta đã đi mất
rồi! một cô gái chàng không hề biết họ biết tên, một cô gái không có mảy
may ràng buộc mà lại đã để lại cho chàng một chiếc túi thêu, một cành
hoa mai và một chút buồn tủi trong lòng.
Tối
hôm đó, Mộng Bạch bị mất ngủ chàng cứ trở mình trằn trọc mãi, trước mắt
lúc nào cùng hiên lên hình ảnh người con gái ấỵ Sao mà tha thướt yêu
kiều như tiên, như mộng vậỵ Tay cầm cành mai mình khoác áo choàng thật
quá là nề nếp, quá ư thanh thoát nhẹ nhàng. Chàng thở dài, chẳng biết là
con cái nhà ai nhỉ xem như cách phục sức, như việc có a hoàn theo hầu
thế đó, chắc hẳn phải là một thiên kim tiểu thư trong nhà quyền quí.
Nghĩ phận mình cơm chẳng no áo không lành, sống vật vờ qua ngày đoạn
tháng dù đầy bụng thi thư cững đành để phí. Nếu như mình cũng là công tử
đại gia, biết đâu lại còn có duyên được quen biết người đẹp cũng nên,
nhưng nay thì... thôi, thôi, nghĩ gì vậy chứ? Mơ gì vậy chớ! một anh
chàng nghèo rớt mồng tơi thì không đủ tư cách mơ mộng, cũng không đủ tư
cách mà nghĩ ngợi đâu.
Cứ như vậy, một
chút si mê canh cánh trong lòng làm Mộng Bạch trọn đêm mất ngủ. Khi mặt
trời tang tảng sáng, chàng trở dậy lấy chiếc túi thêu ra, mở mối dây
buộc túi, bên trong chỉ có một ít bạc vụn, lật đi lật lại chiếc túi, thế
rồi bỗng nhiên phát hiện ra ở lần vải lót bên trong có thêu hai chữ
“Giang Băng Mai". Băng Mai là tên cô gái kia ử Giang Băng Maỉ Chả trách
nào cô ấy đã thêu một cành mai trên mặt túi, chàng giật mình tỉnh ngộ
đúng rồi, pháp sư Tịnh Tu đã từng nói, có đàn bà con gái nhà họ Giang
đến dâng hương, thế thì đây đúng là tiểu thư nhà họ Giang rồi! chàng có
biết gia đình này, tiên sinh Giang Tiểu Trần là một cử tử hỏng thi, đã
học qua khá nhiều sách vở chữ nghĩa, cảnh nhà giàu sang, cũng từng làm
quan nhỏ ở địa phương ít năm nay đã cáo lão về quê, định cư trong thành
này, gia trạch nguy nga bề thế, đầy tớ thì hàng đàn, lại chỉ có mỗi một
tiểu thư đó, vậy thì Mộng Bạch làm sao bén duyên cho được. Nếu như là
con gái nhà nghèo hộ nhỏ thì chàng còn có cơ nhòm ngó, đằng này... Thôi,
thôi nghĩ gì nữa nhỉ? Mơ gì nữạ
Trời đã
sáng hẳn tiếng chuông báo sáng gõ vào giấy dán cửa sổ, Mộng Bạch trở
dậy, đầu óc trống không, mọi suy nghĩ đều không đến được với chàng ngoài
hình ảnh một thân người thon thả thắt đáy lưng ong, với dáng vẻ sợ sệt
và khuôn mặt thanh tân thuần khiết như băng như tuyết. Cất túi thêu vào
trong túi áo mặc lót sát mình chứ không dùng tiền đi mua áo cừu vì chàng
không nỡ tiêu đi những mảnh bạc đã từng mang dấu tay người ngọc. Sau
bữa ăn sáng, chàng trở về gian nhà giản đơn nhỏ bé mà chàng vẫn ở nhờ
nơi đầu hồi nhà chùa, lại ngồi bần thần trước trang giấy vẽ. Chàng lại
phải vẽ tranh rồi đó là công cụ mưu sinh mà! Vẽ tranh! bức tranh duy
nhất hiện lên trong óc chàng lúc này chỉ là một người con gái tay cầm
hoa mai đứng trên đầu cầu mà thôi!
Thế
là, bỗng nhiên chàng thấy hứng thú, chàng cầm bút lên, pha màu cẩn thận
và bắt đầu phác họa khuôn mặt cô gái mà chàng đang tưởng nhớ. Chàng đưa
tất cả những là cây cầu, cô gái với thần thái khi cầm những cành hoa...
đều vẽ vào bức tranh mà chàng đề tên là “Hàn mai tuyết diễn" Tất cả
khung cảnh xung quanh đến áo quần cô gái, tất cả đều vẽ đúng như nguyên
mẫụ Chàng vẽ suốt ngày trời, tranh vẽ xong, tự mình ngắm lại, chàng thấy
cô gái trong tranh sinh động như thật, tưởng như đã hiện ra ngay trước
mắt. chàng thở dài, suy nghĩ một lát, rồi đề mấy câu từ xuống góc phải
bức tranh.
“Tuổi trăng tròn, thân như liễu
Thơ ngây mang về thẹn thùng,
Tay hái cành mai thanh tân như tuyết sớm
Sông băng trong vắt như lòng
Chẳng ngoảnh về nơi con ác lặn,
Để thương trong mắt kẻ ăn mày! "
Đề
xong chàng ký tên mình bên góc trái bức tranh, sau đó treo nó lên
tường, lẳng lặng ngắm một mình. trong chỗ đề từ, chàng đã khéo léo lồng
được ba chữ: Giang, Băng, Mai vào trong một số câu; đối với chàng như
vậy cũng là một kiểu tự an ủi rồị Nhưng khi pháp sư Tịnh Tu nhìn thấy
bức tranh thì ông lại chăm chú ngắm nghía hồi lâu, rồi ngoảnh đầu lại,
trầm ngâm nhìn Mộng Bạch cười nửa miệng, gật gật đầu nói ghẹo chàng:
- Tiểu thí chủ, vậy là người ấy về phương “nước" đấy hả?
Mặt
Mộng Bạch đỏ rần lên, pháp sư Tịnh Tu coi như không có chuyện gì, cười
khà khà rồi bỏ đị Vừa đi, vừa nói với lại một câu rằng:
- Thế gian chẳng có việc gì là không làm được, chỉ cần tự mình phải đứng lên trước hãy!
Mộng Bạch rùng mình sợ hãị Từ hôm đó trở đi ngày nào chàng cũng đối mặt mới người đẹp trong tranh mà miệt mài đọc sách.
o0o
Vừa chợp mắt mà Tết đã qua, lại đến hội hoa đèn.
Thiện
nam tính nữ đã quyên tặng bao nhiêu là đèn màu, nhà chùa đem ra chăng
hết lên, trông thực là rực rỡ, du khách đến như nước chảy, náo nhiệt vô
cùng.
Những lúc đông người, ở Mộng Bạch
thường xuất hiện cảm giác như mình bị bỏ rơi vậỵ Buổi tối, chàng cũng đã
từng dạo một vòng khắp nơi trong chùa, cũng xem đủ các loại đèn rồị
Chàng đang ngầm hy vọng biết đâu lại gặp được Băng Mai lần nữa! Biết đâu
cô ấy cũng định đến để thêm phần tưng bừng náo nhiệt thì saỏ nhưng
chàng biết là tối nay trong thành còn có “chợ đèn" còn vui hơn trong
chùa nhiều, các cô gái trẻ, đa số đều thích đi chợ đèn hơn là vào chùạ
Chỉ có những ông bà già mới đến chùa Nhàn Vân để thắp hương, cầu thần
Phật phù hộ cho con cháu mà thôị Lượn xong một vòng, chẳng chút hào hứng
nào nữa, chàng trở về buồng mình, thắp một ngọn nến, định ngồi tập viết
một bài văn bát cổ, thư văn nhất thiết phải dùng trong kỳ thị Pháp sư
Tịnh Tu đã vào buồng nằm và khuyên chàng.
-
Đừng có quá chăm chỉ nữa, ngày hội lớn thế thì viết văn sao được, thà
đi vào thành mà chơi còn hơn: có múa rồng, múa sư tử, lại có diễn trò
nữa đấy!
- Thưa sư phụ con muốn ở đây yên tĩnh một chút.
Pháp sư gật đầu, đi khỏị
Mộng
Bạch tiếp tục viết bài văn của mình viết xong bài đó, chàng thấy mệt
liền phục xuống bàn định nghỉ một lát nhưng lại ngủ thiếp đi lúc nào
không biết.
Chàng ngủ khá lâu, và không hề
biết, vào lúc đó có một người không biết tên, vì muốn lánh khỏi chỗ quá
ồn ào náo nhiệt của chùa, đã lần mò đến buồng của chàng. Cửa buồng
chàng vốn chỉ khép hờ nên người kia đã mở được dễ dàng. Nhìn thấy có
người đang phủ phục trên bàn mà ngủ, họ đã định lập tức lui rạ Nhưng bức
họa “Hàn mai tuyết diễn" treo trên tường đã thu hút sự chú ý của người
đó. ông ta liền rón rén bước lại gần xem kỹ bức tranh, lộ vẻ hết sức
ngạc nhiên. Sau đó ông ta quay người bước tới bên bàn lặng lẽ quan sát
người trẻ tuổi đang ngủ saỵ Ngũ quan đoan chính, diện mạo thanh tú, tuy
có hơi tiều tụy nhưng vẫn không dấu nổi vẻ sáng sủa vốn có. Nhưng sao
chàng ta lại ăn mặc rách rưới, tấm áo bông mỏng đã cũ rách lòi cả bông,
hiển nhiên là không thể chống nổi cái rét. chàng ta tuy ngủ đang say
nhưng thân mình vẫn co ro, cơ hồ như trong giấc mơ, chàng trẻ tuổi vẫn
run lên vì lạnh. Người kia lắc lắc đầu, rồi sau đó nhìn thấy bài văn của
chàng đang bày trên bàn, ông ta không dừng được, cầm lên xem. Càng xem
càng thấy lạ lùng, càng xem càng thấy huyền hoặc cuối cùng ông ta không
nhịn được nữa, ngồi xuống cạnh bàn lấy một cây bút, khuyên khuyên điểm
điểm vào bài văn. Xem đến trang cuối cùng, ông ta đứng hẳn dậy, nhìn kỹ
chàng trai một lần nữa rồi nhìn đi nhìn lại rất lâu, rất kỹ Mộng Bạch
hơi cựa quậy, miệng phát ra tiếng thở dài: chàng đang nằm mơ thấy mình
bươn bả trong gió tuyết lạnh giá ghê người trước mắt chàng là cô gái tên
Băng Mai cứ thoắt ẩn thoắt hiện chàng ra sức đuổi theo mệt ơi là mệt,
lạnh ơi là lạnh... mình chàng càng co quắp, đầu gối giấu vào cánh taỵ
Người
không biết tên nọ chăm chú nhìn chàng rất lâu, nghĩ ngợi gì một lát,
rồi đi tới, nhẹ nhàng cởi chiếc áo choàng lông cáo của mình, nhẹ nhàng
đắp cho Mộng Bạch. Chàng trai chỉ hơi động đậy mà không hề tỉnh giấc mợ
Người nọ không muốn làm kinh động chàng nữa, chỉ bước tới bên tường, gỡ
bức tranh xuống, cuộn lại và cầm ra khỏi căn phòng; khi ra ông ta còn
khẽ khàng khép lại cửa cho chàng.
Một lát
sau, ông ta đã ngồi trong trai phòng của pháp sư Tịnh Tụ ông lấy trong
bọc ra một thoi bạc nặng 20 lạng, đặt lên trên bàn Tịnh Tu nói một cách
ung dung, bình tĩnh và chân thành.
- Tôi
vừa mới đi xộc vào phòng của Mộng Bạch, anh ta đã ngủ say, tôi chưa động
gì đến anh tạ Số bạc này, nhờ pháp sư chuyển đến cho anh tạ Anh này
đang sống bằng bán tranh bán chữ mà, phải không? có phải là đó là chàng
thư sinh đang lưu lạc mà pháp sư đã nói với tôi không?
- Vâng thưa thí chủ.
-
Thế thì xin hãy nói lại với chàng ta, số bạc này là tôi mua tranh của
anh chàng - ông ta giơ cuộn tranh trong tay lên - bức tranh “Hàn mai
tuyết diễn" này đâỵ
Pháp sư kinh ngạc há to miệng.
- Nhưng mà... nhưng mà. -- pháp sư ấp úng - theo tôi biết thì chàng ta định không bán bức tranh này!
- Không muốn bán ử - người kia vuốt râu, mỉm cười - Thế thì cứ coi như anh ta cầm cho tôi đi!
- Thưa thí chủ, lời này là nghĩa thế nàỏ
- Cầm bức tranh này lấy 20 lạng bạc, số đó chưa đủ saỏ
-
Quá nhiều ấy chứ! vì vậy tôi mới thấy khó hiểu! 20 lạng bạc đủ mua cả
một người họa sĩ kia mà! một bức tranh họa cũng chưa bao giờ bán nổi
được 20 lạng bạc.
- Thật lòng mà nói, mua
tranh chỉ là cái cớ, thực ra là muốn tự giúp anh ta thôị Tôi xem văn
chương của anh ta rồi, chàng thiếu niên này tuyệt đối không phải loại
người sống mãi dưới người khác được! tôi có thể đánh cuộc với pháp sư
rằng chàng ta sẽ có ngày thành đạt vẻ vang đường công danh sẽ như diều
gặp gió! xin nhờ ngài nói giúp với chàng ta bảo phải dùng số bạc này làm
lệ phí, kịp thời lên kinh đô mà tham gia cuộc thi lớn trong năm saụ Có
tài hoa đến bực ấy thì hãy đừng tự làm lỡ tiền đồ tốt đẹp trước mắt
mình! Còn nếu chàng ta không nỡ bán bức tranh kia, thì sau khi thành
công, có thể mang bạc đến mà chuộc về!
-
Ồ! - pháp sư Tịnh Tu chợt hiểu ra tất cả, ông chăm chú nhìn người nọ,
khẽ thở ra một hơi nhẹ nhõm. ai di dà phật! thế là anh chàng đã gặp được
quí nhân rồi!
- Còn việc này nữa, không
cần phải nói tên tôi cho anh ta biết, tôi không muốn anh ta đến cảm ơn
hay làm gì cả, pháp sư chỉ cần bảo anh ta nhanh chóng lên kinh mà thôi!
- Nếu anh ta nhất định đến cảm ơn thì saỏ
-
Thế này vậy - người kia mỉm cười - Nội trong ba đến năm năm tới đây,
tôi sẽ ở thành này, không rời đi đâu cả, đến khi chàng ta thành công rồi
hãy đến cảm ơn cũng được!
Pháp sư Tịnh Tu
không nói gì nữa, ngước mắt nhìn người ngồi trước mặt nghĩ ngợi, người
kia cũng nhìn lại ông, mỉm cườị Thế là bỗng nhiên pháp sư như có hơi
tỉnh ngộ về việc gì đó, bất giác cười kín đáo, gật gật:
- Thí chủ cứ yên tâm, tôi nhất định sẽ truyền đạt đúng ý của ngàị
Khi
Mộng Bạch vừa tỉnh dậy, chàng rất lạ lùng phát hiện ra mình đang khoác
một tấm áo choàng lông cáo đắt tiền; ngọn nến trên bàn đã tàn mà bài văn
của mình đã được sửa chữa, khuyên, điểm hết cả. Lại ngẩng đầu lên, thì
phát hiện bức tranh “Hàn mai tuyết diễn" trên tường đã không cánh mà bay
mất. Chàng ta cảm thấy hết sức khó hiểu, bèn một mạch chạy thẳng tới
trai phòng của pháp sư Tịnh Tu, nhìn thấy pháp sư đang ngồi bên bàn tụng
niệm kinh kệ; lúc đó chàng mới tự thấy mìmh quá hấp tấp, vội vàng dừng
bước lại, xuôi tay đứng ở cửa, miệng lắp bắp:
- Thưa thầy, xin lỗi, thưạ..
Pháp sự ngẩng đầu lên bình tĩnh nhìn chàng, hơi mỉm cườị
- Ta đang đợi con đây! Tiểu thí chủ ạ.
- Nhất định là thày biết việc này là thế nàỏ - Mộng Bạch giơ tấm áo choàng lên.
-
Ngồi xuống đi! tiểu thí chủ - Pháp sư ra hiệu cho chàng, rồi chậm rãi
đẩy thoi bạc trên bàn sang trước mặt Mộng Bạch - Hãy cất chỗ bạc này đi,
đây là của con.
- Cái... cái gì cở - Mộng Bạch hết sức thắc mắc - thực ra là thế nào đây ạ?
-
Số phận con thay đổi rồi, tiểu thí chủ ạ có một vị quí nhân để lại thoi
bạc này cho con, và đã lấy mất bức tranh của con. ông ấy xem bài văn
con viết, rất tiếc thương cho tài hoa của con nên muốn con dùng thoi bạc
này làm lộ phí để lên kinh đi ghi tên dự thi! Còn về bức tranh thì coi
như con cầm cho ông ấy, đến khi thành công hãy đến mà chuộc!
- Trên đời có việc như thế saỏ - Mộng Bạch không tin, tròn xoe mắt - Thế nếu con thất bại thì saỏ
- Thì ông ấy coi như đã mua được bức tranh của con!
- Bức tranh đó đáng giá những 20 lạng bạc saỏ
- Tiểu thí chủ - pháp sư trầm ngâm - con là người thông minh mà vẫn chưa hiểu ra ử
- Ồ, Mộng Bạch lúng túng nhíu mày suy nghĩ rồi khẽ nói - ông ấy chỉ lấy đó làm cớ để giúp đỡ con thôị
- Thí chủ biết thế là tốt rồi!
-
Trong thiên hạ lại có người tốt bụng đến thế saỏ - Mộng Bạch sững sờ cả
người, nước mắt trào ướt mi - Giúp đỡ con một số tiền lớn vẫn còn là
chuyện nhỏ, mà đáng kể nhất là ông ấy lại có thể hiểu con đến thế -
chàng ngước nhìn pháp sư - Xin thầy cho con biết người đó là aỉ
-
Ta không thể nói với con được - pháp sư nói - Vị quí nhân này không hề
muốn con biết ông ấy là aị Nhưng mà, tiểu thí chủ ạ chỉ cần con thành
công thì ta tin là sẽ có một ngày con gặp được quí nhân đó! Vì vậy hãy
nghe một câu của bần tăng đi: lên đường ngay hôm nay và hãy tự mình phấn
đấu để thi đỗ. Biết đâu... pháp sư dừng lại và chăm chăm nhìn Mộng
Bạch, rồi nói những lời tâm huyết - Còn rất nhiều kỳ ngộ đang đợi con
đấy, nếu con cảm động với tấm lòng tốt của người ta, thì hãy cố xứng
đáng với tâm ý đó!
Mộng Bạch nhìn chằm
chằm vào vị pháp sư hồi lâu, chàng không hề động đậy, cứ ngồi ngâ người
ra, mặt ngơ ngơ ngác ngác. Rồi tự nhiên chàng đứng bật dậy, tay đập
xuống bàn nói:
- Sinh ra con có cha mẹ,
hiểu con thì có pháp sư và người ấy! nếu con không có thành tựu gì thì
còn mặt mũi nào mà gặp người ấy, mặt mũi nào mà gặp pháp sư, thưa thầy
con sẽ lên đường ngay ngày mai con xin cáo từ, xin hẹn ba năm, con nhất
địnhy trở về!
- Trở về một cách thành công! - Pháp sư bổ sung thêm.
-
Vâng, trở về thành công! - Mộng Bạch hất đầu, nói rất mạnh mẽ và cầm
lấy thoi bạc trên bàn - Xin sư phụ chuyển lời đến quí nhân: sau ba năm
con sẽ đến chuộc bức tranh kia!
Pháp sư
tủm tỉm cười, dùng đôi mắt tràn đầy tin tưởng nhìn theo bóng dáng hiên
ngang mạnh dạn của Mộng Bạch. Đêm đã khuya mà pháp sư còn chưa muốn ngủ
khuôn mặt rạng rỡ phấn chấn của Mộng Bạch cứ luấn quẩn trong tâm trí
ông. ông gật gù tự nhủ:
- Chàng ta sẽ thành công!
Ngày hôm sau, Mộng Bạch đã cáo biệt pháp sư lên đường tới kinh đô.
Từ
đó, Mộng Bạch bắt đầu đối mặt với những ngày tháng phấp đấu gian khổ.
Đối với bất cứ người học trò nào thì trường thi cũng đều là mục tiêu và
thử thách lớn nhất. Đầu tiên là cơm hàng cháo chợ, ngủ dọc đường, dầm
mưa dãi nắng đi bộ hàng mấy tháng trời mới đến kinh độ Rồi sau đó, trong
hội quán chỉ còn là vùi đầu khổ học, khổ học và khổ học! Thời gian từ
từ trôi trong sách vở, tan theo từng giọt mực. Ngày từng ngày một đến
gần, cuối cùng đã đến ngày vào thị
Một đời
học trò là mấy lần thỉ Đầu tiên phải thi tại chỗ để lấy danh tú tài,
rồi dự cuộc thi hương để đỗ cử nhân, rồi sau đó là thi hội, thi đình...
Một đời học trò là phải trải qua bao nhiêu là gian khổ bao nhiêu là thử
thách? bao nhiêu là chịu đựng? ai biết chỏ ai hiểu chỏ
Thời
gian trôi đi, ngày này qua ngày khác. Xuân tới hè qua, thu tận đông
tàn.. Thời gian cứ trôi, không ngừng không nghỉ, thấm thoát đã ba năm.
Mộng Bạch ra saỏ thành công? hay thất bạỉ Đã vượt qua được các cuộc thi kia chưả hay là không vượt được?
Mộng
Bạch thực là một người may mắn, chàng đã không phụ lòng yêu mộ của vị
“quí nhân" kia, đã không phụ lòng kỳ vọng của pháp sư Tịnh Tụ Như một sự
thần kỳ chàng đã vượt liền một mạch qua ba kỳ thi! Trong thời đó, Bắc
Trực Khang được coi là một tỉnh thi hương và thi hội đều ở Bắc Kinh.
Mộng Bạch phá thành công một lúc ba cửa ải, vì vậy sau ba năm rời chùa
Nhàn Vân chàng đã lắc mình biến hóa từ một tú tài nghèo tiếng tăm không
ai biết đến trở thành một tiến sĩ tân khoạ
Đã
đỗ tiến sĩ, tất nhiên không còn phải sống những ngày đói rách cực khổ
như trước; danh dự tiền tài, phủ đệ cứ thế mà theo đến. Trong chớp mắt
Mộng Bạch đã có người hầu kẻ hạ, nhà cửa cao sang, đã bắt đầu nếm mùi
vinh hoa phú quí rồị Thế là mùa đông năm đó, chàng khoác tấm áo choàng
lông cáo, đem theo người hầu, cưỡi lưng tuấn mã, trở về trước cửa chùa
Nhàn Vân đã ba năm xa cách.
Chùa Nhàn Vân
vẫn như xưa, hoa mai nở rộ, đỏ trắng đua chen. Vẫn là du khách dập dìu
như mây đen nước chảy, khói hương nghi ngút. Khi Mộng Bạch xuất hiện
trước mặt pháp sư Tịnh Tu, thì chẳng cần nói câu nào, pháp sư đã hiểu
tất cả. Mộng Bạch vội quì ngay gối trước pháp sư làm ông phải cuống quýt
đỡ chàng dậy, cảm động rơm rớm nước mắt:
-
Tiểu thí chủ con thật là đúng hẹn! Quả là con đã không phụ lòng mong
mỏi của ta! Giang lão gia dưới suối vàng mà biết được ắt sẽ ngậm cười
đó.
- Giang lão gia! - Mộng Bạch ngạc nhiên - Đó là aỉ
- Là vị quí nhân đã giúp đỡ con lên kinh đấy mà! Đó là Giang Nhất Trần lão gia!
-
Vậy ử - Sắc mặt Mộng Bạch bỗng chốc biến đổi, vừa ngạc nhiên, vừa vui
mừng, lại như băn khoăn, hốt hoảng sao rồi, thầy vừa nói “dưới suối
vàng" phải không? chẳng lẽ Giang lão gia, chẳng lẽ là.."
