Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014

Nhạc - Thơ - Văn Thư Ngày Xuân


Thư Xuân
Anh đã quên hay là em vẫn nhớ ?
Mỗi đầu Xuân là mỗi một lá thư....
Gom nhớ thương và đôi chút ngại ngần, 
Thư không tới khiến lòng thêm bỡ ngỡ !  
 
Mình xa nhau không gian ngàn cách trở, 
Chỉ gần nhau trong hương vị đầu Xuân....
Tình dẫu xa bỗng chốc lại hoá gần ! 
Quên hết cả tiết Đông sầu lạnh giá...

Dĩ vãng vàng theo lá Thu rơi lả tả,
Hè đâu còn vũ điệu tuổi hè vui ?
Em mãi hoài trông ngóng nhớ khôn nguôi,
Thư Anh đến mang theo mùa Xuân mới !!
NM


Thư Ngày Xuân
     Ngày..., Tháng..., năm...
  Anh, Mỗi năm một lá thư. Nó đã trở thành một thông lệ . Một thông lệ mà cả Anh và Em chưa hề giao ước với nhau !
Thế mà bản giao ước chưa ký kết ấy lại được cả Anh và Em tôn trọng triệt để . Vậy rồi mỗi khi nàng Xuân chớm bước sang thềm năm mới, ta thêm một lần  đón gần, đợi xa ... Một lá thư ! Khi  lá thư đến chậm,  Em ấm ức, khó chịu , sự đợi chờ kéo dài như một thử thách vô hình chung ngạo nghễ quậy phá Em ! Nó đưa đường dẫn lối em đến ý nghĩ Anh đã quên và quên hết tất cả rồi ! Và Em tự nhủ sẽ ngâm thư Anh thật lâu cho đỡ tức, cho hả dạ, cho đáng đời ...., vẫn nông nổi quá đi ! Hoặc là việc gì đã xảy ra cho Anh ? Có lúc trong đầu Em thoáng qua một tưởng tượng là Anh không còn hiện diện trên cõi trần này nữa, chỉ có vậy thôi mà Em đã thấy cả một hố sâu hun hút ngay dưới chân mình ... Em không muốn nghĩ xa hơn , vì sợ chính mình sẽ rơi vào cái hố ấy ! Ngược lại, có lần Anh đã gởi cho Em một bì thư thật dày . Em mở ra thì ba tờ giấy viết thư được gấp nếp ngay ngắn, màu ngà , loại giấy quý Anh chuyên dùng mà em đã quen vân vê trên tay , vì Anh biết Em yêu thích từ tờ giấy lan ra chữ viết của người viết thư , và hơn thế nữa !  Ba tờ giấy ấy hoàn toàn không có gì ngoài : trang một ở góc cuối bên  phải chỉ có chữ " Em  " . Em lật qua trang thứ hai , cũng ở ngay vị trí đó, vỏn vẹn chỉ có chữ  " Đã " . Bàn tay Em lúc đó lạnh toát, hấp tấp lật qua trang thứ ba , thấy ngay góc phía dưới chữ  " Quên " mà anh tô thật đậm kèm theo một  dấu chấm phá . Và Em biết thêm một điều : Anh cũng có cảm giác y như Em khi thư chưa vội đến! Anh nói với Em, đây không phải là thư tình! Em khẳng định với Anh đó chỉ là  "bản phúc trình " của riêng Anh, riêng Em , của ba trăm sáu mươi lăm ngày vừa kết thúc . Ba trăm sáu mươi lăm ngày ,cả Anh và Em đều bận rộn với cuộc sống, với những vui buồn. Với những giờ khắc trống rỗng hay với  niềm vui đầy ấp ,khả dĩ nào đó đến bất ngờ . Mình cũng chỉ là những con người sống với ham muốn, đam mê, hy vọng, thất chí, khao khát, cưu mang những gi tự nó đến rồi lẳng lặng ra đi . Nhưng tại sao ta không viết lá thư ấy vào mùa khác ? Giả dụ như mùa hè , mùa với nắng ấm, cỏ cây rực rỡ màu hoa. Mùa ta thảnh thơi , an nhàn  , không phải chạy theo nhịp điệu của thời gian , không sợ việc đến trễ hay đi sớm . Ta có được những thời khắc lười biếng nằm dài dưới một tàn cây che bóng mát, nghe tiếng ve sầu rên rĩ đến lùng bùng cả màn nhĩ . Anh thường nói ve ở miền nam nước Pháp còn đông dân số hơn bên quê nhà của mình rất nhiều .  Em không biết bây giờ muốn nghe tiếng ve tấu khúc Sầu ở sài - gòn có được hay không ? Mùa, mà mỗi khi nhắc đến thì Anh lại nhớ về thời mới lớn : thuở đó anh hay để tim đập sai nhịp khi thấy ai đó quá dễ thương . mát rượi con mắt tham lam của chàng trai áo trắng Hay một cái nhìn xanh ngát màu yêu thương, e ấp tuổi dậy thì làm con tim anh muốn rớt ra ngoài (  câu anh hay kể ! ) . Thời mà anh rất siêng năng, rất chịu khó phơi nắng trước cổng trường để chờ mấy tà áo dài tha thướt bước ra .... Thời Anh sống xa lắc, xa lơ đối với tuổi đời của Em , và nếu đem so sánh thì tỷ lệ thuận của khoảng cách ấy cho ta rất ít phần trăm được gặp gỡ ! ... Hoặc viết thư ấy vào mùa thu . Anh nói mùa này, tâm hồn con người ta dễ rúng động vì sự chuyển màu, thay sắc của vạn vật . Gợi cho ta nhớ , ta nghĩ , ta trầm, ta nuối tiếc dĩ vãng hơn hết ! Không một thi sĩ , nhà văn nào làm ngơ được với mùa Thu, phải không anh ?! Anh biết Em yêu thích màu thu đến dường nào, nhưng Anh lại cho rằng mùa này là mùa tàn, mùa đi vào cái chết của một phần nào thể vật . ... Thư mùa Đông thì anh sợ nó đóng thành những tảng băng đá lạnh muôn thuở, trôi nổi mãi tận vùng Bắc hoặc Nam Cực. Anh bảo sợ con chữ sẽ ngủ vùi trong giá lạnh như những chú gấu trắng . Mùa Đông vạn vật đều khẳng khiu, chịu đựng âm thầm sự khắc nghiệt của thời tiết . Vì thế ,Anh sợ không đủ đem lại hơi ấm để sưởi đôi bàn tay cầm giữ thư Anh! Thư không là ngọn lửa thực thụ , không là hơi ấm hiển nhiên, nó chỉ là những ý tưởng trải lên tờ giấy vô tư, đem lại cho tâm hồn người đọc một thi vị khác xa với đời sống vây quanh . Đưa từ người viết đến người đọc đi vào một thế giới khác , chỉ có hai nhân vật này hiểu được nhau dưới ngòi bút của chính họ mà thôi. Người ngoài sẽ cho là  cảm thức ấy thật lạc đề , không thực tế . Nó như sự bám víu vào ảo vọng của những người có tâm hồn đang chết đuối , cố nuôi một hy vọng quá mong manh ! Nó lãng xẹt và hoàn toàn không phù hợp với lối sống của ngày hôm nay, nó giống như sự xa hoa, phung phí thời giờ một cách vô bổ . Không biết người ta đúng hay sai, nhưng Anh và Em đâu cần phải chạy theo thời đại này, hay thời đại nọ . Mình chỉ làm chuyện mình yêu thích, dành riêng cho nhau mà thôi . Viết một lá thư "phúc trình " như thư của Anh và Em đâu mất trọn một ngày , đâu kéo dài một tuần hay lệch  thệch ra một tháng. ... Và không biết tự lúc nào, Anh đã bắt đầu viết thư cho Em vào mùa Xuân ? Nếu em không lầm thì thư mùa Xuân của Anh và Em đã bắt đầu từ lâu lắm . Em  cho rằng nó xưa hơn thời Thượng cổ, cũ hơn những dãy núi già tuổi nhứt trên trái đất ta đang sống . Nói đúng hơn là số tuổi của Anh và Em cộng lại rồi ta nhân lên gấp vạn lần mới là giải đáp gần đúng nhứt với móc điểm khởi đầu ! Mỗi mùa Xuân đến, Anh và Em đều thêm một tuổi , hay nói đúng hơn là già đi thêm một tuổi . Ta không còn  háo hức, xôn xao khấp khởi chờ xuân mới như thời son trẻ, mà bắt đầu nhìn Xuân với một tâm trạng trầm lắng hơn ! Làm sao không trầm lắng được khi mà cuộc sống đã dạy cho ta bao thăng trầm không tránh khỏi . Đặt bút viết thư mùa Xuân đối với Anh và Em như một lần ta thay áo mới , màu sắc chiếc áo không sặc sỡ , không nổi bật , không cuồng nhiệt, sôi nổi như thời tuổi trẻ ! Mà nó thay dần với những gam màu rất nhẹ nhàng , thanh tao , siêu thoát một cách khó mà đặt đúng tên . Thư Xuân lần này anh nói là tóc anh đã muối hiều hơn tiêu. Thư xuân của Em có câu : đuôi mắt Em đã nhiều vết chân chim . Cầm lá thư của Anh trên tay là Em đã thấy Xuân về !
Em . 
Nguyễn Mỹ Hạnh 
 
