Hoa xuyến chi ở lại,
Em đã ra đi và đi xa mãi...!
Hoa xuyến chi vẫn còn lại nơi đây...
Trong ánh chiều vàng bụi cát bay bay,
Thoảng qua gió thì thầm lời em kể,
Hoa nhớ người cùng chung tên, rơi lệ !...
Khóc một thời cô độc giữa mênh mông,
Người ra đi để lại một giòng sông...
Đầy hoa trắng xuyến chi trên đồi vắng !!
Suốt cuộc đời nếm biết bao trái đắng,
Chợt ngọt ngào bởi mật ngọt anh trao,
Cho dù em ở nơi nao,
Xuyến chi luôn vẫn đón chào người xưa...!!
NM
Hoa xuyến chi 1
Cả làng chẳng ai lạ gì chị. Người
chị vừa ngắn vừa to. Bàn chân lại bé xíu, lúc nào cũng run rẩy đỏ bầm vì
cố sức đỡ tấm thân đồ sộ. Nhưng tóc chị lại dài, óng mượt như nhung. Da
chị trắng tinh như tuyết. Răng cũng đẹp. Chúng như những hạt bắp non
mỏng mảnh.
Ôi
chao, người con gái nào chỉ cần có bằng nửa các nét đẹp như của chị
cũng đã đủ để kiêu hãnh rằng: “Ta thật xinh!” rồi! Vậy mà, xếp tất tật
những thứ đó lên người chị chúng lại phản tác dụng một cách trớ trêu và
hài hước. Nhìn riêng từng nét thì đẹp, nhưng tổng thể thì chúng chồng
chéo, làm lu mờ nhau khiến khuôn mặt nặng nề của chị trở nên tẻ nhạt một
cách khó chấp nhận. Tất cả chỉ tại chị quá béo. Sự béo làm cơ thể chị
phồng lên, phình to bừa bãi. Có lẽ vì thế mà ngót bốn chục tuổi rồi, chị
vẫn chẳng có mảnh tình nào an ủi. Không người đàn ông nào muốn nhìn chị
lâu. Mà cứ gì đám đàn ông, ngay cả phụ nữ cũng thế. Họ thờ ơ và có phần
sợ hãi, một kiểu sợ hãi vô thức và thật vô lý khi chị ở gần. Chỉ có lũ
trẻ là không né tránh chị. Chị vẫn ở một mình trong ngôi nhà hai tầng
xinh xắn đầy đủ tiện nghi. Ngôi nhà nằm chênh vênh trên sườn đồi, cạnh
con đường lớn xuống thị trấn, quanh nhà toàn hoa xuyến chi.
Bố mẹ chị ở tận bên Mỹ, giàu có lắm. Anh trai chị có bằng tiến sĩ kinh tế. Em gái chị là phóng viên một tờ báo lớn và rất xinh đẹp. Họ đều đã là chủ gia đình... Mười năm trước, cả nhà đưa chị về Việt Nam cùng hy vọng mong manh rằng với số tài sản kếch xù, sẽ có người chịu lấy chị làm vợ. Họ tính toán, bàn cãi khá kỹ càng rồi quyết định mua nửa quả đồi và xây nhà ở vùng trung du yên tĩnh đến heo hút này, gửi tiền vào một ngân hàng gần đó rồi về Mỹ. Dân làng đầu tiên thấy lạ, sau cũng quen dần với sự có mặt của chị. Họ biết chị có một cái tên thật xinh: Nguyễn Hoa Xuyến Chi. Họ quen gọi chị là “dì Chi béo" hay “cô Chi mập”.
Chị sống bình thản nơi mảnh đất trung du này. Mọi người chẳng ai thù ghét gì chị nhưng cũng không đằm thắm mặn mà lắm. Dân ở đây nghèo và lam lũ quanh năm. Họ sống chủ yếu bằng nghề trông rau và lúa bãi. Đất đồi rất tốt nhưng nước thì khá hiếm nên đến giờ, cả làng mới có được dăm cái ti vi của vài hộ khá giả. Xe đạp thì tróc sơn, gỉ vành, chuyên dùng làm xe thồ rau xuống chợ thị trấn. Trường học khá tuềnh toàng hoang vu với mấy gian cấp bốn quét vôi trắng nằm khép nép bên kia đồi. Trẻ em đầu trần, chân đất đến lớp học chữ, làm tính rồi về nhà giúp bố mẹ trông em, tưới rau hay lên đồi kiếm củi. Chúng hầu như không biết đến những cuốn chuyện tranh hấp dẫn hay trò chơi điện tử cùng các đồ chơi đắt tiền. Truyện cổ tích chỉ do ông, bà chúng kể, quanh đi quẩn lại vẫn là “Tấm Cám” hay “Sọ dừa”... Cái ti vi màu nhà chị trở nên đắc dụng. Cánh cổng sơn màu tím nhạt luôn mở rộng để lũ trẻ quần áo lấm lem, xốc xếch túa vào. Biết tính chị sạch sẽ, chúng tự động rửa chân tay, phủi quần áo tươm tất rồi ngồi xếp bằng trên nền nhà mát lạnh vừa ngó màn hình vừa nhí nháu bình phẩm hoặc cãi cọ nhau. Xem chán, chúng quay sang nghe chị kể chuyện. Chuyện của chị không phải cổ tích cũng chẳng ra ngụ ngôn hay hiện đại nhưng lũ trẻ cảm nhận được chị thật thông minh, trong chị tiềm ẩn một kho tàng ngôn ngữ phong phú... Bọn trẻ và cả mọi người ở đây không thể biết rằng, ông nội chị ngày xưa làm đến chức chánh mật thám Bắc Kỳ. Sau năm 1954 ông đem cả gia đình vào Nam và sang Mỹ di tản dạo tháng 4 năm 1975. Trước khi đi, ông còn kịp gởi hàng yến vàng và kim cương vào một ngân hàng lớn tại Thụy Sĩ... Mười ba tuổi, chị vẫn xinh đẹp thông minh như bao cô nhỏ may mắn khác. Sang Mỹ được vài tháng tự nhiên chị béo dần và béo nhanh đến mức cả nhà phát hoảng. Đến rất nhiều bệnh viện, không phát hiện ra bệnh gì ngoài dòng chữ “Rối loạn dậy thì”. Bác sĩ còn an ủi rằng chị khỏe mạnh, bình thường, rồi sẽ ổn thôi... Sự giải thích và động viên của các bác sĩ không làm cho bố mẹ chị yên tâm. Họ cầu khẩn thần linh và rất chịu khó đi xem bói. “Đời cha ăn mặn tất đời con phải khát nước! Con không thì cháu phải chịu!” Nghe thế, mẹ chị lăn đùng ra ngất xỉu, về nhà vật vã khóc lóc hàng tháng trời. Bố chị rất hoang mang, công việc buôn bán chểnh mảng. Còn cô bé con ẩn trong cơ thể mập phì là chị thì kinh hoàng... Cả gia đình chìm nghỉm vào không khí lo sợ, hốt hoảng trừ ông nội. Chẳng hiểu vì ông muốn tự trấn an mình hay suy nghĩ như vậy thật mà suốt ngày lớn tiếng răn dạy bố mẹ chị rằng đừng rỗi hơi tin vào đám thầy bói hay nói nhăng nhít ấy, rằng làm gì có thần linh... “Nó mắc chứng bệnh gì đó, người ta chưa phát hiện được chứ đâu như chúng mày nghĩ! Quả báo gì? Tao vẫn sống sờ sờ ra đây?"... Không biết mọi người trong nhà phản ứng thế nào, còn riêng chị thì ngược lại. Dần dà chị nghĩ, ông nội đã vơ hàng đống vàng của những người lao khổ, tống biết bao nhiêu Việt Minh vào tù làm vừa lòng quan thầy rồi dẫn cả nhà cao chạy xa bay đến Mỹ. Bố mẹ chị kinh doanh buôn bán bằng những đồng tiền đó và giàu sụ. Anh trai, em gái chị khỏe mạnh, thành đạt... Trả nợ cho những điều đó, tất yếu chị phải chịu hẩm hiu thôi! Thế là chị chán, chẳng thiết nghĩ đến việc oán than cuộc đời và số phận bạc bẽo của mình nữa... Năm chị hai mốt tuổi, ông nội qua đời. Chị không hề trách giận ông dù rất tủi thân đến khi nhắm mắt, ông vẫn khăng khăng cho rằng chị mắc bệnh, một căn bệnh quái gở. Vì chị mà con dâu, con trai ông hờ hững lạnh nhạt với ông. Gia đình luôn ngột ngạt căng thẳng, cảm giác sờ sợ một điều gì khi thấy vẻ mặt ủ ê, cái nhìn cam chịu và dò hỏi của chị với tất cả... Ý định trở về Việt Nam dần xuất hiện trong những tháng ngày vừa ấm cúng vừa cô độc ấy. Thực lòng, chị ngán đất Mỹ. Những tòa nhà chọc trời, xe cộ vun vút trên đại lộ, cuộc sống văn minh đến vô cảm giúp gì cho một kẻ như chị suốt ngày ngồi yên lặng trong căn phòng biệt lập đầy đủ tiện nghi hiện đại, chuyện trò với bốn bức tường hoặc nhìn mẹ tất bật chăm sóc mình với vẻ mặt rầu rĩ cố giấu giếm mặc dù chị biết, mẹ rất thương yêu mình...
Dù sao thì chị cũng phải cảm ơn trời phật đã cho mình một trí tuệ sáng láng và khả năng tưởng tượng phong phú để có thể níu giữ được bọn trẻ hiếu động bằng những mẩu chuyện chị vẫn thầm tự hào là rất thuyết phục. Có những chuyện do chị tự nghĩ ra mà dần dần chính chị cũng tin rằng, mình không hề bịa, cứ ngỡ mình đã đọc ở đâu đó rồi kể lại. Cũng hồi hộp, háo hức và tò mò như lũ trẻ khi nghĩ về số phận của các nhân vật... Chị yêu hoa xuyến chi và đã dồn tâm sức sáng tác một câu chuyện cảm động về loài hoa này. Đó là một câu chuyện chị tâm đắc nhất. Có lẽ vì nó mang cái tên xinh đẹp của chị. Hình như, khi nghĩ ra câu chuyện đó, tình thương cái tên tội nghiệp trào dâng và chị kể chuyện như một sự tạ lỗi với cái tên đã trót gắn với chị thì phải. Lũ trẻ há mồm nghe. Đứa ngồi im mơ màng tưởng tượng. Đứa thì nằm bò ra sàn nhà, ôm chặt cái gối ngước mắt về phía cửa sổ có đám xuyến chi thập thò, đung đưa trong gió.“ Ngày xưa, tại vùng đồi trù phú kia có một thiếu nữ sống cùng mẹ già. Gia đình nàng có nghề làm hương nổi tiếng khắp vùng. Nhiều chàng trai cảm mến đường ăn nết ở và vẻ hiền dịu, dễ thương của nàng đã tìm đến cầu hôn. Vì nhà nghèo, mẹ lại đang bệnh nặng nên nàng đều từ chối. Ngày ngày trong căn nhà tranh bé nhỏ, nàng cặm cụi xe hương và thuốc thanh phụng dưỡng mẹ... Tám năm sau, mẹ nàng qua đời. Lúc này, nàng đã trở thành một phụ nữ hao gầy. Những chàng trai ngày xưa say mê nàng giờ đã yên bề gia thất. Nàng âm thầm sống một mình trong cảnh quạnh hiu với nghề làm hương cùng những hoài niệm về thời thiếu nữ trẻ trung cô độc...
Rồi một hôm, có chàng trai trẻ ở nơi xa đến vùng này. Chàng xin vào làm công cho nàng. Lúc đầu, nàng e ngại. Sau rồi cũng đồng ý. Có người đàn ông gánh bớt, công việc đỡ vất vả và hương của nàng hình như thơm hơn. Họ khấm khá dần... Người làng thấy má nàng bớt rám, mắt long lanh và dáng người thon thả lại. Nàng hay cười hơn- nàng đã yêu người đàn ông đó... Tin chàng trai, nàng trao cả cho chàng bí quyết của nghề làm hương gia truyền cùng toàn bộ vốn liếng dành dụm được trong những tháng ngày vất vả xưa... Vào một đêm giông gió, chàng trai kia đã ra đi không một lời từ biệt, nhắn nhủ. Nàng trở nên câm lặng khi biết anh ta đã từ bỏ mình, lấy hết tiền bạc cùng bí quyết nghề làm hương quý báu khiến bao người thán phục ao ước, để lại cho nàng căn nhà trống tênh hoang lạnh. Nàng sống buồn bã như cây cỏ, trời nắng thì héo khô nhưng vẫn sống. Đến mưa lại ngập dập cũng chẳng chết và cứ thế, lay lắt ngày qua ngày. Cũng từ đó nàng bỏ nghề làm hương, sống đạm bạc nghèo khó nhờ mảnh vườn nhỏ trồng rất nhiều cây trái sau nhà.