-
Tiểu thí chủ con hãy ngồi xuống đã, uống chén trà rồi nghe bần tăng nói
sau - Pháp sư đưa Mộng Bạch vào thư phòng ngồi, Mộng Bạch vẫn áy náy
không yên cứ muốn hỏi cho bằng được. Pháp sư nhìn chàng không nén nổi
thương cảm, mặt ông rung lệ ông thở dài mà nói - Việc thiên hạ thật khó
lường trước được. Con thì đã áo gấm vinh qui, mà cả nhà Giang lão gia
thì đã tan đàn sẻ nghé rồi!
Mộng Bạch tái hẳn mặt:
- Thưa thầy, thầy nói thật đấy chứ? rốt cuộc là việc gì đã xảy rả
-
Năm thứ hai sau khi con đi, nhà họ Giang bị một vụ cháy lớn, toàn bộ
tòa nhà chính bị cháy rụị Cháy vào ban đêm, gần như cả nhà đều bỏ mạng
trong lửa, Giang lão gia và phu nhân, thương ôi, đều đã về trời cả!
Mộng
Bạch hít một hơi dài, cắn chặt hàm răng đầu cúi gục tay mân mê tà áo
choàng da cáo trên mình, vật còn người mất, cảnh này sao chịu thấủ nước
mắt trào ướt đẫm vành mi chàng thư sinh thưở trước! thất vọng thương tâm
cảm khái, buồn bã làm tan nát lòng chàng, một lúc rất lâu không nói nên
lời, mãi sau mới nhớ tới một việc mà ba năm qua vẫn ấp ủ trong lòng.
Chàng ngẩng đầu lên giọng run run hồi hộp hỏi pháp sư:
- Thế còn Giang Băng Mai thì sao ạ?
-
A di đà phật! - Pháp sư chắp tay trước ngực - Tiểu thư cùng với a hoàn
và vài người hầu riêng, là những người duy nhất thoát nạn trong nhà họ
Giang đấỵ
- Cảm ơn trời đất - Mộng Bạch kêu lên và đứng bật dậy - Tiểu thư đang ở đâủ con phải đi tìm nàng ngay!
- Tiểu thí chủ hãy bình tĩnh đừng nóng vội pháp sư giữ tay chàng lại - Tiểu thư đã không ở trong thành này nữa rồi!
- Không ở trong thành? vậy nàng đã đi đâu ạ?
- Nhe nói đã lên kinh đô đi tìm về nhà ông cậụ
-
Lên kinh đổ thế là nàng đang ở kinh đổ - Mộng Bạch sốt ruột truy hỏi -
Thưa pháp sư ông cậu kia tên họ là gì? ông ở phố nào ngõ nào trong thành
ạ?
- ôi, tiểu thí chủ con chớ vội vàng
hấp tấp. Họ tên ông cậu của cô ấy, ta cũng không được rõ. Ta chỉ biết
khi đó thoát cơn hỏa hoạn cùng với tiểu thư thì có a hoàn là Thúy Nga và
lão quản gia Giang Trúc cùng một số nô bộc khác. Nghe nói, có cứu được
một số tài vật đủ để lo hậu sự cho hai ông bà Giang lão giạ Sau khi lo
xong việc đó, Giang Phúc đã cùng Thúy Nga hầu hạ phù trì tiểu thư chu
đáo và đưa cô ấy lên kinh độ Thật đáng tiếc, bần tăng không thể biết họ
đi đến địa chỉ nào, nhưng biết rằng Giang Phúc là người trung thành đáng
tin cậy, mà trong mình họ còn có được ít tiền, lại nghe nói nhà người
cậu cũng là khá giả, vậy nên chắc hẳn tiểu thư sẽ không phải sống khổ
cực đâu, chỉ tộị. pháp sư ngừng lời, khẽ thở dài - thương cho tấm lòng
mong mỏi của lão gia, phí hoài mất rồị
- Một tấm lòng mong mỏi, mong mỏi gì ạ? - Mộng Bạch giật mình, chàng lại càng thất vọng và đau đớn.
- Bức tranh của con còn được Giang lão gia giữ không?
-
Bần tăng không biết tiểu thí chủ đã gặp Giang tiểu thư chưa, nhưng bức
tranh kia sao lại vẽ rất giống thần thái của cô ấy, mà trong mấy câu đề
từ còn lồng cả mấy chữ tên của tiểu thự Lúc đó Giang lão gia đã lấy làm
lạ lắm, lại đọc được văn chương của con, càng đem lòng yêu mến, nên mới
đưa tiền giúp cho con đi thi thố tài năng. ông cũng biết rằng nếu con
thành công, nhất định sẽ giữ lời hẹn mà quay lại, con biết tấm lòng
người làm cha mẹ trong thiên hạ có ai muốn gả con gái cho một anh tú tài
nghèọ Giang lão gia ấy à, vốn đã định chọn con làm rể, nên đến tận khi
xảy ra đám cháy, vẫn chưa chịu gả Giang tiểu thư cho ai hết!
-
Ối trời! - Mộng Bạch giậm chân than thở - trời ơi! Mộng Bạch con sao mà
vô duyên đến vậỵ Trời ơi! tại sao lại có đám lửa oái oăn đến thế?
-
Tiểu thí chủ con đừng quá đau thương. Nên biết rằng trời thì bão tố bất
thường, người thì họa phúc khó lường, tụ tán của nhân sinh đều do thiên
định. Có khi tưởng là có duyên hóa vô duyên, lại có khi tưởng vô duyên
lại thành có duyên. Số phận người ta đến thế cả!
Mộng Bạch buồn bã cúi đầu, rồi chợt ngẩng lên, đập mạnh tay xuống bàn kiên quyết!
-
Bất luận thế nào con cũng phải tìm ra cô ấy! - chàng đứng hẳn dậy, nhìn
pháp sư Tịnh Tu - Gian phòng con ở ngày trước giờ con mượn được không
ạ?
- Chỉ sợ làm xấu cho con thôị
- Thầy nghĩ con đã hoàn toàn không giống ba năm trước nữa saỏ
-
Vẫn như vậy! - Pháp sư gật đầu - con là một người con trai có cái tâm,
Vậy hãy đi tìm đi, xin bồ tát giúp đỡ con! Con hãy đến quán rượu ở trong
thành, sẽ có thể hỏi thăm đuợc những người đầy tớ thoát nạn năm xưa xem
họ còn trong thành này không; hoặc là có thể hỏi ra được tên họ chỗ ông
cậu của tiểu thư cũng nên.
- Con cảm ơn sự chỉ dẫn của pháp sự
Mộng
Bạch ở lại chùạ Liền trong mười ngày chàng đem theo người hầu đi khắp
nơi tìm dấu vết của những người hầu cũ nhà họ Giang, cuối cùng đã tìm
được mấy ngườị Một người là bà nấu bếp, mấy người nữa là những người
chạy tin, sai vặt, nhưng không ai biết họ tên địa chỉ của ông cậụ Còn có
mấy a hoàn nhỏ nhưng bọn đó lại càng ú ớ ngô nghê chi biết nói lại
những cảnh kinh hoàng khủng khiếp của vụ cháy mà thôị
Mộng
Bạch cũng đến nơi ở cũ của họ Giang một vùng gạch ngói ngổn ngang cột
xém giường thui, cỏ mọc lau thưa, hoang tàn đổ nát khiến lòng người kinh
hoàng chua xót. Mộng Bạch đứng chết lặng hồi lâu, lan man nhớ lại hình
bóng người con gái mình khoác áo choàng lông trắng tinh khôi, tay cầm
hoa mai, đứng trên đầu cầu, thật là thanh tân yểu điệu! chàng lại lã chã
không cầm nước mắt. Trời hỡi trời, giai nhân đâu tá?
Quay
trở lại vười mai ở chùa Nhàn Vân, quay trở lại bến nước bên khe suối
bao cảnh tình gợi nhớ như còn tươi rói đang diễn ra trước mắt. Hoa đây,
suối đấy, tuyết còn dày, băng chưa tan, túi thêu người tặng vẫn giữ
trong lòng... nhưng trời hỡi giai nhân ở đâủ
Tối
lại, dưới ngọn đèn leo lét, lại lấy túi thêu ra ngắm nghía, chút bạc
vụn để đã bao lâu, chưa hề đụng chạm. Cành hoa mai thêu trên mặt túi vẫn
tươi rói như vừa mới hái, mới đặt lên. Nhắm nghiềm mắt, ngủi thấy mùi
hương từ áo quần người đẹp tỏa quanh quất đâu đâỵ ôi trời, giai nhân đâu
vậy nhỉ?
Đã qua mười ngày trời kiếm tìm
không kết quả, Mộng Bạch đành phải thôi không đi hỏi thăm tại vùng này
nữa, lặng lẽ cáo biệt pháp sư Tịnh Tu, chàng đem tùy tùng trở lại kinh
độ
Tại kinh đô cảnh phồn hoa ca múa tưng
bừng ngợp mắt, Mộng Bạch là một chàng trẻ tuổi thành danh, quan cao chức
trọng đáng lẽ có biết bao vinh hoa phú quí đang cần phải hưởng. Nhưng
chàng thì nhất định không chịu lấy vợ nhất định thư thân thanh khiết như
kẻ tu hành. Trong chốn tư dinh phủ đệ của mình, những sớm chiều chàng
đều quạnh hiu trong trai phòng, không làm một việc gì khác cả. Bao nhiêu
bạn đồng liêu hăng hái đòi mai mối cho chàng, bao nhiêu nhà đại quan
quí tước tình nguyện nhận chàng làm rể đều bị chàng khéo léo từ chốị
Giang Băng Mai, Giang Băng Mai, trong tim chàng chỉ có một Giang Băng
Mai mà thôi! chẳng phải thế ử đó đã là người vợ mà số phận sắp đặt cho
chàng, bức tranh và chiếc túi thêu kia hóa chẳng phải là tín vật của hai
bên ử chàng làm sao mà nỡ bỏ nàng để lấy vợ khác đâỷ nhưng mà người
ngọc ở đâủ người ngọc ở đâủ
Ngày lại ngày,
thời gian như ngựa chạỵ Mộng Bạch dần dần trở nên là người quan trọng
trong triều đình, địa vị ngày càng chắc chắn. Mới chớp mắt mà đã là ba
năm sau ngày chàng đỗ tiến sĩ, chàng đã trở thành nhân vật nổi tiếng ở
kinh thành, phủ đệ hào hoa, nô bộc như nước, mỗi khi ra cổng, ngựa xe
hàng đoàn, tiền hô hậu ủng... Chàng không thể còn là một nhân vật nhỏ
nhoi bình thường nữa, mà theo dòng thời gian trôi, tuổi của chàng mỗi
ngày một lớn. Chàng bắt đầu thấm thía một điều, cành hoa mai trắng thuở
xưa, chỉ là một chiếc bóng trong mơ, chàng đã vĩnh viễn mất nàng rồi!
Vẫn
còn tiếc nuối và than thở, nhưng đành phải cố gắng bắt buộc mình đừng
có tơ tưởng đến Giang Băng Mai nữa, chàng bắt đầu nói đến việc hôn nhân.
Nhưng đúng vào lúc đó, cái lúc mà chàng đã hoàn toàn vứt bỏ mọi hy vọng thì lại xảy ra một việc bất ngờ...
Hôm
đó, Mộng Bạch trở về phủ sau khi tan buổi chầu, chàng ngồi trong kiệu,
trước sau đều có người cưỡi ngựa theo hộ tống. Đang đi trên đường phố,
bỗng phía trước nổi lên những tiếng người ngựa huyên náo, lộn xộn, cả
đoàn hộ tống và kiệu đều phải dừng hết lạị Mộng Bạch vén tấm rèm che
kiệu, thò đầu ra hỏi:
- Việc gì vậỷ ngựa va phải người hay saỏ
- Không phải đâu, thưa gia gia - một người tùy tùng trả lời - có một người điên đang chặn đường nói lung tung đấy ạ!
- Người điên ử - Mộng Bạch nói - Hãy cố khuyên họ tránh ra!
- Ồ, không phải đâu ạ - một người tùy tùng khác nóị Đó là một lão ăn mày, chặn đường xin tiền đấy!
-
Thế thì cho họ một ít tiền để họ tránh đường rạ Bảo những người đàng
trước đừng có đánh đập bắt nạt họ - Mộng Bạch là một người nổi tiếng tốt
bụng
Một người hộ tống truyền lệnh lên phía trước, nhưng chỉ một lát, gia bộc ở đó đã chạy trở lại, nói với Mộng Bạch.
-
Bẩm gia gia, đằng trước là một lão già điên, chỉ cản đường để gây rắc
rối, lão ta một mực đòi gặp gia gia, nói là có một món đồ quí muốn bán
cho gia gia, đã cho tiền và khuyên bảo thế nào lão cũng không chịu đi!
- Có việc như vậy ử - Mộng Bạch sửng sốt hỏi - ông già như thế nàỏ có thể là một dị nhân trên giang hồ không?
- Ồ, tuyệt đối không phải, chỉ giống một lão ăn mày thôi ạ!
- Vậy thì cho nhiều tiền một chút rồi xua họ đi!
Gia bộc đi rồi, chỉ một lát lại không làm thế nào được đành quay trở lạị
-
Không được đâu, thưa gia gia, đó đúng là một người điên, lão nói, món
đồ quí của lão đáng giá mười vạn lạng bạc, phải đưa mười vạn lạng thì
lão mới đi! tôi thấy phải cho người trói lão lại, đánh cho một trận mới
xong.
- Ha! - Mộng Bạch cười! - ông ta có
đồ quí gì đây nhỉ? Mười vạn lạng bạc, toàn bộ gia tài của ta cũng chưa
đủ mười vạn lạng kia mà! cái ngươi đã nhìn thấy món đồ đó chưả
- Nhìn thấy rồi đó chỉ là một cuộn giấy thôi ạ.
-
Cuộn giấy thôi ử - Mộng Bạch nhíu lông mày trong lòng chàng hơi xúc
động, đó là văn chương? hay là thư họa, có thể đó là nhân tài đang bị
mai một chăng biết đâu chẳng phải là giả ngố giả ngọng, giả điên giả
khùng để cầu kiến! tình cảm “liên tài" trong chàng dấy lên, chàng bèn
nói ngaỵ Không được đánh họ đem đến đây cho ta xem, rốt cục là của quí
gì nàỏ
- Thưa gia gia... người già gia bộc ngăn lạị
- Thôi đừng nói nhiều nữa, đưa họ đến đây!
Gia
bộc đành phải lui ra và lão già kia được đưa đến. Mộng Bạch nhìn ra đó
là một ông già tóc râu đều bạc, tướng mạo bình thường không có gì xuất
chúng, mặc bộ áo quần đen rách rưới khắp người bụi bám, đầy mặt phong
sương, không tài nào nhận ra một nét “thiên tài" nào ở ông ta! đến trước
mặt Mộng Bạch ông ta liền quì xuống, đôi mắt đau đáu nhìn chàng mà nói:
- Tiểu nhân xin bái kiến Hà đại gia!
- Nghe nói ông có vật quí muốn bán cho ta, phải không? - Mộng Bạch mỉm cười hỏi, chàng không muốn chế giễu ông già nàỵ
- Vâng ạ, đó là một bức tranh, xin mời gia gia xem qua.
ông
già kia nói và hai tay dâng cuộn giấy lên trước mặt, Mộng Bạch cầm lấy,
chàng tò mò giở ra xem. Lập tức toàn thân chàng chấn động, giật thót
lên, mặt bỗng tái hẳn đị Đó chính là bức tranh “Hàn mai tuyết diễn" do
chính tay chàng vẽ bao nhiêu năm về trước. Nắm vội tay vào thành kiệu
chàng hỏi to:
- ông là ai? ông lấy được bức tranh này ở đâu?
- Tiểu nhân là Giang Phúc, khấu kiến đại gia! - ông già nói và từ từ cúi đầu xuống tiếng ông run run.
Giang
Phúc! Không cần phải hỏi thêm, Mộng Bạch đã hiểu ngay lập tức! Chàng há
miệng tròn mắt nhìn ông già trước mắt mình. Trong giây lát có hàng ngàn
điều vạn tiếng muốn hỏi, muốn biết; nhưng đường phố lúc này không phải
là nơi nói chuyện. Chàng không thể bình tĩnh lại được, nhìn đáng lôi
thôi khốn khổ của Giang Phúc, chàng đã có thể tưởng tượng ra tình hình
hiện nay của Giang Băng Mai, có thể là cô ấy đã lấy ai rồi, hoặc là cô
đã sa đọa đi rồi, mà càng có thể là, cô đã chết rồi! Nghĩ đến đó, chàng
chợt rùng mình và tỉnh trí lại, vội vàng gọi tả hữu và lớn tiếng dặn
bảo:
- Hãy đỡ ông lão dậy và đưa cho ông một con ngựa.
Giang Phúc rập đầu đứng dậy, chắp tay chờ.
- Giang Phúc! - Mộng Bạch gọi.
- Thưa lão giả
- ông hãy theo ta về phủ, đến phủ rồi hãy thong thả mà nói nhé!
- Thưa vâng - Giang Phúc nhìn Mộng Bạch nước mắt rưng rưng.
Không
bao lâu họ đã trở về đến phủ, Mộng Bạch dẫn ông già vào một thư phòng
nhỏ, cho tả hữu lui ra hết, lập tức hỏi ngay một câu mà chàng bức xúc.
- Hãy nói cho ta biết, tiểu thư nhà các người có khỏe không?
- ôi, thưa gia gia, không được khỏe ạ.
- Sao vậy? nói mau lấy chồng chưa?
- Chưa đâu ạ.
-
Vậy thì vẫn còn sống hả? - Mộng Bạch thở phào một tiếng, chàng ngồi
xuống và ra hiệu cho Giang Phúc cùng ngồi. Giang Phúc không chịu vẫn cứ
đứng chắp taỵ Mộng Bạch hít một hơi nữa, nói - Hãy cho ta biết đi! hãy
kể tường tận mọi tình hình cho ta! các người ở đâu từ đó đến nay?
- Vẫn chỉ ở kinh đô thôi ạ.
- ôi Trời! trời ơi - Mộng Bạch kêu trời - Sao đến hôm nay ông mới đến tìm tả
- Tiểu nhân không biết Hà đại gia chính là người ở chùa Nhàn Vân dạo trước! tiểu nhân chỉ là một nô tài, có hiểu biết gì đâu ạ!
-
Thôi hãy từ từ, hãy từ từ vậy - Mộng Bạch tự điều chỉnh lại thái độ của
mình - Có phải các người lên kinh đô để nương nhờ nhà ông cậu không?
- Tại sao lại thành ra khốn khổ thế này, hãy nói từ đầu đến cuối cho ta nghẹ
Thế là Giang Phúc bắt đầu thuật lại một hồi tất cả mọi sự việc đã quạ
Sau
cơn hỏa hoạn Giang Băng Mai chôn cất cho cha mẹ xong. đem một ít tiền
bạc cùng Giang Phúc và a hoàn Thúy Nga thất thểu đến được kinh thành.
Ai
ngờ vừa đến nơi mới biết ông cậu đã trở về Sơn Đông quê cũ rồi. Số tiền
của họ không đủ đi Sơn Đông mà ở kinh đô thì chẳng có ai thân thích cả.
Đúng vào lúc đó Giang Băng Mai, vì không chịu nổi bao nhiêu biến động
quá lớn trong cuộc sống vật chất lẫn tinh thần, tình cảm nên đã ngã
bệnh. Họ đành phải bán hết đồ trang sức để tìm thầy tìm thuốc chữa bệnh
cho tiểu thự Họ thuê một căn nhà nhỏ để trú ngụ. Giang Băng Mai ốm liền
hai năm, người gầy sút chỉ còn da bọc xương mà tất cả mọi thứ đồ đạc có
giá trị đều đã cầm bán hết, chỉ còn trông vào Gaing Phúc và Thúy Nga
người thì đi làm thuê, người thì khâu vá mướn để kiếm chút tiền duy trì
cuộc sống. Cứ thế gắng gượng qua ngày, dần dần bệnh của Giang Băng Mai
cũng đỡ. Nhưng sau đó cô trở thành lầm lì ngơ ngẩn.. Chẳng nói chẳng
cười suốt ngày suốt tháng không sao khuyên giải cho khuây khỏa đi được
Cuộc sống ngày càng khó khăn thắt ngặt hơn, họ phải chuyển đến một ngôi
nhà chật chội rách nát hơn, và cứ vậy mà kẽo kẹt nhùng nhằng cho đến tận
hôm naỵ
- Vậy, tại sao ông nghĩ đến việc
đi tìm tả Tại sao lại giữ được bức tranh này? Bị cháy nhà mà tranh không
cháy? vẫn đem được đến kinh đổ - Mộng Bạch hỏi dồn một mạch.
-
ôi, thưa gia gia, tất cả là do ý trời. Giang Phúc thở dài - lúc lão gia
chúng tôi dùng 20 lạng bạc để mua tranh này thì tiểu nhân có được biết
vì đi theo lão gia đến chùa. Thúy Nga cũng có biết việc đó, sau này nói
lại rằng, lão gia đã đưa bức tranh cho tiểu thư giữ, nhưng không nói gì
thêm với tiểu thự Tiểu thư quí bức tranh nên không dám treo, sợ lâu ngày
bám bụi, chỉ cất vào trong rương, lúc rỗi thường giở ra xem - Giang
Phúc nhìn Mộng Bạch và giải thích thêm. Ngài không biết lão gia chúng
tôi chỉ có một tiểu thư nên rất quí, từ nhỏ đã nuôi dạy như một vị công
tử, nên tiểu thư cũng được học cầm kỳ, thi, họa đều hiểu biết sâu sắc
các môn đó ạ.
- Ta hiểu rồi, ngươi nói tiếp đị
-
Hôm xảy ra cháy, chúng tôi đã kịp cứu chiếc hòm của tiểu thư nên đã cứu
được bức tranh. Nhưng vì tai nạn quá đau thương nên sau đó không ai
nghĩ đến bức tranh nữa... chúng tôi lên kinh, vẫn mang theo nó trong
chiếc rương của tiểu thư, nhưng đều không nghĩ bức tranh đó giúp được
gì. Khi tiểu thư sinh bệnh, thỉnh thoảng vẫn đem tranh ra xem, nhưng chỉ
xem và thở dài thôi. Thưa gia gia... ngài cũng biết đấy trong bức
tranh, ngài ký tên hiệu là Mộng Bạch, song tên dùng trong triều đình lại
là tên tự “Hà thư" chúng tôi làm sao có thể ghép hai cái tên đó lại để
biết chỉ là một người thôi ạ?
- ôi Mộng Bạch thở dài tiếc nuối! - Rồi sau đó thế nào?
-
Cho đến hôm qua, chúng tôi không còn một thứ gì có thể đem bán được
nữa, mà tiểu thư thì vẫn ngẩn ngẩn ngơ ngơ, không thể bàn định được gì.
Thúy Nga mới tìm bức tranh này đưa cho tôi, bảo tôi đưa đến hiệu sách
xem thử có thể bán được dăm ba đồng gì không? tôi cũng muốn thử đánh giá
xem giá trị nó thế nào, nên đã đồng ý mang đị Nào ngờ chủ hiệu vừa
trông thấy bức tranh đã la hoảng lên, hỏi tôi đây là tranh thật hay là
tranh giả tôi không hiểu ý tứ ra sao ông ta mới chỉ vào tên ký dưới
tranh mà nói “đây chính là tên hiệu của Hà đại gia đó "!
- Vì vậy mà hôm nay ngươi mới mang tranh này ra cản đường chặn kiệu.
-
Đúng vậy, thưa gia gia xin ngài tha tội - Giang Phúc cúi đầu - tôi đã
từng là gia nhân ở nơi quyền quí nên biết rằng vào cửa nhà giàu là khó
lắm, nếu không chặn kiệu nằm ỳ thì quả là chẳng còn cách nào khác!
- Làm thế mới được Giang Phúc ạ - Mộng Bạch khen - ông là một gia nhân vừa trung thành vừa thạo việc đấy!
Giang Phúc rủn người vội quì xuống trước mặt Mộng Bạch.