Một Thoáng Mùa Xuân

Diễm ơi...
đã lâu không gọi diễm
diễm của tôi ngày xưa
diễm ơi còn trang điểm
bằng chuỗi hạt mưa thưa?

đã lâu không gặp diễm
chắc lạ lẫm nhau rồi
đường xa khôn tìm kiếm
bận rộn đời, chơi vơi

đã lâu...chợt lại nhớ
diễm xưa, một thuở nào
từng nhìn nhau ú ớ
từng chết cùng chiêm bao

(Dzi.)

Hắn quen Diễm trong trường hợp thật bất ngờ, hy hữu. Diễm là con gái lớn của bạn hắn. Người bạn mà hắn quen cùng đơn vị, cùng từng nhau chiến đấu chung một giao thông hào. Chắc các bạn lại nói :" Úi giời ơi , thế thì có gì lạ lẫm, hy hữu chứ ! "Vâng lẽ ra thì là chuyện thường ,nhưng cái thường ở trong trường hợp của hắn lại chẳng thường chút nào...
Này nhé , nói là bạn cùng chiến đấu chung một giao thông hào , nghe cho có vẻ dao to búa lớn thôi , chứ thiệt ra là họ có cùng một chí hướng khẩu chiến với những người hàng xóm chung quanh , không đồng …., chính kiến , chỉ là thế.
Cái làng chài ven song Cửu này vẫn thế . Hình như không một phút nào yên . Chẳng chuyện con gà nhà này qua bới vườn nhà kia thì cũng con chó nhà nọ qua ị … bậy trước ngõ nhà bên . Tiếng cãi nhau đều như tiếng mưa rơi, dòn như tiếng pháo nổ . Hình như nếu trong ngày không có một cuộc thượng mồm trên, hạ mồm dưới thì hình như xóm chài này buồn lắm, nhất là những ngày biển động, cư dân ngồi ngáp dài nhìn ra biển, bụng cồn cào . Người ta lại muốn gây nhau nhiều hơn, làm như để quên cái bao tử lép kẹp đang thét gào .
Có một hôm thuyền neo nơi bến đỗ . Hắn ngồi ngủ gục bên tay lái . Biển về chiều gió thổi hiu hiu, hắn vứt bỏ tất tật những lo toan hàng ngày xuống đáy nước, hắn quăng tuốt tuột những mộng mơ tình ái vào khoang thuyền tanh mùi cá, ẩm mùi nước mặn. Hắn đánh một giấc vô tư ….Đang mơ màng về những ngày thơ bé, đang mộng du qua những khung trời tuổi nhỏ có cha, có mẹ, có chị, có em …, xum họp bên nồi bánh chưng đêm 30 tết, đang tươi cười bên bếp lửa bập bùng, hắn như đang thoát tục, như lạc vào cõi thiên thai , vì từ lâu rồi hắn chưa bao giờ được vui như thế , thì hắn giật mình tỉnh giấc vì tiếng va chạm gì đó trên khoang thuyền . Hắn mở mắt nhìn quanh, đưa tay lên dụi mắt …Ơ …, một cô gái xinh đẹp quá đang mỉm cười với hắn ở trên bờ cách đó không xa . Hắn đưa tay dụi mắt lần nữa, để tỉnh ra xem có phải nàng cười mí hắn hay là mí ai …Rõ ràng mà , cô gái cười với mình mà. Hắn lẩm bẩm như thế và tự nhiên ngồi ngay ngắn trở lại, rà xét xem mình đã từng quen cô gái này ở đâu, cô ta không phải là cư dân ở đây, điều đó chắc như bắp vì cả gần năm nay khi hắn về tá tấp xóm chài này hắn chưa hề gặp cô bao giờ . Trông cách ăn mặc của cô ta cũng biết rõ cô không thuộc giai cấp thuyền chài tí nào . Hắn đang cố hình dung, tìm tòi trong ký ức nghèo nàn của hắn, để trả lời cho cái …,có vẻ như thân mật của cô gái, thì …trời ạ! Cô gái đưa tay ra vẫy vẫy và hắn nghe thánh thót bên tai :
- Này anh Miên, phẻ hông dị ?
Ôi lạy chúa tôi , Hắn kêu khẽ , lại còn biết cả tên mình nữa …Ai vậy cà …Hắn ngơ ngác đáp thiệt nhanh và nhảy xuống nước lội vào bờ :
- Phẻ, phẻ lắm . Mà ủa , ai zậy cà ?
Cô gái mỉm cười tinh nghịch :
- Thì là em chứ còn ai . Em con gái chú Út Min đây . Rồi nàng cười thiệt lớn. Tiếng cười dòn tan giữa khoảng mênh mông của biển, dội lại vang vang trong khoang thuyền .
- Dậy sao ? Con chú Út mà sao tui không biết kìa .
- Làm sao anh biết được . Em đâu có sinh sống ở đây mà anh đòi biết chứ . Anh biết mới là lạ đấy .
- Mà sao cô biết tôi , hay quá dậy ?
- Thì bố em kể về anh hoài mỗi lần ổng biên thư cho em
- Ủa , ổng kể chi dậy ?
- Ổng kể là …Anh là đồng chí của ổng . Mỗi lần bố em đôi co với thiên hạ, chẳng cần biết phải trái gì anh đều đứng về phía ổng , gân cổ lên cãi phụ ổng , đúng không ?
- Trời đất sao ổng lại kể cái chuyện tầm xàm đó với con gái mình chớ . Ông này thiệt kỳ .
Cô gái lại cất tiếng cười như nắc nẻ, làm hắn sượng sùng . Hắn đưa bàn chân di di trên cát , mắt nhìn ra biển hỏi nhỏ :