Vào một ngày mùa đông, nàng lặng lẽ từ giã cõi đời không một lời oán trách. Nàng chết thật nhẹ nhàng. Dân làng đưa nàng lên đỉnh ngọn đồi cao nhất chôn cất nàng với những vòng hoa trắng. Nàng vẫn là trinh nữ- một trinh nữ hiếu thảo, dịu hiền và bạc mệnh. Trên đỉnh đồi đầy gió, trăng và ánh nắng mặt trời ấy, mộ nàng mọc một loài hoa mảnh mai, lá nhỏ xinh mơn mởn xòe ra như những bàn tay bé xíu. Hoa năm cánh trắng muốt, mịn màng khoe nhị vàng đung đưa kiêu hãnh. Chỉ khi nào tâm hồn không vướng lụy, người ta mới ngửi thấy một mùi hương thật thanh khiết dịu dàng như không có thực lan tỏa, tan loãng xung quanh mình, ấm áp như tấm lòng trong trắng, niềm tin yêu thánh thiện nàng đã dâng hiến trọn vẹn mà không được đền đáp. Dân làng đặt tên là hoa Xuyến chi.
Lại nói về chàng trai kia. Anh ta cuỗm sạch cả tiền bạc của nàng- số tiền họ dự định làm đám cưới và xây một nếp nhà mới- đến một nơi rất xa. Anh ta dùng số tiền và bí quyết làm hương ăn cắp được bắt đầu một cuộc sống khác và anh ta đã thành công. Hương của anh ta lập tức được người dùng ưa chuộng. Làm ăn phát đạt nên anh ta giàu lên nhanh chóng. Hai năm sau, anh ta lấy một cô gái đẹp làm vợ. Mãi năm năm nữa, họ mới sinh được một cô con gái khỏe mạnh, kháu khỉnh... Cũng thời gian đó, tự nhiên trong làng họ xuất hiện một loài hoa rất lạ, nghe dân trong vùng kháo nhau, đó là hoa xuyến chi- thì xuyến chi!- Với họ, tên hoa là gì cũng được, họ không quan tâm vì đang hạnh phúc- Họ có con sau bao tháng ngày đợi mong...
Thời gian thấm thoát trôi đi. Con gái họ đã ba tuổi, vẫn chẳng biết nói cười. Cô bé có cặp mắt buồn rười rượi. Người chồng cứ nhìn vào mắt con lại thấy bất ổn. Một dự cảm mơ hồ thật lạ lùng và rất khó nắm bắt ẩn trong hình hài đứa con yêu dấu của anh ta mà anh ta không thể cảm nhận, lý giải nổi. Từ lúc lẫm chẫm, nó đã thích đám xuyến chi mọc lan vào tận sân nhà. Suốt ngày con bé tha thẩn chơi với những cánh hoa dại kia, anh ta tức giận cầm dao phạt hết. nhưng lạ thay, chỉ vài ngày sau, đám xuyến chi lại mơn mởn tươi xanh vẫy gọi cô bé. Và nó lại hơn hở, mắt sáng lên nghịch hoa xuyến chi...”
Câu chuyện dừng ở đó, chị mặc cho lũ trẻ tưởng tượng phần kết. Có đứa không chịu, thắc mắc:
- Sao dì lại đặt tên hoa giống tên dì vậy?
- Đâu nào? ở đây rất nhiều xuyến chi cơ mà? Tên dì chỉ giống tên hoa ấy thôi! vừa nói chị vừa chỉ vào đám xuyến chi bên cửa sổ, giọng thuyết phục.
- Lớn lên, đứa bé có nói được không hả dì?- Con Lý, tóc vàng hoe ngồi cạnh chị rụt rè.
- Bố của đứa bé có biết hoa xuyến chi mọc từ mộ người trinh nữ ngày xưa không hả dì?- Thằng Kiên, nhà cách đây hai quả đồi nhưng là đứa chăm chỉ nhất trong các buổi "bổ túc" kiểu này- hấp tấp hỏi.
- Dì bịa hả?- Thằng Bi, bé nhất đám nhưng bao giờ cũng tinh ranh và thích chọc phá tự dưng hét toáng lên- Dì chỉ chuyên bốc phét!!!
- Thôi nào Bi!- Chị dịu dàng- Bao giờ các con lớn lên, dì sẽ đưa đến gặp đứa bé ấy. Đến giờ nó cũng không biết nói cười. Vẫn chỉ thích hoa xuyến chi. Còn bố nó, hình như ông ta đã... chết thì phải!- Chị hơi rung giọng khi nói những lời cuối cùng. Lũ trẻ chẳng để ý gì đến vẻ là lạ ấy của chị. Chúng còn bận nhìn ra sân xôn xao bàn tán. Với chúng, những cánh xuyến chi tầm thường kia hôm nay đúng là đẹp hơn thật. Thằng Kiên còn cam đoan nó đã ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng ở quanh đây...
Từ hôm đó, thi thoảng lại có đứa nhắc đến câu chuyện hoa xuyến chi, đến cô nhỏ kỳ lạ chẳng biết nói cười và chỉ thích xuyến chi kia. Vài đứa bé nhất còn ao ước mình nhanh lớn để dì Chi đưa đến gặp cô bé ấy. Và cũng từ hôm đó, thỉnh thoảng chúng lại lên đồi tìm hái những bông xuyến chi đẹp nhất mang về cho chị. Chúng chỉ phiền một điều là lần nào cũng phải chạy thục mạng về ngôi nhà có cánh cổng màu tím nhạt vì xuyến chi chỉ rời gốc không lâu đã heo héo, cánh hoa uốn cong lại buồn bã rồi... Cứ vậy chị chăm chỉ và hào hứng sáng tác ra những câu chuyện vừa gần gũi vừa mang tính huyền thoại kể cho lũ trẻ. Chúng hồn nhiên tiếp nhận, hồn nhiên làm giàu có hơn tâm hồn ngây thơ và vốn hiểu biết ít ỏi, thiếu thốn mà tạo hóa đã không ưu ái chúng- những đứa trẻ được sinh ra từ vất vả ruộng đồng, từ sự nhọc nhằn cơ cực của cha mẹ chúng- những con người chân chất và lầm lũi đã sống cùng vùng đồi màu mỡ nhưng vắng vẻ hiền hòa này.
- Cô Chi à! Mong cô thương các cháu! Vụ bắp cải này nhà tôi mất trắng. Tiền giống vốn cũng chẳng thu lại được nói chi đến công xá lãi lời. Tết nhất thì đang ở sau lưng...
- Chị định mượn bao nhiêu?- Chị dừng tay thu nhặt đám lá rung quanh mấy gốc cây, run run đứng dậy bước vào nhà.
- Tùy cô, cô thương các cháu với!- Người đàn bà cầm lấy rổ lá te tái chạy theo.
- Năm trăm ngàn được không chị?- Chị quay sang- Kìa chị cứ để đấy! Lát nữa em đổ ra phơi...
- Thế thì tốt quá! Cảm ơn cô! Cô thật phúc hậu!- Người đàn bà mừng rỡ, mắt chị rơm rớm.
- Tiền đây! Chị cầm lấy rồi về đi kẻo tối! Lúc nào rảnh mời chị sang chơi!- Chị đưa cho chị ta cái phong bì và rụt rè nói, giọng buồn buồn.
- Được rồi! Cảm ơn cô! Mùa màng xong, chị sẽ sang nói chuyện với em sau... Khổ quá! Bận bịu suốt ngày.
Chờ chị ta đi khỏi, chị mệt nhọc ngồi xuống. Chị không giận họ,
những người nông dân vừa hiền lành vừa vô tâm kia. Cũng chỉ tại họ quá
nghèo. Miếng cơm manh áo cùng những lo toan vụn vặt cần thiết hàng ngày
đã làm cạn kiệt sức lực họ, làm sao họ còn thời gian để dành cho chị dù
chút ít? Và cả chị nữa? Mười năm sống ở đây, chị đã làm được gì cho họ
hay chỉ nhìn mọi người bằng cặp mắt giận dữ và tủi phận như một con thú
lạc bầy, rằng chẳng ai thèm biết đến sự cô đơn cùng những khát khao bé
nhỏ đời thường của chị. Rằng người ta coi chị chẳng khác gì đám xuyến
chi- loài hoa dại lan lung tung ở vùng đồi này...
Cách đây hai năm, mẹ chị qua đời. Bố và mẹ- hai người thân yêu nhất của chị đều lần lượt gửi nắm tro tàn bé nhỏ tại một thành phố giàu nhất nước Mỹ. Giờ đây, muốn thấy họ, chị phải thu lu trước màn hình với cuộn băng vidéo thì thầm trò chuyện. Chị thấy lòng mình thanh thản hơn khi mỗi ngày cắm vài nén nhang lên bàn thờ: “Mong bố mẹ phù hộ cho con!” Rất tự nhiên, chị ít nghĩ đến đất Mỹ hơn. Gia đình chị giờ đây là vùng đồi yên tĩnh, là căn nhà xinh xắn cùng lũ trẻ dễ thương ngày ngày huỳnh huy nh xô cánh cổng màu tím nhạt chạy vào... Thời gian đầu, chị như người thừa ra trong cộng đồng vì sự sang trọng và giàu có quá mức. Sau rồi, người ta cũng quen, thôi không dò xét tò mò nữa, chị trở nên thân thuộc dần dù không gần gũi. Tiếng là gần thị trấn, song cuộc sống của mọi người xung quanh giản đơn thiếu thốn quá. Tiền chị thì nhiều. Vậy là chị đánh tiếng cho vay. “Hãy đến mà lấy nếu bác gặp khó khăn!”. Và họ đến thật! Đầu tiên cũng rụt rè ngài ngại. Dần dà thành quen, thành chuyện thường ngày hơn... Thế là điều vừa buồn cười vừa xót xa đã xảy ra, có những người làm như ngẫu nhiên quên cả trả nợ, sáu bẩy năm chẳng hề ngó ngàng đến nó. Chị thấy cay đắng quá! Tại sao lại thế? Tại sao lại không trả tiền cho chị? Phải chăng họ nghĩ “Nó giàu có thế, lại ở một mình, không trả cũng chẳng chết!... Tại nó mời chứ tự dưng mình đâu đến hỏi!... Đang túng thiếu, tính sau vậy!... Số tiền này cũng chẳng đáng gì với nó!..."... Thế là kết cục, gặp chị họ vẫn chào hỏi nhưng tịnh không có ai nghĩ đến chuyện tới nhà chị khất nợ. Rất ít người mời chị đến nhà chơi, họ nghĩ chị đi lại khó khăn và cũng chẳng thích nhìn thấy khuôn mặt tròn bự cùng vóc người đồ sộ run rẩy của chị, càng chẳng có kẻ nào chịu lấy chị làm kẻ tâm tình. Chia sẻ cái gì khi chị chỉ suốt ngày ru rú ở xó nhà, đau ốm liên tục. Những điều chị biết thì toàn là sách vở vì ngày ngày, chị chỉ có mỗi việc ăn, ngủ và đọc sách. Từng bộ sách cao ngất nghểu trong nhà chị chẳng thể làm cho ruộng bắp cải của họ bớt sâu rầy, thùng gạo trong buồng nhà họ đầy hơn. Còn lũ trẻ ư? Chúng thích đến với chị thì kệ chúng, thiệt lợi gì? Nhà chị có cái ti vi to tướng, lại mát mẻ sạch sẽ, cứ để chúng chơi ở đó cũng tốt. Điều ấy cũng chứng minh rằng, chị chỉ có trí tuệ của cô bé mười ba tuổi mà thôi (!). Lũ trẻ thích thú là phải. Thế là chỉ khi đến vay tiền hoặc nhờ giúp đỡ, người ta mới coi chị là một người bình thường tốt bụng. Chị đón cái “diễm phúc” ấy vừa sung sướng vừa buồn tái tê... Giờ thì chị quen rồi. Ai mượn bao nhiêu chị đều kín đáo ghi chép cẩn thận, đơn thuần cho đỡ quên thôi chứ chẳng phiền muộn hơn khi người ta cư xử với mình kỳ cục như vậy. Vì chị biết, trên đời này có những người mặc nhiên bị thiên hạ xem thường bởi người ta xấu xí quá, răng người ta hô quá, mắt người ta lồi quá hay người ta vụng về quá trong hành vi cử chỉ khi ứng xử giao tiếp... Ai cũng cho mình được cái quyền chê bai, ác cảm với họ. Phải kiên cường lắm chị mới quen được với việc “xếp” mình vào “hàng ngũ” của lớp người đầy thua thiệt ấy và gắng sống bình thản trước tất cả, vui vẻ chấp nhận cả chút lợi dụng của ai đó như một điều tất yếu đối với bản thân mình. Bây giờ chị đã đủ tự tin, để có thể tự hào về mình, về những gì đã đang làm cho lũ trẻ và cho cả mọi người dù điều đó không hề được thừa nhận”. Trút một hơi thở dài, chị chầm chậm đứng lên đi ra cổng. Cảm giác thanh thản và bình an dần trở về...
Mấy hôm nay, không thấy lũ trẻ rẽ vào. Chắc chúng bận giúp bố mẹ cắt thêm vài tải cỏ hay thồ xu hào xuống chợ bán lấy tiền mua gạo nếp, đỗ xanh và quần áo mới. Ở đâu, dù nghèo khó hay thịnh vượng, những ngày cuối năm này cũng được bọn trẻ háo hức và rộn rã chuẩn bị. Ngày tết cổ truyền vẫn thấm đẫm niềm vui của trẻ thơ.