-
Thưa gia gia, tiểu nhân không đáng được khen, chỉ cố làm hết bổn phận
mà thôi. Cúi xin gia gia nể tình lão gia đã quá cố mà giúp đỡ tiểu thư
khổ mệnh nhà chúng tôi.
- Giang Phúc, ông
đứng dậy! Mộng Bạch trầm ngâm giây lát rồi nói rất kiên định. Đã đến lúc
này thì không cần kể đến lễ nghi phép tắc gì nữa ông hãy đưa ta đi thăm
tiểu thư của ông!
- ôi ôi, thế này...thì... nét mặt Giang Phúc tỏ ra e ngại.
- Sao rồi?
- Tiểu nhân chỉ sợ nhà chật ngõ hẹp, không xứng với tấm thân ngàn vàng của đại giạ
-
Giang Phúc ông quên rồi ử ta xuất thân thế nào đây? Nếu không có 20
lạng bạc của lão gia các ông thì có lẽ hôm nay ta cũng đang phải đi xin
cơm mà ăn đấy.
- ôi, thưa gia gia! Giang Phúc nói khẽ - Ngài tuy không giữ kẽ, nhưng còn tiểu thư chúng tôi...
- Thế nào? ông sợ nàng sẽ cảm thấy không ổn chăng?
- Không phải đâu, thưa gia giạ
- Thế thì rốt cục là gì, đừng úp mở nữa!
- ôi, thưa gia gia - Giang Phúc kêu lên, nước mắt bỗng giàn giụa - tiểu thư chúng tôi đã đang dở sống dở chết rồi ạ!
- Thế là thế nào? - Mộng Bạch bỗng thấy hốt hoảng -
không phải ông vừa nói, bệnh của tiểu thư đã đỡ rồi kia mà?
-
Bệnh trên thân thể thì quả có đỡ, nhưng thưa gia gia... cô ấy, cô ấy
bây giờ hầu như không còn nhận ra ai nữa, không nói không khóc cũng
không cười..... cô ấy.. cô tôi đã hoàn toàn... hoàn toàn ngớ ngẩn rồi ạ!
- ôi, trời ơi - Mộng Bạch ngã xuống ghế, hai tay ôm đầu, miệng không ngớt lẩm bẩm. Trời ơi! trời ơi!
-
Thưa gia gia vậy nên có lẽ ngài không cần đi thăm cô tôi nữa, xin ngài
giúp thuê một căn nhà khá hơn một chút, để cô tôi sống dễ chịu hơn một
chút là tốt lắm rồi!
Mộng Bạch im lặng một hồi lâu, sau đó chàng đứng bật dậy, nói như đinh đóng cột.
- Đi thôi, Giang Phúc, không phải nói gì nữa, đưa ta đi thăm tiểu thư nhà các ngươi ngaỵ
Không
đem theo một người hầu nào, chỉ cùng với Giang Phúc mỗi người một ngựa.
Mộng Bạch đi tới một căn nhà nghèo nàn trong ngõ hẻm, dừng chân trước
cửa buồng chật hẹp.
Trong buồng ngoài một
chiếc bàn và mấy chiếc ghế mộc ra, chẳng có đồ đạc gì nữa, bốn vách rã
rời, tối tăm ẩm thấp. Mới bước chân vào Mộng Bạch không hề nhận ra Giang
Băng Mai đang ngồi lặng phắc trong một góc nhà, cho đến khi Giang Phúc
bước tới trước, nói to:
- Thưa tiểu thư, có khách đến thăm!
Lúc
đó, Mộng Bạch mới giật nảy mình, mở to đôi mắt ngạc nhiên nhìn vào góc
nhà, quả là chàng không tin vào mắt mình nữa. Giang Băng Mai ngồi thu lu
trên một chiếc ghế, mái tóc dài buộc túm sau gáy, hình hài khô khẳng,
da sạm má hóp, hai mắt lờ đờ nét mặt vô cảm giống như một cái tượng đá
người ta mới khai quật trong mộ cổ rạ Một bộ áo quần vải mộc cũ kỹ bọc
quanh mình cô, không thoa không xuyến, không trâm cài lượt giắt, không
có gì hết.. Cô không còn chút gì là cô gái xinh đẹp ngây thơ trong rừng
hoa mai năm xưa nữa, giờ cô chỉ còn là cái xác không hồn.
Mộng Bạch đứng chết lặng, xúc động đến nỗi không nói được một lời. một a hoàn chạy tới, quì xuống đất, nói:
- Tiểu tì Thúy Nga xin lạy Hà đại gia!
Mộng
Bạch dần dần khôi phục lại thần trí, nhìn a hoàn nọ. Tuy rằng nó cũng
áo quần lam lũ, hình dung tiền tụy nhưng chàng vẫn nhận ra được đó là a
hoàn mà chàng đã gặp trong rừng mai. Chàng hít một hơi vào ngực và nghẹn
giọng nói:
- Đứng dậy đi! Thúy Ngạ
Thúy Nga đứng dậy, Mộng Bạch lại nhìn Giang Băng Mai.
- Tiểu thư bị thế này lâu chưa? Cuối cùng chàng hỏi.
- Gần hai năm rồi ạ - Thúy Nga trả lời.
- Hai năm! Mộng Bạch khẽ kêu - Các người sống đều như thế nào cả ử
- Thưa gia gia đúng vậy ạ.
Mộng
Bạch nhắm mắt, đau khổ lắc lắc đầu. Rồi chàng mở to mắt chăm chú nhìn
kỹ Giang Băng Mai, đi đến gần cô và thử nói chuyện với cộ
- Thưa cô, cô còn nhớ tôi không?
Giang Băng Mai không hề phản ứng gì.
- Thưa cô, cô còn nhớ hoa mai ở chùa Nhàn Vân không?
Giang Băng Mai vẫn cứ như không nghe thấy gì, đến lông mi cũng không hề nhấp nháy.
Mộng
Bạch cắn cắn môi, chàng biết những thử nghiệm đó là hoàn toàn vô ích,
quay đầu lại, chàng nhìn thấy Thúy Nga đang âm thầm lau nước mắt. Chàng
trầm tư giây lát rồi gọi dõng dạc.
- Giang Phúc!
- Dạ thưa gia giạ
-
Ta phải làm ngay việc này, ông phải hiểu rõ là bây giờ không phải lúc
giữ gìn ý tứ, né tránh tiếng tăm gì nữa đâu, ta nhất định yêu cầu ông
dọn về ở ngay trong phủ của tạ
- Ủa - Giang Phúc còn hơi nghi ngại kêu lên.
-
Trong phủ của ta có một ngôi nhà gác nhỏ, ngôi nhà này yên tĩnh vừa dễ
chịu, ngay trong ngày hôm nay, ông hãy dọn đến cho tạ Đây là 20 lạng
bạc, ông hãy đi mua áo quần cho mọi người cùng các đồ trang sức cho tiểu
thư ngay bây giờ đị Sau khi vào ở yên ổn tại đó, ta mới có thể mời thầy
thuốc chẩn trị lâu dài được. Bệnh của tiểu thư không phải là cố tật ta
tin có thể chữa khỏi!
- ôi, gia gia! ông
trời sẽ không phụ lòng tốt của ngài! Giang Phúc quá mừng rỡ, quì sụp
xuống, nước mắt chứa chan, Thúy Nga cũng vừa khóc vừa quì xuống. Chỉ có
Giang Băng Mai là vẫn ngồi ngây thộn ra chẳng nghe, chẳng nhìn gì cả,
mắt cứ trân trân như để ý tới nơi nào không biết.
Ba
ngày sau, Giang Băng Mai đã dọn đến ở ngôi nhà gác nhỏ trong phủ họ Hà.
Ngôi nhà này nằm trong vừa hoa, được tách ra thành một khu riêng biệt,
có năm gian sạch sẽ thoáng mát, tất cả đều chế tác, trang trí khéo léo
kỹ càng, đẹp mắt. Mộng Bạch đã mua thêm mấy a hoàn và u già để hầu hạ
Giang Băng Mai, đồng thời mời thầy thuốc về thuốc thang chữa trị chu
đáo. Hàng ngày, sáng chiều hai dạo, Mộng Bạch đều đến đó thăm nom chăm
sóc rất tỉ mỉ chu đáo.
Thời gian chầm chậm
trôi đi, Giang Băng Mai vẫn chưa khôi phục được thần trí, Nhưng nhờ có
thuốc men và thức ăn bồi bổ, cô đã dần dần khỏe mạnh và tươi tốt lên về
thể chất da dẻ mịn màng hồng nhuận, tóc mượt mà mắt long lanh... càng
ngày trông cô càng đẹp lên. Thúy Nga chăm chỉ giúp cô chải đầu búi tóc,
thay giặt tắm rửa trang sức chỉnh tề. Tuy vẫn chưa nói năng gì được
nhưng mặt cô đã dần dần biết nhìn người này người nọ. Có khi, Mộng Bạch
lại thăm nom cô đã biết âm thầm nhìn theo hút chàng, khiến cho chàng
thấy tràn trề hy vọng và xúc động trong lòng. Chàng tin có một cách chắc
chắn rằng, trong đáy sâu của ý thức của cô vẫn còn tiềm tàng nhiệt tình
vốn có từ xưa, mà chàng thì cần phải đánh thức cái ý thức đang ngủ say
đó dậy.
Thế rồi, ngày đó cuối cùng đã tới.
Giang
Băng Mai dọn vào phủ đã được nửa năm, khi cô đến thì là mùa hè, bấy giờ
thấm thoát đã sang đông. Trong vười hoa ở Hà phủ trồng toàn hoa mai;
sáng sớm hôm đó Mộng Bạch đã để ý thấy có một cành mai trắng nở đầu
tiên. Sau buổi chầu sáng, trở về phủ,, thay bỏ triều phục xong, chàng đi
đến vườn mai trắng nọ. Bất giác chàng nhớ tới hoa mai trắng ở vườn Nhàn
Vân, hoa mai trắng bên khe suối, hoa mai trắng dưới đầu cầu và một cành
mai trắng rơi vào lòng chàng! Tim chàng bỗng thấy bồn chồn hồi hộp,
không cầm lòng được, tự nhiên chàng đưa tay ra bẻ lấy cành mai trắng ấy
và cầm nó đi tới chỗ ở của Giang Băng Mai.
Giang
Băng Mai đã được Thúy Nga trang điểm tề chỉnh, đẹp đẽ đang ngồi hong
nắng ngoài hiên, đôi má cô được nhuộn hồng, đôi mắt cô được chiếu sáng
long lanh bởi những tia nắng ấm. da thịt đầy đặn mặt mũi tươi tốt, cô đã
trở thành người khác hẳn con người của nửa năm về trước. Cô mặc tấm áo
chẽn bằng đoạn trắng tinh, chiếc váy màu đỏ bóng, áo khoác cộc nền đỏ
thêu hoa trắng, ngoài cùng là tấm áo choàng lông cáo trắng. Mới chợt
nhìn chẳng khác gì Giang Băng Mai đứng trên cầu tha thướt năm xưa! Tim
Mộng Bạch lại trào lên nỗi xúc động, chân chàng bước gấp lại gần cô, tay
cầm cành hoa mai trắng nhẹ đặt vào lòng cô và nói.
- Còn nhớ cành hoa mai trắng năm xưa không?
Giang
Băng Mai đột nhiên rung động toàn thân, mắt cô nhanh chóng bị thu hút
bởi cành hoa mai trắng, trong khoảng thời gian rất lâu, cô cứ nhìn đăm
đăm vào cành mai trắng đó, không hề động đậy một chút nào. Sau đó, cô
đưa tay run rẩy, sợ hãi khe khẽ chạm vào cành hoa mai, rồi cô ngước mắt
lên len lén nhìn Mộng Bạch. Cử động và nét biểu cảm đó khiến cho Mộng
Bạch thấy phấn chấn, chàng vội chớp lấy thời cô đó, vội vã nói luôn một
mạch:
- Cô còn nhớ tôi không? còn nhớ hoa mai trắng ở chùa Nhàn Vân không? còn nhớ dòng suối nhỏ và cây cầu gỗ không?
Giang Băng Mai nheo mắt nhìn chàng trong đáy mắt hiện lên vẻ nghĩ ngợi một cách khó nhọc và khổ sở.
-
Ồ! - Mộng Bạch đột nhiên nhớ ra một việc, chàng lấy từ trong mình ra
chiếc túi thêu mà bao nhiêu năm nay, lúc nào chàng cũng giắt theo người.
Chàng đặt chiếc túi đó lên đầu gối cô, nói - Vậy thì, còn nhớ cái túi
thêu này không?
Giang Băng Mai cúi đầu nhìn chiếc túi, thế là, như một kỳ tích cô bật ra một tiếng kêu khẽ và nói tự nhiên:
- Cái túi thêu đây mà!
-
Đúng rồi, đúng là cái túi thêu đó đấy! - Mộng Bạch luống cuống nhắc
lại, chàng nhặt chiếc túi lên, đưa ngang mắt cô - này xem này, đó là cái
túi mà nàng thêu đó, cái túi có thêu cành hoa mai trắng, bao nhiêu năm
qua, nàng đã dùng nó để trợ giúp một tên tú tài nghèo đấy! còn nhớ
không? hãy nghĩ xem, hãy nghĩ xem!
- Ôi!
con ngươi mắt Giang Băng Mai đang chuyển động, như vừa tỉnh khỏi một
giấc mộng dài, cô mở to mắt nhìn Mộng Bạch, rồi cô đứng bật dậy hỏi to:
- Bức tranh đâu? Bức tranh của tôi đâu?
-
Bức tranh ấy vẫn theo nàng y như chiếc túi thêu vẫn theo ta vậy đó!
Mộng Bạch nói mà vui mừng rơi lệ. Chàng dắt tay dẫn Giang Băng Mai vào
nhà, cô gái trong bức tranh ”Hàn mai tuyết diễn" treo trên tường đang
lặng lẽ nhìn vào họ.
Quỳnh Dao
BẢNG LẢNG NHƯ HOA MÙA XUÂN
Như lệ thường, gần đến Tết, tôi chạy
xe vòng quanh phố. Mọi thứ như đang vươn sức xuân. Mảng tường nhà ai
đang được sơn lại. Con phố nhỏ ấm và sáng hơn. Cờ hoa rợp phố như thể
đất nước được mùa.
Nhìn người ta mua sắm Tết cũng là
điều thú vị với tôi. Tưởng chừng như tôi đang sắm Tết. Nào là kẹo mứt ;
nào là bánh chưng, bánh tét ; nào là chả giò ; nào là mọi thứ… Hàng hóa
như theo người về nhà vui Tết. Một chút rượu làm hân hoan mọi nỗi lòng
trong năm mới ; một chút hạt dưa làm hồng môi ngọt của ai ; và cả một
chút tờ báo xuấn trải lòng người cùng Tết …
Tôi gửi xe và vào chợ hoa xuân. Đầy
hoa ! Hoa ngợp trước mắt tôi. Ngày thường dễ gì thấy hoa như thế ! Ước
gì trên những con đường lớn Đà Nẵng cũng có hoa đẹp quanh năm ! Chỉ toàn
là cái đẹp, toàn sự tốt lành đang ẩn hiện trên mỗi loài hoa, ai mà
chẳng thích ?
Tết đến mà có một chậu mai chưng
thiệt là tuyệt ! Và tôi cố tìm cho được một chậu vừa ý mà lại vừa túi
tiền. Có mai, căn nhà như sáng thêm lên, như mùa xuân ngập cả nhà. Vợ
chồng con cái gắn chặt nhau hơn trong những lần mai nở. Và bè bạn nói
những điều tốt đẹp cho nhau khi Tết đến xuân về. Dại gì ta nói xấu nhau !
Sao ta không nói tốt về nhau, nếu được ?
Đang chú mục vào môt chậu mai, đang
thưởng thức để tìm thêm cái đẹp, cái tốt trong mai để đem về còn khoe
với vợ con, bằng hữu. Bỗng nhiên, có cái vỗ vai của ai đó làm tôi giật
mình . Quay lại nhìn, tôi ngờ ngợ thấy gương mặt quen quen. Ấp úng, tôi
hỏi : “ Ông … Ông là ..? ”. Người đàn ông giờ đối diện với tôi cũng ấp
úng : “ Xin lỗi có phải … Ông là …”. Tôi thấy quen quá, nên nói luôn :
“ Tôi là An ”. Người đàn ông nói : “Tôi là Thanh, bạn cũ của ông đây!”.
Hai chúng tôi mừng nhau không thể tả .
Chúng tôi tìm một quán nước gần đó
để trò chuyện. Tôi được biết Thanh từ thành phố Hồ Chí Minh về quê ăn
tết. Hắn ta – tôi phải gọi như thế để nhớ lại cái thuở còn thanh niên –
về quê lần này tiện thể vừa để tìm người yêu cũ. Gần 20 năm mà hắn vẫn
không quên cô ấy dù đã cả hai đã có gia đình. Hắn chỉ cười buồn và trải
lòng cho tôi nghe.
… Kể từ dạo ấy, cái thuở hai đứa hắn
cảm lòng nhau. Lòng của hắn như có kiến đốt. Hắn ăn cũng không ngon,
hắn cười cũng chưa hết cở. Nói tương tư thì không đúng lắm, hắn chưa
đến nỗi phải nằm liệt gường bởi yêu. Vả lại, yêu mà bị bệnh thì ai dám
yêu. Yêu như thế quả là khổ sở. Mỗi lần ra đường, đầu óc hắn vẩn vẩn vơ
vơ. Ngó thấy ai có cái dáng dấp của cô ấy thì hắn mừng, tưởng như là gặp
cô ấy. Nhiều khi buồn, hắn bâng quơ lấy xe chạy vòng vòng khắp phố,
không biết là chạy đi đâu. Hắn chạy xe qua nhà cô ấy bao nhiêu lần, hắn
cũng không nhớ hết. Mỗi lần như thế, hắn đều ước ao gặp cô ấy. Điều ước
ấy có lúc xảy ra nhưng là những lúc tình cờ. Tình cờ mà gặp nhau, còn
cố tình cũng chưa thể gặp nhau, âu đó cũng là cơ duyên, hắn nghĩ vậy. Và
chuyện của hắn, ban đầu cũng là sự tình cờ của những lời bông đùa, như
ngọn gió bỡn cợt trên cành hoa xuân, như ngọn nắng đùa trên cỏ, như cánh
diều bâng khuâng treo gió trên nắng mùa xuân và như sự bông đùa của gái
trai muôn thuở. Nhưng rồi, như sự ngẫu nhiên của trái tim, của sự chân
thành, chúng đã yêu nhau. Yêu nhau thôi, yêu nhau tha thiết, yêu bằng cả
ngôn ngữ của tình yêu, yêu bằng mắt bằng lời, bằng cả nỗi lòng thơ ca
của chúng. Kể cũng lạ, bình thường hắn ít viết, viết không nổi một câu
thơ, thế mà khi chúng yêu nhau thì không biết cớ sao, hắn lại làm thơ,
làm rất nhiều thơ, mà bài nào cũng được. Lần đầu tiên cô ấy đọc thơ
hắn, cô ấy chỉ cười, nụ cười bây giờ hắn vẫn còn có cảm giác ngọt lịm.
Còn gì đẹp bằng khi có kẻ tri âm, tri kỷ. Và mặc nhiên chúng coi nhau là
tri kỷ, tri âm .
Không biết sao hắn biết cả tên cha,
tên mẹ, tên em trai, em gái của cô ấy, biết cả số nhà, số điện thoại. Và
cô ấy biết hắn thích gì. Kể cả chuyện riêng tư, cô ấy cũng kể hắn nghe
.
Thế nhưng !
Đời mà ! Biết bao sự “thế nhưng”
trong cuộc đời này . Chúng yêu nhau, quả là vậy ! Thế nhưng chúng vẫn
không thể sống cùng nhau. Yêu nhau mà sống đuợc với nhau thì quả là
tuyệt rồi ! Thế nhưng, đâu có phải yêu nhau là phải sống với nhau. Nhiều
lúc hắn tự an ủi cho riêng mình, như là một sự ru lòng mình yên tĩnh.
Đã 20 năm xa cô ấy. Hắn đếm ngón tay
là đã 20 năm ; hắn tặc luỡi là đã 20 năm . Nơi cô ấy ở trước đây giờ đã
khác. Người cũng khác, toàn là người lạ. Hắn cảm thấy buồn buồn. Dễ gì
gặp cô ấy để khen cô ấy có cái áo đẹp ; dễ gì gặp cô ấy để cả ngày hắn
trọn niềm vui. Như một định mệnh, lẽ hợp tan là thường tình của trời
đất. Hắn biết cái quy luật ấy, cố nín lặng chịu đựng nỗi nhớ của riêng
mình.
Đặt ly cà phê xuống bàn, tôi hỏi hắn:
- Thế ông không yêu vợ ông sao ?
Hắn trố mắt nhìn tôi, chửng hửng:
- Sao không yêu ? Không yêu vợ con thì yêu ai ?
Tôi gặng hỏi :
-Thế sao ông còn nhớ cô ấy ?
Giọng hắn như lạc vào cổ tích :
- Kỉ niệm, ai mà không nhớ ! Vả lại,
cái tôi của thằng đàn ông đầy tham lam lắm ông ạ ! Nhất là trong tình
yêu ! Có vợ có con rồi mà vẫn muốn có người yêu như là sự khẳng định
mình với trần gian này, không biết tôi nói như thế có quá không ?
Im lặng…
Và tôi. Tôi không thể giấu lòng
mình. Tôi cũng có vợ có con rồi ; tôi cũng muốn quên “ cô ấy của tôi ”,
nhưng đâu dễ gì quên. Chỉ có kẻ vô tình mới không để ý đến nhau, mới dễ
quên nhau. Và chỉ có kẻ dửng dưng, đâu cần ai để nhớ !
Tôi nhớ như in, hầu như ngày nào tôi
cũng ghé quán cà phê cô ấy. Nắng cũng như mưa, thời tiết dẫu thay đổi
nhưng tôi cứ như là đúng hẹn cùng cô ấy. Chỉ có thế thôi mà tôi đã cảm
lòng bởi sự chân thành của cô ấy. Rồi, Đà Nẵng chỉnh trang đô thị. Nơi
cô ấy bán được giải tỏa để mở rộng đường. Cô ấy không còn bán cà phê, cô
ấy chuyển sang làm nghề khác. Tôi không còn cớ để gặp cô ấy. Chỉ còn
nỗi nhớ xốn xang. Nhiều lúc đi trên đường, bất chợt, tôi thấy một số xe
của ai đó, nếu chỉ cần có một con số hoặc chỉ cần màu xe gần giống xe cô
ấy là tôi lại nghĩ đến cô ấy, hoặc nhiều lúc tôi làm thơ, thơ đâu chẳng
thấy, chỉ thấy trên giấy tòan là tên cô ấy.
Tôi vẩn vơ nghĩ về cô ấy, nghĩ về
tình yêu. Tình yêu cũng như hoa kia. Bạn có thể thích hoa, nhưng đâu có
thể đem về nhà tất cả hoa mình thích .
Chỉ cần một cành hoa , nhà bạn cũng Tết rồi !
Tôi bắt tay chào Thanh. Tôi vào chợ hoa xuân. Trên đường về nhà, trên xe, một chậu mai vàng cùng tôi chào đón mùa xuân .
Phan Trang Hy
Mai Vàng Cát Trắng
- Ông chống liếp lên đi, tài bảy giờ qua mất rồi đó!
- Bảy giờ... à... bảy giờ - Ông lão ngồi dậy lơ mơ - Vậy thằng Cu Đen đâu?
- Nó vô núi hồi sớm. Bốn giờ tụi bạn đập liếp ầm ầm, ông dậy mà không nhớ à?
- Ừa - Lão đấm lưng, thả chân xuống bộ ván, theo thói quen quờ quờ tìm đôi dép. Sực nhớ, bữa qua con Ki Ki đã tha đâu mất một chiếc, lão húng hắng:
- Mai con Hai vô chợ, bà biểu nó mua giùm tui đôi dép. Tết nhất tới nơi rồi, hổng lẽ đi chân không...
Tiếng bà:
- Để tui nói. Mà ông chịu khó xỏ đôi của tui mấy bữa. Trời ơi, có đôi dép...