- Thế cô tên là gì nhỉ ? Cô ở đâu mới về thăm nhà ?
- Em tên Diễm, ngoài phố người ta hay gọi em là Diễm xưa , em ở ngoài phố mới dìa , định ăn Tết với gia đình .
Thế là hắn quen Diễm, kể củng hi hữu lắm chứ phải không các bạn
- Vậy chứ …, hồi nào tới giờ bố em không nhắc gì về em với anh sao ?
Cô bé vừa hỏì vừa ngúng nguẩy, cái điệu bộ thấy mà …ghét . Hắn cũng khớp quá trước cái bạo dạn của dân thành phố nên ấp úng :
- Không, chưa bao giờ tôi nghe nói về cô cả …Sao chú Út lại giấu tôi chi vậy nhỉ ?
Rồi hắn cười gượng gạo :
” Trời …có cô con gái đẹp, văn minh thành thị thế này mà định giấu tôi hen . Cái ông bạn già này . Thiệt tình …”
Diễm xưa cũng bẻn lẻn, đưa bàn tay thon nhỏ lên vén gọn mái tóc đang loà xoà trước mặt, làm duyên trước câu nói thiệt tình của hắn :
- Bộ anh là bạn của bố em sao ? Anh còn trẻ qúa mà …
- Thì gọi là vậy đó mà . Những lúc rảnh tôi hay chơi cờ tướng với chú Út, rồi hai chú cháu dô vài xị cho ấm bụng . Chú Út vẫn cứ hay kêu tôi là “người bạn trẻ” , miết rồi tôi tới luôn cũng kêu ổng là “ông bạn già “ hì hì …Xin lỗi cô nghen vì quen rồi .
Và từ đó hắn thân với Diễm. Những ngày Diễm về lại thành phố hắn thỉnh thoảng cũng biên thơ cho Diễm kể lể những chuyện không đâu của cái xóm chài hiu hắt ven sông này và đôi lần hắn cũng thổ lộ với Diễm về những nhớ nhung :
“ Diễm ơi hôm nay nhớ Diễm chi lạ . Biển hôm nay buồn lắm Diễm à, mưa to và gió lớn, sóng gào thét dữ dội át cả tiếng cãi cọ của anh ba Thẹo và chị Tư rỗ . Miên ngồi đây chán đến nỗi chả muốn nhấc tay lên đuổi ruồi nữa , cái con ruồi này lì lợm quá cứ bay vo vo đậu trên mặt Miên hoài .Ngồi đây nhớ Diễm ghê Diễm ơi . Lúc này Diễm đang làm gì ? Về quê thuyền chài này chơi đi Diễm . Miên tính đi bộ lên phố thăm Diễm đây , không biết con đường bao xa hả Diễm . Thôi hay để Miên đi vài chuyến biển nữa dành dụm ít tiền đi xe đò lên thăm Diễm cho oai một chút hỉ . …”
Đôi lần hắn cũng nhận được thơ Diễm. Diễm thường viết rất ngắn . Hắn cứ lẩm bẩm :
” Cái cô bé này sao hà tiện cả bút mực . Nhưng mà hà tiện như vậy mới làm giầu được chớ , sau này chung sống với nhau may ra mới tạo dựng được cơ đồ .”
Hắn cứ làm như là hắn sắp cưới ngay được Diễm làm vợ . Tháng ngày tiếp nối đã nuôi lớn cái giấc mơ cưới Diễm làm vợ của hắn . Tự dưng hắn biết làm đỏm hơn những ngày trước , hắn biết chải lại mái tóc cho gọn gàng, biết ăn mặc áo quần tươm tất hơn và nhất là những người hàng xóm đã nhận ra sự thay đổi nơi hắn ;
- Gớm , cái thằng Miên dạo này thấy bảnh ghê á
- Ừ ! Đôi khi còn thấy nó xịt nước hoa nữa đó , thơm phức .
- Hình như nó mê con gái lão Út rồi …Đúng là …hồn bướm mơ tiên mà
- Đâu có …Cái gì mà hồn bướm mơ tiên chớ . Con Diễm thì cũng xoàng thôi , có đẹp gì cho cam mà thím nói dậy chớ …
- Thì ít ra nó cũng là dân thành phố , còn cái thằng Miên chỉ là dân chài quê mùa …Bộ xứng sao
- Xứng chứ sao không xứng . Cái thằng này mà đóng bộ dô hả …, ăn khách lắm đó nha
Chỉ cái chuyện không đâu đó mà mấy thím thuyền chài cũng đã muốn gây gỗ nhau rồi . Hắn thì nghe những lời bàn tán miết rồi quen tai , chả còn vui buồn với những dèm pha trong lúc rảnh rỗi của bàn dân thiên hạ nữa . Mối tình của hắn và Diễm lớn lên theo ngày tháng . Hắn mừng như con nít được kẹo mỗi khi hắn nhận được thơ Diễm :
“ Anh thân thương của em
Dạo này anh thế nào , phẻ hông ? Có đi biển nhiều hông ? Ừ dành tiền để đi xe đò lên phố thăm em nha , đừng đi bộ xa lắm đó . Nhớ đừng có quen , đừng có nói chuyện mí mấy cô xí xọn, đít bự ở trong nha …Coi chừng em giận à …”
Hắn đọc lại lá thư :
” Bộ cũng biết ghen nữa sao cà”
Rồi hắn cười khúc khích, đứng dậy, vơ một nắm cát thẳng tay quăng xuống biển và nói to :
” Không đâu anh chỉ quen mình em thôi “ .
Hắn hét to quá làm mấy thím đang nhặt cá ở bãi giật mình nhìn lên lẩm bẩm :
- Đồ điên !