Gần bốn giờ chiều, chị khép cổng chậm chạp lần từng bước sang sườn đồi bên kia. Nắng đã nhạt hẳn sương giăng mờ khắp nơi. Hoàng hôn trung du đẹp hơn hẳn những nơi khác, nó khiến ta liên tưởng đến sự thanh bình mà hùng vĩ của đất trời... Đang chăm chú bước, bỗng chị nhìn thấy một cậu bé chừng bốn, năm tuổi đang tha thẩn chơi một mình. Nó mặc bộ đồ thể thao khỏe mạnh, khuôn mặt bầu bĩnh với những sợi tóc mềm lơ thơ hơi bết trước trán. Cậu bé hình như không biết có người đến gần, vẫn mải mê với trò chơi của mình. Xa hơn chút ít, một người đàn ông luống tuổi ngồi im lặng ngắm cảnh chiều tà. Chị thích thú theo dõi cậu bé và chỉ chốc lát, quên hẳn anh ta. Với sợi dây khá dài, nó loay hoay trước một cây mẫu đơn chỉ cao đến cổ nhưng tán xòe rộng nở đầy những chùm hoa đỏ rực, tròn xoe. Tò mò, chị lại gần cậu bé... Hí húi một lúc nó đã buộc được vài chùm hoa với nhau và hình như vẫn chưa hài lòng. Thỉnh thoảng, nó lại dừng tay ngắm nghía, quệt mồ hôi trên khuôn mặt đỏ hồng, cử chỉ chẳng khác gì người lớn. Rồi nó xăm xăm chạy quanh cây mẫu đơn, dáng vẻ còn băn khoăn lắm... Chị bỗng bật cười thành tiếng. Một thoáng run rẩy, một chút khám phá khiến tâm hồn chị rưng rưng, mềm mại hẳn... Tiếng cười của chị làm người đàn ông ngạc nhiên, anh ta bước lại gần với cái nhìn dò hỏi. Chị khẽ khàng:
- Thế giới của trẻ thơ thật rộng lớn và huyền bí! Anh thấy không, chỉ cần một cây mẫu đơn bé nhỏ, cậu bé này có thể say mê với trò chơi của mình vài giờ đồng hồ không hề biết mệt. Nó đâu để ý đến chúng ta?
- Cô nghĩ như vậy ư? - Anh ta ngạc nhiên nhìn chị thích thú.
Cậu bé lúc này dường như mới thấy người lạ. Nó ngước cặp mắt đen láy nhìn hai người rồi ngoái đầu xuống triền đồi cất tiếng: “Mẹ ơi”. Một phụ nữ trạc 30 tuổi cầm cái liềm nhỏ chạy lên. Cô gật đầu chào chị rồi dẫn cậu bé ra về, chị nhìn theo, ngạc nhiên:
- Ồ! Tôi cứ tưởng cậu nhỏ kia đi cùng anh?
- Cô sống ở đây à? - Người đàn ông không trả lời câu hỏi của chị
- Nhà tôi bên kia đồi. Cổng có màu tím nhạt, anh nhìn thấy không?
- Có, cô sống một mình sao?
- Một mình! - chị ngượng nghịu khi thấy anh ta cứ chăm chăm nhìn mình nửa tò mò, xem xét, nửa lạ lẫm... Rồi anh ta cười, nụ cười hiền hậu làm chị nhẹ nhõm hẳn...
Từ buổi chiều đó, người đàn ông rất hay đến thăm chị. Những hoàng hôn có nắng anh thường cùng chị lên đồi ngắm cảnh, nhìn mặt trời mệt mỏi chui gọn vào tấm thảm mây ngũ sắc nằm vắt ngang dãy núi trùng điệp nơi xa mang đi những tia sáng cuối cùng sau cả ngày rong ruổi... Họ nói đủ thứ chuyện trên trời, dưới biển. Người đàn ông kể, anh ta là nhà văn đi thực tế ở vùng trung du này để hoàn thành cuốn tiểu thuyết đang viết dở về đề tài chiến tranh. Anh nói mình rất nghèo, lại thích lang thang đây đó nên chưa kịp có một gia đình. “Ai dám lấy tôi chứ? Tiền chẳng có, suốt ngày hí húi hết viết lách lại khoác túi đi biệt. Cả tháng không về qua nhà...” Chị lắc đầu tỏ ý không bằng lòng còn anh thì cười buồn buồn, vẻ trầm tư...
Chị có một cái tết vui nhất từ trước đến nay cùng lũ trẻ và anh dù mãi mùng ba tết anh mới từ thành phố trở lại. Bọn trẻ thấy dì Chi béo quý chú nhà văn cũng tỏ ra có thiện cảm. Từ ngày có chú ấy, chúng được đọc rất nhiều truyện tranh, sách báo hay. Thi thoảng, thằng Kiên, con Lý còn được đèo ra tận thị trấn trên chiếc Phượng Hoàng mới cùng chú nhà văn xuống chợ và khi về bao giờ cũng là một túi quà lớn khoác trên lưng...
Rồi chị mời anh đến ở nhà mình vì căn nhà nhỏ của vợ chồng anh cán bộ văn hóa xã khá chật chội. Những bữa cơm đầm ấm mang không khí gia đình khiến họ dường như hạnh phúc hơn. “Vậy là vẫn còn một người đàn ông xa lạ, không phải bố và anh trai, trân trọng quý mến mình!” - Chị thấy mình thật may mắn nên lặng lẽ, kín đáo chăm sóc anh. Có những đêm trắng, phòng anh không hề tắt ánh đèn. Nhiều lần anh bỏ đi đâu đó cả buổi, chiều muộn mới hớn hở quay về, khoe một tập bản thảo dày dặc những vết gạch xóa cùng bó xuyến chi đã héo rũ. Chị phì cười trước vẻ chân thật rất trẻ con của anh...
Thi thoảng anh về thành phố và lúc lên là một ba lô sách vở, tạp chí, những cuốn tiểu thuyết, sách nấu ăn cùng mảnh vải rất đẹp “Để em may đồ, anh phải nhờ mấy cô bạn thân đi cả ngày mới mua được đấy!”- Những lời nói dịu dàng của anh làm chị cảm động.
Xuân tàn, trời bắt đầu nắng. Mùa hạ tới không ồn ào dù đã có những trận mưa rào bất chợt đổ xuống vùng đồi. Đã ba tháng rồi họ sống chung dưới một mái nhà. Tình cảm nửa giống tình nhân với tình nhân, nửa như anh em ruột thịt nhưng ấm áp và thành thực. Người đàn ông cảm nhận được rằng, bên trong vẻ thô kệch kia ẩn giấu một tâm hồn trong sáng và đa cảm, một nội tâm phong phú cùng những suy nghĩ thánh thiện. Điều đó đã níu giữ anh ở lại vùng đồi này. Vẻ dị dạng của chị dần quen mắt và nó chẳng còn gây cho anh cảm giác gờn gợn như lúc đầu nữa. Rất tự nhiên thằng Kiên, con Lý và cả thằng Bi nghịch như quỷ con đều được chú nhà văn ưu ái đặc biệt. Người đàn ông cư xử với chúng như bạn bè vì anh tin rằng chính chúng chứ không phải bất kỳ ai, bất kỳ lời thức tỉnh, giáo huấn nào sẽ mở toang những cánh cổng nặng nề cũ kĩ nhốt từng tâm hồn cằn cỗi, mệt mỏi vì mưu sinh của người lớn và thổi vào đó miền sáng dịu dàng của sự chân thật, đồng cảm giữa con người với đồng loại, tự nhiên và ngây thơ giống như ngày ngày chúng xô cánh cổng màu tím nhạt thân thuộc ùa vào, mặt mũi còn lem nhem bụi bặm... "Giá mà em có với anh một đứa con!" Chị cười ngượng ngập, buồn bã khi anh khẽ khàng chải mái tóc dài óng ả của mình. Điều ấy làm anh đau đớn. Những giọt nước mắt của người đàn ông rơi xuống tóc chị mặn mòi. Giữa họ, vĩnh viễn chỉ có một tình yêu mang nghĩa tinh thần. Nó thiêng liêng và cao quý thật nhưng cũng vì thế, nó chẳng đầy đủ một tình yêu. Sự giản dị và đời thường trong cuộc sống lứa đôi, những đứa con xinh xắn khỏe mạnh... đó là điều họ rất khó có thể với tay đến. Họ giống hai đường thẳng song song, cả hai cứ mải miết đi từ đầu nọ sang đầu kia suy nghĩ, ao ước và thời gian thì cứ trôi đi vô vị, dằn vặt... “Em đừng buồn! Rồi em sẽ khỏi bệnh, sẽ gầy bớt, tự nhiên như khi em mập lên vậy! Chúng mình sẽ đợi! Chúa công bằng và nhân từ lắm!" Những lời an ủi như thế, người đàn ông thấy nhạt nhẽo và phi lý chẳng khác gì chuyện dỗ một đứa trẻ đang khóc đòi mẹ khi mẹ nó đã bỏ đi hoặc không còn trên cõi đời này nữa. Vậy mà anh vẫn nói, vẫn an ủi và chị thì lặng thinh, cố gắng mỉm cười...
Chuyện một người đàn ông đến sống cùng cô Chi làm cả vùng đồi bàng hoàng. Sao lại thế được chứ? Nghe nói anh ta còn là nhà văn cơ đấy! Rõ thật là!... Trong tâm trí họ nhà văn phải là người ở thành phố, trong những ngôi nhà to lớn sang trọng. Anh ta phải ăn mặc lịch sự, chải chuốt, chân phải đi giầy... Đằng này, trông anh ta thật kỳ quặc! Người thì cao lòng khòng, tóc đã điểm bạc, gương mặt khắc khổ. Anh ta chưa khi nào khoác com-lê cả... Mà làm thế nào cô Chi béo mồi chài được anh ta nhỉ? Lưng cô ta to như cánh phản, người tròn trùng trục lại cao chưa được mét rưỡi thế? Hay anh ta là kẻ “đào mỏ” thượng thặng? Ôi chao! Cả vùng đồi như lên cơn sốt dịch, chỗ nào cũng râm ran chuyện cô Chi... Những kẻ mượn tiền không trả thì hồ hởi, yên tâm lắm “Thằng cha kia ghê gớm thật! Lần này có lẽ hắn vớ bẫm! Đến mình, nợ vài năm rồi mà cô ta vẫn vui vẻ, xởi lởi thế kia thì cô ta tiếc gì hắn! Thôi, cho qua luôn!. Lo lắng làm gì trừ phi cô ấy đến... đòi! “Một góc tối tăm trong lòng họ lại trồi lên, to dần, choán lấy phần sáng sủa khác... Chị hoảng sợ lắm nếu người đàn ông bỏ đi nhưng vẫn gắng tỏ ra bình thản:
- Anh buồn lắm hả?
- Không! Anh thương em!- Người đàn ông nắm lấy tay chị lặng lẽ.
- Họ lạ quá đấy mà! Chắc phải khá lâu nữa họ mới quen được chuyện này... Anh! Hay anh cứ về thành phố đi... Cuốn sách cũng sắp xuất bản rồi...
- Anh biết phải làm gì, đừng quan tâm đến điều đó nữa, được chứ! -Người đàn ông dứt khoát, giọng vẫn dịu dàng.
Thế là ngày ngày, trong căn nhà của chị vẫn có anh và lũ trẻ. Bây giờ, chúng không còn được nghe dì Chi kể chuyện nữa nhưng bù lại, được thoải mái đọc sách và thi thoảng cùng chú nhà văn lang thang khắp vùng đồi. Chúng thích lắm. Với chúng, những người chủ căn nhà này thực sự là bạn tốt. Mọi lời đàm tiếu của người lớn chẳng mảy may làm chúng quan tâm dù chút ít...
Những tháng ngày vừa êm đềm vừa sóng gió như thế kéo dài đã được gần năm. Đầu đông, trời se lạnh, từng đợt gió mùa đông bắc tràn về làm khô cong những chiếc lá vàng thưa thớt rơi khắp vùng đồi, chị đột nhiên ngã bệnh. Người đàn ông đã quen với việc chăm sóc chị nên các bác sĩ quen thuộc lần lượt được mời đến... Nhưng lần này khác với những lần trước, chị rất tỉnh táo mà cứ yếu dần. Người ta vẫn không biết chị mắc bệnh gì nên việc điều trị trở nên phức tạp và hầu như không có kết quả.. Linh cảm có chuyện chẳng lành, người đàn ông tìm cách thuyết phục chị:
- Anh đưa em về thành phố! Ở đó...
- Em đã từng sống ở Mỹ! Người ta bảo em không có bệnh!
- Nhưng đã gần ba mươi năm! Y học bây giờ...
- Đừng thuyết phục em! - Chị mệt nhọc mỉm cười- Em không đi đâu cả! Em xin lỗi...
Vài tuần trôi qua thảng thốt, người đàn ông tuyệt vọng khi thấy tóc chị rụng bời bời từng món lớn. Làn da trắng hồng giờ nhợt nhạt xám lại. Mắt chị mờ dần... Dù có lũ trẻ cùng vài người hàng xóm tốt bụng ở bên, anh vẫn thấy mình có lỗi và đơn độc khi nghe chị thủ thỉ dặn dò... Hầu như không ngủ, anh đã ngồi bên chị hết ngày này sang ngày khác, hốc hác, câm lặng đến lúc chị trút hơi thở cuối cùng... Chị ra đi nhẹ nhàng và thanh thản vào một sáng tháng chạp có nắng ấm áp. Đám tang ngan ngát mùi hương trầm và trắng muốt hoa. Những vòng hoa sang trọng được người đàn ông mang về đặt trước linh cữu chị. Cả vùng đồi sực tỉnh khi thấy lũ trẻ tay ôm từng bó xuyến chi đứng cạnh nhau im lặng. Nước mắt của chúng làm mọi người chợt ngỡ ngàng. Trong họ dường như có sự thay đổi nào đó thật bùi ngùi, rõ rệt. Một người, hai người... rồi tất cả đều đến. Trên tay họ là nắm hoa rừng mộc mạc và cả những chiếc phong bì được cài kín đáo- họ đến trả tiền cho người đã mất và trân trọng, ngượng ngập cúi đầu từ biệt chị... Mọi người để chị yên nghỉ ngay tại khu vườn yên tĩnh, xinh xắn của mình. Mộ chị quay nhìn về hướng mặt trời mọc, tràn ngập nắng gió và ánh trăng...