Mới bảy giờ hơn, nắng đã chang chang mặt lộ. Đôi ba phút vụt qua một chuyến xe. Cát ném lên mái lá rào rào. Cách bờ lộ một khoảng, anh thanh niên lưng tựa gốc cây. Mới sáng ra đã ngáp vặt. Thấy cái liếp quán kẹt nhẹ, anh thanh niên hượm đứng lên:
- Mở hàng trễ bác Hai? Tài bảy giờ qua mất rồi!
- Úi chao, nó qua kệ nó! Chắc đã bán được gì. Anh vô đây mà ngồi ghế. Sáng giờ buôn bán gì chưa?
- Buôn bán gì mấy cái gốc cây... - Anh thanh niên uể oải - Bác cho con thêm ba điếu thuốc. Hôm qua nữa là sáu, bác ha?
Tiếng bà già sau chái vọng lên:
- Sáu gì? Hôm nay ba nữa là bảy?
- Ờ, chập tối con lấy thêm một điếu lẻ, quên lửng. Bác nhớ ghi hết giùm con.
Bật quẹt châm điếu thuốc, mắt anh thanh niên nheo nheo. Hơi thuốc đầu ngày, ran ran ngón tay. Lòng hốt nhiên như có sóng:
- Cô Hai đi đâu sớm, bác?
- Nó vô làng, xay nhờ cối nếp. Làm mấy cái bánh in cho thằng nhỏ ăn Tết. Tội nghiệp...
- Hăm ba rồi, anh Hai có tin gì chưa bác?
Ông già vội liếc ra sau chái:
- Anh đừng hỏi lớn, bả nghe lại khóc cả đêm. Cái giống đàn bà ưa khóc đêm. Năm ngoái, chờ đến ba mươi nó có về đâu! - Lão lắc nhẹ đầu, nhìn mông mặt lộ. Đầu bắc hút vào cát trắng. Ngả nam ngợp tận núi xanh.
Thanh niên làng này cứ lớn là đi. Đi mãi, Tết nhất cũng chẳng thèm về. Nhưng bất chợt lâu lâu cũng thấy đám con nít bu đen đường xóm, ở giữa uy nghi một ống quần jeans áo vẽ. Tay xách vai mang. Bay mùi xà bông. Làng đêm ấy tự nhiên nghe tiếng cải lương inh ỏi. Vài hôm, thêm một đám trai nữa bỏ làng đi và cũng thêm những giọt nước mắt đêm đêm âm thầm nhỏ xuống...
Một chiếc xe du lịch tấp kít lề đường. Tiếng đàn bà nheo nhéo:
- Mày de lại chút coi.
Anh thanh niên bật dậy, vuốt vội vạt áo, hạ cái nón xuống tay, cuộn tròn:
- Dì coi mua giùm con một gốc về thành phố chưng Tết?
- Bây gọi ai là dì? Cái mặt muốn già hơn tao.
- Dạ... dạ- Anh thanh niên mặt đỏ rần - Dạ... chị...
- Bao nhiêu một gốc?
- Dạ, tùy, dì... chị ưa gốc nào, em nói giá gốc đó.
- Cái gốc giống ông thần tài kia bao nhiêu?
- Dạ thiệt tình, cái này giống quá mà. Bữa qua có xe ngang, trả em một trăm...
- Đó là bữa qua, chớ bữa nay bao nhiêu? Có cái gốc cây đào trong núi, vốn liếng gì đâu mà mắc quá vậy?!
- Dạ, em đi cả tháng, cực lắm. Đâu dễ tìm ra một cái gốc giống ông thần tài như vậy. Chị mua giùm em! Ở thành phố làm đâu có tự nhiên...
- Năm chục!
- Chị trả vậy tội em...
Ông lão nghe tiếng dập cửa xe...
- Bảy giờ... à... bảy giờ - Ông lão ngồi dậy lơ mơ - Vậy thằng Cu Đen đâu?
- Nó vô núi hồi sớm. Bốn giờ tụi bạn đập liếp ầm ầm, ông dậy mà không nhớ à?
- Ừa - Lão đấm lưng, thả chân xuống bộ ván, theo thói quen quờ quờ tìm đôi dép. Sực nhớ, bữa qua con Ki Ki đã tha đâu mất một chiếc, lão húng hắng:
- Mai con Hai vô chợ, bà biểu nó mua giùm tui đôi dép. Tết nhất tới nơi rồi, hổng lẽ đi chân không...
Tiếng bà:
- Để tui nói. Mà ông chịu khó xỏ đôi của tui mấy bữa. Trời ơi, có đôi dép...
Mới bảy giờ hơn, nắng đã chang chang mặt lộ. Đôi ba phút vụt qua một chuyến xe. Cát ném lên mái lá rào rào. Cách bờ lộ một khoảng, anh thanh niên lưng tựa gốc cây. Mới sáng ra đã ngáp vặt. Thấy cái liếp quán kẹt nhẹ, anh thanh niên hượm đứng lên:
- Mở hàng trễ bác Hai? Tài bảy giờ qua mất rồi!
- Úi chao, nó qua kệ nó! Chắc đã bán được gì. Anh vô đây mà ngồi ghế. Sáng giờ buôn bán gì chưa?
- Buôn bán gì mấy cái gốc cây... - Anh thanh niên uể oải - Bác cho con thêm ba điếu thuốc. Hôm qua nữa là sáu, bác ha?
Tiếng bà già sau chái vọng lên:
- Sáu gì? Hôm nay ba nữa là bảy?
- Ờ, chập tối con lấy thêm một điếu lẻ, quên lửng. Bác nhớ ghi hết giùm con.
Bật quẹt châm điếu thuốc, mắt anh thanh niên nheo nheo. Hơi thuốc đầu ngày, ran ran ngón tay. Lòng hốt nhiên như có sóng:
- Cô Hai đi đâu sớm, bác?
- Nó vô làng, xay nhờ cối nếp. Làm mấy cái bánh in cho thằng nhỏ ăn Tết. Tội nghiệp...
- Hăm ba rồi, anh Hai có tin gì chưa bác?
Ông già vội liếc ra sau chái:
- Anh đừng hỏi lớn, bả nghe lại khóc cả đêm. Cái giống đàn bà ưa khóc đêm. Năm ngoái, chờ đến ba mươi nó có về đâu! - Lão lắc nhẹ đầu, nhìn mông mặt lộ. Đầu bắc hút vào cát trắng. Ngả nam ngợp tận núi xanh.
Thanh niên làng này cứ lớn là đi. Đi mãi, Tết nhất cũng chẳng thèm về. Nhưng bất chợt lâu lâu cũng thấy đám con nít bu đen đường xóm, ở giữa uy nghi một ống quần jeans áo vẽ. Tay xách vai mang. Bay mùi xà bông. Làng đêm ấy tự nhiên nghe tiếng cải lương inh ỏi. Vài hôm, thêm một đám trai nữa bỏ làng đi và cũng thêm những giọt nước mắt đêm đêm âm thầm nhỏ xuống...
Một chiếc xe du lịch tấp kít lề đường. Tiếng đàn bà nheo nhéo:
- Mày de lại chút coi.
Anh thanh niên bật dậy, vuốt vội vạt áo, hạ cái nón xuống tay, cuộn tròn:
- Dì coi mua giùm con một gốc về thành phố chưng Tết?
- Bây gọi ai là dì? Cái mặt muốn già hơn tao.
- Dạ... dạ- Anh thanh niên mặt đỏ rần - Dạ... chị...
- Bao nhiêu một gốc?
- Dạ, tùy, dì... chị ưa gốc nào, em nói giá gốc đó.
- Cái gốc giống ông thần tài kia bao nhiêu?
- Dạ thiệt tình, cái này giống quá mà. Bữa qua có xe ngang, trả em một trăm...
- Đó là bữa qua, chớ bữa nay bao nhiêu? Có cái gốc cây đào trong núi, vốn liếng gì đâu mà mắc quá vậy?!
- Dạ, em đi cả tháng, cực lắm. Đâu dễ tìm ra một cái gốc giống ông thần tài như vậy. Chị mua giùm em! Ở thành phố làm đâu có tự nhiên...
- Năm chục!
- Chị trả vậy tội em...
Ông lão nghe tiếng dập cửa xe...
Anh thanh niên hiện về bên cửa. Thả mình xuống ghế. Chiếc nón vẫn vò
vò trong tay. Buồn. Anh rút thêm điếu thuốc. Hàng đã không bán được,
lại tốn thêm điếu thuốc.
- Bữa giờ bán mấy gốc rồi Tư?
- Mới hai gốc, chưa đủ bù công bác à.
Im lặng. Tàn điếu thuốc cong cong trên đầu hai ngón tay cột giẻ. Mấy vết nâu còn thấm ra ngoài. Trước sân, một cơn chốt nhỏ dựng lên mấy cọng cỏ khô. Vài cái bịch ni-lông bị máng lại trên mớ gai đám xương rồng, đang lay nhẹ dưới nắng. Chàng thanh niên rít hơi thuốc cuối, gẩy vội cái tàn ra sân. Con Ki Ki bật dậy, né cái tàn ngún khói.
Bà già bưng chồng bánh từ chái sau lên:
- Ông bắc giùm tui cái liếp.
- Bà lại phơi nữa làm gì? Có mấy cái bánh, ngày nào cũng phơi!
- Tui biểu thì ông làm đi. Mốc hết, Tết nhất lấy gì ăn.
Anh thanh niên bật dậy:
- Bác để con.
Tấm liếp ngả ngang sân. Bà già xếp bánh. Một chiếc xe qua. Bánh bay chấp chới. Bà già nhìn theo chiếc xe, chửi đổng:
- Tổ cha mày! - Đoạn quay sang anh thanh niên - Anh khiêng giùm tui vô trong kia. Khổ ghê, con trai biệt dạng. Dâu quần quật cả ngày. Còn thằng nhỏ, mờ sáng là đi...
- Cu Đen làm gì trong núi, bác?
- Nó theo đám bạn chặt mai. Mấy bữa rồi về không. Mai mỗi năm mỗi ít.
- Mà mai năm nay, nghe đâu được giá. Nó kiếm được đôi cành, đủ ăn Tết bác à.
- Tết nhất gì. Không khéo lọi giò ra đó.
Có tiếng xe lóc xóc. Chàng thanh niên bật dậy, ngoảnh vội phía sau:
- Hai... Hai về rồi!
Thiếu phụ gỡ nón, đứng lui vào bóng râm, quạt mạnh. Chàng thanh niên mau mắn gỡ cọng thun ràng cái thúng phía sau. Hai ngón tay băng cong lên, giật nhẹ.
- Hai xay bao nhiêu nếp?
- Đủ làm vài cái bánh thắp nhang ông bà. Với lại cho thằng nhỏ ăn Tết.
- Thúng sao nặng vậy?
- Gạo. Tui vừa lên chợ về.
Ông già vội vã hỏi ngay:
- Thế mày mua đôi dép cho ba chưa?
- Bữa giờ bán mấy gốc rồi Tư?
- Mới hai gốc, chưa đủ bù công bác à.
Im lặng. Tàn điếu thuốc cong cong trên đầu hai ngón tay cột giẻ. Mấy vết nâu còn thấm ra ngoài. Trước sân, một cơn chốt nhỏ dựng lên mấy cọng cỏ khô. Vài cái bịch ni-lông bị máng lại trên mớ gai đám xương rồng, đang lay nhẹ dưới nắng. Chàng thanh niên rít hơi thuốc cuối, gẩy vội cái tàn ra sân. Con Ki Ki bật dậy, né cái tàn ngún khói.
Bà già bưng chồng bánh từ chái sau lên:
- Ông bắc giùm tui cái liếp.
- Bà lại phơi nữa làm gì? Có mấy cái bánh, ngày nào cũng phơi!
- Tui biểu thì ông làm đi. Mốc hết, Tết nhất lấy gì ăn.
Anh thanh niên bật dậy:
- Bác để con.
Tấm liếp ngả ngang sân. Bà già xếp bánh. Một chiếc xe qua. Bánh bay chấp chới. Bà già nhìn theo chiếc xe, chửi đổng:
- Tổ cha mày! - Đoạn quay sang anh thanh niên - Anh khiêng giùm tui vô trong kia. Khổ ghê, con trai biệt dạng. Dâu quần quật cả ngày. Còn thằng nhỏ, mờ sáng là đi...
- Cu Đen làm gì trong núi, bác?
- Nó theo đám bạn chặt mai. Mấy bữa rồi về không. Mai mỗi năm mỗi ít.
- Mà mai năm nay, nghe đâu được giá. Nó kiếm được đôi cành, đủ ăn Tết bác à.
- Tết nhất gì. Không khéo lọi giò ra đó.
Có tiếng xe lóc xóc. Chàng thanh niên bật dậy, ngoảnh vội phía sau:
- Hai... Hai về rồi!
Thiếu phụ gỡ nón, đứng lui vào bóng râm, quạt mạnh. Chàng thanh niên mau mắn gỡ cọng thun ràng cái thúng phía sau. Hai ngón tay băng cong lên, giật nhẹ.
- Hai xay bao nhiêu nếp?
- Đủ làm vài cái bánh thắp nhang ông bà. Với lại cho thằng nhỏ ăn Tết.
- Thúng sao nặng vậy?
- Gạo. Tui vừa lên chợ về.
Ông già vội vã hỏi ngay:
- Thế mày mua đôi dép cho ba chưa?
Thiếu phụ nén tiếng thở dài:
- Dạ, ba chờ thêm ít bữa. Cận Tết hãy hay ba à. Sợ lạnh chân, ba mang đỡ đôi của con đi!
Ông già càm ràm:
- Hết bả biểu tui mang dép bả, giờ dâu lại biểu tui mang dép dâu. Riết rồi cái nhà này toàn đàn bà.
Bà già nhấm nhẳng:
- Tết nhất còn bao thứ không lo, cứ lo đôi dép. Mà quanh năm có đi đâu đâu, cứ đòi dép với guốc?!
Ông già xuôi giọng:
- Tui biết, tui biết. Là tui nói vậy thôi. Dép guốc làm gì. Già rồi...
Anh thanh niên nhanh miệng:
- Tối con để lại đôi của con cho bác mang. Ở nhà con còn đôi khác.
Thiếu phụ nhìn anh thanh niên:
- Đôi ở nhà là dép Tết. Mới sắm phải không?
Anh chàng đỏ mặt:
- Hai chọc quê tui hoài.
- Tui giỡn thôi. Biết giàu rồi. Một cái gốc cây kia bằng ba bốn đôi dép.
Nụ cười trên môi chàng trai như bị vuốt đi. Anh đứng thừ với cái thúng trên tay. Thiếu phụ rướn cổ nhìn ngang mặt chàng:
- Thôi, tui xin lỗi. Tư giận đó à?
- Không... - Chàng trai lắc đầu, bưng cái thúng về phía sau - Con để đâu hả bác?
Tiếng bà già:
- Nếp anh bỏ trên bàn. Gạo trút vô lu giùm tui.
Những hạt gạo đầu tiên rơi xuống lu loong coong.
Đổ gạo xong, chàng trai lặng lẽ vơ cái nón, bước ra sân, trở về ngồi nơi gốc cây ven lộ. Nắng rần rật mặt cát. Gió hập từng cơn. Biển xa, xa chói lói ngoài kia. Gió đầy vị muối. Chàng trai liếm môi. Muối vào tận môi anh. Mằn mặn. Chàng lại thèm thuốc. Sực nhớ ra điếu thuốc còn lại để quên trong cái gói trên bàn. Chàng gục đầu, mắt chui dưới nách nhìn vô. Thấy bóng thiếu phụ đang đứng vấn lại cái khăn trên đầu. Hình như cô cũng nhìn về phía anh. Chàng thanh niên vội vã đưa hai tay bưng mặt, kê nó trên đầu gối. Mấy ngón tay bị thương đau nhói, khẽ giật lên. Có nỗi gì vời vợi. Không phải sóng, không phải gió. Không phải tiếng mẹ ru hời. Sao nó cứ u hoang trỗi dài dằng dặc. Cái nỗi vời vợi ấy đã cắm phập vào chính mấy ngón tay anh đây. Khi quăng choảng con dao xuống đất, nhìn máu đổ ròng ròng, anh mới sực hiểu, hồn mình vừa trôi ra ngoài thân xác.
Từng chiếc xe vẫn vụt ngang trước mặt. Cái bóng cây thu vào tận gốc. Trưa rồi ư? Chàng thanh niên nhướn người, quơ cái giỏ treo trên cành cây. Lấy chai nước, tu một ngụm. Giở thêm cái gói lá. Vậy là sáng nay chẳng bán thêm được gốc nào. Mà ăn thì vẫn phải ăn.
- Tư vô nhà ăn cơm với tui.
Chàng trai giật ngoàng người. Hai bàn tay vặn lại như muốn bóp bẹp gói lá bên trong. Đó là cái bánh, làm bằng khoai mì luộc, giã nhừ, giữa bỏ miếng nhân đường tán nâu.
- Tui... tui ăn ngoài này được rồi. Hai cứ vô ăn với ông bà...
- Tư vô ăn chung. Có gì ăn đó. Hay là còn giận tui vụ dép guốc? - Thiếu phụ ráng làm mặt nghiêm nhưng môi cứ muốn bật cười trở lại.
- Không, tui có giận gì Hai đâu.
- Vậy vô nhà ăn cơm!
Chàng thanh niên mở cái giỏ, bỏ gói lá vào trong, định treo trở lại cành cây. Thiếu phụ vội đưa tay:
- Tư đem vô đi. Mọi người ăn bánh của Tư. Tư ăn cơm với mọi người.
- Dạ, ba chờ thêm ít bữa. Cận Tết hãy hay ba à. Sợ lạnh chân, ba mang đỡ đôi của con đi!
Ông già càm ràm:
- Hết bả biểu tui mang dép bả, giờ dâu lại biểu tui mang dép dâu. Riết rồi cái nhà này toàn đàn bà.
Bà già nhấm nhẳng:
- Tết nhất còn bao thứ không lo, cứ lo đôi dép. Mà quanh năm có đi đâu đâu, cứ đòi dép với guốc?!
Ông già xuôi giọng:
- Tui biết, tui biết. Là tui nói vậy thôi. Dép guốc làm gì. Già rồi...
Anh thanh niên nhanh miệng:
- Tối con để lại đôi của con cho bác mang. Ở nhà con còn đôi khác.
Thiếu phụ nhìn anh thanh niên:
- Đôi ở nhà là dép Tết. Mới sắm phải không?
Anh chàng đỏ mặt:
- Hai chọc quê tui hoài.
- Tui giỡn thôi. Biết giàu rồi. Một cái gốc cây kia bằng ba bốn đôi dép.
Nụ cười trên môi chàng trai như bị vuốt đi. Anh đứng thừ với cái thúng trên tay. Thiếu phụ rướn cổ nhìn ngang mặt chàng:
- Thôi, tui xin lỗi. Tư giận đó à?
- Không... - Chàng trai lắc đầu, bưng cái thúng về phía sau - Con để đâu hả bác?
Tiếng bà già:
- Nếp anh bỏ trên bàn. Gạo trút vô lu giùm tui.
Những hạt gạo đầu tiên rơi xuống lu loong coong.
Đổ gạo xong, chàng trai lặng lẽ vơ cái nón, bước ra sân, trở về ngồi nơi gốc cây ven lộ. Nắng rần rật mặt cát. Gió hập từng cơn. Biển xa, xa chói lói ngoài kia. Gió đầy vị muối. Chàng trai liếm môi. Muối vào tận môi anh. Mằn mặn. Chàng lại thèm thuốc. Sực nhớ ra điếu thuốc còn lại để quên trong cái gói trên bàn. Chàng gục đầu, mắt chui dưới nách nhìn vô. Thấy bóng thiếu phụ đang đứng vấn lại cái khăn trên đầu. Hình như cô cũng nhìn về phía anh. Chàng thanh niên vội vã đưa hai tay bưng mặt, kê nó trên đầu gối. Mấy ngón tay bị thương đau nhói, khẽ giật lên. Có nỗi gì vời vợi. Không phải sóng, không phải gió. Không phải tiếng mẹ ru hời. Sao nó cứ u hoang trỗi dài dằng dặc. Cái nỗi vời vợi ấy đã cắm phập vào chính mấy ngón tay anh đây. Khi quăng choảng con dao xuống đất, nhìn máu đổ ròng ròng, anh mới sực hiểu, hồn mình vừa trôi ra ngoài thân xác.
Từng chiếc xe vẫn vụt ngang trước mặt. Cái bóng cây thu vào tận gốc. Trưa rồi ư? Chàng thanh niên nhướn người, quơ cái giỏ treo trên cành cây. Lấy chai nước, tu một ngụm. Giở thêm cái gói lá. Vậy là sáng nay chẳng bán thêm được gốc nào. Mà ăn thì vẫn phải ăn.
- Tư vô nhà ăn cơm với tui.
Chàng trai giật ngoàng người. Hai bàn tay vặn lại như muốn bóp bẹp gói lá bên trong. Đó là cái bánh, làm bằng khoai mì luộc, giã nhừ, giữa bỏ miếng nhân đường tán nâu.
- Tui... tui ăn ngoài này được rồi. Hai cứ vô ăn với ông bà...
- Tư vô ăn chung. Có gì ăn đó. Hay là còn giận tui vụ dép guốc? - Thiếu phụ ráng làm mặt nghiêm nhưng môi cứ muốn bật cười trở lại.
- Không, tui có giận gì Hai đâu.
- Vậy vô nhà ăn cơm!
Chàng thanh niên mở cái giỏ, bỏ gói lá vào trong, định treo trở lại cành cây. Thiếu phụ vội đưa tay:
- Tư đem vô đi. Mọi người ăn bánh của Tư. Tư ăn cơm với mọi người.
Chàng thanh niên cười thèn lẹn, tay xách cái giỏ, đi theo thiếu phụ vô nhà.
Nồi cơm một sắc nâu nâu. Bà già lấy thêm xấp bánh. Bữa nay có cả bánh tráng cuốn cá hấp. Ba cái bánh chàng thanh niên đem theo được thiếu phụ bỏ ra giữa mâm. Chàng nhìn chúng, bàn tay cứ muốn thò ra cướp lại. Thiếu phụ bóc bánh, cắn một miếng:
- Ngon ghê. Bác ở nhà làm hả Tư ?
- Mẹ tui còn thấy đường đâu mà làm. Tui chế ra đó.
Thiếu phụ tự nhiên im lặng. Chỉ còn tiếng nhai và tiếng gió ngoài sân. Ông già cất giọng, như nói chuyện một mình. Ông kể chuyện xưa. Rất xưa. Thuở ông còn theo thuyền đi làm cá:
- Cực mà vui. Vui mà cực. Cực đến độ thằng Hai nhà này theo vài chuyến rồi bỏ lên bờ đi tuốt!
Thiếu phụ cười buồn:
- Ba nhắc ảnh hoài. Má buồn rồi kìa!
Bà già buông chạch đôi đũa, lắc đầu:
- Tao không buồn nữa. Nó có đi thêm ba cái Tết nữa tao cũng chẳng buồn! Con vợ nó có buồn thì buồn chớ tao hổng cần?
Nói xong, bà cất lưng buớc vội ra sau chái. Thiếu phụ nhìn theo thở dài:
- Má lại ra sau nhà khóc đó!
Ông già càm ràm:
- Đúng là đàn bà! Khóc bao lâu nay chưa hết nước mắt hay sao mà cứ khóc hoài?!
Chàng thanh niên cầm miếng bánh tráng cuốn trên tay, lóng ngóng không biết làm sao. Thiếu phụ vội hối:
- Tư ăn đi. Kệ má. Cả nhà quen mấy vụ này rồi!
Nói vậy, nhưng thiếu phụ lại ngồi thừ, buông đũa.
Đôi mắt ẩn dưới vành khăn như có cát. Cát nơi đây phủ bạc đời người. Những hài nhi rụng ra trên cát. Những cuộc tình vùi nhau trên cát. Cát cuống gót người đi, lặng lẽ đón nhận người về. Dưới mắt chàng trai, cát không còn sơ nguyên màu trắng. Cát hóa u huyền màu khói, đôi khi là màu đêm, cả màu của tiếng gì vẫn nhoi nhói dội lên trong đáy ngực...