Hôm nay chiều 30 tết . Sinh hoạt trong xóm chài có phần bận rộn , nhà nhà đều chuẩn bị đón giao thừa . Hầu như nhà nào cũng nấu bánh tét , khói lên nghi ngút . Những đứa trẻ thì mặc thử những bộ quần áo mới mà mẹ chúng mới đi chợ tết mua về , chạy tung tăng khoe nhau . Có tiếng vài bà mẹ la lớn :
” Mặc thử chút thôi , thay ra đi để mai mồng một tết mới mặc con à “ .
Nhà chú Út có vẻ là ăn tết lớn hơn cả . Hắn thấy thím Út sáng nay đi chợ mua sắm nhiều lắm, gánh một gánh nặng . Còn hắn một thân một mình trơ trọi , tết hay không tết thì cũng thế thôi . Hắn đang nghĩ không biết ngày mai mồng một tết phải làm gì . Đi chúc tết từng nhà, dĩ nhiên . Nhưng sau đó …ngày đầu năm mà nhiều người kiêng cữ lắm chả lẽ mình lại ăn dầm ở dề nhà chú Út , hay giả bộ tới rủ chú Út đánh cờ tướng …,đâu có thể được chớ, ngày tư ngày tết người ta bận rộn xum họp gia đình vui chơi thì giờ đâu mà chơi cờ tướng . Hắn là rảnh rỗi nhất chả nấu bánh tét, chả làm kẹo bánh chi cả . Hắn mơ màng nghĩ tới ngày mai khi gặp Diễm ngày đầu năm mình phải chúc tết cô bé như thế nào nghe cho tình tứ một chút.
Hắn bấm đốt ngón tay, miệng lẩm nhẩm tính :
” Mình đã quen Diễm được hơn một năm rồi, đúng ra là một năm lẻ 4 ngày . Cũng một ngày cuối năm ngoái mình quen cô bé “.
Thời gian qua nhanh như thế mà cái cảnh heo hút của làng biển này vẫn trơ trơ, vẫn những con người quần xăn qua đầu gối, miệt mài với biển, biển thì không thuần khiết, lúc mưa lúc nắng . Con người nơi đây chỉ biết chịu đựng . Cũng có những người đã không kham nổi với cái khắc nghiệt của biển, đã bỏ biển mà đi . Cũng có những người đi chán rồi lại tìm về biển chắc vì cái số của họ ông Trời đã bắt phải gắn liền với biển rồi , thì trốn bỏ đi đâu cho được . Hắn ngồi mà nghĩ lại đời mình , sau ngày 30 tháng tư năm nào gia đình hắn sơ tán , thất lạc mỗi người một nơi . Hắn theo dòng người di tản từ “phố núi cao” tháo chạy về thành phố biển , rồi từ thành phố biển hắn lang thang vào vùng đồng bằng phía Nam này, tất bật lo miếng cơm manh áo mà đổi thay bao nhiêu công việc . Thế rồi một buổi nọ có người bạn rủ hắn về đây theo thuyền đi đánh cá . Được ít lâu sau thì người bạn một lần ra biển đã vĩnh viễn không về nữa , bỏ hắn lạc lõng nơi này một mình . May mà có chú Út Min, vui tính sẵn lòng làm bầu bạn với hắn . Hắn cũng nguôi ngoai phần nào . Hắn mong có được ít tiền về quê để tìm lại người nhà., nhưng dành dụm mãi mà vẫn chưa đủ, đành chịu xa rời cái ước mơ xum họp . Những ngày cuối năm nhất là chiều 30 như hôm nay , không khỏi làm lòng hắn trĩu nặng, xôn xao .
Hắn đang cố nặn óc nghĩ ra một câu chúc tết nào thật ý nhị để chúc tết Diễm ngày mai thì hắn nghe sao có nhiều tiếng ồn ào trong xóm , hình như phát ra từ khu nhà chú Út . Hắn để ý lắng nghe thì đúng là giọng thím Út :
- Con bà nó . Đứa nào, con nào mà ác nhân ác đức , đánh con mèo của tao gãy cẳng thế này ?
- Đứa nào ngon, dám vỗ ngực nhận đi , tao thì xé xác mày ra , tao thì đập cho mày cẳng cũng gãy như con mèo . Đồ ác độc .
Hắn chồm ra khỏi nhà chạy về phía đang có tiếng chửi . Hắn chợt thấy thím năm Thu vén quần xông xông lại phía thím Út
- Là tao đấy , mày ngon làm gì tao . Ai bảo mày để con mèo của mày đói đi ăn vụng . Tao chưa đập chết là may , còn to mồm
- Con mèo nhà tao ăn vụng cái gì của nhà mày chứ?
- Ăn vụng nồi cá kho tiêu của nhà tao . Nó ăn tham quá mà , ăn sạch sành sanh luôn. Mày không trông chừng nó có ngày tao đập nó chết luôn á.
- Mày giỏi, mày giỏi .
Thím Út vừa nói vừa xấn lại phía thím năm . Chú Út chạy lại can, kéo thím Út lại
- Thôi mà, nhịn đi , cuối năm rồi cãi nhau chi nữa …
Hắn đi lại bên cạnh Diễm, nói nhỏ :
- Diễm về hồi nào vậy ? Thiệt cái xóm mình là vậy đó , không cãi cọ, không yên
Diễm vùng vằng nói nhỏ đủ cho hắn nghe :
- Mạ em cũng thiệt kỳ. Con mèo nhà mình hư thì mình phải nhịn người ta chừ còn chửi nữa …Quê chi mà quê tệ .
- Ý trời ơi . Em đâu có thể nói vậy chứ . Dù sao em cũng phải binh mạ em chứ .
- Binh sao được mà binh …
- Cô Diễm nói đúng . Có lỗi là phải nhận , chứ đừng cãi ngang , kỳ lắm .
Hắn nhìn lên thấy một anh chàng lạ hoắc, mặt mũi coi trắng trẻo, cặp kiếng trắng chễm chệ trên khuôn mặt, trông thiệt xa lạ với dân xóm chài, dù nó có làm tăng cái vẻ thông minh, cái vẻ …bác sỹ của anh chàng . Hắn còn đang ngạc nhiên không biết là ai thì lại chợt nghe :
- Đúng là cô Diễm từ thành phố về có khác . Tánh tình hiền dịu như thiên thần, xinh đẹp như tài tử Hồng Kông, xử sự như những người học thức .
- Anh quá khen .
Diễm e thẹn nói lí nhí, rồi chạy lại kéo mẹ vào nhà . Khi đã vào tới nhà , Diễm nói với mẹ :
- Con đã bảo mạ mà mạ không nghe. Ngày tết đó mạ .
- Chưa tết, ngày mai mới tết
Thím Út vẫn nhất định không chịu thua, không chịu nhịn :
” Con mèo nhà tao mà có mệnh hệ gì thì biết tay tao . “
Diễm vùng vằng bỏ xuống bếp phụng phịu, dỗi hờn. Hắn chạy theo xuống bếp dỗ dành :
- Đừng buồn Diễm à. Cuộc sống nơi đây là vậy đó . Cãi nhau như cơm bữa mà. Không có gì đâu . Ngày mai đâu lại vào đấy …Mà em cũng lạ , dù sao cũng phải binh mạ mình chứ .
Rồi như chợt nhớ ra cái anh chàng đeo kính trắng mới gặp lúc nãy . Hắn ngập ngừng hỏi
” Cái anh chàng hồi nãy là ai vậy Diễm ?