Một tháng sau, người đàn ông về thành phố khi đã hoàn tất thủ tục rút tiền ở ngân hàng để xây dựng một ngôi trường khang trang cho đám trẻ vùng đồi. “Hãy giúp em cho thằng Kiên, con Lý và cu Bi học đến đại học. Em luôn mong ước điều đó”. Những lời trăn trối của chị vang bên tai anh thì thầm, tin cậy “Em hãy yên lòng! Anh sẽ giúp em thực hiện mọi dự định còn dang dở... Ngủ ngon nhé và chờ anh trở về...”
Một cái tết nữa sắp gõ cửa từng nhà, gấp gáp, rộn rã...
Người đàn ông trở lại vùng đồi. Mọi người đón anh như đón người thân thiết trở về. Lần này, anh mang theo một va li sách. Không phải cuốn tiển thuyết anh vừa hoàn thành mà là tập truyện ngắn của tác giả Hoa Xuyến Chi... Lũ trẻ mỗi đứa được tặng một cuốn. Chúng ngỡ ngàng và rất thích thú khi từng câu chuyện quen thuộc dì Chi đã kể giờ nằm ngay ngắn, sinh động trên những trang giấy trắng tinh... Những câu chuyện thấm đẫm tình thương yêu cùng tấm lòng bao dung của dì đã thổi vào chúng lòng can đảm, nghị lực cùng niềm tin tiềm tàng khi nghĩ về nỗi khổ đau, niềm vui sướng cùng những điều tốt đẹp của cuộc đời phía trước... Người đàn ông ngước nhìn lên trời. Gió lay nắng nhảy từ cụm lá này sang cụm lá khác, vàng óng, mềm mại... Thằng Kiên và đám trẻ quả quyết rằng, ba mùa đông qua, ngày anh trở về trời bao giờ cũng nắng ấm. Cả vùng đồi cây cỏ xôn xao và những bông xuyến chi khi rời gốc vẫn trắng muốt, tươi rói dưới nắng và gió mùa đông...
1.11.99
Huệ Minh
Tìm Lại Ngày Xưa
Ngày Đó Xa Rồi
Bố mẹ chị ở tận bên Mỹ, giàu có lắm. Anh trai chị có bằng tiến sĩ kinh tế. Em gái chị là phóng viên một tờ báo lớn và rất xinh đẹp. Họ đều đã là chủ gia đình... Mười năm trước, cả nhà đưa chị về Việt Nam cùng hy vọng mong manh rằng với số tài sản kếch xù, sẽ có người chịu lấy chị làm vợ. Họ tính toán, bàn cãi khá kỹ càng rồi quyết định mua nửa quả đồi và xây nhà ở vùng trung du yên tĩnh đến heo hút này, gửi tiền vào một ngân hàng gần đó rồi về Mỹ. Dân làng đầu tiên thấy lạ, sau cũng quen dần với sự có mặt của chị. Họ biết chị có một cái tên thật xinh: Nguyễn Hoa Xuyến Chi. Họ quen gọi chị là “dì Chi béo" hay “cô Chi mập”.
Chị sống bình thản nơi mảnh đất trung du này. Mọi người chẳng ai thù ghét gì chị nhưng cũng không đằm thắm mặn mà lắm. Dân ở đây nghèo và lam lũ quanh năm. Họ sống chủ yếu bằng nghề trông rau và lúa bãi. Đất đồi rất tốt nhưng nước thì khá hiếm nên đến giờ, cả làng mới có được dăm cái ti vi của vài hộ khá giả. Xe đạp thì tróc sơn, gỉ vành, chuyên dùng làm xe thồ rau xuống chợ thị trấn. Trường học khá tuềnh toàng hoang vu với mấy gian cấp bốn quét vôi trắng nằm khép nép bên kia đồi. Trẻ em đầu trần, chân đất đến lớp học chữ, làm tính rồi về nhà giúp bố mẹ trông em, tưới rau hay lên đồi kiếm củi. Chúng hầu như không biết đến những cuốn chuyện tranh hấp dẫn hay trò chơi điện tử cùng các đồ chơi đắt tiền. Truyện cổ tích chỉ do ông, bà chúng kể, quanh đi quẩn lại vẫn là “Tấm Cám” hay “Sọ dừa”... Cái ti vi màu nhà chị trở nên đắc dụng. Cánh cổng sơn màu tím nhạt luôn mở rộng để lũ trẻ quần áo lấm lem, xốc xếch túa vào. Biết tính chị sạch sẽ, chúng tự động rửa chân tay, phủi quần áo tươm tất rồi ngồi xếp bằng trên nền nhà mát lạnh vừa ngó màn hình vừa nhí nháu bình phẩm hoặc cãi cọ nhau. Xem chán, chúng quay sang nghe chị kể chuyện. Chuyện của chị không phải cổ tích cũng chẳng ra ngụ ngôn hay hiện đại nhưng lũ trẻ cảm nhận được chị thật thông minh, trong chị tiềm ẩn một kho tàng ngôn ngữ phong phú... Bọn trẻ và cả mọi người ở đây không thể biết rằng, ông nội chị ngày xưa làm đến chức chánh mật thám Bắc Kỳ. Sau năm 1954 ông đem cả gia đình vào Nam và sang Mỹ di tản dạo tháng 4 năm 1975. Trước khi đi, ông còn kịp gởi hàng yến vàng và kim cương vào một ngân hàng lớn tại Thụy Sĩ... Mười ba tuổi, chị vẫn xinh đẹp thông minh như bao cô nhỏ may mắn khác. Sang Mỹ được vài tháng tự nhiên chị béo dần và béo nhanh đến mức cả nhà phát hoảng. Đến rất nhiều bệnh viện, không phát hiện ra bệnh gì ngoài dòng chữ “Rối loạn dậy thì”. Bác sĩ còn an ủi rằng chị khỏe mạnh, bình thường, rồi sẽ ổn thôi... Sự giải thích và động viên của các bác sĩ không làm cho bố mẹ chị yên tâm. Họ cầu khẩn thần linh và rất chịu khó đi xem bói. “Đời cha ăn mặn tất đời con phải khát nước! Con không thì cháu phải chịu!” Nghe thế, mẹ chị lăn đùng ra ngất xỉu, về nhà vật vã khóc lóc hàng tháng trời. Bố chị rất hoang mang, công việc buôn bán chểnh mảng. Còn cô bé con ẩn trong cơ thể mập phì là chị thì kinh hoàng... Cả gia đình chìm nghỉm vào không khí lo sợ, hốt hoảng trừ ông nội. Chẳng hiểu vì ông muốn tự trấn an mình hay suy nghĩ như vậy thật mà suốt ngày lớn tiếng răn dạy bố mẹ chị rằng đừng rỗi hơi tin vào đám thầy bói hay nói nhăng nhít ấy, rằng làm gì có thần linh... “Nó mắc chứng bệnh gì đó, người ta chưa phát hiện được chứ đâu như chúng mày nghĩ! Quả báo gì? Tao vẫn sống sờ sờ ra đây?"... Không biết mọi người trong nhà phản ứng thế nào, còn riêng chị thì ngược lại. Dần dà chị nghĩ, ông nội đã vơ hàng đống vàng của những người lao khổ, tống biết bao nhiêu Việt Minh vào tù làm vừa lòng quan thầy rồi dẫn cả nhà cao chạy xa bay đến Mỹ. Bố mẹ chị kinh doanh buôn bán bằng những đồng tiền đó và giàu sụ. Anh trai, em gái chị khỏe mạnh, thành đạt... Trả nợ cho những điều đó, tất yếu chị phải chịu hẩm hiu thôi! Thế là chị chán, chẳng thiết nghĩ đến việc oán than cuộc đời và số phận bạc bẽo của mình nữa... Năm chị hai mốt tuổi, ông nội qua đời. Chị không hề trách giận ông dù rất tủi thân đến khi nhắm mắt, ông vẫn khăng khăng cho rằng chị mắc bệnh, một căn bệnh quái gở. Vì chị mà con dâu, con trai ông hờ hững lạnh nhạt với ông. Gia đình luôn ngột ngạt căng thẳng, cảm giác sờ sợ một điều gì khi thấy vẻ mặt ủ ê, cái nhìn cam chịu và dò hỏi của chị với tất cả... Ý định trở về Việt Nam dần xuất hiện trong những tháng ngày vừa ấm cúng vừa cô độc ấy. Thực lòng, chị ngán đất Mỹ. Những tòa nhà chọc trời, xe cộ vun vút trên đại lộ, cuộc sống văn minh đến vô cảm giúp gì cho một kẻ như chị suốt ngày ngồi yên lặng trong căn phòng biệt lập đầy đủ tiện nghi hiện đại, chuyện trò với bốn bức tường hoặc nhìn mẹ tất bật chăm sóc mình với vẻ mặt rầu rĩ cố giấu giếm mặc dù chị biết, mẹ rất thương yêu mình...
Dù sao thì chị cũng phải cảm ơn trời phật đã cho mình một trí tuệ sáng láng và khả năng tưởng tượng phong phú để có thể níu giữ được bọn trẻ hiếu động bằng những mẩu chuyện chị vẫn thầm tự hào là rất thuyết phục. Có những chuyện do chị tự nghĩ ra mà dần dần chính chị cũng tin rằng, mình không hề bịa, cứ ngỡ mình đã đọc ở đâu đó rồi kể lại. Cũng hồi hộp, háo hức và tò mò như lũ trẻ khi nghĩ về số phận của các nhân vật... Chị yêu hoa xuyến chi và đã dồn tâm sức sáng tác một câu chuyện cảm động về loài hoa này. Đó là một câu chuyện chị tâm đắc nhất. Có lẽ vì nó mang cái tên xinh đẹp của chị. Hình như, khi nghĩ ra câu chuyện đó, tình thương cái tên tội nghiệp trào dâng và chị kể chuyện như một sự tạ lỗi với cái tên đã trót gắn với chị thì phải. Lũ trẻ há mồm nghe. Đứa ngồi im mơ màng tưởng tượng. Đứa thì nằm bò ra sàn nhà, ôm chặt cái gối ngước mắt về phía cửa sổ có đám xuyến chi thập thò, đung đưa trong gió.“ Ngày xưa, tại vùng đồi trù phú kia có một thiếu nữ sống cùng mẹ già. Gia đình nàng có nghề làm hương nổi tiếng khắp vùng. Nhiều chàng trai cảm mến đường ăn nết ở và vẻ hiền dịu, dễ thương của nàng đã tìm đến cầu hôn. Vì nhà nghèo, mẹ lại đang bệnh nặng nên nàng đều từ chối. Ngày ngày trong căn nhà tranh bé nhỏ, nàng cặm cụi xe hương và thuốc thanh phụng dưỡng mẹ... Tám năm sau, mẹ nàng qua đời. Lúc này, nàng đã trở thành một phụ nữ hao gầy. Những chàng trai ngày xưa say mê nàng giờ đã yên bề gia thất. Nàng âm thầm sống một mình trong cảnh quạnh hiu với nghề làm hương cùng những hoài niệm về thời thiếu nữ trẻ trung cô độc...
Rồi một hôm, có chàng trai trẻ ở nơi xa đến vùng này. Chàng xin vào làm công cho nàng. Lúc đầu, nàng e ngại. Sau rồi cũng đồng ý. Có người đàn ông gánh bớt, công việc đỡ vất vả và hương của nàng hình như thơm hơn. Họ khấm khá dần... Người làng thấy má nàng bớt rám, mắt long lanh và dáng người thon thả lại. Nàng hay cười hơn- nàng đã yêu người đàn ông đó... Tin chàng trai, nàng trao cả cho chàng bí quyết của nghề làm hương gia truyền cùng toàn bộ vốn liếng dành dụm được trong những tháng ngày vất vả xưa... Vào một đêm giông gió, chàng trai kia đã ra đi không một lời từ biệt, nhắn nhủ. Nàng trở nên câm lặng khi biết anh ta đã từ bỏ mình, lấy hết tiền bạc cùng bí quyết nghề làm hương quý báu khiến bao người thán phục ao ước, để lại cho nàng căn nhà trống tênh hoang lạnh. Nàng sống buồn bã như cây cỏ, trời nắng thì héo khô nhưng vẫn sống. Đến mưa lại ngập dập cũng chẳng chết và cứ thế, lay lắt ngày qua ngày. Cũng từ đó nàng bỏ nghề làm hương, sống đạm bạc nghèo khó nhờ mảnh vườn nhỏ trồng rất nhiều cây trái sau nhà.