- Ờ, nãy giờ quên mất thằng Đen! Nó ăn gì trong núi hả Hai?
- Kệ nó. Nó đi riết rồi cũng quen. Cứ tìm đồ ăn trong núi. Có khi vô rẫy người ta bẻ trái. Tui cũng mừng là nó biết tự lập!
- Năm nay nó bao nhiêu rồi, Hai?
- Tết này nữa là mười hai.
- Trời! Vậy nó sinh năm Hai mới... mười sáu?!
Thiếu phụ cắn một miếng bánh:
- Thôi, Tư ăn đi!
Bỗng có tiếng ông già la lớn:
- Tư, Tư! Xe tới, xe tới!
Chàng thanh niên ném miếng bánh ăn dở, ù ra mặt lộ như một cơn lốc. Thiếu phụ tựa cửa nheo mắt nhìn theo. Một ông trung niên đầu hói, chỉ người khiêng liền lên xe ba cái gốc cây hình thù vặn vẹo. Ông ta móc bóp, đặt vào tay chàng thanh niên mấy tờ bạc. Lại còn vỗ vỗ vai nói câu gì đó. Chàng thanh niên cuộn tròn mấy tờ bạc trong tay, vuốt nhẹ thành xe. Mắt dăn deo nước. Bóng xe đã khuất mờ mặt lộ, chàng vẫn đứng nhìn theo. Mồ hôi nhỏ xuống từ hai khóe cười đen đúa...
Thiếu phụ nói lớn:
- Vô mánh rồi heng!
Chàng thanh niên cũng cười:
- Ừa, mừng thiệt. Vậy là Tết năm nay má con tui đỡ cực! - Chàng nói vọng xuống chái sau - Bác Hai, cho con gởi tiền bảy điếu thuốc!
Nồi cơm một sắc nâu nâu. Bà già lấy thêm xấp bánh. Bữa nay có cả bánh tráng cuốn cá hấp. Ba cái bánh chàng thanh niên đem theo được thiếu phụ bỏ ra giữa mâm. Chàng nhìn chúng, bàn tay cứ muốn thò ra cướp lại. Thiếu phụ bóc bánh, cắn một miếng:
- Ngon ghê. Bác ở nhà làm hả Tư ?
- Mẹ tui còn thấy đường đâu mà làm. Tui chế ra đó.
Thiếu phụ tự nhiên im lặng. Chỉ còn tiếng nhai và tiếng gió ngoài sân. Ông già cất giọng, như nói chuyện một mình. Ông kể chuyện xưa. Rất xưa. Thuở ông còn theo thuyền đi làm cá:
- Cực mà vui. Vui mà cực. Cực đến độ thằng Hai nhà này theo vài chuyến rồi bỏ lên bờ đi tuốt!
Thiếu phụ cười buồn:
- Ba nhắc ảnh hoài. Má buồn rồi kìa!
Bà già buông chạch đôi đũa, lắc đầu:
- Tao không buồn nữa. Nó có đi thêm ba cái Tết nữa tao cũng chẳng buồn! Con vợ nó có buồn thì buồn chớ tao hổng cần?
Nói xong, bà cất lưng buớc vội ra sau chái. Thiếu phụ nhìn theo thở dài:
- Má lại ra sau nhà khóc đó!
Ông già càm ràm:
- Đúng là đàn bà! Khóc bao lâu nay chưa hết nước mắt hay sao mà cứ khóc hoài?!
Chàng thanh niên cầm miếng bánh tráng cuốn trên tay, lóng ngóng không biết làm sao. Thiếu phụ vội hối:
- Tư ăn đi. Kệ má. Cả nhà quen mấy vụ này rồi!
Nói vậy, nhưng thiếu phụ lại ngồi thừ, buông đũa.
Đôi mắt ẩn dưới vành khăn như có cát. Cát nơi đây phủ bạc đời người. Những hài nhi rụng ra trên cát. Những cuộc tình vùi nhau trên cát. Cát cuống gót người đi, lặng lẽ đón nhận người về. Dưới mắt chàng trai, cát không còn sơ nguyên màu trắng. Cát hóa u huyền màu khói, đôi khi là màu đêm, cả màu của tiếng gì vẫn nhoi nhói dội lên trong đáy ngực...
- Ờ, nãy giờ quên mất thằng Đen! Nó ăn gì trong núi hả Hai?
- Kệ nó. Nó đi riết rồi cũng quen. Cứ tìm đồ ăn trong núi. Có khi vô rẫy người ta bẻ trái. Tui cũng mừng là nó biết tự lập!
- Năm nay nó bao nhiêu rồi, Hai?
- Tết này nữa là mười hai.
- Trời! Vậy nó sinh năm Hai mới... mười sáu?!
Thiếu phụ cắn một miếng bánh:
- Thôi, Tư ăn đi!
Bỗng có tiếng ông già la lớn:
- Tư, Tư! Xe tới, xe tới!
Chàng thanh niên ném miếng bánh ăn dở, ù ra mặt lộ như một cơn lốc. Thiếu phụ tựa cửa nheo mắt nhìn theo. Một ông trung niên đầu hói, chỉ người khiêng liền lên xe ba cái gốc cây hình thù vặn vẹo. Ông ta móc bóp, đặt vào tay chàng thanh niên mấy tờ bạc. Lại còn vỗ vỗ vai nói câu gì đó. Chàng thanh niên cuộn tròn mấy tờ bạc trong tay, vuốt nhẹ thành xe. Mắt dăn deo nước. Bóng xe đã khuất mờ mặt lộ, chàng vẫn đứng nhìn theo. Mồ hôi nhỏ xuống từ hai khóe cười đen đúa...
Thiếu phụ nói lớn:
- Vô mánh rồi heng!
Chàng thanh niên cũng cười:
- Ừa, mừng thiệt. Vậy là Tết năm nay má con tui đỡ cực! - Chàng nói vọng xuống chái sau - Bác Hai, cho con gởi tiền bảy điếu thuốc!
Thiếu phụ nói khẽ:
- Tư đừng hút thuốc nữa!
- Vậy Hai bán cho ai? Mà tui muốn bỏ thuốc hồi nào hổng được. Có điều... buồn, cứ hút hoài!
- Tư nên dành dụm...
- Để làm gì Hai? Ăn không đủ, lấy gì dành dụm?
- Bộ Tư không tính lấy vợ sao?
Chàng thanh niên mắt xa xăm. Đầu lắc nhẹ...
- Sao Tư không trả lời?
- Sao Hai bắt ép tui hoài vậy?
- Ừ... thôi không nói nữa. Mà Tư...
- San hả Hai?
- Tư đừng bỏ làng đi là được. Đất này khó thiệt, nhưng vẫn nuôi được mình mà!
- Tui đi để má cho ai?
- Ờ há...
Chàng thanh niên quay trở lại bàn. Thuốc còn một điếu:
- Hai đừng cản tui nha. Tui hút hết điếu này rồi bỏ.
- Chắc không?
- Chắc!
- Hứa đi! Như em út hứa với chị Hai! Thiếu phụ phì cười, bưng mâm cơm ra chái sau nhà, chẳng đợi nghe chàng trai hứa. Khói thuốc khét lẹt. Đầu điếu thuốc cong gồ, nổ lép bép. Chàng trai nút hõm má. Con Ki Ki cuộn tròn một khoanh dưới chân chàng. Chàng thanh niên ngồi xuống, kéo xích con chó vô lòng, vuốt nhẹ: “Mày là đực hay cái hả con? À đực, mày tên Ki Ki mà! Mày giống tao. Ở đây xa làng, làm sao mày kiếm vợ đây Ki Ki?
Từ đó đến chiều, chàng trai hết đi ra gốc cây, ngồi chưa nóng chỗ lại thấp thỏm đi vô. Ngả chiều. Cái nóng càng thiêu đốt. Ông già nằm thiêm thiếp trên mặt ván. Hàng quán im lìm. Mấy con ruồi lười nhác bò rơn rơn chóp mũi ông.
- Thằng Đen sao giờ này chưa về hả bây?
- Kệ nó, nó lớn rồi, ba. Với lại nó đi cả đám bạn.
- Mấy bữa giờ này nó về rồi. Sao tao thấy sốt ruột quá...
Bà già lại nói vọng lên từ sau chái:
- Vả vô cái miệng ông! Già rồi rảnh, nằm đó mà nói bậy!
- Tội thằng nhỏ. Nó biểu tui, nếu bán được mai con mua cho nội đôi dép. Nó hối hận vì con Ki Ki của nó tha mất dép nội. Tìm cả buổi hổng ra. Chắc con Ki Ki tha ra lộ, mấy thằng ve chai lượm mất rồi.
Bà già nhấm nhẳng:
- Đó, nói vòng vo rồi cũng về chuyện dép.
Chàng thanh niên nhìn thiếu phụ:
- Thường mấy giờ thằng Đen về hả Hai?
Thiếu phụ nhìn lung con đường trước nhà. Bóng núi đã đổ rợp đến ven lộ:
- Mấy bữa thường giờ này nó về rồi.
- Hay để tui vô núi kiếm nó?
- Núi mênh mông vậy, Tư kiếm ngả nào? Mà thôi, nó lớn rồi, nó biết tự lo...
Chàng thanh niên nhìn thiếu phụ, ngại ngần:
- Nhưng tui biết Hai đang lo...
- Làm sao Tư hiểu nổi bụng tui? Mà thôi, để chặp nữa rồi hay.
- Tư đừng hút thuốc nữa!
- Vậy Hai bán cho ai? Mà tui muốn bỏ thuốc hồi nào hổng được. Có điều... buồn, cứ hút hoài!
- Tư nên dành dụm...
- Để làm gì Hai? Ăn không đủ, lấy gì dành dụm?
- Bộ Tư không tính lấy vợ sao?
Chàng thanh niên mắt xa xăm. Đầu lắc nhẹ...
- Sao Tư không trả lời?
- Sao Hai bắt ép tui hoài vậy?
- Ừ... thôi không nói nữa. Mà Tư...
- San hả Hai?
- Tư đừng bỏ làng đi là được. Đất này khó thiệt, nhưng vẫn nuôi được mình mà!
- Tui đi để má cho ai?
- Ờ há...
Chàng thanh niên quay trở lại bàn. Thuốc còn một điếu:
- Hai đừng cản tui nha. Tui hút hết điếu này rồi bỏ.
- Chắc không?
- Chắc!
- Hứa đi! Như em út hứa với chị Hai! Thiếu phụ phì cười, bưng mâm cơm ra chái sau nhà, chẳng đợi nghe chàng trai hứa. Khói thuốc khét lẹt. Đầu điếu thuốc cong gồ, nổ lép bép. Chàng trai nút hõm má. Con Ki Ki cuộn tròn một khoanh dưới chân chàng. Chàng thanh niên ngồi xuống, kéo xích con chó vô lòng, vuốt nhẹ: “Mày là đực hay cái hả con? À đực, mày tên Ki Ki mà! Mày giống tao. Ở đây xa làng, làm sao mày kiếm vợ đây Ki Ki?
Từ đó đến chiều, chàng trai hết đi ra gốc cây, ngồi chưa nóng chỗ lại thấp thỏm đi vô. Ngả chiều. Cái nóng càng thiêu đốt. Ông già nằm thiêm thiếp trên mặt ván. Hàng quán im lìm. Mấy con ruồi lười nhác bò rơn rơn chóp mũi ông.
- Thằng Đen sao giờ này chưa về hả bây?
- Kệ nó, nó lớn rồi, ba. Với lại nó đi cả đám bạn.
- Mấy bữa giờ này nó về rồi. Sao tao thấy sốt ruột quá...
Bà già lại nói vọng lên từ sau chái:
- Vả vô cái miệng ông! Già rồi rảnh, nằm đó mà nói bậy!
- Tội thằng nhỏ. Nó biểu tui, nếu bán được mai con mua cho nội đôi dép. Nó hối hận vì con Ki Ki của nó tha mất dép nội. Tìm cả buổi hổng ra. Chắc con Ki Ki tha ra lộ, mấy thằng ve chai lượm mất rồi.
Bà già nhấm nhẳng:
- Đó, nói vòng vo rồi cũng về chuyện dép.
Chàng thanh niên nhìn thiếu phụ:
- Thường mấy giờ thằng Đen về hả Hai?
Thiếu phụ nhìn lung con đường trước nhà. Bóng núi đã đổ rợp đến ven lộ:
- Mấy bữa thường giờ này nó về rồi.
- Hay để tui vô núi kiếm nó?
- Núi mênh mông vậy, Tư kiếm ngả nào? Mà thôi, nó lớn rồi, nó biết tự lo...
Chàng thanh niên nhìn thiếu phụ, ngại ngần:
- Nhưng tui biết Hai đang lo...
- Làm sao Tư hiểu nổi bụng tui? Mà thôi, để chặp nữa rồi hay.
Chàng trai thở dài, lại loanh quanh ra lộ. Một chiếc xe vụt qua,
chàng nhìn theo hút bóng cho đến khi nó tan trong những dải nhiệt nhập
nhòe: Phía ấy là hướng nam. Là thành phố. Là nơi những chàng trai tuổi
chàng lớp lớp ra đi. Điều gì níu chàng ở lại đây. Mẹ già! Còn điều gì
nữa? Quê hương! Chàng tự rùng mình - Còn gì... nữa? Cát! Cát ư? Cát ở
đâu? Cát ở mọi nơi! Cát vàng. Cát trắng. Và... cát khói, cát u huyền...
Phía cuối con đường xuất hiện bóng dáng một thằng nhỏ. Nó chạy lúc lắc. Thằng nhỏ rõ dần. Không phải Cu Đen! Chàng thanh niên chột dạ...
Thằng nhỏ vác trên vai một nhành mai lớn. Hoa bắt đầu chúm chím những nụ vàng. Nó chỉ dừng khi chàng trai giăng tay chặn lại. Thằng nhỏ bụng gập xuống, tay bưng ngực:
- Thằng Đen...
Thiếu phụ từ trong nhà lao ra:
- Thằng Đen... thằng Đen làm sao, con?
- Nó... nó... chặt được cành mai này. Lúc tuột xuống, nó cứ vác trên vai không chịu buông ra. Nó vướng. Nó tuột tay. Nó té...
Thiếu phụ gào lên. Bà già từ chái sau thốc tháo lao ra. Cả nhà nhốn nháo. Thằng nhỏ vẫn hổn hển:
- Nhưng nó hổng sao đâu! Chỉ lọi giò, đứng lên không nổi! Con đem cành mai này về trước cho nó. Còn mấy thằng kia ngồi canh...
Thiếu phụ cắm đầu lao về hướng núi:
- Má ở lại coi nhà!
Chàng thanh niên lặng lẽ chạy sau thiếu phụ:
- Hai chạy chậm thôi. Để tui với thằng nhỏ vô trước!
- Để tui đi với Tư.
Thằng nhỏ chen vô:
- Cô chú chạy từ từ, chờ con với. Thằng Đen đi hổng nổi, chớ vẫn cười!
Thiếu phụ cũng phải bật cười theo. Chàng thanh niên bàn:
- Lúc về, mình đi vòng ngoài kia núi, tới thẳng nhà bà lang Diệu.
- Mà khổ quá, nhà đang Tết nhất. Đến đôi dép của nội còn chưa mua nổi. Lấy gì chạy thuốc cho nó đây?
- Hai quên là tui...
- Hiểu rồi, Tư đừng nói nữa. Số tiền đó Tư còn phải lo cho má...
- Nếu Hai ngại, tui cho Hai mượn... Còn nhành mai kia... Thế nào chẳng có người mua... Mà biết đâu...
- Biết đâu cái gì hả Tư?
- Biết đâu Tết này ba thằng Đen sẽ về...
Thiếu phụ chùng bước chạy. Chàng trai lố thêm một đoạn nữa cũng dừng.
- Nếu ba thằng Đen về, Tư sẽ ghé nhà, ăn Tết với bọn tui chứ?
- Ủa, sao Hai hỏi tui vậy?
- À không... Mà thiệt... tui cũng vô duyên...
- Không... tui mới vô duyên...
Thiếu phụ cười, quay sang thằng nhỏ:
- Gần tới chưa con?
- Dạ, qua ngả này, lên đoạn nữa...
Thiếu phụ thở dài:
- Cái giống mai, nở làm gì một mình trong núi, đúng là vô duyên...
Chàng trai nối lời:
- Mà thằng Đen... không chịu buông nhành mai, để cho té cũng thiệt vô duyên?
- Ờ, hé...
Nắng chùng chình xuống núi. Chiều nhạt. Đã hết một ngày nhưng chưa hẳn tàn năm.
Phía cuối con đường xuất hiện bóng dáng một thằng nhỏ. Nó chạy lúc lắc. Thằng nhỏ rõ dần. Không phải Cu Đen! Chàng thanh niên chột dạ...
Thằng nhỏ vác trên vai một nhành mai lớn. Hoa bắt đầu chúm chím những nụ vàng. Nó chỉ dừng khi chàng trai giăng tay chặn lại. Thằng nhỏ bụng gập xuống, tay bưng ngực:
- Thằng Đen...
Thiếu phụ từ trong nhà lao ra:
- Thằng Đen... thằng Đen làm sao, con?
- Nó... nó... chặt được cành mai này. Lúc tuột xuống, nó cứ vác trên vai không chịu buông ra. Nó vướng. Nó tuột tay. Nó té...
Thiếu phụ gào lên. Bà già từ chái sau thốc tháo lao ra. Cả nhà nhốn nháo. Thằng nhỏ vẫn hổn hển:
- Nhưng nó hổng sao đâu! Chỉ lọi giò, đứng lên không nổi! Con đem cành mai này về trước cho nó. Còn mấy thằng kia ngồi canh...
Thiếu phụ cắm đầu lao về hướng núi:
- Má ở lại coi nhà!
Chàng thanh niên lặng lẽ chạy sau thiếu phụ:
- Hai chạy chậm thôi. Để tui với thằng nhỏ vô trước!
- Để tui đi với Tư.
Thằng nhỏ chen vô:
- Cô chú chạy từ từ, chờ con với. Thằng Đen đi hổng nổi, chớ vẫn cười!
Thiếu phụ cũng phải bật cười theo. Chàng thanh niên bàn:
- Lúc về, mình đi vòng ngoài kia núi, tới thẳng nhà bà lang Diệu.
- Mà khổ quá, nhà đang Tết nhất. Đến đôi dép của nội còn chưa mua nổi. Lấy gì chạy thuốc cho nó đây?
- Hai quên là tui...
- Hiểu rồi, Tư đừng nói nữa. Số tiền đó Tư còn phải lo cho má...
- Nếu Hai ngại, tui cho Hai mượn... Còn nhành mai kia... Thế nào chẳng có người mua... Mà biết đâu...
- Biết đâu cái gì hả Tư?
- Biết đâu Tết này ba thằng Đen sẽ về...
Thiếu phụ chùng bước chạy. Chàng trai lố thêm một đoạn nữa cũng dừng.
- Nếu ba thằng Đen về, Tư sẽ ghé nhà, ăn Tết với bọn tui chứ?
- Ủa, sao Hai hỏi tui vậy?
- À không... Mà thiệt... tui cũng vô duyên...
- Không... tui mới vô duyên...
Thiếu phụ cười, quay sang thằng nhỏ:
- Gần tới chưa con?
- Dạ, qua ngả này, lên đoạn nữa...
Thiếu phụ thở dài:
- Cái giống mai, nở làm gì một mình trong núi, đúng là vô duyên...
Chàng trai nối lời:
- Mà thằng Đen... không chịu buông nhành mai, để cho té cũng thiệt vô duyên?
- Ờ, hé...
Nắng chùng chình xuống núi. Chiều nhạt. Đã hết một ngày nhưng chưa hẳn tàn năm.
Nguyễn Danh Lam
Hoa Mai núi
Làng
gần tết, chợ hoa dọc đường Phan Bội Châu càng nhộn nhịp. Những người bán
hoa từ các huyện miền núi đổ về không còn chỗ đứng bán, chen lấn nhau
hai bên vỉa hè chật hẹp.
Sen loay hoay mãi mới tìm được chỗ đặt cây mai núi của mình xuống. Lẫn trong những cành mai vườn vươn cao với những bông hoa đã nở vàng màu nắng, cây mai của Sen khẳng khiu mấy cành vươn ra từ một gốc sần sùi già nua, li ti những búp chưa nở. Cứ nhìn vào gốc người ta cũng đoán được cây mai này đã có chừng trăm tuổi. Những người thích phô trương thường chọn mua những cành mai vườn. Cành nào cành nấy to khỏe, hoa nở to nhưng nhạt màu. Thứ hoa ấy thường để chưng trong những ngôi nhà sang trọng. Còn những người sành chơi mai thì thích mai núi. Cành nhỏ nhoi trên một gốc cây già, búp cũng nhỏ mà hoa cũng nhỏ nhưng màu vàng thật đậm. Cánh hoa mỏng mảnh như những mảnh vàng mười được sương nắng của thiên nhiên luyện thành. ở thành phố này, nơi núi và biển kề nhau, màu hoa mai núi có sắc biển pha thêm, tạo thành một màu rất lạ. Màu vàng ấy như một thứ quà của thiên nhiên riêng tặng mùa xuân và những ai thật thông hiểu về thiên nhiên, thời tiết mới cảm được vẻ đẹp thầm kín ấy.
Sen rất thích xuống chợ tết bán hoa. Cành hoa có khi chỉ bán được mươi mười lăm ngàn, chẳng bõ công cô phải vượt chặng đường gần ba mươi cây số từ trang trại nhà mình xuống thành phố. Mấy ngày hôm trước, ông Thuận, ba cô đã phải tìm mãi trong núi để tìm mai cho cô con gái cưng mang ra chợ. Ðó cũng là sở thích của ông từ ngày vợ con ông lên đây lập nghiệp. Hai mươi mấy năm rồi, từ hồi cả nhà ông chỉ có một túp lều ven suối đến nay ông đã có một cơ ngơi trồng mía đến mấy hecta. Thú tìm hoa trong núi vào những ngày cuối năm để nhờ ai đó mang xuống chợ bán vẫn không thay đổi. Khi Sen còn nhỏ, ông nhờ người quen bán giúp. Năm cô mười bảy tuổi, cưỡi được xe Honda 50 về thành phố, ông giao việc bán mai cho Sen, con gái đầu của mình.
Sen đã có bảy lần mang mai về chợ Tết. Lần này cô không còn đi chiếc xe 50 cũ kỹ, máy nổ lạch bạch. Cô đi trên chiếc Dream cáu cạnh. Mấy vụ mía vừa qua trúng đậm, ông Thuận chẳng tiếc gì với con mình, mua ngay một chiếc xe đời mới.Cô xuống chợ với bộ quần áo bình thường,tóc cặp gọn sau gáy, đội chiếc mũ vải mềm, chân đi dép Bitis có quai hậu. Chẳng có dáng dấp gì của một cô gái thành phố ngoài cặp mắt to, sáng và nụ cười rất duyên. Cô đứng lẫn giữa những người bán hoa trên hè phố, mắt mãi nhìn những bóng bay đủ màu của người bán bóng bên kia đường, quên cả việc có người đang mải ngắm gốc mai của cô.
- Dũng này! Gốc mai núi này đẹp quá!
Sen giật mình trước lời khen của hai chàng trai đang đứng trước mặt. Má cô nóng dần. ở trên quê, cô ít khi chạm trán với trai làng. Về dưới phố, người đông trời ơi đông. Sen cảm thấy ngượng ngùng nhưng với phận sự của người bán hoa, cô vẫn phải mời chào:
-Hai anh mua đi!
Nói xong được câu ấy. Sen như trút được một vật nặng ngàn cân đè nặng lên mình. Hai chàng trai đứng trước mặt trạc tuổi cô. Người bạn của Dũng sau khi làm xong nhiệm vụ tìm được cho bạn mình một gốc mai núi vừa ý, chàng liếc nhìn vẻ e lệ của Sen, nheo mắt sang phía Dũng:
-Thôi nhé, từ sáng đến giờ mới tìm được một cây mai như ý. Tớ hết nhiệm vụ. Chuyện mua bán bây giờ là của cậu. Tớ đi đây!