- Thì là anh hai Hòn con thím năm Thu chứ ai . Nghe đâu ảnh học gì ở Sài gòn …Mạ em làm em quê với anh ta quá …
- Sao anh nói hoài mà em vẫn không hiểu . Em lại binh kẻ thù của mạ . Em có nghe người ta nói :” Bạn của kẻ thù, thì cũng chính là kẻ thù” không . Bộ em muốn là kẻ “thù” của mạ …!
- Anh nói gì ? Thôi đi …
Và thế là hai ý kiến bất đồng, tình cảm hai người sứt mẻ . Hắn lững thững đi về phía biển:
“Con mẹ nó, cái thằng đeo kiếng cận . Nó khen cô ta một cái là cô ta muốn xoay 180 độ ngay …Thôi thì thôi, đây cũng cóc cần” .
Hắn quyết định một lần nữa đổi nghề. Hắn sẽ xa biển như đã từng xa một vài nơi lúc trước . Hắn muốn xa xóm chài này vì hắn đã mơ hồ nhận ra sự đổ vỡ trong tình cảm của hắn ắt phải xẩy ra, chỉ là sớm muộn mà thôi . Hắn biết đang có kẻ thứ ba xen vào, có thể là một chiều , nhưng thật ra đã lay động một góc hồn nào đó của Diễm . Hắn tự ti để thấy rằng phần thua thiệt đang nằm trong tay hắn .
Ngày mai hắn sẽ ra đi . Ngày đầu năm, ngày mồng một tết, hắn sẽ từ giã những cuộc cãi vã, miết rồi lại thấy là thân thương chứ không là chán ghét . Rồi mai này ở một nơi xa nào đó không còn được nghe, được chứng kiến, được tham dự vào những cuộc đôi co của xóm chài nữa, chắc hẳn hắn sẽ buồn lắm . Ôi cái sinh hoạt rất bình thường của xóm chài này.
Sáng sớm hôm sau khi mọi người còn ngủ yên, có một gã tay xách túi đồ, lầm lũi bước đi . Khi đi ngang qua nhà chú Út Min, gã gọi thầm :
“ Diễm ơi ! Diễm xưa ơi !
… Tiếng pháo đầu năm chợt nổ đì đùng đâu đây .
 Lê Du Miên
Tản Mạn 3 Ngày Tết
Những cái tết lần lượt đến rồi qua đi. Lại một tết nữa sắp qua đi. Ngoài kia mưa xuân lất phất bay. Trời se lạnh. Ờ nhỉ, trời chẳng bao giờ quên bổn phận làm trời. Hết một vòng quay 365 ngày, rồi tết lại đến. Và rồi lại tiếp tục một vòng quay nữa. Cứ vậy, mãi mãi, không bao giờ ngưng nghỉ...
Với ta vẫn vậy. Có khác chăng là không mãi mãi. Hết một vòng quay của đất trời, cuộc đời ta đã khác rồi. Ngày còn bé, ta mong tết đến không khác mấy tâm trạng ngồi ngõ ngóng trông buổi chợ trưa của mẹ. Chỉ một miếng bánh nhỏ thôi, mà lòng ta rạo rực. Ta vạch lên tường 30 nét cuối cùng của năm. Rồi cứ vậy sốt sắng, nôn nao xoá dần đi từng gạch. Niềm vui chờ đón tết cứ đến dần, đến dần. Thời gian không dừng lại đâu, có điều nó bò như sên, như ốc.
Rồi tết đã đến. Ta có chiếc áo mới. Ta được ăn cơm no hơn với cá, với thịt. Ta không phải dắt trâu ra đồng trong cái rét da con trẻ. Ta thoả thích, vô tư, hồn nhiên đắm mình trong hạnh phúc của tết. Giá cuộc đời cứ vậy, mãi mãi.
Thế hệ ta, đứa nào chẳng phải qua những cái tết trong chiến tranh. Nhiều đứa đã một thời đón tết ngoài mặt trận. Có lẽ, tết đến thì nhiều, mà đón tết ngoài mặt trận thì ít, nên mấy người giờ này nhớ đến những khoảnh khắc ấy. Tết đến không biết. Nói chẳng ai tin. Có đấy. Khi mà cuộc sống cứ quay cuồng với vất vả, bom đạn, với sốt rét rừng..., làm gì còn nhớ ngày, nhớ tháng. Hết năm, tết dửng dưng đến, rồi lặng lẽ chuồi đi. Ta đã mấy lần như vậy, vô tình với tết. Vô tình nhưng lại nhớ đời.
Tết đến để gia đình sum họp. Cha mẹ, anh em, chú cháu quây quần bên mâm cỗ tết. Vậy mà ta trong một thời gian không ngắn, chẳng được thế. Gần 20 năm ta đón tết xa xứ. Cũng mâm cỗ cúng tổ tiên trên chiếc ban thờ sơ sài đêm 30. Con trẻ thì háo hức, mà người lớn thì đang thả nỗi buồn về chốn quê nhà, vì đã bao nhiêu tết biền biệt đất người.
Ta về quê cúng tết. Thẩn thơ đầu làng đến cuối xóm, ta muốn tìm lại hình ảnh tết xưa. Không còn nữa. Tất cả đã trôi vào dĩ vãng. Lũ con trẻ chẳng còn cái sân kho hợp tác để chơi ù, chơi đáo. Không gian tết của chúng giờ đây hình như chật hẹp hơn. Chúng đang chúi đầu vào quán nét kia. Trong đó có nhiều trò chơi hấp dẫn hơn trăm vạn lần trò chơi ngày ta còn bé. Trong túi chúng rỉnh rang tiền lì xì, đủ để chúng ngồi thâu đêm trong bảy ngày không đến trường.
Thú chơi tết của đám thanh niên cũng khác xưa rồi. Tết đến có đủ đầy bia rượu, có đủ đầy mồi ngon để cầm chân họ. Tôi vào, họ như càng bốc hơn, tưởng sẽ có thêm người "gánh" hộ.
Cái no đủ đến hầu hết với mọi nhà. Bếp lửa không còn đỏ rực suốt ba ngày tết. Khách đến nhà không còn mâm cao cỗ đầy. Cụng nhau li rượu chúc xuân, có khi lời chúc còn dang dở đã vội vã ra đi. Phải đi, để làm sao trong buổi, trong ngày khắp lượt hết làng trên, xóm dưới.
Điều làm ta thấy ấm lòng, đấy là nhìn những cây nêu sáng rực trước mỗi căn nhà. Cây nêu cao vút, sặc sỡ sắc màu. Mười nhà trồng nêu, có chăng chỉ một biết là trồng theo tục xưa. Còn nữa, dựng cây nêu như sắm bức tranh tết. Biết hay không biết tục dựng nêu ngày tết, không sao. Chỉ biết rằng, nhìn vào xóm, vào làng ta thấy đẹp hơn, ấm cúng hơn, và cả sang trọng hơn, vậy là lòng ta ấm áp hơn, và cả lòng người ấm áp hơn.
Tết sắp qua rồi. Những chùm pháo sáng rực trời đêm giao thừa chỉ còn lại trong máy tính của ta. Ngoài kia mưa xuân vẫn lất phất bay. Cảnh người ngược xuôi đi chúc tết tuồng như đã thưa hơn. Mấy cái khớp chân sưng tấy lên, làm ta bó gối. Mưa xuân đẹp với người, nhưng khổ với ta. Thời gian đang níu kéo, buộc ta chùng xuống.
Chẳng bù lại cái thời ta còn trai trẻ. Tết ơi, sao ngươi nỡ dửng dưng với ta, dửng dưng đến lạnh lùng!