Vào một ngày mùa đông, nàng lặng lẽ từ giã cõi đời không một lời oán trách. Nàng chết thật nhẹ nhàng. Dân làng đưa nàng lên đỉnh ngọn đồi cao nhất chôn cất nàng với những vòng hoa trắng. Nàng vẫn là trinh nữ- một trinh nữ hiếu thảo, dịu hiền và bạc mệnh. Trên đỉnh đồi đầy gió, trăng và ánh nắng mặt trời ấy, mộ nàng mọc một loài hoa mảnh mai, lá nhỏ xinh mơn mởn xòe ra như những bàn tay bé xíu. Hoa năm cánh trắng muốt, mịn màng khoe nhị vàng đung đưa kiêu hãnh. Chỉ khi nào tâm hồn không vướng lụy, người ta mới ngửi thấy một mùi hương thật thanh khiết dịu dàng như không có thực lan tỏa, tan loãng xung quanh mình, ấm áp như tấm lòng trong trắng, niềm tin yêu thánh thiện nàng đã dâng hiến trọn vẹn mà không được đền đáp. Dân làng đặt tên là hoa Xuyến chi.
Lại nói về chàng trai kia. Anh ta cuỗm sạch cả tiền bạc của nàng- số tiền họ dự định làm đám cưới và xây một nếp nhà mới- đến một nơi rất xa. Anh ta dùng số tiền và bí quyết làm hương ăn cắp được bắt đầu một cuộc sống khác và anh ta đã thành công. Hương của anh ta lập tức được người dùng ưa chuộng. Làm ăn phát đạt nên anh ta giàu lên nhanh chóng. Hai năm sau, anh ta lấy một cô gái đẹp làm vợ. Mãi năm năm nữa, họ mới sinh được một cô con gái khỏe mạnh, kháu khỉnh... Cũng thời gian đó, tự nhiên trong làng họ xuất hiện một loài hoa rất lạ, nghe dân trong vùng kháo nhau, đó là hoa xuyến chi- thì xuyến chi!- Với họ, tên hoa là gì cũng được, họ không quan tâm vì đang hạnh phúc- Họ có con sau bao tháng ngày đợi mong...
Thời gian thấm thoát trôi đi. Con gái họ đã ba tuổi, vẫn chẳng biết nói cười. Cô bé có cặp mắt buồn rười rượi. Người chồng cứ nhìn vào mắt con lại thấy bất ổn. Một dự cảm mơ hồ thật lạ lùng và rất khó nắm bắt ẩn trong hình hài đứa con yêu dấu của anh ta mà anh ta không thể cảm nhận, lý giải nổi. Từ lúc lẫm chẫm, nó đã thích đám xuyến chi mọc lan vào tận sân nhà. Suốt ngày con bé tha thẩn chơi với những cánh hoa dại kia, anh ta tức giận cầm dao phạt hết. nhưng lạ thay, chỉ vài ngày sau, đám xuyến chi lại mơn mởn tươi xanh vẫy gọi cô bé. Và nó lại hơn hở, mắt sáng lên nghịch hoa xuyến chi...”
Câu chuyện dừng ở đó, chị mặc cho lũ trẻ tưởng tượng phần kết. Có đứa không chịu, thắc mắc:
- Sao dì lại đặt tên hoa giống tên dì vậy?
- Đâu nào? ở đây rất nhiều xuyến chi cơ mà? Tên dì chỉ giống tên hoa ấy thôi! vừa nói chị vừa chỉ vào đám xuyến chi bên cửa sổ, giọng thuyết phục.
- Lớn lên, đứa bé có nói được không hả dì?- Con Lý, tóc vàng hoe ngồi cạnh chị rụt rè.
- Bố của đứa bé có biết hoa xuyến chi mọc từ mộ người trinh nữ ngày xưa không hả dì?- Thằng Kiên, nhà cách đây hai quả đồi nhưng là đứa chăm chỉ nhất trong các buổi "bổ túc" kiểu này- hấp tấp hỏi.
- Dì bịa hả?- Thằng Bi, bé nhất đám nhưng bao giờ cũng tinh ranh và thích chọc phá tự dưng hét toáng lên- Dì chỉ chuyên bốc phét!!!
- Thôi nào Bi!- Chị dịu dàng- Bao giờ các con lớn lên, dì sẽ đưa đến gặp đứa bé ấy. Đến giờ nó cũng không biết nói cười. Vẫn chỉ thích hoa xuyến chi. Còn bố nó, hình như ông ta đã... chết thì phải!- Chị hơi rung giọng khi nói những lời cuối cùng. Lũ trẻ chẳng để ý gì đến vẻ là lạ ấy của chị. Chúng còn bận nhìn ra sân xôn xao bàn tán. Với chúng, những cánh xuyến chi tầm thường kia hôm nay đúng là đẹp hơn thật. Thằng Kiên còn cam đoan nó đã ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng ở quanh đây...
Từ hôm đó, thi thoảng lại có đứa nhắc đến câu chuyện hoa xuyến chi, đến cô nhỏ kỳ lạ chẳng biết nói cười và chỉ thích xuyến chi kia. Vài đứa bé nhất còn ao ước mình nhanh lớn để dì Chi đưa đến gặp cô bé ấy. Và cũng từ hôm đó, thỉnh thoảng chúng lại lên đồi tìm hái những bông xuyến chi đẹp nhất mang về cho chị. Chúng chỉ phiền một điều là lần nào cũng phải chạy thục mạng về ngôi nhà có cánh cổng màu tím nhạt vì xuyến chi chỉ rời gốc không lâu đã heo héo, cánh hoa uốn cong lại buồn bã rồi... Cứ vậy chị chăm chỉ và hào hứng sáng tác ra những câu chuyện vừa gần gũi vừa mang tính huyền thoại kể cho lũ trẻ. Chúng hồn nhiên tiếp nhận, hồn nhiên làm giàu có hơn tâm hồn ngây thơ và vốn hiểu biết ít ỏi, thiếu thốn mà tạo hóa đã không ưu ái chúng- những đứa trẻ được sinh ra từ vất vả ruộng đồng, từ sự nhọc nhằn cơ cực của cha mẹ chúng- những con người chân chất và lầm lũi đã sống cùng vùng đồi màu mỡ nhưng vắng vẻ hiền hòa này.
- Cô Chi à! Mong cô thương các cháu! Vụ bắp cải này nhà tôi mất trắng. Tiền giống vốn cũng chẳng thu lại được nói chi đến công xá lãi lời. Tết nhất thì đang ở sau lưng...
- Chị định mượn bao nhiêu?- Chị dừng tay thu nhặt đám lá rung quanh mấy gốc cây, run run đứng dậy bước vào nhà.
- Tùy cô, cô thương các cháu với!- Người đàn bà cầm lấy rổ lá te tái chạy theo.
- Năm trăm ngàn được không chị?- Chị quay sang- Kìa chị cứ để đấy! Lát nữa em đổ ra phơi...
- Thế thì tốt quá! Cảm ơn cô! Cô thật phúc hậu!- Người đàn bà mừng rỡ, mắt chị rơm rớm.
- Tiền đây! Chị cầm lấy rồi về đi kẻo tối! Lúc nào rảnh mời chị sang chơi!- Chị đưa cho chị ta cái phong bì và rụt rè nói, giọng buồn buồn.
- Được rồi! Cảm ơn cô! Mùa màng xong, chị sẽ sang nói chuyện với em sau... Khổ quá! Bận bịu suốt ngày.
***** |
Cách đây hai năm, mẹ chị qua đời. Bố và mẹ- hai người thân yêu nhất của chị đều lần lượt gửi nắm tro tàn bé nhỏ tại một thành phố giàu nhất nước Mỹ. Giờ đây, muốn thấy họ, chị phải thu lu trước màn hình với cuộn băng vidéo thì thầm trò chuyện. Chị thấy lòng mình thanh thản hơn khi mỗi ngày cắm vài nén nhang lên bàn thờ: “Mong bố mẹ phù hộ cho con!” Rất tự nhiên, chị ít nghĩ đến đất Mỹ hơn. Gia đình chị giờ đây là vùng đồi yên tĩnh, là căn nhà xinh xắn cùng lũ trẻ dễ thương ngày ngày huỳnh huy nh xô cánh cổng màu tím nhạt chạy vào... Thời gian đầu, chị như người thừa ra trong cộng đồng vì sự sang trọng và giàu có quá mức. Sau rồi, người ta cũng quen, thôi không dò xét tò mò nữa, chị trở nên thân thuộc dần dù không gần gũi. Tiếng là gần thị trấn, song cuộc sống của mọi người xung quanh giản đơn thiếu thốn quá. Tiền chị thì nhiều. Vậy là chị đánh tiếng cho vay. “Hãy đến mà lấy nếu bác gặp khó khăn!”. Và họ đến thật! Đầu tiên cũng rụt rè ngài ngại. Dần dà thành quen, thành chuyện thường ngày hơn... Thế là điều vừa buồn cười vừa xót xa đã xảy ra, có những người làm như ngẫu nhiên quên cả trả nợ, sáu bẩy năm chẳng hề ngó ngàng đến nó. Chị thấy cay đắng quá! Tại sao lại thế? Tại sao lại không trả tiền cho chị? Phải chăng họ nghĩ “Nó giàu có thế, lại ở một mình, không trả cũng chẳng chết!... Tại nó mời chứ tự dưng mình đâu đến hỏi!... Đang túng thiếu, tính sau vậy!... Số tiền này cũng chẳng đáng gì với nó!..."... Thế là kết cục, gặp chị họ vẫn chào hỏi nhưng tịnh không có ai nghĩ đến chuyện tới nhà chị khất nợ. Rất ít người mời chị đến nhà chơi, họ nghĩ chị đi lại khó khăn và cũng chẳng thích nhìn thấy khuôn mặt tròn bự cùng vóc người đồ sộ run rẩy của chị, càng chẳng có kẻ nào chịu lấy chị làm kẻ tâm tình. Chia sẻ cái gì khi chị chỉ suốt ngày ru rú ở xó nhà, đau ốm liên tục. Những điều chị biết thì toàn là sách vở vì ngày ngày, chị chỉ có mỗi việc ăn, ngủ và đọc sách. Từng bộ sách cao ngất nghểu trong nhà chị chẳng thể làm cho ruộng bắp cải của họ bớt sâu rầy, thùng gạo trong buồng nhà họ đầy hơn. Còn lũ trẻ ư? Chúng thích đến với chị thì kệ chúng, thiệt lợi gì? Nhà chị có cái ti vi to tướng, lại mát mẻ sạch sẽ, cứ để chúng chơi ở đó cũng tốt. Điều ấy cũng chứng minh rằng, chị chỉ có trí tuệ của cô bé mười ba tuổi mà thôi (!). Lũ trẻ thích thú là phải. Thế là chỉ khi đến vay tiền hoặc nhờ giúp đỡ, người ta mới coi chị là một người bình thường tốt bụng. Chị đón cái “diễm phúc” ấy vừa sung sướng vừa buồn tái tê... Giờ thì chị quen rồi. Ai mượn bao nhiêu chị đều kín đáo ghi chép cẩn thận, đơn thuần cho đỡ quên thôi chứ chẳng phiền muộn hơn khi người ta cư xử với mình kỳ cục như vậy. Vì chị biết, trên đời này có những người mặc nhiên bị thiên hạ xem thường bởi người ta xấu xí quá, răng người ta hô quá, mắt người ta lồi quá hay người ta vụng về quá trong hành vi cử chỉ khi ứng xử giao tiếp... Ai cũng cho mình được cái quyền chê bai, ác cảm với họ. Phải kiên cường lắm chị mới quen được với việc “xếp” mình vào “hàng ngũ” của lớp người đầy thua thiệt ấy và gắng sống bình thản trước tất cả, vui vẻ chấp nhận cả chút lợi dụng của ai đó như một điều tất yếu đối với bản thân mình. Bây giờ chị đã đủ tự tin, để có thể tự hào về mình, về những gì đã đang làm cho lũ trẻ và cho cả mọi người dù điều đó không hề được thừa nhận”. Trút một hơi thở dài, chị chầm chậm đứng lên đi ra cổng. Cảm giác thanh thản và bình an dần trở về...
Mấy hôm nay, không thấy lũ trẻ rẽ vào. Chắc chúng bận giúp bố mẹ cắt thêm vài tải cỏ hay thồ xu hào xuống chợ bán lấy tiền mua gạo nếp, đỗ xanh và quần áo mới. Ở đâu, dù nghèo khó hay thịnh vượng, những ngày cuối năm này cũng được bọn trẻ háo hức và rộn rã chuẩn bị. Ngày tết cổ truyền vẫn thấm đẫm niềm vui của trẻ thơ.