Người bạn của Dũng nói xong biến ngay vào dòng người đi chợ. Dũng ớ người, bối rối hết ngồi xuống ngắm cành mai lại đứng lên nhìn khuôn mặt đang hồng lên của Sen. Những cánh hoa mai ánh lên màu vàng trong nắng cuối đông và khuôn mặt ửng hồng có lúm đồng tiền của Sen khiến Dũng rơi vào trạng thái mơ màng,chàng như vừa uống xong một thứ rượu mạnh và đang lâng lâng trước hoa, trước người. Dũng nói vu vơ:
-Gốc mai này đẹp quá. Nhưng chặt đi thì thật là tiếc!
Sen mấp máy môi, định trả lời: Nếu không chặt đi, mang từ trên núi về đây, làm sao có cái cho anh ngắm lúc này?. Nhưng cô kìm lại được. Thấy Dũng cứ luống cuống trước mình, Sen cười thầm: Cái anh chàng thành phố này sao mà đa cảm, dễ thương đến thế. Và cô gỡ rối cho Dũng:
-Anh mua đi, em bán rẻ cho!
Dũng vụng về:
-Bao nhiêu tiền?
Sen cười, để lộ chiếc răng khểnh duyên dáng:
-Cành mai này, ba em phải bỏ công một ngày mới tìm thấy. Em phải cất công từ trên ấy xuống đây. Anh trả được bao nhiêu thì trả.
Dũng vò đầu. Cô gái không nêu giá cành mai, để cho anh tự định giá. Thật là một trò thách đố. Sen lại dồn Dũng vào một lúng túng khác. Nếu trả quá cao thì sợ bị hớ, quá thấp lại sợ Sen cười. Dũng đành lấp lửng:
-Tôi đã đi hai ba ngày mới gặp được cành này. Thật là một cành mai tuyệt đẹp. Nó như là một tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên. Tôi trả giá, hóa ra mình không hiểu gì về cái đẹp. Cành hoa này cô chỉ có thể tặng tôi!
Ðến lượt Sen bối rối. Vài người chen vào ngắm gốc mai ấy.Một cụ già ước tính:Gốc mai này bỏ rẻ cũng phải được hai trăm. Một người khác nói từ phía ngoài: Gốc mai ấy phải cỡ ba trăm. Sen không ngờ gốc mai năm nay lại được giá. Cô nhìn Dũng, thán phục lối trả lời thông minh của anh. Suy nghĩ một lúc, Sen đánh bạo nói:
- Nếu anh thích, em tặng anh gốc mai này!
Dũng sửng sốt, tưởng mình nghe nhầm. Nhưng Sen đã đặt gốc mai vào một chiếc rọ nhỏ trao anh. Những người xung quanh cũng sửng sốt. Cụ già thì hiểu, mỉm cười bỏ đi.
Sen dắt chiếc xe Drean định phóng đi chợt Dũng ngăn lại:
-Em tặng tôi gốc mai này thật sao? Về nhà em không sợ ba mắng?
-Không. Em thấy vui khi anh vừa lòng với gốc mai này.
-Tôi muốn tặng em một chút quà ngày tết. Gọi là mừng tuổi em.
-Thì anh hãy đợi tết đến.
- Lúc ấy biết tìm em ở đâu?
- Ở nơi có mai núi mọc.
-Tên em là gì?
- Anh cứ hỏi cô gái bán mai.
Sen nói xong và phóng xe đi. Dũng sững sờ nhìn theo bóng cô lẫn giữa dòng người.
2
Dũng đặt gốc mai vào một đôn sứ để trên bàn thờ ba. Ðó là một thói quen được định hình từ nhiều năm nay. Cứ mỗi độ xuân về, chị Hằng, má Dũng đều tìm bằng được một cành hay một gốc mai núi đặt trên bàn thờ chồng mình, anh Thái. Có lần Dũng hỏi: Sao má không đặt hoa khác lên bàn thờ ba, chỉ thờ hoa mai, lại là bông mai núi?. Chị Hằng trả lời con: Ba và má thành hôn đúng vào mùa xuân năm 1975. Lúc ấy, ở chiến khu chỉ có hoa mai là đẹp nhất. Ngày cưới, một chú bạn ba tặng một gốc mai núi thiệt đẹp. Ðể nhớ mùa xuân năm ấy, sau khi ba con mất, má chỉ cắm lên bàn thờ ba những bông mai núi.
Thấy Dũng cứ ngắm nghía gốc mai, chị Hằng từ ngoài bước vào, mỉm cười:
- Con mua gốc mai ấy bao nhiêu tiền?
- Mẹ đoán thử coi!
Chị Hằng quan sát vóc dáng gốc mai một lúc rồi mới đưa ra nhận xét.
-Người chọn đốn gốc mai này cũng là người sành chơi hoa. Nó có dáng một ông già đang ngồi. Theo má, gốc mai này tương đương với một tháng lương kỹ sư của con.
Dũng nhìn má:
-Nghĩa là ba trăm ngàn. Má đoán sai rồi. Gốc mai này người ta biếu không cho con. Ðến lượt chị Hằng ngạc nhiên:
- Ai tặng con thế? Bạn con?
- Không, một người lạ, hoàn toàn lạ!
-Má đoán, nếu người bán là đàn ông thì đó là một người say rượu. Còn đàn bà thì đó là một cô gái chưa chồng! Dũng cười, bước lại ôm lấy lưng má:
- Má đoán hay vậy. Ðúng là một cô gái tặng con!
- Nhà cô ta ở đâu?
-Cô ta không nói. Khi cô ta tặng gốc mai này cho con, con cũng không tin. Nhưng con cũng làm một động tác xã giao, con muốn tặng cô ta một món quà ngày tết cho xứng với giá trị của cành mai. Cô ấy bảo đến tết. Hỏi nhà thì nói ở nơi có nhiều mai núi. Hỏi tên, chỉ cười và nói là cô gái bán mai.
Chị Hằng cười, giấu một niềm vui đang dâng lên trong lòng. Cô gái ấy với những câu trả lời thật thông minh là một cô gái có học. Chị biết rõ trong tỉnh này nơi nào có nhiều mai núi, nói với con:
-Nhiều mai núi ở tỉnh mình chỉ có khu vực Diên Điền. Ngày xưa má và ba cưới nhau cũng ở đó.Thảo nào nhìn gốc mai này, má cứ ngờ ngợ. Ðây con xem, bông mai vừa hé nở này. Màu vàng của nó khác xa mai vườn. Ðây là loài mai núi pha sắc biển, chỉ vùng Diên Ðiền mới có.
3
Mồng hai tết, Dũng một mình một xe ngược hướng Diên Ðiền. Ðường nhựa thẳng băng, khúc đường vào chân núi đỏ au màu đất. Ðến một quán đầu thôn. Dũng mở hàng cho một bà cụ bán hàng và hỏi:
-Thưa cụ, con muốn tìm nhà một cô gái trong tết xuống chợ bán hoa mai.
Cụ già bỏm bẻm nhai trầu, vừa cười vừa nói:
Ở thôn này, nhiều đứa con gái lên núi tìm mai về bán chợ tết. Gái chưa chồng mà. Chú không nghe người ta nói: Gái chưa chồng lo lòng đi chợ. Khối cô đem mai về chợ rồi lấy được chồng. Chú phải tả khuôn mặt, dáng người chứ nói thế thì già chịu.
-Dạ, cô này chừng hai ba hai bốn, má lúm đồng tiền, hàm răng trắng đều và có một chiếc răng khểnh...
Cụ già ngẫm nghĩ một lúc như lục trong trí nhớ của mình vóc dáng người con gái như Dũng vừa tả. Chợt cụ cười to:
-Con bé Sen con đại úy Thuận. Nó đẹp nhất thôn này.
Ðúng rồi, trong tết nó phóng xe đi, sau xe có một cành mai. Chú thử đến đấy xem. Chạy xe chừng cây số dọc theo sườn núi sẽ gặp một rẫy mía bạt ngàn. Cứ theo con đường mòn mà đi là tới nhà nó.
Dũng chào bà cụ, đi theo con đường dưới chân núi. Nắng xuân mịn màng phủ vàng cây lá. Con đường nhỏ dần và khi chạm vào màu xanh của rẫy mía đang thì xanh lá, nó trở thành con đường mòn chỉ đủ một chiếc xe đi qua.Dũng như lạc giữa màu xanh điệp trùng của mía và khi gặp một con đường khác lớn hơn dẫn vào một ngôi nhà lớn giữa vườn cây, nỗi lo âu về chuyện lạc đường mới thật sự tan đi.
Ngôi nhà xây theo kiểu biệt thự, giống như ngôi nhà của má con Dũng đang ở. Má Dũng kể lại, đó là ngôi nhà của một viên đại úy cảnh sát được chia lại cho các cô chú trong sở công an. Má Dũng ở trong gian trước. Hai gian sau và dãy nhà ngang thuộc gia đình khác. Bây giờ gặp lại kiểu kiến trúc này, Dũng không khỏi ngạc nhiên, thán phục chủ nhà dẫu ở chốn sơn khê vẫn có con mắt thẩm mỹ về kiến trúc.
Ba bốn người đàn ông đứng tuổi đang uống rượu trong phòng khách. Thấy Dũng bước vào, đích thân chủ nhà, ông Thuận ra đón. Ông không hỏi Dũng tìm ai và kéo tay anh vào bàn tiệc.
-Năm mới em cứ vào đây uống với các bác ly rượu mừng xuân. Sau đó ta mới nói chuyện em ở đâu tới, lên đây tìm ai.
Trước vẻ chân tình của chủ nhà, Dũng mạnh dạn bước vào. Những người khách đứng dậy bắt tay Dũng. Họ có vẻ lam lũ nhưng khuôn mặt ai nấy rất tươi. Một người trong số họ nâng ly:
-Mừng đại úy năm nay trúng mùa mía nữa. Chủ nhà có vẻ không bằng lòng:
-Các ông bỏ ngay từ đại úy ấy đi. Giải phóng đã hai mươi bốn năm rồi, từ dạo con Sen còn trong bụng mẹ. Tôi bây giờ là một nông dân, không úy tá gì hết. Ta uống mừng nhau các bạn, cạn ly đi cháu!
Chợt nhìn thấy Dũng chưa có chén đũa, ông Thuận gọi với ra sau nhà:
- Sen, cho ba thêm cái chén!
Từ gian bên trong, Sen cầm chiếc chén trên tay bước ra. Cô chợt dừng lại, luống cuống muốn quay vào trong nhà khi biết người khách mới tới là người mua hoa dưới chợ. Trống ngực đánh thình thình, cô chết lặng đứng nép bên cửa. Dũng cũng đã nhận ra Sen. Ông Thuận và mấy người đàn ông trong bàn tiệc nhìn cả về phía Sen. Và họ chợt hiểu ra phần nào lý do về sự có mặt của chàng trai không mời mà tới.
Sau một thoáng bối rối, cuối cùng Sen phải giới thiệu Dũng với ba mình-Thưa ba, đây là người mua gốc mai của con hôm tết. Ông Thuận vồn vã bắt tay Dũng:
-Vậy hả? Sao mà cháu biết đường lên đây? Mà sao cháu mua gốc mai ấy đắt thế? Ba trăm ngàn! Chưa khi nào bác tìm được cây mai đắt giá đến vậy. Thôi ta uống đi cháu!
Sen như gà mắc tóc, lấy cái nọ nhầm sang cái kia. Cô đem lên rất nhiều đồ ăn, mặc dù các đĩa còn đầy. Cuối cùng, cô đứng một góc, nhìn trộm Dũng uống rượu với ba mình và những người khách. Ông Thuận mừng lắm. Ông rót rượu thêm cho Dũng, nói chuyện huyên thuyên:
-Cháu tên gì? Năm nay bao tuổi? Ðã có nghề nghiệp gì chưa? Chưa thì lên đây trồng mía với bác!
-Dạ cháu tên Dũng, cháu năm nay hai mươi bốn. Cháu vừa tốt nghiệp kỹ sư thủy sản.
-Hay lắm, cháu cùng tuổi với cái Sen nhà bác. Nó học được lắm nhưng đi học xa, bác bắt nó nghỉ học từ năm lớp sáu, cái năm con chị nó bị lũ cuốn trôi. Thôi năm mới không nói chuyện buồn. Cháu ở đường nào dưới đó?
- Dạ cháu ở đường Hùng Vương.
Ông Thuận đang nói bỗng dừng lại, chăm chú nhìn Dũng. Ông lặng lẽ nhấp một hơi rượu, hỏi Dũng lần nữa:
- Cháu ở đường Hùng Vương? Ðoạn nào vậy ta?
- Nhà cháu đối diện với doanh trại quân đội.
- Có phải trong ngôi nhà giống như ngôi nhà này?
- Dạ vâng.
Ông Thuận chợt im lặng. Da mặt ông tái nhợt, tay ông run run đánh rơi cả chiếc đũa. Mấy người bạn tưởng ông trúng gió bảo ông đi nằm. Dũng cũng tưởng ông uống quá nhiều rượu đâm ra say sẩm. Ông Thuận xin lỗi mọi người và đi vào nhà trong. Bữa tiệc đang vui phải dừng. Dũng trao cho Sen một gói quà mừng tuổi. Sen nghẹn ngào:
-Anh tìm được lên nhà em là quý rồi. Ít bữa nữa em sẽ xuống dưới đó.
-Em đến nhà anh chơi nhé? Ðịa chỉ anh có ghi trong này.
- Ừ để em xem đã.
Sen tiễn Dũng ra tận đầu thôn. Khi cô trở lại, ông Thuận đã bình phục, lặng lẽ ngồi một mình trong phòng khách. Thoáng thấy bóng Sen, ông gọi ngay vào.
-Sen, ba nói cho con hay, con không thể làm quen với cậu con trai đó. Sen giật mình, không rõ lý do liền hỏi lại:
-Vì sao vậy ba?
Ông Thuận nhìn con gái với vẻ bực bội khác thường và gắt toáng lên:
- Ba nói không là không, đừng hỏi nữa.
Ông Thuận bước đi trước sự ngỡ ngàng có chút sợ hãi của Sen.
4
Ông Thuận chuếnh choáng hơi men. Hình ảnh của Dũng cứ chờn vờn trước mặt ông. Phải, khuôn mặt ấy như đúc khuôn khuôn mặt của người chiến sỹ giải phóng đã bị ông bắn hạ trong ngày đầu quân giải phóng tiến vào thành phố.
Sáng hôm ấy, quân giải phóng đã rầm rầm từ các ngả tiến vào thành phố. Quân ngụy bỏ chạy tán loạn. Trong một bốt gác, một họng súng bất ngờ nhả đạn vào hai chiến sỹ biệt động. Ðó là Hằng và Thái. Nhìn thấy chớp lửa, Hằng kéo Thái nằm xuống. Nhưng không kịp, Thái trúng đạn, gục ngay tại chỗ. Quân giải phóng phát hiện ra ổ đề kháng, tới tấp nhả đạn và bao vây bắt sống được kẻ ngoan cố. Thuận run rẩy xin tha chết. Sau mười năm học tập cải tạo, Thuận về với vợ con trong túp lều trên miền sơn cước cheo leo này. Thuở ấy ở đây còn rậm rạp, trường học xa xôi, đứa con đầu của Thuận đã bị cuốn trôi khi đi học về. Bao nhiêu nỗi cay đắng gian truân đè nặng lên vai người đàn ông bốn mươi tuổi không biết cày cuốc là gì. Thuận đã phải đi núi đốt than nuôi vợ nuôi con. Một lần chở than về thành phố bán, tình cờ Thuận tạt qua nơi mình ở cũ. Ngôi nhà đã được chia cho người khác. Một người phụ nữ đang dẫn đứa con trai dạo chơi trong khoảng sân và Thuận nhận ra đó là vợ của thiếu úy Thái, người đã bị mình bắn lén ngày nào. Từ đó, Thuận không bao giờ trở về thành phố. Ðến khi có diện HO, ông không đăng ký sang Mỹ, quyết tâm ở lại làm bằng được những điều ông ấp ủ từ khi còn ở trong trại cải tạo. Ông sẽ xây một biệt thự như biệt thự ông đã xây dưới thành phố và làm giàu chính trên mảnh đất ông cắt rốn chôn rau. Những ước mơ ông đã thực hiện gần như trọn vẹn, ông đang vui mừng trước ngưỡng cửa của mùa xuân thì đột nhiên Dũng xuất hiện. Bóng đen của quá khứ hiện về và ông bị một nỗi ám ảnh dằn vặt. Ông là kẻ đã từng giết hại ba của chàng trai kia khi anh cũng trạc tuổi như cậu con trai ấy bây giờ. Ông sẽ nói gì với con gái ông về sự thật đã xẩy ra? Mặc dù sau đó nhờ cải tạo tốt và ông ra trại sớm nhưng món nợ máu ấy ông không bao giờ trả nổi. Ông phải tìm cách ngăn chặn đôi trẻ khi chúng mới quen nhau. Ông biết chúng không có tội tình gì và lớn lên một cách hồn nhiên trong lòng xã hội mới. Nhưng ông vẫn phân vân, một ngày kia khi bà mẹ của chàng trai biết được tung tích của con gái ông và ngăn cản hai đứa đến với nhau, cả hai đứa lúc ấy sẽ vô cùng đau khổ. Ông nuốt nước mắt vào lòng, rên rỉ với chính mình: Sen ơi, con tha lỗi cho ba!. Sự mệt mỏi và căng thẳng đã đưa ông Thuận vào giấc ngủ. Trong mơ, ông thấy tay mình đang xiết chặt cò súng. Bóng người chiến sỹ đội mũ tai bèo ngã xuống trước mắt ông. Ông hoảng loạn bỏ chạy và hét lên: Xin tha chết cho tôi!.
Khi vợ và các con ông bước vào, ông Thuận mới biết đó là một cơn ác mộng. Ông cầm tay Sen, nói như van:
-Ba xin con đừng làm quen với chàng trai ấy. Ba xin con...!
5
Trái với lời cầu khẩn của ba mình, ngày mồng mười tháng giêng, Sen về thành phố. Cô phải nói dối ông Thuận đi thăm một người bạn ngoài thị trấn. Lần theo địa chỉ Dũng viết cho cô trên thiệp chúc tết, Sen dễ dàng tìm ra nhà. Bấm chuông xong, Sen hồi hộp chờ đợi. Ðón cô không phải là Dũng mà là mẹ anh, chị Hằng. Mấy ngày hôm trước Dũng không dám đi đâu, sợ Sen đến chơi mà không gặp. Hôm ấy Dũng đi và dặn, nếu có người bạn gái nào tới chơi, má cứ tiếp giùm con và nói con sẽ về ngay. Với lời dặn của con như vậy, chị Hằng tiếp Sen khá niềm nở. Chị dọn bánh mứt mời Sen và không quên hỏi quê hỏi quán người bạn gái của con mình. Sen thật thà đáp:
-Nhà con trước cũng sống dưới này. Ba con là sỹ quan cảnh sát phải đi cải tạo đến mười năm lựng. Ba con sau đó không biết vì sao lại không đi HO. Bây giờ nhà con đã có một trang trại rộng cả mười mấy hecta trồng mía, nuôi bò trên Diên Ðiền. Vừa rồi anh Dũng cũng mới lên thăm...
Nghe cô gái nói, ba cô là sỹ quan cảnh sát, hiện đang là chủ một trang trại lớn trên vùng kinh tế mới, chị Hằng nghi ngờ. Chị hỏi tiếp:
-Thế ba con tên gì?
- Dạ, ba con tên Thuận!
Tim Hằng như thắt lại nhưng chị vẫn giữ được vẻ bình tĩnh khi nghe tên kẻ đã bắn chồng mình. Thời gian Thuận học tập cải tạo, với tư cách là một phó phòng của phòng điều tra xét hỏi, chị đã nhiều lần gặp Thuận. Lần nào gặp, Thuận cũng xin chị tha tội, hứa hễ còn sống là còn làm những điều tốt để chuộc lỗi lầm. Và chính chị cũng là người tác động để ban lãnh đạo trại để Thuận sớm về sum họp với gia đình. Mối thù ấy dù không bao giờ quên nhưng với kẻ đã biết hối cải, chị Hằng đã đổi hẳn cách nhìn. Sau này, một vài lần lên công tác trên khu kinh tế mới chị vẫn vui vẻ đến thăm vợ chồng Thuận. Bây giờ, đứa con gái của Thuận là bạn với con trai độc nhất của chị, thằng Dũng. Chị vẫn công nhận với Dũng nhận xét về Sen: đẹp gái, nết na, thùy mị và rất đáng yêu nhưng chị thấy hình nhưtrong sự quen biết ấy có một bức tường vô hình mà hai đứa sẽ không vượt qua nổi. Chị sẽ là một khối thủy tinh trong suốt làm trụ cột cho vật cản vô hình ấy. Chị không muốn cho mối quan hệ ấy ngày một sâu thêm liền nói dối Sen:
-Tiếc quá. Cháu đến chơi mà thằng Dũng nhà cô lại đi vắng. Nghe đâu đi ngày mai mới về.
Sen ngồi chơi một lúc rồi buồn bã ra về. Khi ra cổng, cô gặp ngay Thìn, bạn của Dũng, người cùng đi với Dũng trong chợ Tết. Người bạn ấy cứ ngờ ngợ nhìn Sen. Thất vọng vì không gặp được Dũng, Sen không chú ý đến người bạn của Dũng, cô chào chị Hằng và nổ máy lao đi.
Chừng tiếng đồng hồ sau, Dũng đi đâu về, vừa vào cổng đã to tiếng:
- Má, sao bạn con tới má không nói con sẽ về ngay? Chị Hằng đành dối con:
- Má ở nhà từ sáng tới giờ, có ai tới đâu?Dũng trở nên cáu kỉnh:
-Má nói dối. Thằng Thìn vừa nói với con, nó nhìn thấy cô gái trên Diên Ðiền đi với má từ trong nhà ra.
Chị Hằng im lặng. Hơn ai hết, chị hiểu và rất thương con mình. Từ ngày Thái mất đi, chị ở vậy nuôi con. Tất cả tình cảm chị đã dành cho Dũng. Chị cũng biết Dũng là đứa con ngoan, học giỏi và chưa kết bạn thân với cô gái nào. Trong mắt chị, có lẽ Dũng đã dành khá nhiều tình cảm cho cô gái trên vùng kinh tế mới. Tình cảm đó là chính đáng. Nhưng nếu con chị yêu cô gái nào khác, chị sẽ không ngăn cản. Ðằng này lại yêu ngay con của người đã bắn chết ba Dũng. Tình cảm đó tuy mới nhen nhúm nhưng dưới con mắt từng trải của mình, chị Hằng biết đó là cái mầm của một tình yêu đang nhú lên. Chị không muốn nói với Dũng thêm điều gì, lặng lẽ xuống bếp làm cơm, để Dũng như người mất hồn trong phòng khách.
6
Chủ nhật, Dũng lên nhà Sen. Ông Thuận đi vắng. Bà Thuận vì thương con, đã không ngăn cản việc Sen gặp Dũng. Sen đưa Dũng đi thăm rẫy. Họ ngồi xuống bên một gốc cây già. Nghe Dũng kể, hôm ấy nếu Sen ngồi thêm một giờ nữa thì sẽ gặp Dũng và Dũng đã nói với má mình như vậy. Nghe xong, Sen đưa ra lời nhận xét:
-Em cũng không biết vì sao cả má anh và ba em đều không muốn cho tụi mình quen nhau. Thôi anh đừng lên thăm em mà em sẽ xuống. Em có bà dì mở hiệu buôn ở ngay cổng chợ. Anh cứ đến đó vào giấc chín giờ sáng chủ nhật là gặp em. Em nói em về đi lễ nhà thờ chánh tòa là ba má em đồng ý ngay.
Dưới tán cây già, bóng nắng chỉ rót xuống những chấm tròn quanh nơi đôi trẻ đang ngồi. Mùi lá ải cay cay và gió núi phóng khoáng thổi tung tóc Sen. Hai người ngồi im lặng và lần đầu tiên Dũng được ngắm kỹ càng khuôn mặt trái xoan, đôi mắt to tròn của Sen. Sen rạo rực, muốn đứng dậy chạy vào khóm cây gần đó. Nhưng cô không thể. Cô cảm nhận được những gì Dũng muốn trao cô. Và Dũng như một người đang bị thôi miên, bàng hoàng trước vẻ đẹp thôn dã của một bông hoa mới nở. Anh ôm Sen vào lòng...