 Lê Văn


 

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2014

Nhạc - Thơ -Văn Thiếu Quê Hương


Nhớ Quê hương
Xin một lần tôi được về quê cũ,
Dẫu đau thương và lắm nỗi xót xa !....
Thương quê hương , khao khát lắm nhớ nhà,
Tôi vẫn sống với biết bao hoài niệm !
Suốt cả đời tôi mãi mê tìm kiếm,
Hình bóng người xưa và kỹ niệm xa....
Quê hương ơi, mãi mãi không phai nhoà,
Trong tôi đó, luôn là dân nước Việt !!
NM 

Thiếu Quê Hương
Hồi ở Saigòn, anh Tiến làm công chức ở bộ canh nông, là một người có tài coi tướng. Anh ta không hề mở văn phòng bói tướng mà cũng chẳng bao giờ lấy đồng tiền nào của ai; một khi anh đã bằng lòng coi qua. Cách coi tướng của anh ta rất đặc biệt, mà đặc biệt nhất là nếu có ai gọi anh là thầy bói, thầy tướng thì anh giận ngay. Coi tướng với anh chỉ là một nghề "chơi", cái thú chiêm nghiệm tiêu khiển vậy thôi. Riêng tôi, vì tôi biết anh khá lâu cho nên tôi có thể nói rằng - "đọc" nổi được định mệnh của người khác qua cách ngồi, tướng đi, ăn nói,... đã là thứ đam mê của anh như ta mê một thói xấu không thể bỏ, những phút xuất thần hiếm hoi! Cách coi tướng ấy đôi khi còn tố cáo những ám ảnh thôi thúc có vẽ bệnh hoạn tuyệt vời, vì đã có lần, theo lời chị Tiến kể lại, anh ta tự nhiên mất tích khỏi nhà cả tuần lể, vợ con không hiểu ra sao, hỏi thăm hết chỗ làm đến bạn hữu không ai hay biết. Sau cùng, anh ta ở đâu lù lù hiện về, nụ cười tiêu khoáng bình yên cố hữu ở trên môi trước những trách móc của vợ con.
Số là được tin người bạn thân vừa tử trận, anh ta đến phúng điếu. Đứng trước quan tài còn mở nắp, người bạn nằm yên không một giấu diếm. Cái ẩn tướng yểu mệnh kia ngày xưa anh đã ngờ ngợ trông thấy, bây giờ nó trở thành sự khinh khi bào chửa. "Phải chi mình bảo cho nó biết trước việc này, biết đâu chả cứu được nó!". Buồn quá, anh ta chui vào nhà một người bạn ở cư xá Nguyễn Mạnh Trinh, không hút thuốc phiện, nhưng cũng cứ nằm tịt bên cạnh bàn đèn, coi ông bạn hí hoáy những tiêm với tẩu cho đở buồn.
Chuyện đi về nhà bất thường, lâu ngày thành ra tự nhiên, vì anh ta bị chèo kéo hết ngày này với người này, sang ngày khác với người khác, hay anh còn bận truy lùng tung tích một người nào đó đã mất tích trong trí nhớ từ lâu, đột nhiên hiện ra với tất cả chân tướng, lại là trường hợp anh ta không thể bỏ qua.
Có những đêm vừa đặt lưng xuống giường, anh ngồi bật trở dậy. Bà vợ khó thể ngủ được vì ở ngoài kia ông chồng chốc chốc lại kẻo kẹt đưa cái ghế xích đu, tiếng lục lạo tủ sách kèm theo tiếng càu nhàu, chửi bới om xòm... Sáng dậy, chị vợ tìm thấy anh chồng đang ngon lành ngủ ngồi trên ghế, một bên má tì xuống mặt bàn trên những tờ giấy trắng, nước rãi từ khoé mép chảy thành dòng làm nhoè nhoẹt những hìng vẽ lăng nhăng trên giấy trông rất bệ rạc. Có lần tôi hỏi đùa chị Tiến: "Khi lấy chị, anh ấy có nói cho chị biết là anh ấy đã lấy một người đàn bà có cái kiên nhẩn chịu đựng được cái kỳ cục, lang bang của anh ta không?" Chị Tiến chỉ cười cam phận.
Đến với anh Tiến dĩ nhiên là ai cũng muốn anh ta đoán xem mình sắp khá không, hay ít ra cũng là để thỏa tính tò mò. Nhưng phải cẩn thận, đừng bao giờ đề nghị thẳng, mà cho dù nói bóng nói gió cũng nên tránh nốt nếu không muốn anh Tiến từ chối. Gặp anh ta, cứ nói chuyện trên trời dưới đất, chuyện chính trị, thời tiết, chuyện đánh ghen hay tai nạn... rồi chia tay như một tình cờ, một lần khác, và nhiều lần nữa, có khi bạn quên đứt luôn chuyện tướng số. Thế rồi bất chợt một hôm, bạn vừa trải qua một cơn gây gổ náo loạn tan hoang với mụ vợ ở nhà, bạn đang giải sầu trong quán cóc với đôi đường la-de, ông Tiến mới phây phây, nhàn hạ như một ông tiên xà đến, mà đến là chỉ để nói chuyện tướng số. Bạn không thiết gí đến chuyện xa vời ấy nủa, bạn chỉ muốn có người để than thở, kể lể cái tâm sự anh ách ở bên hông! Mặc kệ, ông Tiến không thèm đếm xỉa gì đến những uẩn ức của gia đình bạn. Muốn cắt ngang câu chuyện tướng số nhất định là không xong!
Những người đeo đuổi về tướng số có khá đông, trong số đó có những đấng tai to mặt lớn. Đôi ba anh tướng đang chờ cách mạng thêm xem mình có cơ hội chớp được chức chủ tịch hay Ủy Ban lảnh Đạo Quốc Gia. vài anh bộ trưởng muốn xem bao giờ mình được chuyển sang làm bộ kinh tế, tất nhiên là có cả những em me Mỹ đang muốn chuyển nghề lấy chồng dân biểu, nghị sĩ... Có lần nhân lúc hứng đang ngồi trong một quán "la-de ôm" ở đường Trương Tấn Bửu. Tiến hỏi tôi có biết nữ ký giả A không? Tôi trả lời là có, một ký giả đang lên, đẹp không xuất sắc lắm nhưng có nhiều bồ trong giới tai to mặt lớn. Tiến kể cho tôi là cô A có nhờ người giới thiệu với Tiến để coi xem cô ta làm ăn ra làm sao. Người giới thiệu cô ta hiện là xếp trong sở của Tiến, nể quá Tiến phải nhận lời. Tiến kể rằng lộ tướng của cô ta không có gì đáng chú ý, nhưng ẩn tướng (đây là biệt tài của Tiến) Tiến để ý thấy một chuyện lạ, cái chuyện lạ này đã giải thích tại làm sao một người con gái có cái nhan sắc trung bình lại có thể được coi là thơm tho đến độ được chuyền từ tay hết ông lớn nầy đến ông bự nọ. Ấy chính là vì ở cái "chổ kín" của cô ta có tiết ra một chất có mùi thơm như là xạ-hương cực kỳ quyến rũ khi tác dụng vào khứu giác đàn ông. Tiến còn cảm khái là tạo hóa thiết trí các hạch tuyến bài tiết trong cơ thể con người là chỉ để tống những chất cặn bả khó thương, không cần thiết cho cơ thể ra ngoài, "đàng này cái ấy của cô ta nó lại thơm mới đểu chứ! Của trời cho ấy đem ra khai thác thì kiếm bạc triệu như bỡn! "Thoạt nghe, tôi nghĩ là Tiến nói chơi thôi vì trông thấy rỏ cái "ẩn tướng" đó là điều khó quan niệm nổi, lại ngoài cái khả năng của Tiến cho nên tôi phạng ngay: "Mẹ kiếp, ông chỉ phét lác, mấy vị thượng quan kia chưa chắc gì đã phát giác nổi cái hương thơm kia nó từ đâu tới nửa là ông!"