Gần bốn giờ chiều, chị khép cổng chậm chạp lần từng bước sang sườn đồi bên kia. Nắng đã nhạt hẳn sương giăng mờ khắp nơi. Hoàng hôn trung du đẹp hơn hẳn những nơi khác, nó khiến ta liên tưởng đến sự thanh bình mà hùng vĩ của đất trời... Đang chăm chú bước, bỗng chị nhìn thấy một cậu bé chừng bốn, năm tuổi đang tha thẩn chơi một mình. Nó mặc bộ đồ thể thao khỏe mạnh, khuôn mặt bầu bĩnh với những sợi tóc mềm lơ thơ hơi bết trước trán. Cậu bé hình như không biết có người đến gần, vẫn mải mê với trò chơi của mình. Xa hơn chút ít, một người đàn ông luống tuổi ngồi im lặng ngắm cảnh chiều tà. Chị thích thú theo dõi cậu bé và chỉ chốc lát, quên hẳn anh ta. Với sợi dây khá dài, nó loay hoay trước một cây mẫu đơn chỉ cao đến cổ nhưng tán xòe rộng nở đầy những chùm hoa đỏ rực, tròn xoe. Tò mò, chị lại gần cậu bé... Hí húi một lúc nó đã buộc được vài chùm hoa với nhau và hình như vẫn chưa hài lòng. Thỉnh thoảng, nó lại dừng tay ngắm nghía, quệt mồ hôi trên khuôn mặt đỏ hồng, cử chỉ chẳng khác gì người lớn. Rồi nó xăm xăm chạy quanh cây mẫu đơn, dáng vẻ còn băn khoăn lắm... Chị bỗng bật cười thành tiếng. Một thoáng run rẩy, một chút khám phá khiến tâm hồn chị rưng rưng, mềm mại hẳn... Tiếng cười của chị làm người đàn ông ngạc nhiên, anh ta bước lại gần với cái nhìn dò hỏi. Chị khẽ khàng:
- Thế giới của trẻ thơ thật rộng lớn và huyền bí! Anh thấy không, chỉ cần một cây mẫu đơn bé nhỏ, cậu bé này có thể say mê với trò chơi của mình vài giờ đồng hồ không hề biết mệt. Nó đâu để ý đến chúng ta?
- Cô nghĩ như vậy ư? - Anh ta ngạc nhiên nhìn chị thích thú.
Cậu bé lúc này dường như mới thấy người lạ. Nó ngước cặp mắt đen láy nhìn hai người rồi ngoái đầu xuống triền đồi cất tiếng: “Mẹ ơi”. Một phụ nữ trạc 30 tuổi cầm cái liềm nhỏ chạy lên. Cô gật đầu chào chị rồi dẫn cậu bé ra về, chị nhìn theo, ngạc nhiên:
- Ồ! Tôi cứ tưởng cậu nhỏ kia đi cùng anh?
- Cô sống ở đây à? - Người đàn ông không trả lời câu hỏi của chị
- Nhà tôi bên kia đồi. Cổng có màu tím nhạt, anh nhìn thấy không?
- Có, cô sống một mình sao?
- Một mình! - chị ngượng nghịu khi thấy anh ta cứ chăm chăm nhìn mình nửa tò mò, xem xét, nửa lạ lẫm... Rồi anh ta cười, nụ cười hiền hậu làm chị nhẹ nhõm hẳn...
Từ buổi chiều đó, người đàn ông rất hay đến thăm chị. Những hoàng hôn có nắng anh thường cùng chị lên đồi ngắm cảnh, nhìn mặt trời mệt mỏi chui gọn vào tấm thảm mây ngũ sắc nằm vắt ngang dãy núi trùng điệp nơi xa mang đi những tia sáng cuối cùng sau cả ngày rong ruổi... Họ nói đủ thứ chuyện trên trời, dưới biển. Người đàn ông kể, anh ta là nhà văn đi thực tế ở vùng trung du này để hoàn thành cuốn tiểu thuyết đang viết dở về đề tài chiến tranh. Anh nói mình rất nghèo, lại thích lang thang đây đó nên chưa kịp có một gia đình. “Ai dám lấy tôi chứ? Tiền chẳng có, suốt ngày hí húi hết viết lách lại khoác túi đi biệt. Cả tháng không về qua nhà...” Chị lắc đầu tỏ ý không bằng lòng còn anh thì cười buồn buồn, vẻ trầm tư...
Chị có một cái tết vui nhất từ trước đến nay cùng lũ trẻ và anh dù mãi mùng ba tết anh mới từ thành phố trở lại. Bọn trẻ thấy dì Chi béo quý chú nhà văn cũng tỏ ra có thiện cảm. Từ ngày có chú ấy, chúng được đọc rất nhiều truyện tranh, sách báo hay. Thi thoảng, thằng Kiên, con Lý còn được đèo ra tận thị trấn trên chiếc Phượng Hoàng mới cùng chú nhà văn xuống chợ và khi về bao giờ cũng là một túi quà lớn khoác trên lưng...
Rồi chị mời anh đến ở nhà mình vì căn nhà nhỏ của vợ chồng anh cán bộ văn hóa xã khá chật chội. Những bữa cơm đầm ấm mang không khí gia đình khiến họ dường như hạnh phúc hơn. “Vậy là vẫn còn một người đàn ông xa lạ, không phải bố và anh trai, trân trọng quý mến mình!” - Chị thấy mình thật may mắn nên lặng lẽ, kín đáo chăm sóc anh. Có những đêm trắng, phòng anh không hề tắt ánh đèn. Nhiều lần anh bỏ đi đâu đó cả buổi, chiều muộn mới hớn hở quay về, khoe một tập bản thảo dày dặc những vết gạch xóa cùng bó xuyến chi đã héo rũ. Chị phì cười trước vẻ chân thật rất trẻ con của anh...
Thi thoảng anh về thành phố và lúc lên là một ba lô sách vở, tạp chí, những cuốn tiểu thuyết, sách nấu ăn cùng mảnh vải rất đẹp “Để em may đồ, anh phải nhờ mấy cô bạn thân đi cả ngày mới mua được đấy!”- Những lời nói dịu dàng của anh làm chị cảm động.
Xuân tàn, trời bắt đầu nắng. Mùa hạ tới không ồn ào dù đã có những trận mưa rào bất chợt đổ xuống vùng đồi. Đã ba tháng rồi họ sống chung dưới một mái nhà. Tình cảm nửa giống tình nhân với tình nhân, nửa như anh em ruột thịt nhưng ấm áp và thành thực. Người đàn ông cảm nhận được rằng, bên trong vẻ thô kệch kia ẩn giấu một tâm hồn trong sáng và đa cảm, một nội tâm phong phú cùng những suy nghĩ thánh thiện. Điều đó đã níu giữ anh ở lại vùng đồi này. Vẻ dị dạng của chị dần quen mắt và nó chẳng còn gây cho anh cảm giác gờn gợn như lúc đầu nữa. Rất tự nhiên thằng Kiên, con Lý và cả thằng Bi nghịch như quỷ con đều được chú nhà văn ưu ái đặc biệt. Người đàn ông cư xử với chúng như bạn bè vì anh tin rằng chính chúng chứ không phải bất kỳ ai, bất kỳ lời thức tỉnh, giáo huấn nào sẽ mở toang những cánh cổng nặng nề cũ kĩ nhốt từng tâm hồn cằn cỗi, mệt mỏi vì mưu sinh của người lớn và thổi vào đó miền sáng dịu dàng của sự chân thật, đồng cảm giữa con người với đồng loại, tự nhiên và ngây thơ giống như ngày ngày chúng xô cánh cổng màu tím nhạt thân thuộc ùa vào, mặt mũi còn lem nhem bụi bặm... "Giá mà em có với anh một đứa con!" Chị cười ngượng ngập, buồn bã khi anh khẽ khàng chải mái tóc dài óng ả của mình. Điều ấy làm anh đau đớn. Những giọt nước mắt của người đàn ông rơi xuống tóc chị mặn mòi. Giữa họ, vĩnh viễn chỉ có một tình yêu mang nghĩa tinh thần. Nó thiêng liêng và cao quý thật nhưng cũng vì thế, nó chẳng đầy đủ một tình yêu. Sự giản dị và đời thường trong cuộc sống lứa đôi, những đứa con xinh xắn khỏe mạnh... đó là điều họ rất khó có thể với tay đến. Họ giống hai đường thẳng song song, cả hai cứ mải miết đi từ đầu nọ sang đầu kia suy nghĩ, ao ước và thời gian thì cứ trôi đi vô vị, dằn vặt... “Em đừng buồn! Rồi em sẽ khỏi bệnh, sẽ gầy bớt, tự nhiên như khi em mập lên vậy! Chúng mình sẽ đợi! Chúa công bằng và nhân từ lắm!" Những lời an ủi như thế, người đàn ông thấy nhạt nhẽo và phi lý chẳng khác gì chuyện dỗ một đứa trẻ đang khóc đòi mẹ khi mẹ nó đã bỏ đi hoặc không còn trên cõi đời này nữa. Vậy mà anh vẫn nói, vẫn an ủi và chị thì lặng thinh, cố gắng mỉm cười...
Chuyện một người đàn ông đến sống cùng cô Chi làm cả vùng đồi bàng hoàng. Sao lại thế được chứ? Nghe nói anh ta còn là nhà văn cơ đấy! Rõ thật là!... Trong tâm trí họ nhà văn phải là người ở thành phố, trong những ngôi nhà to lớn sang trọng. Anh ta phải ăn mặc lịch sự, chải chuốt, chân phải đi giầy... Đằng này, trông anh ta thật kỳ quặc! Người thì cao lòng khòng, tóc đã điểm bạc, gương mặt khắc khổ. Anh ta chưa khi nào khoác com-lê cả... Mà làm thế nào cô Chi béo mồi chài được anh ta nhỉ? Lưng cô ta to như cánh phản, người tròn trùng trục lại cao chưa được mét rưỡi thế? Hay anh ta là kẻ “đào mỏ” thượng thặng? Ôi chao! Cả vùng đồi như lên cơn sốt dịch, chỗ nào cũng râm ran chuyện cô Chi... Những kẻ mượn tiền không trả thì hồ hởi, yên tâm lắm “Thằng cha kia ghê gớm thật! Lần này có lẽ hắn vớ bẫm! Đến mình, nợ vài năm rồi mà cô ta vẫn vui vẻ, xởi lởi thế kia thì cô ta tiếc gì hắn! Thôi, cho qua luôn!. Lo lắng làm gì trừ phi cô ấy đến... đòi! “Một góc tối tăm trong lòng họ lại trồi lên, to dần, choán lấy phần sáng sủa khác... Chị hoảng sợ lắm nếu người đàn ông bỏ đi nhưng vẫn gắng tỏ ra bình thản:
- Anh buồn lắm hả?
- Không! Anh thương em!- Người đàn ông nắm lấy tay chị lặng lẽ.
- Họ lạ quá đấy mà! Chắc phải khá lâu nữa họ mới quen được chuyện này... Anh! Hay anh cứ về thành phố đi... Cuốn sách cũng sắp xuất bản rồi...
- Anh biết phải làm gì, đừng quan tâm đến điều đó nữa, được chứ! -Người đàn ông dứt khoát, giọng vẫn dịu dàng.
Thế là ngày ngày, trong căn nhà của chị vẫn có anh và lũ trẻ. Bây giờ, chúng không còn được nghe dì Chi kể chuyện nữa nhưng bù lại, được thoải mái đọc sách và thi thoảng cùng chú nhà văn lang thang khắp vùng đồi. Chúng thích lắm. Với chúng, những người chủ căn nhà này thực sự là bạn tốt. Mọi lời đàm tiếu của người lớn chẳng mảy may làm chúng quan tâm dù chút ít...
Những tháng ngày vừa êm đềm vừa sóng gió như thế kéo dài đã được gần năm. Đầu đông, trời se lạnh, từng đợt gió mùa đông bắc tràn về làm khô cong những chiếc lá vàng thưa thớt rơi khắp vùng đồi, chị đột nhiên ngã bệnh. Người đàn ông đã quen với việc chăm sóc chị nên các bác sĩ quen thuộc lần lượt được mời đến... Nhưng lần này khác với những lần trước, chị rất tỉnh táo mà cứ yếu dần. Người ta vẫn không biết chị mắc bệnh gì nên việc điều trị trở nên phức tạp và hầu như không có kết quả.. Linh cảm có chuyện chẳng lành, người đàn ông tìm cách thuyết phục chị:
- Anh đưa em về thành phố! Ở đó...
- Em đã từng sống ở Mỹ! Người ta bảo em không có bệnh!
- Nhưng đã gần ba mươi năm! Y học bây giờ...
- Đừng thuyết phục em! - Chị mệt nhọc mỉm cười- Em không đi đâu cả! Em xin lỗi...
Vài tuần trôi qua thảng thốt, người đàn ông tuyệt vọng khi thấy tóc chị rụng bời bời từng món lớn. Làn da trắng hồng giờ nhợt nhạt xám lại. Mắt chị mờ dần... Dù có lũ trẻ cùng vài người hàng xóm tốt bụng ở bên, anh vẫn thấy mình có lỗi và đơn độc khi nghe chị thủ thỉ dặn dò... Hầu như không ngủ, anh đã ngồi bên chị hết ngày này sang ngày khác, hốc hác, câm lặng đến lúc chị trút hơi thở cuối cùng... Chị ra đi nhẹ nhàng và thanh thản vào một sáng tháng chạp có nắng ấm áp. Đám tang ngan ngát mùi hương trầm và trắng muốt hoa. Những vòng hoa sang trọng được người đàn ông mang về đặt trước linh cữu chị. Cả vùng đồi sực tỉnh khi thấy lũ trẻ tay ôm từng bó xuyến chi đứng cạnh nhau im lặng. Nước mắt của chúng làm mọi người chợt ngỡ ngàng. Trong họ dường như có sự thay đổi nào đó thật bùi ngùi, rõ rệt. Một người, hai người... rồi tất cả đều đến. Trên tay họ là nắm hoa rừng mộc mạc và cả những chiếc phong bì được cài kín đáo- họ đến trả tiền cho người đã mất và trân trọng, ngượng ngập cúi đầu từ biệt chị... Mọi người để chị yên nghỉ ngay tại khu vườn yên tĩnh, xinh xắn của mình. Mộ chị quay nhìn về hướng mặt trời mọc, tràn ngập nắng gió và ánh trăng...