Từ đó, họ thường xuyên gặp nhau vào ngày chủ nhật. Mỗi lần gặp nhau, Dũng và Sen đi đến một quán cà phê vườn và Dũng khe khẽ hát: Ngày chủ nhật, ngày của riêng mình... Tình yêu của đôi trẻ lớn dần và Dũng định thưa chuyện với má...
7
Chị Hằng đã biết câu chuyện thầm kín của con mình. Một chiều chủ nhật Dũng vừa chỗ người quen tiễn Sen về, chị gọi Dũng vào nhà, nghiêm mặt nói với con:
-Dũng, con ngồi xuống đây, má có chuyện muốn nói với con!
Dũng chột dạ và hiểu điều má mình muốn nói. Chị Hằng lặng lẽ thắp một nén nhang trên bàn thờ chồng và bảo Dũng đến lạy. Chị Hằng hết nhìn tấm hình của Thái lại quay sang nhìn con. Nước mắt dàn dụa, chị nói với Dũng trong tiếng nấc:
-Con có lỗi lớn với ba con. Ðứa con gái mà con đang yêu thương, phải, chính ba nó đã bắn chết ba con!
Dũng trố mắt, không tin điều chị Hằng vừa nói. Chị phải nhắc lại lần nữa:
- Phải, chính ba nó đã bắn chết ba con!
Dũng chết lặng, từ từ đổ xuống chiếc ghế gần đó, tay ôm đầu. Chị Hằng nhẹ nhàng bước đến bên con, đặt bàn tay lên bờ vai đang nấc lên của Dũng:
-Má không cấm tình cảm của con. Nhưng con phải thương người nào khác kia. Con không được yêu cô gái đó!
Dũng khóc rất to. Anh đứng dậy, lảo đảo đến trước bàn thờ ba. Nước mắt nhạt nhòa, Dũng ngỡ ba mình từ khung bước ra, nói với anh: Ðúng, chính ba của cô gái đó đã bắn vào ba khi con còn trong bụng mẹ...
Dũng không có một sự lựa chọn nào khác và anh tự hứa với mình, sẽ cố gắng quên mối tình đang độ trăng tròn giữa anh và Sen.
8
Dũng cố nén lòng trong hai mùa trăng. Nhưng càng nén tình cảm ấy lại cứ bùng lên. Thành phố đã trải qua mùa hè nóng bức và mùa thu đang gõ cửa bằng những cơn mưa.
Dũng ngồi trong nhà nhìn những giọt mư rơi. Có những ngày anh đứng trên lầu cao của một khách sạn, nhìn những đám mây màu chì nhận chìm những dãy núi phía tây trong màn mưa. Nhớ Sen đến nao lòng, Dũng quyết định sẽ mạo hiểm lên Diên Ðiền thăm Sen.
Buổi sáng trời mâ to. Khi Dũng lên đến nhà Sen, chiếc cầu gỗ qua suối đã bị lũ cuốn trôi. Cách nhau chưa đầy mười mét, bên kia đã là con đường đất đỏ vào thôn mà Dũng hông sao sang được. Nhìn dòng suối cuồn cuộn tung bọt trắng, Dũng cắn môi và quyết lội qua suối.
Nước suối lạnh buốt. Chính Dũng cũng không ngờ nước lại chảy mạnh đến thế. Vừa bơi được hai sải tay, nước đã cuốn Dũng trôi xa. Dũng chới với, càng cố vượt lên càng bị lũ quét nhấn xuống. Anh tuyệt vọng, để dòng nước cuốn trôi.
Ông Thuận đứng bên này suối chờ Sen xuống thị trấn về chợt thấy người bị lũ cuốn trôi liền nhảy xuống cứu. Vật lộn với nước một quãng khá xa, ông mới cứu được Dũng lên bờ. Dũng uống no nước, bụng chướng căng mềm nhũn như một sợi bún trên tay ông. Ông Thuận uốn cong người Dũng trên vai mình, chạy một mạch không nghỉ. Nước trong bụng của Dũng trào ra. Ông dừng lại bên quán cóc của bà hàng nước, quạt lửa sưởi cho Dũng.
Khi khuôn mặt của Dũng dần dần hồng lên, đôi mắt hé mở cũng là lúc ông Thuận nhận ra người vừa được ông cứu là bạn của con gái mình. Sen cũng vừa về tới, lạnh người khi nhìn thấy Dũng nằm sóng soài trong vòng tay ông Thuận.
Bên ngoài, nước lũ vẫn gào thét và Sen chợt hiểu, Dũng vừa được ba cô cứu sống.
9
Hai ngày không thấy Dũng về, chị Hằng linh cảm có chuyện chẳng lành xẩy ra. Chị điện thoại đến nhà mấy người bạn Dũng nhưng cũng không ai biết Dũng đi đâu. Lòng như lửa đốt chị chẳng biết bày tỏ cùng ai, lại vào bàn thờ tâm sự với Thái. Anh ơi, con là tất cả đối với em. Nó có mệnh hệ gì, em sống sao nổi... Và như có ai mách bảo, chị chợt nhớ ra một địa chỉ có thể Dũng đang ở đó. Song chị lại nghi ngờ. Ðã hai tháng nay, Dũng không hề đi lại với cô gái tên Sen. Vậy thì Dũng đi đâu? Sau cùng, chị quyết định cứ lên Diên Ðiền tìm con.
Nước đã rút đi và chiếc cầu tạm đã được bắc qua suối. Chị Hằng không mất nhiều thì giờ để tìm đến nhà ông Thuận. Ông đang ngồi nói chuyện với một người khách trong nhà. Thấy có tiếng xe gắn máy, ông ngước nhìn về phía cổng và chợt ra người khách đó là chị Hằng. Ông bước ra sân đón chị với một chút hoảng sợ. Ông sẽ nói với chị thế nào về sự có mặt của Dũng trong nhà ông? Nhưng rồi, ông trấn tĩnh được, mời chị vào nhà và thông báo ngay:
-Cháu Dũng đang ở trong nhà tôi. Hôm nọ cháu chút nữa bị lũ cuốn trôi. Hai hôm nay đang sốt cao. Tôi phải mời bác sỹ về nhà điều trị.
10
Chị Hằng không nói được câu nào. Trước một sự việc đã xẩy ra quá bất ngờ, chị đành im lặng đi theo ông Thuận vào căn phòng nơi Dũng đang nằm.
Dũng nằm thiêm thiếp, mặt đỏ bừng, trán đắp một chiếc khăn ướt. Ngồi bên Dũng là Sen. Thấy chị Hằng bước vào, Sen lễ phép chào:
-Cháu chào cô!
Nghe có tiếng người, Dũng mở mắt. Chị Hằng nắm lấy tay con, mắt rơm rớm. Dũng thều thào.
- Má ơi, con bị nước lũ... May mà có bác Thuận...!
Nói được mấy câu ấy, mắt Dũng cũng rưng rưng lệ. Chị Hằng chợt hiểu ra tất cả. Qua màn sương nước mắt, chị nhìn ông Thuận thay cho lời cảm ơn. Người khách ở phòng ngoài là bác sỹ ở bệnh viện huyện được ông mời vào, thông báo với chị Hằng:
-Anh ấy bị viêm phế quản vì nhiễm lạnh. Hôm nay đã đỡ sốt và ăn được ít cháo. Chúng tôi đã điều trị rất tích cực, chẳng khác gì ở bệnh viện. Chị cứ yên tâm.
Chị Hằng ngồi với Dũng đến xế chiều. Trưa, gia đình ông Thuận mời cơm. Sen vẫn không rời Dũng một bước. Trong bữa cơm, ông Thuận vẫn tỏ ra rụt rè. Ông nhìn chị Hằng với đôi mắt kính nể và sợ hãi. Phát đạn trúng tim anh Thái do ông bắn ra đã hai mươi bốn năm. Ông bắn phát đạn đó trong cơn hoảng loạn. Người ta nhồi vào đầu ông những lời tuyên truyền xuyên tạc: Nếu anh không bắn vào họ, họ cũng sẽ bắn anh!. Sau này nhớ lại, ông cứ xót xa ân hận.
Người ta đã không trả thù ông. Sự khoan hồng của nhà nước cách mạng đã làm ông vô cùng cảm động. Nhưng đó là chuyện khác, chuyện của một quốc gia đối với những người lầm lỗi, trong đó có ông. Còn bây giờ là chuyện giữa ông và gia đình chị Hằng. Chị có tha lỗi cho ông không, ông cũng chưa biết. Và vì chưa biết nên ông sợ. Chị Hằng như nhận ra điều đó. Chị không muốn nhắc lại với ông về những trang buồn trong quá khứ. Khi biết tin chính ông Thuận đã cứu con chị, ngọn lửa của tha thứ cháy âm ỉ bấy lâu nay trong lòng chị bỗng bừng lên. Ðúng, chị sẽ tha thứ cho ông, kể cả điều tưởng chừng không tha thứ nổi. Chị thấy thương hai đứa trẻ. Con trai chị và con gái ông không lẽ phải gánh chịu những hậu quả của cuộc chiến tranh gây nên? Và khi nghĩ nhiều đến những ngày sắp đến và chuyển chủ đề sang chuyệnkhác.
-Vùng này khi xưa rất nhiều mai núi. Thứ mai núi pha sắc biển. Cả nhà tôi đều mê thứ hoa này.
Ông Thuận thở phào nhẹ nhõm. Một niềm vui mơ hồ đang tràn ngập lòng ông. Ông nói mà không cần rào đón:
-Ðể hôm nào cháu Dũng khỏe, tôi sẽ rủ nó đi tìm mấy gốc mai, bứng về cho vào chậu, gửi về dưới đó để chị chưng trong mấy ngày tết.
Chị Hằng cảm ơn ông. Và tuy chưa đến mùa xuân, chị vẫn hình dung những cành mai núi mang màu nắng của vùng chiến khu xưa sẽ nở rộ trong ngôi nhà của chị
Sen loay hoay mãi mới tìm được chỗ đặt cây mai núi của mình xuống. Lẫn trong những cành mai vườn vươn cao với những bông hoa đã nở vàng màu nắng, cây mai của Sen khẳng khiu mấy cành vươn ra từ một gốc sần sùi già nua, li ti những búp chưa nở. Cứ nhìn vào gốc người ta cũng đoán được cây mai này đã có chừng trăm tuổi. Những người thích phô trương thường chọn mua những cành mai vườn. Cành nào cành nấy to khỏe, hoa nở to nhưng nhạt màu. Thứ hoa ấy thường để chưng trong những ngôi nhà sang trọng. Còn những người sành chơi mai thì thích mai núi. Cành nhỏ nhoi trên một gốc cây già, búp cũng nhỏ mà hoa cũng nhỏ nhưng màu vàng thật đậm. Cánh hoa mỏng mảnh như những mảnh vàng mười được sương nắng của thiên nhiên luyện thành. ở thành phố này, nơi núi và biển kề nhau, màu hoa mai núi có sắc biển pha thêm, tạo thành một màu rất lạ. Màu vàng ấy như một thứ quà của thiên nhiên riêng tặng mùa xuân và những ai thật thông hiểu về thiên nhiên, thời tiết mới cảm được vẻ đẹp thầm kín ấy.
Sen rất thích xuống chợ tết bán hoa. Cành hoa có khi chỉ bán được mươi mười lăm ngàn, chẳng bõ công cô phải vượt chặng đường gần ba mươi cây số từ trang trại nhà mình xuống thành phố. Mấy ngày hôm trước, ông Thuận, ba cô đã phải tìm mãi trong núi để tìm mai cho cô con gái cưng mang ra chợ. Ðó cũng là sở thích của ông từ ngày vợ con ông lên đây lập nghiệp. Hai mươi mấy năm rồi, từ hồi cả nhà ông chỉ có một túp lều ven suối đến nay ông đã có một cơ ngơi trồng mía đến mấy hecta. Thú tìm hoa trong núi vào những ngày cuối năm để nhờ ai đó mang xuống chợ bán vẫn không thay đổi. Khi Sen còn nhỏ, ông nhờ người quen bán giúp. Năm cô mười bảy tuổi, cưỡi được xe Honda 50 về thành phố, ông giao việc bán mai cho Sen, con gái đầu của mình.
Sen đã có bảy lần mang mai về chợ Tết. Lần này cô không còn đi chiếc xe 50 cũ kỹ, máy nổ lạch bạch. Cô đi trên chiếc Dream cáu cạnh. Mấy vụ mía vừa qua trúng đậm, ông Thuận chẳng tiếc gì với con mình, mua ngay một chiếc xe đời mới.Cô xuống chợ với bộ quần áo bình thường,tóc cặp gọn sau gáy, đội chiếc mũ vải mềm, chân đi dép Bitis có quai hậu. Chẳng có dáng dấp gì của một cô gái thành phố ngoài cặp mắt to, sáng và nụ cười rất duyên. Cô đứng lẫn giữa những người bán hoa trên hè phố, mắt mãi nhìn những bóng bay đủ màu của người bán bóng bên kia đường, quên cả việc có người đang mải ngắm gốc mai của cô.
- Dũng này! Gốc mai núi này đẹp quá!
Sen giật mình trước lời khen của hai chàng trai đang đứng trước mặt. Má cô nóng dần. ở trên quê, cô ít khi chạm trán với trai làng. Về dưới phố, người đông trời ơi đông. Sen cảm thấy ngượng ngùng nhưng với phận sự của người bán hoa, cô vẫn phải mời chào:
-Hai anh mua đi!
Nói xong được câu ấy. Sen như trút được một vật nặng ngàn cân đè nặng lên mình. Hai chàng trai đứng trước mặt trạc tuổi cô. Người bạn của Dũng sau khi làm xong nhiệm vụ tìm được cho bạn mình một gốc mai núi vừa ý, chàng liếc nhìn vẻ e lệ của Sen, nheo mắt sang phía Dũng:
-Thôi nhé, từ sáng đến giờ mới tìm được một cây mai như ý. Tớ hết nhiệm vụ. Chuyện mua bán bây giờ là của cậu. Tớ đi đây!
Người bạn của Dũng nói xong biến ngay vào dòng người đi chợ. Dũng ớ người, bối rối hết ngồi xuống ngắm cành mai lại đứng lên nhìn khuôn mặt đang hồng lên của Sen. Những cánh hoa mai ánh lên màu vàng trong nắng cuối đông và khuôn mặt ửng hồng có lúm đồng tiền của Sen khiến Dũng rơi vào trạng thái mơ màng,chàng như vừa uống xong một thứ rượu mạnh và đang lâng lâng trước hoa, trước người. Dũng nói vu vơ:
-Gốc mai này đẹp quá. Nhưng chặt đi thì thật là tiếc!
Sen mấp máy môi, định trả lời: Nếu không chặt đi, mang từ trên núi về đây, làm sao có cái cho anh ngắm lúc này?. Nhưng cô kìm lại được. Thấy Dũng cứ luống cuống trước mình, Sen cười thầm: Cái anh chàng thành phố này sao mà đa cảm, dễ thương đến thế. Và cô gỡ rối cho Dũng:
-Anh mua đi, em bán rẻ cho!
Dũng vụng về:
-Bao nhiêu tiền?
Sen cười, để lộ chiếc răng khểnh duyên dáng:
-Cành mai này, ba em phải bỏ công một ngày mới tìm thấy. Em phải cất công từ trên ấy xuống đây. Anh trả được bao nhiêu thì trả.
Dũng vò đầu. Cô gái không nêu giá cành mai, để cho anh tự định giá. Thật là một trò thách đố. Sen lại dồn Dũng vào một lúng túng khác. Nếu trả quá cao thì sợ bị hớ, quá thấp lại sợ Sen cười. Dũng đành lấp lửng:
-Tôi đã đi hai ba ngày mới gặp được cành này. Thật là một cành mai tuyệt đẹp. Nó như là một tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên. Tôi trả giá, hóa ra mình không hiểu gì về cái đẹp. Cành hoa này cô chỉ có thể tặng tôi!
Ðến lượt Sen bối rối. Vài người chen vào ngắm gốc mai ấy.Một cụ già ước tính:Gốc mai này bỏ rẻ cũng phải được hai trăm. Một người khác nói từ phía ngoài: Gốc mai ấy phải cỡ ba trăm. Sen không ngờ gốc mai năm nay lại được giá. Cô nhìn Dũng, thán phục lối trả lời thông minh của anh. Suy nghĩ một lúc, Sen đánh bạo nói:
- Nếu anh thích, em tặng anh gốc mai này!
Dũng sửng sốt, tưởng mình nghe nhầm. Nhưng Sen đã đặt gốc mai vào một chiếc rọ nhỏ trao anh. Những người xung quanh cũng sửng sốt. Cụ già thì hiểu, mỉm cười bỏ đi.
Sen dắt chiếc xe Drean định phóng đi chợt Dũng ngăn lại:
-Em tặng tôi gốc mai này thật sao? Về nhà em không sợ ba mắng?
-Không. Em thấy vui khi anh vừa lòng với gốc mai này.
-Tôi muốn tặng em một chút quà ngày tết. Gọi là mừng tuổi em.
-Thì anh hãy đợi tết đến.
- Lúc ấy biết tìm em ở đâu?
- Ở nơi có mai núi mọc.
-Tên em là gì?
- Anh cứ hỏi cô gái bán mai.
Sen nói xong và phóng xe đi. Dũng sững sờ nhìn theo bóng cô lẫn giữa dòng người.
2
Dũng đặt gốc mai vào một đôn sứ để trên bàn thờ ba. Ðó là một thói quen được định hình từ nhiều năm nay. Cứ mỗi độ xuân về, chị Hằng, má Dũng đều tìm bằng được một cành hay một gốc mai núi đặt trên bàn thờ chồng mình, anh Thái. Có lần Dũng hỏi: Sao má không đặt hoa khác lên bàn thờ ba, chỉ thờ hoa mai, lại là bông mai núi?. Chị Hằng trả lời con: Ba và má thành hôn đúng vào mùa xuân năm 1975. Lúc ấy, ở chiến khu chỉ có hoa mai là đẹp nhất. Ngày cưới, một chú bạn ba tặng một gốc mai núi thiệt đẹp. Ðể nhớ mùa xuân năm ấy, sau khi ba con mất, má chỉ cắm lên bàn thờ ba những bông mai núi.
Thấy Dũng cứ ngắm nghía gốc mai, chị Hằng từ ngoài bước vào, mỉm cười:
- Con mua gốc mai ấy bao nhiêu tiền?
- Mẹ đoán thử coi!
Chị Hằng quan sát vóc dáng gốc mai một lúc rồi mới đưa ra nhận xét.
-Người chọn đốn gốc mai này cũng là người sành chơi hoa. Nó có dáng một ông già đang ngồi. Theo má, gốc mai này tương đương với một tháng lương kỹ sư của con.
Dũng nhìn má:
-Nghĩa là ba trăm ngàn. Má đoán sai rồi. Gốc mai này người ta biếu không cho con. Ðến lượt chị Hằng ngạc nhiên:
- Ai tặng con thế? Bạn con?
- Không, một người lạ, hoàn toàn lạ!
-Má đoán, nếu người bán là đàn ông thì đó là một người say rượu. Còn đàn bà thì đó là một cô gái chưa chồng! Dũng cười, bước lại ôm lấy lưng má:
- Má đoán hay vậy. Ðúng là một cô gái tặng con!
- Nhà cô ta ở đâu?
-Cô ta không nói. Khi cô ta tặng gốc mai này cho con, con cũng không tin. Nhưng con cũng làm một động tác xã giao, con muốn tặng cô ta một món quà ngày tết cho xứng với giá trị của cành mai. Cô ấy bảo đến tết. Hỏi nhà thì nói ở nơi có nhiều mai núi. Hỏi tên, chỉ cười và nói là cô gái bán mai.
Chị Hằng cười, giấu một niềm vui đang dâng lên trong lòng. Cô gái ấy với những câu trả lời thật thông minh là một cô gái có học. Chị biết rõ trong tỉnh này nơi nào có nhiều mai núi, nói với con:
-Nhiều mai núi ở tỉnh mình chỉ có khu vực Diên Điền. Ngày xưa má và ba cưới nhau cũng ở đó.Thảo nào nhìn gốc mai này, má cứ ngờ ngợ. Ðây con xem, bông mai vừa hé nở này. Màu vàng của nó khác xa mai vườn. Ðây là loài mai núi pha sắc biển, chỉ vùng Diên Ðiền mới có.
3
Mồng hai tết, Dũng một mình một xe ngược hướng Diên Ðiền. Ðường nhựa thẳng băng, khúc đường vào chân núi đỏ au màu đất. Ðến một quán đầu thôn. Dũng mở hàng cho một bà cụ bán hàng và hỏi:
-Thưa cụ, con muốn tìm nhà một cô gái trong tết xuống chợ bán hoa mai.
Cụ già bỏm bẻm nhai trầu, vừa cười vừa nói:
Ở thôn này, nhiều đứa con gái lên núi tìm mai về bán chợ tết. Gái chưa chồng mà. Chú không nghe người ta nói: Gái chưa chồng lo lòng đi chợ. Khối cô đem mai về chợ rồi lấy được chồng. Chú phải tả khuôn mặt, dáng người chứ nói thế thì già chịu.
-Dạ, cô này chừng hai ba hai bốn, má lúm đồng tiền, hàm răng trắng đều và có một chiếc răng khểnh...
Cụ già ngẫm nghĩ một lúc như lục trong trí nhớ của mình vóc dáng người con gái như Dũng vừa tả. Chợt cụ cười to:
-Con bé Sen con đại úy Thuận. Nó đẹp nhất thôn này.
Ðúng rồi, trong tết nó phóng xe đi, sau xe có một cành mai. Chú thử đến đấy xem. Chạy xe chừng cây số dọc theo sườn núi sẽ gặp một rẫy mía bạt ngàn. Cứ theo con đường mòn mà đi là tới nhà nó.
Dũng chào bà cụ, đi theo con đường dưới chân núi. Nắng xuân mịn màng phủ vàng cây lá. Con đường nhỏ dần và khi chạm vào màu xanh của rẫy mía đang thì xanh lá, nó trở thành con đường mòn chỉ đủ một chiếc xe đi qua.Dũng như lạc giữa màu xanh điệp trùng của mía và khi gặp một con đường khác lớn hơn dẫn vào một ngôi nhà lớn giữa vườn cây, nỗi lo âu về chuyện lạc đường mới thật sự tan đi.
Ngôi nhà xây theo kiểu biệt thự, giống như ngôi nhà của má con Dũng đang ở. Má Dũng kể lại, đó là ngôi nhà của một viên đại úy cảnh sát được chia lại cho các cô chú trong sở công an. Má Dũng ở trong gian trước. Hai gian sau và dãy nhà ngang thuộc gia đình khác. Bây giờ gặp lại kiểu kiến trúc này, Dũng không khỏi ngạc nhiên, thán phục chủ nhà dẫu ở chốn sơn khê vẫn có con mắt thẩm mỹ về kiến trúc.
Ba bốn người đàn ông đứng tuổi đang uống rượu trong phòng khách. Thấy Dũng bước vào, đích thân chủ nhà, ông Thuận ra đón. Ông không hỏi Dũng tìm ai và kéo tay anh vào bàn tiệc.
-Năm mới em cứ vào đây uống với các bác ly rượu mừng xuân. Sau đó ta mới nói chuyện em ở đâu tới, lên đây tìm ai.
Trước vẻ chân tình của chủ nhà, Dũng mạnh dạn bước vào. Những người khách đứng dậy bắt tay Dũng. Họ có vẻ lam lũ nhưng khuôn mặt ai nấy rất tươi. Một người trong số họ nâng ly:
-Mừng đại úy năm nay trúng mùa mía nữa. Chủ nhà có vẻ không bằng lòng:
-Các ông bỏ ngay từ đại úy ấy đi. Giải phóng đã hai mươi bốn năm rồi, từ dạo con Sen còn trong bụng mẹ. Tôi bây giờ là một nông dân, không úy tá gì hết. Ta uống mừng nhau các bạn, cạn ly đi cháu!