Nói lại cái thuở bắt đầu chơi với Tiến, tôi là đứa cứng cổ không thích tướng số, nhưng tôi ưa Tiến vì tính tình phóng khoáng, nghệ sĩ của anh ta. Chấp nhận là bạn trong một thứ định nghĩa cực đoan gọi là "bạn hỉu", cái thứ bạn không có gì là của tôi, của anh, lúc nào cũng hết mình, tốt xấu, tệ hại cũng không cần thắc mắc, ới một cái là có mặt. Bắt gặp cái nhìn ngần ngại nó đã biết mình nghĩ gì, chưa nói hết câu nó đã hiểu mình muốn nói gì... Tiến là mẫu người như vậy. Vậy mà tôi phải nhờ một chuyện tướng số giữa Tiến và tôi, phải đợi tới mười năm trời, sau lần gặp gỡ ấy, tôi mới nhìn nhận là Tiến có "nghề", tôi mới chịu phục Tiến một cách thấm thía.
Saigòn những ngày cuối cuộc chiến không khí cực kỳ nóng bỏng, một buổi chiều Tiến và tôi vào nhà hàng Continental ở đường Tự Do. Ăn xong, trời oi bức, người bồi bàn mời chúng tôi ra khoảng vườn có những bụi cây cắt tỉa công phu ở phía sau dùng tráng miệng. Đột nhiên Tiến nhìn tôi bảo: "Này cậu, moa hỏi thật có bao giờ cậu để ý coi dưới gan bàn chân của cậu, có ít nhất là ba nốt ruồi không? Cậu phải đi nhiều lắm!" Cái vô duyên là tôi nhận ra Tiến nổi hứng bất tử trong khi tôi đầu óc cứ vấn vương về chuyện ban hữu, nước non! Tôi nghĩ bụng một cách hài hước - chắc cha này lại "dựa nhời". Hắn biết công việc, chức vụ của tôi một tháng chỉ có mặt ở Saigòn cỡ một đến hai tuần lễ, tôi chả đi nhiều thế chó nào được! Còn chuyện gan bàn chân của một thằng bé suốt tuổi thiếu thời, nào ở quê nhà chạy nhảy nô đùa bờ sông quán chợ mà lại chẳng bị năm bảy vết sẹo, đôi ba nốt đen!
Tôi quên câu chuyện của Tiến với những nốt ruồi ở gan bàn chân cho tới ngày tôi nằm dài trong trại tị nạn ở đảo Wake, với nổi nhớ thương chồng chất tan hoang cùng với một cơ thể rã rời tiều tụy. Một hôm nhà tôi hoảng hồn: - Chết rồi! anh ơi, dưới gan bàn chân của anh có tới năm nốt ruồi lận! Mà một cái lại là nốt ruồi son! Như vậy là suốt đời anh sẽ lang thang trên trái đất!
Của đáng tội thì số tôi lận đận thật. Hồi đất nước chia đôi, cậu bé mười một mười hai tuổi đã phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để khăn gói quả mướp leo lên tàu há mồm của Mỹ ở vịnh Hạ Long để đi vào miền Nam tị nạn chính trị! Hành trang bấy giờ của tôi chỉ vỏn vẹn một túi vải nâu, ở trong đựng cuốn thông tín bạ lớp nhất với mấy cuốn sách phần thưởng cuối niên học năm ấy. Tôi nhớ mang máng là tôi đi vào Nam với một tâm hồn của người đi "tân thế giới" mặc dầu tôi chẳng biết tân thế giới nó ra làm sao! Tôi không xây được mộng đẹp ở miền Nam vì thế hệ chúng tôi bị bó buộc vào một cuộc buôn bán máu xương. Vết thương của những cuộc chém giết trên người tôi nay đã khỏi, nhưng hãy còn đau, đau vì những hy sinh thịt xương của những người đã chết, của những người "chơi bạc thật" như tôi bị lừa bịp đã trở thành vô ích!
Và bây giờ tôi đang ở đây, không hạnh phúc. Thật ra tôi đã thực hiện rất nhiều cuộc hành trình trong đời tôi, nhưng xem ra cuộc hành trình nào cũng mang tính cách bó buộc và có lý do chính trị cả! Cậu bé ngày xưa trong cuộc di cư với hành trang vụng dại đúng hai chục năm sau lại đeo túi hành lý lên vai với vài hộp sữa đặc, một chiếc bình thủy nước nóng, một ít tã vải với hai nhóc con trên tay đi quá nửa vòng trái đất, sang bên kia bờ Thái Bình Dương, thực ra chỉ để thực thi cái định mệnh trong câu tướng số của người bạn cũ! Đôi khi cuộc sống vất vã với nhiều bất bình này, tôi đâm nghi là minh sẽ phải còn làm những cuộc hành trình tương tự khác! Lời chạy tội nào để tránh cho tôi những dằn vặt vì đã chia sớt miếng đỉnh chung của quê hương mà đành lòng bỏ đi quên cả anh em bè bạn. Tôi yên vui sao được khi tôi đang sống trong một xã hội thùa thãi thịt cơm mà những người ruột thịt còn đang bỏn từng miếng ăn? Tôi ở đây nhưng linh hồn tôi vẫn cỏn ở bên ấy. Tôi mong những dêm về để thấy lại bạn bè củ, để ngắm lại một dòng sông xưa thao thức chảy suốt buổi thiếu thời trong cơn mộng mị. Hạnh phúc làm sao được khi vợ tôi phải đội tuyết đi hết cả vài trăm cây số để mua một bó rau đay, một vài pap cà pháo mà giá cả đắt hơn nhiều lần thịt cá, chỉ là ăn để đở nhớ nhà! Lỗi ấy đâu có phải vì tôi không thể quên canh rau cá muối mà tôi đã sống mấy chục năm!
Tôi trách làm sao được những người bạn mới ở quốc gia này, họ thật tình muốn chia sẽ với tôi những tập quán, ước mơ, và thức ăn của họ. Tôi chê trách làm sao được khi một quốc gia giàu lòng tốt nầy giang tay chấp nhận tôi với mọi thứ cơ hội sẵn có! Đó mới đích thực là thảm kịch nội tâm nơi nhũng người Viet Nam đã nặng nề quá khứ, đã ăn cơm ở những đồng lúa Cữu Long, đã uống nước từ những dòng phù sa ngọt mát, lưỡi đã cứng vì quen nói lời khẳng khái, vì vị mặn của nước mắm Phan Thiết, Hà Tiên! Đó là thân phận! Đó là bi thảm
Không ai cấm tôi đang sống trên những giàu sang văn minh nhân loại mà tâm hồn thì cứ triũ nặng nhớ thương nghèo khó quê xưa. Tôi vẫn còn say sưa những phút lên đường đây đó, nắng gió giang hồ vẫn còn là một mời gọi tha thiết trong tôi, nhưng tôi đâu còn tìm thấy được cái thao thức diu dàng một buổi sớm mai rời thành phố ngủ yên, đi về những miển quê hương thân yêu lúc nào cũng có tiếng mời, tiếng chào cùng vòng tay ấm áp nồng nàn, tận hưởng cái không khí thơm nồng của mùa hè trên sông Hương ở quán 242, ngồi yên trong cái quán vắng ở Lâm Đồng, nghe cái dê mê của khói thuốc thấm dần vào cơ thể, hoặc là một chiều mưa giớ ở quán Thiên Thai trên con lạch bên đường dẫn vào thị xã Long Xuyên và con say làm gẫy đổ cả màu sắc, hình hài... để rồi một hôm thấy mình ngồi gọn trong một chuyến xe đò cọc cạch trở về thành phố tâm hồn quạnh quẻ bình yên. Ngay nay tôi đi qua những xa lộ dài tính bằng những ngày xe chạy, những khoảng cách tính bằng nhũng múi giờ khác biệt, qua những sa mạc dài hay những đô thị mênh mông, những kỳ quan thiên nhiên hay những công trình sáng tạo vĩ đại của con người. Một cach công bằng: Xứ sở này tráng lệ, hùng vĩ, nhưng sao tâm hồn tôi nghe ra vẫn bơ vơ, hững hờ! Tâm sự của tôi là tâm sự của một kẻ ở nhờ! Núi sông đất nước này tôi không thể tìm thấy dấu vết gì những đóng góp của mình, của tổ tiên mình để mà tự hào, không có cái gì gọi là "của tôi" thân yêu như ở quê nhà. Phải chăng những buồn bã, lẻ loi trong tâm hồn tôi còn là vì ngày nay tôi vẫn còn đang mang nhiều mặc cảm: Mặc cảm tự khinh: Tôi đã bỏ đi vì lý do riêng mình mà đáng ra tôi phải ở lại, phải ăn chiụ với số phận Quê Hương. Nếu bảo là tôi may mắn thì chúng ta phải nói thế nào về những ngưởi còn ở lại, còn đang chiến đấu trong những điều kiện cùng cực! Rồi mai ngày đất nước bình yên, tiệc sẽ dọn sẳn, chúng ta có còn đủ can đảm trở về ngồi vào mâm cổ mà chia phần xôi thịt!