Một tháng sau, người đàn ông về thành phố khi đã hoàn tất thủ tục rút tiền ở ngân hàng để xây dựng một ngôi trường khang trang cho đám trẻ vùng đồi. “Hãy giúp em cho thằng Kiên, con Lý và cu Bi học đến đại học. Em luôn mong ước điều đó”. Những lời trăn trối của chị vang bên tai anh thì thầm, tin cậy “Em hãy yên lòng! Anh sẽ giúp em thực hiện mọi dự định còn dang dở... Ngủ ngon nhé và chờ anh trở về...”
Một cái tết nữa sắp gõ cửa từng nhà, gấp gáp, rộn rã...
Người đàn ông trở lại vùng đồi. Mọi người đón anh như đón người thân thiết trở về. Lần này, anh mang theo một va li sách. Không phải cuốn tiển thuyết anh vừa hoàn thành mà là tập truyện ngắn của tác giả Hoa Xuyến Chi... Lũ trẻ mỗi đứa được tặng một cuốn. Chúng ngỡ ngàng và rất thích thú khi từng câu chuyện quen thuộc dì Chi đã kể giờ nằm ngay ngắn, sinh động trên những trang giấy trắng tinh... Những câu chuyện thấm đẫm tình thương yêu cùng tấm lòng bao dung của dì đã thổi vào chúng lòng can đảm, nghị lực cùng niềm tin tiềm tàng khi nghĩ về nỗi khổ đau, niềm vui sướng cùng những điều tốt đẹp của cuộc đời phía trước... Người đàn ông ngước nhìn lên trời. Gió lay nắng nhảy từ cụm lá này sang cụm lá khác, vàng óng, mềm mại... Thằng Kiên và đám trẻ quả quyết rằng, ba mùa đông qua, ngày anh trở về trời bao giờ cũng nắng ấm. Cả vùng đồi cây cỏ xôn xao và những bông xuyến chi khi rời gốc vẫn trắng muốt, tươi rói dưới nắng và gió mùa đông...
1.11.99
Huệ Minh
Tìm Lại Ngày Xưa
Ngày Đó Xa Rồi
Xuyến chi ngày ấy ?
Khi xa nhau mới thấy lòng tiếc nuối,
Phút giây nào hạnh phúc thuở bên nhau....!
Giờ chia tay em tủi phận duyên đầu,
Anh cô lẻ chắt chiu tìm kỷ niệm !!
Trót dạo khúc tơ đồng sao lỗi nhịp,
Hoa xuyến chi nở trắng quảng đồi xưa...
Giữa nắng thu vàng cứ ngỡ trong mưa,
Màu hoa mới hay màu thu năm ấy ?!
NM
Hoa xuyến chi 2
Tại sao Lán lại gọi những bông hoa đó là hoa xuyến
chi? Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tên gọi đó có nghĩa gì không? Thật
ra, đó chỉ là những bông cúc dại. Ở vùng Lán, chúng nở trắng xoá dưới
chân núi, ven sườn đồi. So với những bông cúc dại, hoa xuyến chi nhỏ
hơn, cánh hoa mỏng, thân cao và mảnh dẻ. Lán bảo loài hoa ở núi thường
vậy. Hoa xuyến chi nở rộ vào cuối thu, qua mùa đông, cho tới tận đầu
xuân... Lần đầu tiên tới cái thôn nhỏ dưới chân núi Buộm, ven bờ sông
Thao - nơi Lán ở - tôi phải ngạc nghiên vì màu trắng giản dị mà tinh
khiết của loài hoa ấy...
Quê tôi ở cách quê Lán chừng bốn mươi cây số, tuy
cũng nằm cạnh sông Thao những đã là vùng đồng bằng, một thị tấn nhỏ bé
nhưng khá đông đúc, trên bến dưới thuyền... Năm ấy, tôi thi tốt nghiệp
lớp mười xong, nhưng trượt đại học. Thật ra, tôi không hào hứng gì lắm
chuyện vào đại học. Nghĩ đến việc phải cắp sách ngồi trên ghế sinh viên
bốn, năm năm nữa. Tôi rất ngại ngùng. Thầy tôi mất sớm, mẹ tôi đi bước
nữa. Ông bố dượng tôi - một cán bộ ở trạm bưu điện huyện rất yêu thương
chăm sóc tôi, mẹ tôi rất chiều tôi nhưng đến tuổi mười chín, hai mươi,
cuộc sống ấm cúng gia đình khiến tôi thấy gò bó, buồn tẻ. Tính tôi từ bé
vốn ưa bay nhảy, không thích tù túng, chẳng muốn ràng buộc về tình cảm
với ai, cũng chẳng muốn phải chịu trách nhiệm với những nghĩa vụ thông
thường mà tôi coi là phiền phức. Người thương yêu tôi nhất mà cũng lo
lắng về tôi nhất, là bà ngoại tôi. Bà ngoại tôi thường la rầy tôi: “Thế
rốt cuộc mày muốn gì, hở cái thằng vô tích sự kia? Sống lông bông theo ý
thích, cứ chênh chao như cái diều đứt dây, không được đâu cháu ạ! Con
người phải ràng buộc với một cái gì, phải có ích cho một ai đó chứ... “.
Tôi nghe nhưng chẳng để ý, trong bụng lại thấy buồn cười: Sao những
người lớn tuổi thích giáo lý thế? “có ích” mới lại chả “trách nhiệm” -
không có những cái đó tôi vẫn có thể sống được chứ sao, tôi có gây ra
tội tình gì cho ai đâu? Được rồi, tôi sẽ kiếm việc làm, nghề nghiệp gì
không quan trọng, nhưng cốt là tôi được tự do, được đi đây đi đó, được
sống theo ý mình...
Cuối tháng chín, thấy tôi suốt ngày hết nằm dài đọc
sách, rồi lại ra sông câu cá hoặc đi la cà vớ vẩn dưới bến thuyền, bà
tôi liền bảo: “Hân, cháu chuẩn bị mai đi Hạ Hoà cho bà. Cháu phải thay
bà lên Hạ Hoà thăm nhà ông bà Lán. Bác Lán trai trước ở cùng trung đội
du kích với bố cháu, khi bố cháu bị thương nặng trong trận Pháp đánh lên
Ấm Thượng chính bác Lán đã cõng bố cháu lên thuyền chở về nhà bác ấy.
Lúc bố cháu hấp hối, chỉ có vợ chồng bác Lán ở bên cạnh khâm liệm, chôn
cất chu đáo. Suốt những năm kháng Pháp, mộ bố cháu vẫn nằm ngay trong
vườn nhà bác Lán. Yên hàn rồi, chính quyền đưa bố cháu về nghĩa trang
liệt sĩ thị trấn ta, nhưng hằng năm bà vẫn lên thăm vợ chồng bác Lán,
chỉ có mấy năm nay, trời không cho bà mạnh chân khoẻ tay như trước. Thôi
thì năm nay cậy cháu đi thay bà... Cái nghĩa, cái tình ở đời không được
quên cháu ạ... Cháu lên hai bác ấy mừng lắm đấy, sẽ không ngờ con ông
Hân giờ, lớn từng này... Bác Lán cũng có đứa con gái trạc tuổi cháu, cái
Lán...
Bà tôi còn kể, dặn dò một hồi dài, tôi không nghe
hết. Kể ra, đi chơi khỏi nhà ít hôm, cũng thú, đỡ chồn chân chồn tay. Mà
nghe nói trên đó phong cảnh cũng đẹp. Tôi nghĩ vậy và sáng hôm sau thu
xếp lên đường ngay.
Tôi xuống tàu ở ga Ấm Thượng rồi đi dọc đầm Ao Châu
vào nhà bác Lán! Hôm ấy trời mưa to. Những con suối nước xiết chảy ào
ào từ các khe núi xuống những bãi ruộng thấp. Những ngọn đèn nhựa trám
toả khói mịt mù sau các nếp nhà mái cọ...
Khó mà tả hết sự ngạc nhiên sung sướng của gia đình
bác Lán khi tôi đến. Nhà bác ở chân một quả đồi cao, vườn um tùm cây
cối. Một chõ ong đặt ở hiên nhà, ong bay vù vù... Bác Lán trai là chủ
nhiệm hợp tác xã, bác gái ở đội trồng chè, cả hai bác đi vắng suốt ngày.
Làn - cô con gái lớn sau khi thu xếp nhà cửa, cơm nước cho ba đứa em,
đưa tôi đi thăm hàng xóm, những đồi chè, trồng sơn, trẩu... Lán cũng vừa
học hết lớp mười như thôi, sang tháng sau cô sẽ lên thị xã học trường
trung cấp sư phạm tỉnh. Đó là một cô gái - như người ta thường tả -
không đẹp, chỉ xinh, phải nói là rất xinh: mái tóc dày xoã xuống đôi vai
tròn, gương mặt rám năng, đôi mắt to và nâu, vừa bạo dạn vừa rụt rè,
thân hình mảnh dẻ nhưng nhanh nhẹn - vẻ hiền hậu, hồn nhiên ở Lán chen
lẫn với những nét chín chắn hơi tư lự sớm có ở những cô con gái lớn của
các gia đình đông con.
Tôi ờ nhà bác Lán hơn một tuần, thường theo Lán đi
chặt củi, đi lên nương xem Lán và các bạn của cô hái chè, dỡ sắn, những
buổi làm rất đông vui, tấp nập... Nhưng rồi các cô bạn của Lán thường
hay chỉ trỏ, bình phẩm về tôi, và thấy cái cảnh mình vô công rồi nghề đi
xem người ta làm việc mãi cùng chướng tôi đành ở nhà... Những buổi ấy,
không hiểu sao, tôi rất mong Lán về... Lán thường chẳng nói với tôi
chuyện gì đặc biệt cả, nhưng giọng nói và ánh mắt trong trẻo của cô đem
lại cho tôi những cảm giác thật dễ chịu, ấm áp. Mới gặp cô ít ngày mà
đối với tôi, Lán thân thuộc và tin cậy biết bao...
Đó là ngày cuối cùng tôi ở lại Hạ Hoà. Buổi chiều,
trời tạnh ráo sau một cơn mưa lớn. Trên lưng dải đồi rộng - người ở đây
gọi là đồi Lem - chúng tôi ngồi dưới những bụi chè cao tua tủa những búp
non. Lán vừa xong buổi làm, ngồi nghỉ để gánh chè về sân hợp tác...
Cạnh chỗ chúng tôi ngồi, những bông hoa xuyến chi nở trắng, những ngọn
khói đốt cỏ tranh làm nương bốc lên sau các hẻm núi bay mờ dưới thung
lũng. Tiếng mõ trâu lốc cốc vẳng lại từ đồi cọ bên kia. Nghĩ tới ngày
mai đã xa Lán, tôi thấy buồn. Tính tôi vốn hay làm ra vẻ “phớt đời”,
chẳng chú ý tới ai, những giờ đây - không hiểu vì vẻ đẹp lặng lẽ của
buổi chiều, vì sắp phải từ giã một nơi mình không định mà đã tới, đã
được quí mến như người nhà, hay bởi vì ngày ấy tôi mới hai mươi mốt tuổi
và chưa biết sẽ làm gì trong cuộc đời - tôi bỗng cảm thấy cần phải nói
với Lán một điều gì... Cổ tôi như nghẹn lại, tôi vừa thốt được một lời:
“Lán” Như nhận ra vẻ khác thường của tôi. Lán bỗng ngẩng lên, đôi mắt
như to ra, mờ đi vì sợ hãi... Lán vội quay mặt đi, đầu cúi xuống, cái
gáy trắng trẻo với những sợi tóc lòa xòa của Lán đỏ ửng lên. Tôi nắm lấy
bàn tay nhỏ nhắn của Lán, một bàn tay ấm nóng dính đầy nhựa cây, nhựa
trám nhựa của những búp chè non vừa hái... Quả thật, chưa bao giờ tôi
bạo dạn đến thế, tuy tôi thuộc loại nhanh mồm, nhanh miệng và không kém
thói ba hoa. Tôi cũng chưa yêu ai bao giờ, ngoài một hai mối cảm tình
bâng quơ với cô bạn cùng lớp hoặc cô gái trong tổ dệt thảm len ở trước
cửa nhà tôi...
Chúng tôi ngồi im lặng như vậy hồi lâu, rồi Lán
ngượng nghịu rút tay ra khỏi tôi. Cô hỏi khẽ: “Mai anh đi?...” Tôi gật
đầu. Không hiểu Lán đang nghĩ gì, cô có vẻ đăm chiêu. Rồi Lán bảo đã đến
lúc phải về, kẻo trời sắp tối, thầy u mong và chắc tôi đã đói. “Ừ, đói
cồn cào cả bụng!” - Tôi trả lời như thằng thộn.