Chợt nhìn thấy Dũng chưa có chén đũa, ông Thuận gọi với ra sau nhà:
- Sen, cho ba thêm cái chén!
Từ gian bên trong, Sen cầm chiếc chén trên tay bước ra. Cô chợt dừng lại, luống cuống muốn quay vào trong nhà khi biết người khách mới tới là người mua hoa dưới chợ. Trống ngực đánh thình thình, cô chết lặng đứng nép bên cửa. Dũng cũng đã nhận ra Sen. Ông Thuận và mấy người đàn ông trong bàn tiệc nhìn cả về phía Sen. Và họ chợt hiểu ra phần nào lý do về sự có mặt của chàng trai không mời mà tới.
Sau một thoáng bối rối, cuối cùng Sen phải giới thiệu Dũng với ba mình-Thưa ba, đây là người mua gốc mai của con hôm tết. Ông Thuận vồn vã bắt tay Dũng:
-Vậy hả? Sao mà cháu biết đường lên đây? Mà sao cháu mua gốc mai ấy đắt thế? Ba trăm ngàn! Chưa khi nào bác tìm được cây mai đắt giá đến vậy. Thôi ta uống đi cháu!
Sen như gà mắc tóc, lấy cái nọ nhầm sang cái kia. Cô đem lên rất nhiều đồ ăn, mặc dù các đĩa còn đầy. Cuối cùng, cô đứng một góc, nhìn trộm Dũng uống rượu với ba mình và những người khách. Ông Thuận mừng lắm. Ông rót rượu thêm cho Dũng, nói chuyện huyên thuyên:
-Cháu tên gì? Năm nay bao tuổi? Ðã có nghề nghiệp gì chưa? Chưa thì lên đây trồng mía với bác!
-Dạ cháu tên Dũng, cháu năm nay hai mươi bốn. Cháu vừa tốt nghiệp kỹ sư thủy sản.
-Hay lắm, cháu cùng tuổi với cái Sen nhà bác. Nó học được lắm nhưng đi học xa, bác bắt nó nghỉ học từ năm lớp sáu, cái năm con chị nó bị lũ cuốn trôi. Thôi năm mới không nói chuyện buồn. Cháu ở đường nào dưới đó?
- Dạ cháu ở đường Hùng Vương.
Ông Thuận đang nói bỗng dừng lại, chăm chú nhìn Dũng. Ông lặng lẽ nhấp một hơi rượu, hỏi Dũng lần nữa:
- Cháu ở đường Hùng Vương? Ðoạn nào vậy ta?
- Nhà cháu đối diện với doanh trại quân đội.
- Có phải trong ngôi nhà giống như ngôi nhà này?
- Dạ vâng.
Ông Thuận chợt im lặng. Da mặt ông tái nhợt, tay ông run run đánh rơi cả chiếc đũa. Mấy người bạn tưởng ông trúng gió bảo ông đi nằm. Dũng cũng tưởng ông uống quá nhiều rượu đâm ra say sẩm. Ông Thuận xin lỗi mọi người và đi vào nhà trong. Bữa tiệc đang vui phải dừng. Dũng trao cho Sen một gói quà mừng tuổi. Sen nghẹn ngào:
-Anh tìm được lên nhà em là quý rồi. Ít bữa nữa em sẽ xuống dưới đó.
-Em đến nhà anh chơi nhé? Ðịa chỉ anh có ghi trong này.
- Ừ để em xem đã.
Sen tiễn Dũng ra tận đầu thôn. Khi cô trở lại, ông Thuận đã bình phục, lặng lẽ ngồi một mình trong phòng khách. Thoáng thấy bóng Sen, ông gọi ngay vào.
-Sen, ba nói cho con hay, con không thể làm quen với cậu con trai đó. Sen giật mình, không rõ lý do liền hỏi lại:
-Vì sao vậy ba?
Ông Thuận nhìn con gái với vẻ bực bội khác thường và gắt toáng lên:
- Ba nói không là không, đừng hỏi nữa.
Ông Thuận bước đi trước sự ngỡ ngàng có chút sợ hãi của Sen.
4
Ông Thuận chuếnh choáng hơi men. Hình ảnh của Dũng cứ chờn vờn trước mặt ông. Phải, khuôn mặt ấy như đúc khuôn khuôn mặt của người chiến sỹ giải phóng đã bị ông bắn hạ trong ngày đầu quân giải phóng tiến vào thành phố.
Sáng hôm ấy, quân giải phóng đã rầm rầm từ các ngả tiến vào thành phố. Quân ngụy bỏ chạy tán loạn. Trong một bốt gác, một họng súng bất ngờ nhả đạn vào hai chiến sỹ biệt động. Ðó là Hằng và Thái. Nhìn thấy chớp lửa, Hằng kéo Thái nằm xuống. Nhưng không kịp, Thái trúng đạn, gục ngay tại chỗ. Quân giải phóng phát hiện ra ổ đề kháng, tới tấp nhả đạn và bao vây bắt sống được kẻ ngoan cố. Thuận run rẩy xin tha chết. Sau mười năm học tập cải tạo, Thuận về với vợ con trong túp lều trên miền sơn cước cheo leo này. Thuở ấy ở đây còn rậm rạp, trường học xa xôi, đứa con đầu của Thuận đã bị cuốn trôi khi đi học về. Bao nhiêu nỗi cay đắng gian truân đè nặng lên vai người đàn ông bốn mươi tuổi không biết cày cuốc là gì. Thuận đã phải đi núi đốt than nuôi vợ nuôi con. Một lần chở than về thành phố bán, tình cờ Thuận tạt qua nơi mình ở cũ. Ngôi nhà đã được chia cho người khác. Một người phụ nữ đang dẫn đứa con trai dạo chơi trong khoảng sân và Thuận nhận ra đó là vợ của thiếu úy Thái, người đã bị mình bắn lén ngày nào. Từ đó, Thuận không bao giờ trở về thành phố. Ðến khi có diện HO, ông không đăng ký sang Mỹ, quyết tâm ở lại làm bằng được những điều ông ấp ủ từ khi còn ở trong trại cải tạo. Ông sẽ xây một biệt thự như biệt thự ông đã xây dưới thành phố và làm giàu chính trên mảnh đất ông cắt rốn chôn rau. Những ước mơ ông đã thực hiện gần như trọn vẹn, ông đang vui mừng trước ngưỡng cửa của mùa xuân thì đột nhiên Dũng xuất hiện. Bóng đen của quá khứ hiện về và ông bị một nỗi ám ảnh dằn vặt. Ông là kẻ đã từng giết hại ba của chàng trai kia khi anh cũng trạc tuổi như cậu con trai ấy bây giờ. Ông sẽ nói gì với con gái ông về sự thật đã xẩy ra? Mặc dù sau đó nhờ cải tạo tốt và ông ra trại sớm nhưng món nợ máu ấy ông không bao giờ trả nổi. Ông phải tìm cách ngăn chặn đôi trẻ khi chúng mới quen nhau. Ông biết chúng không có tội tình gì và lớn lên một cách hồn nhiên trong lòng xã hội mới. Nhưng ông vẫn phân vân, một ngày kia khi bà mẹ của chàng trai biết được tung tích của con gái ông và ngăn cản hai đứa đến với nhau, cả hai đứa lúc ấy sẽ vô cùng đau khổ. Ông nuốt nước mắt vào lòng, rên rỉ với chính mình: Sen ơi, con tha lỗi cho ba!. Sự mệt mỏi và căng thẳng đã đưa ông Thuận vào giấc ngủ. Trong mơ, ông thấy tay mình đang xiết chặt cò súng. Bóng người chiến sỹ đội mũ tai bèo ngã xuống trước mắt ông. Ông hoảng loạn bỏ chạy và hét lên: Xin tha chết cho tôi!.
Khi vợ và các con ông bước vào, ông Thuận mới biết đó là một cơn ác mộng. Ông cầm tay Sen, nói như van:
-Ba xin con đừng làm quen với chàng trai ấy. Ba xin con...!
5
Trái với lời cầu khẩn của ba mình, ngày mồng mười tháng giêng, Sen về thành phố. Cô phải nói dối ông Thuận đi thăm một người bạn ngoài thị trấn. Lần theo địa chỉ Dũng viết cho cô trên thiệp chúc tết, Sen dễ dàng tìm ra nhà. Bấm chuông xong, Sen hồi hộp chờ đợi. Ðón cô không phải là Dũng mà là mẹ anh, chị Hằng. Mấy ngày hôm trước Dũng không dám đi đâu, sợ Sen đến chơi mà không gặp. Hôm ấy Dũng đi và dặn, nếu có người bạn gái nào tới chơi, má cứ tiếp giùm con và nói con sẽ về ngay. Với lời dặn của con như vậy, chị Hằng tiếp Sen khá niềm nở. Chị dọn bánh mứt mời Sen và không quên hỏi quê hỏi quán người bạn gái của con mình. Sen thật thà đáp:
-Nhà con trước cũng sống dưới này. Ba con là sỹ quan cảnh sát phải đi cải tạo đến mười năm lựng. Ba con sau đó không biết vì sao lại không đi HO. Bây giờ nhà con đã có một trang trại rộng cả mười mấy hecta trồng mía, nuôi bò trên Diên Ðiền. Vừa rồi anh Dũng cũng mới lên thăm...
Nghe cô gái nói, ba cô là sỹ quan cảnh sát, hiện đang là chủ một trang trại lớn trên vùng kinh tế mới, chị Hằng nghi ngờ. Chị hỏi tiếp:
-Thế ba con tên gì?
- Dạ, ba con tên Thuận!
Tim Hằng như thắt lại nhưng chị vẫn giữ được vẻ bình tĩnh khi nghe tên kẻ đã bắn chồng mình. Thời gian Thuận học tập cải tạo, với tư cách là một phó phòng của phòng điều tra xét hỏi, chị đã nhiều lần gặp Thuận. Lần nào gặp, Thuận cũng xin chị tha tội, hứa hễ còn sống là còn làm những điều tốt để chuộc lỗi lầm. Và chính chị cũng là người tác động để ban lãnh đạo trại để Thuận sớm về sum họp với gia đình. Mối thù ấy dù không bao giờ quên nhưng với kẻ đã biết hối cải, chị Hằng đã đổi hẳn cách nhìn. Sau này, một vài lần lên công tác trên khu kinh tế mới chị vẫn vui vẻ đến thăm vợ chồng Thuận. Bây giờ, đứa con gái của Thuận là bạn với con trai độc nhất của chị, thằng Dũng. Chị vẫn công nhận với Dũng nhận xét về Sen: đẹp gái, nết na, thùy mị và rất đáng yêu nhưng chị thấy hình nhưtrong sự quen biết ấy có một bức tường vô hình mà hai đứa sẽ không vượt qua nổi. Chị sẽ là một khối thủy tinh trong suốt làm trụ cột cho vật cản vô hình ấy. Chị không muốn cho mối quan hệ ấy ngày một sâu thêm liền nói dối Sen:
-Tiếc quá. Cháu đến chơi mà thằng Dũng nhà cô lại đi vắng. Nghe đâu đi ngày mai mới về.
Sen ngồi chơi một lúc rồi buồn bã ra về. Khi ra cổng, cô gặp ngay Thìn, bạn của Dũng, người cùng đi với Dũng trong chợ Tết. Người bạn ấy cứ ngờ ngợ nhìn Sen. Thất vọng vì không gặp được Dũng, Sen không chú ý đến người bạn của Dũng, cô chào chị Hằng và nổ máy lao đi.
Chừng tiếng đồng hồ sau, Dũng đi đâu về, vừa vào cổng đã to tiếng:
- Má, sao bạn con tới má không nói con sẽ về ngay? Chị Hằng đành dối con:
- Má ở nhà từ sáng tới giờ, có ai tới đâu?Dũng trở nên cáu kỉnh:
-Má nói dối. Thằng Thìn vừa nói với con, nó nhìn thấy cô gái trên Diên Ðiền đi với má từ trong nhà ra.
Chị Hằng im lặng. Hơn ai hết, chị hiểu và rất thương con mình. Từ ngày Thái mất đi, chị ở vậy nuôi con. Tất cả tình cảm chị đã dành cho Dũng. Chị cũng biết Dũng là đứa con ngoan, học giỏi và chưa kết bạn thân với cô gái nào. Trong mắt chị, có lẽ Dũng đã dành khá nhiều tình cảm cho cô gái trên vùng kinh tế mới. Tình cảm đó là chính đáng. Nhưng nếu con chị yêu cô gái nào khác, chị sẽ không ngăn cản. Ðằng này lại yêu ngay con của người đã bắn chết ba Dũng. Tình cảm đó tuy mới nhen nhúm nhưng dưới con mắt từng trải của mình, chị Hằng biết đó là cái mầm của một tình yêu đang nhú lên. Chị không muốn nói với Dũng thêm điều gì, lặng lẽ xuống bếp làm cơm, để Dũng như người mất hồn trong phòng khách.
6
Chủ nhật, Dũng lên nhà Sen. Ông Thuận đi vắng. Bà Thuận vì thương con, đã không ngăn cản việc Sen gặp Dũng. Sen đưa Dũng đi thăm rẫy. Họ ngồi xuống bên một gốc cây già. Nghe Dũng kể, hôm ấy nếu Sen ngồi thêm một giờ nữa thì sẽ gặp Dũng và Dũng đã nói với má mình như vậy. Nghe xong, Sen đưa ra lời nhận xét:
-Em cũng không biết vì sao cả má anh và ba em đều không muốn cho tụi mình quen nhau. Thôi anh đừng lên thăm em mà em sẽ xuống. Em có bà dì mở hiệu buôn ở ngay cổng chợ. Anh cứ đến đó vào giấc chín giờ sáng chủ nhật là gặp em. Em nói em về đi lễ nhà thờ chánh tòa là ba má em đồng ý ngay.
Dưới tán cây già, bóng nắng chỉ rót xuống những chấm tròn quanh nơi đôi trẻ đang ngồi. Mùi lá ải cay cay và gió núi phóng khoáng thổi tung tóc Sen. Hai người ngồi im lặng và lần đầu tiên Dũng được ngắm kỹ càng khuôn mặt trái xoan, đôi mắt to tròn của Sen. Sen rạo rực, muốn đứng dậy chạy vào khóm cây gần đó. Nhưng cô không thể. Cô cảm nhận được những gì Dũng muốn trao cô. Và Dũng như một người đang bị thôi miên, bàng hoàng trước vẻ đẹp thôn dã của một bông hoa mới nở. Anh ôm Sen vào lòng...
Từ đó, họ thường xuyên gặp nhau vào ngày chủ nhật. Mỗi lần gặp nhau, Dũng và Sen đi đến một quán cà phê vườn và Dũng khe khẽ hát: Ngày chủ nhật, ngày của riêng mình... Tình yêu của đôi trẻ lớn dần và Dũng định thưa chuyện với má...
7
Chị Hằng đã biết câu chuyện thầm kín của con mình. Một chiều chủ nhật Dũng vừa chỗ người quen tiễn Sen về, chị gọi Dũng vào nhà, nghiêm mặt nói với con:
-Dũng, con ngồi xuống đây, má có chuyện muốn nói với con!
Dũng chột dạ và hiểu điều má mình muốn nói. Chị Hằng lặng lẽ thắp một nén nhang trên bàn thờ chồng và bảo Dũng đến lạy. Chị Hằng hết nhìn tấm hình của Thái lại quay sang nhìn con. Nước mắt dàn dụa, chị nói với Dũng trong tiếng nấc:
-Con có lỗi lớn với ba con. Ðứa con gái mà con đang yêu thương, phải, chính ba nó đã bắn chết ba con!
Dũng trố mắt, không tin điều chị Hằng vừa nói. Chị phải nhắc lại lần nữa:
- Phải, chính ba nó đã bắn chết ba con!
Dũng chết lặng, từ từ đổ xuống chiếc ghế gần đó, tay ôm đầu. Chị Hằng nhẹ nhàng bước đến bên con, đặt bàn tay lên bờ vai đang nấc lên của Dũng:
-Má không cấm tình cảm của con. Nhưng con phải thương người nào khác kia. Con không được yêu cô gái đó!
Dũng khóc rất to. Anh đứng dậy, lảo đảo đến trước bàn thờ ba. Nước mắt nhạt nhòa, Dũng ngỡ ba mình từ khung bước ra, nói với anh: Ðúng, chính ba của cô gái đó đã bắn vào ba khi con còn trong bụng mẹ...
Dũng không có một sự lựa chọn nào khác và anh tự hứa với mình, sẽ cố gắng quên mối tình đang độ trăng tròn giữa anh và Sen.
8
Dũng cố nén lòng trong hai mùa trăng. Nhưng càng nén tình cảm ấy lại cứ bùng lên. Thành phố đã trải qua mùa hè nóng bức và mùa thu đang gõ cửa bằng những cơn mưa.
Dũng ngồi trong nhà nhìn những giọt mư rơi. Có những ngày anh đứng trên lầu cao của một khách sạn, nhìn những đám mây màu chì nhận chìm những dãy núi phía tây trong màn mưa. Nhớ Sen đến nao lòng, Dũng quyết định sẽ mạo hiểm lên Diên Ðiền thăm Sen.
Buổi sáng trời mâ to. Khi Dũng lên đến nhà Sen, chiếc cầu gỗ qua suối đã bị lũ cuốn trôi. Cách nhau chưa đầy mười mét, bên kia đã là con đường đất đỏ vào thôn mà Dũng hông sao sang được. Nhìn dòng suối cuồn cuộn tung bọt trắng, Dũng cắn môi và quyết lội qua suối.
Nước suối lạnh buốt. Chính Dũng cũng không ngờ nước lại chảy mạnh đến thế. Vừa bơi được hai sải tay, nước đã cuốn Dũng trôi xa. Dũng chới với, càng cố vượt lên càng bị lũ quét nhấn xuống. Anh tuyệt vọng, để dòng nước cuốn trôi.
Ông Thuận đứng bên này suối chờ Sen xuống thị trấn về chợt thấy người bị lũ cuốn trôi liền nhảy xuống cứu. Vật lộn với nước một quãng khá xa, ông mới cứu được Dũng lên bờ. Dũng uống no nước, bụng chướng căng mềm nhũn như một sợi bún trên tay ông. Ông Thuận uốn cong người Dũng trên vai mình, chạy một mạch không nghỉ. Nước trong bụng của Dũng trào ra. Ông dừng lại bên quán cóc của bà hàng nước, quạt lửa sưởi cho Dũng.
Khi khuôn mặt của Dũng dần dần hồng lên, đôi mắt hé mở cũng là lúc ông Thuận nhận ra người vừa được ông cứu là bạn của con gái mình. Sen cũng vừa về tới, lạnh người khi nhìn thấy Dũng nằm sóng soài trong vòng tay ông Thuận.
Bên ngoài, nước lũ vẫn gào thét và Sen chợt hiểu, Dũng vừa được ba cô cứu sống.
9
Hai ngày không thấy Dũng về, chị Hằng linh cảm có chuyện chẳng lành xẩy ra. Chị điện thoại đến nhà mấy người bạn Dũng nhưng cũng không ai biết Dũng đi đâu. Lòng như lửa đốt chị chẳng biết bày tỏ cùng ai, lại vào bàn thờ tâm sự với Thái. Anh ơi, con là tất cả đối với em. Nó có mệnh hệ gì, em sống sao nổi... Và như có ai mách bảo, chị chợt nhớ ra một địa chỉ có thể Dũng đang ở đó. Song chị lại nghi ngờ. Ðã hai tháng nay, Dũng không hề đi lại với cô gái tên Sen. Vậy thì Dũng đi đâu? Sau cùng, chị quyết định cứ lên Diên Ðiền tìm con.
Nước đã rút đi và chiếc cầu tạm đã được bắc qua suối. Chị Hằng không mất nhiều thì giờ để tìm đến nhà ông Thuận. Ông đang ngồi nói chuyện với một người khách trong nhà. Thấy có tiếng xe gắn máy, ông ngước nhìn về phía cổng và chợt ra người khách đó là chị Hằng. Ông bước ra sân đón chị với một chút hoảng sợ. Ông sẽ nói với chị thế nào về sự có mặt của Dũng trong nhà ông? Nhưng rồi, ông trấn tĩnh được, mời chị vào nhà và thông báo ngay:
-Cháu Dũng đang ở trong nhà tôi. Hôm nọ cháu chút nữa bị lũ cuốn trôi. Hai hôm nay đang sốt cao. Tôi phải mời bác sỹ về nhà điều trị.
10
Chị Hằng không nói được câu nào. Trước một sự việc đã xẩy ra quá bất ngờ, chị đành im lặng đi theo ông Thuận vào căn phòng nơi Dũng đang nằm.
Dũng nằm thiêm thiếp, mặt đỏ bừng, trán đắp một chiếc khăn ướt. Ngồi bên Dũng là Sen. Thấy chị Hằng bước vào, Sen lễ phép chào:
-Cháu chào cô!
Nghe có tiếng người, Dũng mở mắt. Chị Hằng nắm lấy tay con, mắt rơm rớm. Dũng thều thào.
- Má ơi, con bị nước lũ... May mà có bác Thuận...!
Nói được mấy câu ấy, mắt Dũng cũng rưng rưng lệ. Chị Hằng chợt hiểu ra tất cả. Qua màn sương nước mắt, chị nhìn ông Thuận thay cho lời cảm ơn. Người khách ở phòng ngoài là bác sỹ ở bệnh viện huyện được ông mời vào, thông báo với chị Hằng:
-Anh ấy bị viêm phế quản vì nhiễm lạnh. Hôm nay đã đỡ sốt và ăn được ít cháo. Chúng tôi đã điều trị rất tích cực, chẳng khác gì ở bệnh viện. Chị cứ yên tâm.
Chị Hằng ngồi với Dũng đến xế chiều. Trưa, gia đình ông Thuận mời cơm. Sen vẫn không rời Dũng một bước. Trong bữa cơm, ông Thuận vẫn tỏ ra rụt rè. Ông nhìn chị Hằng với đôi mắt kính nể và sợ hãi. Phát đạn trúng tim anh Thái do ông bắn ra đã hai mươi bốn năm. Ông bắn phát đạn đó trong cơn hoảng loạn. Người ta nhồi vào đầu ông những lời tuyên truyền xuyên tạc: Nếu anh không bắn vào họ, họ cũng sẽ bắn anh!. Sau này nhớ lại, ông cứ xót xa ân hận.
Người ta đã không trả thù ông. Sự khoan hồng của nhà nước cách mạng đã làm ông vô cùng cảm động. Nhưng đó là chuyện khác, chuyện của một quốc gia đối với những người lầm lỗi, trong đó có ông. Còn bây giờ là chuyện giữa ông và gia đình chị Hằng. Chị có tha lỗi cho ông không, ông cũng chưa biết. Và vì chưa biết nên ông sợ. Chị Hằng như nhận ra điều đó. Chị không muốn nhắc lại với ông về những trang buồn trong quá khứ. Khi biết tin chính ông Thuận đã cứu con chị, ngọn lửa của tha thứ cháy âm ỉ bấy lâu nay trong lòng chị bỗng bừng lên. Ðúng, chị sẽ tha thứ cho ông, kể cả điều tưởng chừng không tha thứ nổi. Chị thấy thương hai đứa trẻ. Con trai chị và con gái ông không lẽ phải gánh chịu những hậu quả của cuộc chiến tranh gây nên? Và khi nghĩ nhiều đến những ngày sắp đến và chuyển chủ đề sang chuyệnkhác.
-Vùng này khi xưa rất nhiều mai núi. Thứ mai núi pha sắc biển. Cả nhà tôi đều mê thứ hoa này.
Ông Thuận thở phào nhẹ nhõm. Một niềm vui mơ hồ đang tràn ngập lòng ông. Ông nói mà không cần rào đón:
-Ðể hôm nào cháu Dũng khỏe, tôi sẽ rủ nó đi tìm mấy gốc mai, bứng về cho vào chậu, gửi về dưới đó để chị chưng trong mấy ngày tết.
Chị Hằng cảm ơn ông. Và tuy chưa đến mùa xuân, chị vẫn hình dung những cành mai núi mang màu nắng của vùng chiến khu xưa sẽ nở rộ trong ngôi nhà của chị
Phan Cao To