Mặc cảm bị chế nhạo khinh khi cho nên bất cứ một sự xúc phạm nào đến Việt Nam dù vô tình cũng làm tôi đau khổ, day dứt: Đừng chụp hình gởi về Việt Nam với những bầy con ô-vờ-uết mặc đồ xeo ở Kê-Mạc đứng bên những chiếc xe hơi dễ mua hơn cả một chiếc xe đạp ở Việt Nam. Đừng kể bên này thịt cá đổ đi với những người đang chết đói. Đừng khoe chúng ta đang "đào được mỏ vàng" bên Mỹ trước những người đã mất hết niềm tin! Như thế là nhẩn tâm, tàn ác!.
Nghĩ đến thân phận những người Việt Nam di cư tôi sực nhớ lại cái quan cảnh "bán con" ngày xưa ở quê tôi. Quê đẻ tôi là một làng nhỏ bé miền duyên hải tỉnh Ninh Bình. Dân chúng sống bằng nghề nông, sự thăng trầm của đời sống dân quê tuỳ thuộc vào hai vụ lúa chiêm và mùa mỗi năm. Gặp năm bão lụt như kỳ "bảy ngày ba bão" mất mùa tình cảnh nghèo đói đã dồn dân quê đến cùng đường. Phiên chợ ở nhà quê thường xãy ra một tháng hai lần để dân làng và những làng lân cận ra chợ phiên. Ngoài chuyện buôn bán đổi chác các dịch vụ thông thường, có những bà mẹ ốm đói dẫn những đứa trẻ rách rưới tả tơi tuổi trạc mười một mười hai ra chợ phiên bày bán như người ta bán chó mèo, gà vịt... Cuộc buôn bán mặc cả diễn ra một cách thản nhiên giũa những bà mẹ tội nghiệp không còn đủ gạo nuôi con với những tên phú hộ lợi dụng mua người làm con ở, ngã giá nhiều khi một em bé gái còn rẻ hơn một cặp lợn con! Cảnh chia ly giữa người mẹ muốn cứu sống con với những đứa trẻ run rẩy sợ hãi trong tay người lạ lôi đi. Không có lời lẽ, ngôn ngữ gì của bất cứ một văn hào Tây Ta có thể mô tã nổi! Hồi gia đình tôi còn định cư ở miền Bắc nước Mỹ: tỉnh nhỏ, ít người Việt Nam nên người địa phuong rất quí mình. Nhà thờ bảo trợ lo lắng thật chu đáo cho người tỵ nạn. Mối liên hệ rất mật thiết, và vì vậy theo đúng luật định, chúng tôi đã trở thành công dân Mỹ sau năm năm định cư. Quang cảnh ngày tuyên thệ thật nghiêm trang diễn ra tại toà án, có sự chứng kiến của các vị quan toà và ở dưới hàng ghế kia là các đoàn thể, học sinh, và vài chục người trong nhà thờ bảo trợ chứng kiến. Lễ tuyên thệ diễn ra lần lượt từng gia đình một. Trên môi mọi người đầy ắp tiếng cầu chúc vui mừng cùng những bộ mặt hoan hỉ tươi vui. Đến lượt tên tôi được kêu lên bục cao trước mọi người, đột nhiên tôi cảm thấy ngần ngại khôn tả: Tôi phải đối diện một sự thật đau lòng: quan cảnh bán con ngày xưa hiện về trong trí nhớ. Như thế là tôi đã rời bỏ bà mẹ nghèo khổ Viet Nam, người mẹ đau khổ rách rưới đã sanh thành và nuôi nấng tôi bao nhiêu năm đằng đẳng, những muốn cho tôi sung sướng hạnh phúc nhưng đành bất lực. Người mẹ ấy đang gạt nước mắt đành ở lại vùng đất chết mọi hy vọng, không ngày mai, đưa tay vẫy gọi một cách tuyệt vọng những đứa con lang thang vào miền cách trở muôn trùng. Tôi suýt bật thành tiếng khóc giữa con bão tố ở trong lòng muốn phá tung mọi dồn nén đang biến thành trận cuồng phá vỡ bờ. Mắt tôi nhoà lệ. Phải cố gắng cực độ tôi mới có thể nuốt giòng nước mắt ngược xuống cổ họng mặn đắng. Tôi nhìn xuống hàng ghế những người bảo trợ. Họ đang vỗ tay reo mừng vì đã làm một kẻ thiếu quê hương trở nên một thứ công dân hùng mạnh nhất thế giới.
Bây giờ tôi đang ở Cali. Những náo nức của một cuộc đổi đời, những hăm hở nơi vùng đất lạ lúc đầu đã hết, tôi nghe tâm hồn mình chìm xuống và nỗi thao thức bồn chồn của một tâm trạng chờ đợi dấy lên, mặc dầu tôi không cắt nghĩa nỗi là mình chờ đợi cái gì nơi xứ sở bình yên và đời sống được bảo vệ an toàn tối đa này, tôi đâm thèm cái không khí Sàigòn cũ, mỗi phút sống là mỗi đam mê cực độ, cho dù cuộc sống ấy chứa chất nhiều may rủi bất trắc. Cuộc sống ấy mang sinh khí với rất nhiều cơ hội đổi thay, và cuộc đời không khi nào rơi vào nhàm chán. Tôi nhớ luôn cái phong thái của người mình, sống giữa những đe dọạ chết chóc vẫn lạc quan yêu đời. Ở thành phố buổi sáng sau đêm pháo kích, ngồi trong quán cà-phê nghe mạng sống bị rình rập, dù trong lúc chán chường đột nhiên mình vùng dậy muốn sống. Ở thôn quê hẻo lánh, mỗi bước đi có thể gặp mìn bẫy, cũng có thể ở đâu đó, mũi súng vô tình nào đang ngắm vào đầu, mình mới thấy mạng sống là quí báu ngọc ngà.
Buổi chiều đi làm về, tôi thường ngồi trên gác vắng nhìn ra của sổ, núi đồi Milpitas hiện chập chùng ở đằng xa, tôi gặp lại sự bình yên của tâm hồn với những giấc mơ đi xa, đối diện với nỗi cô đơn sừng sửng hay tự dằn vặt mình vì những lầm lỡ quá khứ. Nằm trên ghế mơ màng, bắt gặp lại một hình bóng cũ, một xúc động xưa, cũng có thể là quan cảnh nghèo đói của một cái quận lỵ miền Trung, những hố bom ở Tiên Trà hay những vết thương còn đỏ máu ở thành Nội. Nhưng bất chợt quen thuộc nghe thương lạ !
Mai kia tôi sẽ già. Tôi ước mong tôi còn được trở về Quê Hương. Tôi không muốn làm đồ phế thải bị bỏ quên ở những bãi xe hơi cũ ngoại ô thành phố. Nếu điều bất hạnh lớn nhất và cuối cùng xẩy ra, một ngày kia tôi phải chết ở đây, nếu quả rằng sau kiếp sống này một cuộc tái sinh còn tiếp diễn thì:
Xin cho tôi được về quê cũ !
Xin cho tôi làm người VIỆT NAM !

Nguyễn Định