Lán gánh hai sọt chè đầy đi theo con đường mòn
xuống đồi. Tôi im lặng đi bên cạnh. Đâu đây, mùi thơm dịu dàng của hoa
xuyến chi, loài hoa dại mọc trên những sườn đồi và lũng núi... Con đường
đất mịn xạc xào lá cọ. Lần này thì Lán bạo dạn nắm tay tôi trước. Vừa
đi, chúng tôi vừa trò chuyện. Lán bảo: “Bây giờ biết nói sao với thầy u
về chuyện anh với em? Em vốn không quen giấu giếm thầy u em điều gì
cả...”. Tôi hơi sững sờ: ra Lán định thưa chuyện với thầy u ư? Mọi
chuyện vừa mới bắt đầu thế, nào đã ra đâu vào đâu... Lán lại rủ rỉ tiếp:
“Em sẽ về thăm mẹ và bà anh... Về thăm luôn, còn thì học xong, em sẽ
lại về Hạ Hoà dạy học, em chẳng xa nơi này được, thầy u em chỉ có em là
con lớn, lũ nhóc thì còn nhỏ lắm... Mà anh đã hiểu gì về em đâu nhỉ, sao
anh lại vội... Liệu anh có thương em được mãi? Người ta bảo đàn ông
chóng quên, anh có thế không? Thầy u em thường kể em nghe về cha anh, em
đã cảm thấy quí anh, tin anh ngay... Em có nông nổi không anh? Nhưng
rồi đây, chúng mình còn nhiều thời gian để hiểu nhau, anh nhỉ? Mai
này...
Tôi nghe mà không kịp nghĩ ngợi gì. Tôi nào đã kịp
dự tính đến chuyện mai sau, đến những gì lâu dài giữa tôi và Lán... Bởi
tôi còn trẻ quá, hay bởi tình cảm của tôi không mạnh mẽ, hồn hậu, tha
thiết được như Lán? Dẫu sao, nghe Lán nói, tôi vẫn thấy xúc động, thấy
thú thú, hay hay... Tôi gật gù bảo Lán: “Chúng mình sẽ đi đâu thật xa,
đi nhiều nơi... Sao Lán cứ thích quay về sống ở chốn đồi núi hẻo lánh
này, tù túng buồn chán đến chết mất... Con người ta phải sống một cuộc
sống tự do, như con chim không bị ràng buộc... Đó mới là điều chủ yếu...
“. Tôi thao thao giảng giải cái triết lý quen thuộc của tôi. Có lẽ Lán
chẳng hiểu gì hết, cô vẫn chăm chú nghe tôi nói, chỉ rụt rè hỏi những
câu khiến tôi bật cười: “Nhưng ở xã người ta muốn em về làm giáo viên
thì sao? Lại còn lũ em em ở nhà, còn thầy u?...”.
Đã về tới cái cổng tre đầu vườn nhà Lán. Đom đóm
bay lập loè dưới những tàu lá cọ. Chúng tôi dừng lại, và... Thôi, đã kể
thì kể thật hết: lúc ấy, tôi e ngại giây lát rồi đánh bạo ôm chặt lấy
đôi vai Lán. Gương mặt Lán nóng bừng trên mặt tôi... Cái hôn đầu tiên
trong dời. Mùi nhựa trám, mùi tươi hăng của lá chè non phảng phất trên
mái tóc dày của Lán...
*****
Tôi về nhà mới được mươi hôm mà đã nhận được hai
thư của Lán. Thư thứ hai, Lán báo tin cô đã lên thị xã, vào trường sư
phạm, vội vào năm học nên cô chưa thể xuống chỗ tôi. Tôi cũng không thể
nào quên buổi chiều và sườn đồi ấy, giọng nói trong trẻo hồn hậu của
Lán, đôi vai ấm nóng của Lán trong tay tôi buổi tối ấy... Không biết có
phải vì thấy từ hôm đi Hạ Hoà về tôi có vẻ vui vẻ, nhanh nhảu khác
thường hay là dò đoán được bằng cách nào, bà tôi và mẹ tôi thì thầm nhỏ
to với nhau. Rồi một hôm, mẹ tôi hỏi thẳng, tính mẹ thường nóng vội như
vậy:
- “Thế nào, sao không nói gì với mẹ, với bà...?
Liệu xem ra sao để mẹ còn thưa chuyện trước với vợ chồng bác Lán. Chỗ
nhà ta với hai bác ấy, chẳng có gì phải giữ kẽ với nhau cả...”
Rồi mẹ tôi vừa cười vừa nói với bà:
- “Kể ra, nếu rồi thằng Hân nhà ta lấy vợ, được đám như con gái bác Lán, thì còn gì bằng?”
Bà tôi cũng cười, nhưng lại quay sang tôi, nghiệm giọng:
- “Vợ con với yêu đương gì chưa biết, chứ anh phải
lo chuyện công ăn việc làm hoặc đi học hành gì đi đã, lêu bêu bốn, năm
tháng rồi...”
Bà tôi sốt ruốt với chuyện chọn ngành, chọn nghề
của tôi. Dượng tôi đã xin được cho tôi vào mấy nơi công tác: làm công
nhân dưới nhà máy phốt-phát, đi học lớp cán bộ thống kê tỉnh, hoặc vào
làm ở phòng bảo tàng Ty văn hoá... Nhưng tôi chẳng ưng việc nào, tôi
thấy những công việc đó đều rất gò bó, tẻ nhạt. May sao, đầu tháng mười,
bác tôi - anh ruột của mẹ tôi - đi công tác ghé qua. Là cán bộ khá quan
trọng của một cơ quan cấp Bộ của Hà Nội, bác tôi rất quí, rất thương mẹ
tôi, bác là người rất nặng tình cảm với họ hàng, con cháu. Gặp bác, tôi
rất mừng bác là người hiểu biết rộng, chắc không quan niệm “cổ hủ”, cạn
hẹp như bà và mẹ tôi, tôi có thể trò chuyện được. Vả lại, dù sao bà và
mẹ tôi đã kể lể, than vãn hết lời về tôi với bác tôi rồi, tôi thấy cũng
nên thổ lộ thật sự tâm tư nguyện vọng với bác, may ra bác có thể giúp gì
tôi được chăng?
Bác tôi lắng nghe tôi nói hồi lâu, chăm chú nhìn
tôi, lắc đầu như có vẻ chê bài: “Lung tung!... Anh bạn suy nghĩ chẳng
đâu vào đâu cả... Chả trách bà với mẹ lo... Này cuộc sống rất rõ ràng,
thiết thực, khắc nghiệt, không phải chuyện đùa đâu! Mà cũng đừng làm mọi
sự rắc rối thêm... Chẳng qua là vì cháu còn trẻ, chưa trải qua vấp váp
lo nghĩ gì... Nhưng thôi, được rồi để cho bà với mẹ khỏi lo lắng, và vì
bác quí cháu - bác biết cháu là thằng thanh niên tốt, lung tung một chút
nhưng tốt - bác sẽ giúp cháu. Cháu muốn đi đây đi đó hả? Được! Thế này
nhá: Cháu có thích làm báo không?
- Làm báo? Tôi không khỏi ngạc nhiên.
Bác tôi nói tiếp:
- Ở chỗ bác có một tờ báo của ngành, đang cần lấy
thêm phóng viên, vì gần đây báo đã in “ti-pô” phát hành cả ra ngoài
ngành. Các anh phụ trách ở đấy đều là bạn bè bác. Bác thấy cháu hay đọc
sách, đọc truyện, và hình như hồi học ở trường cũng khá về môn văn, chắc
cháu sẽ làm phóng viên được, vì công việc cũng đơn giản: chỉ là đi lấy
tin, viết tin về các hoạt động của ngành. Dĩ nhiên, cháu sẽ phải học hỏi
thêm về nghề làm báo, về đặc điểm chuyên môn của ngành, những việc ấy
thì bác không giúp cháu được, cháu phải tự rèn luyện lấy, nhưng cháu sẽ
tha hò được bay nhảy, bởi ngành ta rất rộng, rất đông... Cháu nghĩ thế
nào?
Tôi chẳng nghĩ thế nào cả, tuy hay đọc sách và học
cũng không đến nỗi tồi về môn văn, tôi chưa hề có ý định trở thành nhà
báo, tôi cũng chẳng mấy thích thú cái ngành của bác tôi. Nhưng có lẽ
công việc mà bác tôi giới thiệu sẽ cho tôi được sống theo ý thích, nhất
là tôi sẽ được ở Hà Nôi, kể ra còn gì bằng? Tôi làm bộ bình thản, gật
đầu, nhưng trong bụng như mở cờ...
Bà tôi tỏ ý lo ngại:
- Làm “nhật trình” có phải chuyện chơi, mày có làm được không cháu?
Nhưng sau bà cũng đành chiều ý tôi và trông cậy vào
bác tôi. Thế rồi, chỉ ít hôm sau, khi bác tôi đi công tác xong, trên
đường về ghé qua nhà tôi, tôi liền gói ghém đồ đạc, quần áo, theo xe của
bác về Hà Nội, chẳng buồn ngoái lại nhìn cái thị trấn mà tôi coi là tẻ
ngắt... Tôi cũng không kịp nhắn tin gì với Lán, định bụng lên Hà Nội,
nhận việc xong xuôi rồi, tôi sẽ viết thư cho Lán...
o O o
Thủ tục để tôi vào làm báo được tiến hành nhanh
chóng, bởi bác tôi là người rất có uy tín trong ngành, tờ báo lại thuộc
một bộ phận có liên quan với bộ phận mà bác tôi phụ trách và họ cũng
đang thiếu người. Vốn nhanh trí, tôi hiểu và làm ngay được những công
việc tòa soạn giao cho. Đúng như bác tôi đã nói trước: công việc kể cũng
khá đơn giản, tôi chỉ việc đi lấy tin ở các cơ sở, hoặc viết lại tin từ
những bản báo cáo thi đua người ta gửi lên, tường thuật buổi khai mạc
một hội nghị tổng kết hoặc phản ánh vắn tắt khí thế làm việc ở một đơn
vị v.v... Tôi được cơ quan phân cho một gian buồng xép chừng tám mét
vuông trong khu tập thể. Một thanh niên ít tuổi, lại mới vào làm ở cơ
quan như tôi, đó là một may mắn lớn, không phải ai cũng có được. Đầu
tiên, tôi bắt tay vào xếp đặt trang hoàng chỗ cư ngụ của mình. Bác tôi
cho tôi một cái tủ gỗ nhỏ. Cơ quan cho mượn chiếc giường cá nhân. Tôi
mua một bộ bàn ghế đã cũ, nhưng khá xinh xắn, lọ cắm hoa, ấm chén, gạt
tàn thuốc lá, cái đèn bàn bằng phim nhuộm màu xanh dịu, bức tượng cô vũ
nữ ba-lê bằng sứ... Tôi treo lên tường bản in bức tranh “Mùa thu vàng”
của một hoạ sĩ Nga mà tôi từng thấy anh giữ thư viện ở thị trấn tôi vẫn
treo và ca ngợi rằng đó là một tuyệt tác. Bây giờ chỉ còn thiếu ảnh một
cô gái... Tiếc rằng tôi chưa có tấm ảnh nào của Lán. Tôi cắt ở hoạ báo
tấm ảnh Xa-Mô-Lô-Va cô diễn viên đóng phim “Đàn sếu bay qua” - dán lên
tường.
Viết vắn tắt cho Lán ít dòng, báo cho Lán biết hoàn
cảnh sống và bước đường mới của tôi, rồi, với một tâm trạng thật vui
vẻ, thoải mái, tôi bước vào cuộc sống mới!
Công việc làm báo khiến tôi giao thiệp rộng. Tôi
làm quen với khá đông bạn trẻ làm báo ở một số tờ báo lớn và nhỏ khác
nhau. Tôi thường có mặt ở các hội diễn văn nghệ quần chúng của các đơn
vị trong ngành hoặc thành phố. Tôi đi xem, đi chơi với một số anh làm
văn nghệ nghiệp dư của ngành - họ sáng tác bài hát, chơi đàn hoặc dựng
kịch. Tôi bắt đầu nghiện thuốc lá và thông thạo dần những quán càphê
trong thành phố. Cách ăn nói, giao thiệp của tôi hoạt bát hơn, lịch lãm
hơn so với hồi ở thị trấn, nhưng cái tính vô tư, thích sống thoải mái
không ràng buộc, không lo nghĩ thì vẫn thế, thậm chí còn tăng hơn...
Tôi vẫn nghĩ đến Lán, không phải thường xuyên nhưng
vẫn nhớ, như nhớ tới một niềm vui lặng lẽ, một dòng suối trong mát lấp
lánh đang chờ đợi tôi ở nơi xa. Trong một kỳ đi thực tập, Lán đã ghé về
thăm bà và mẹ tôi, được cả nhà tôi rất quí mến. Lán viết thư cho tôi
luôn. Những lá thư với nét chữ nắn nót, hiền hậu. Lán kể về việc học của
Lán, về bạn học và các giáo viên, về những dự định sau này khi ra
trường về quê dạy học - Lán vẫn chưa bỏ được cái ý định về quê dạy học.
Lán còn hỏi ý kiến tôi về công tác nọ công tác kia trong lớp, kể cả việc
giúp đỡ những bạn học kém hoặc có những khó khăn, khổ sở riêng tư...
Tính Lán thật đến lạ...
Thấm thoát, đã mùa hè. Lán dự định về Hà Nội với
tôi rồi hai đứa sẽ về Hạ Hòa. Nhưng nhận được điện ở nhà báo tin đứa em
út bị ốm nặng, từ trường Lán vội về quê ngay, không kịp về Hà Nội đón
tôi. Tôi viết thư hẹn Lán tôi sẽ lên Hạ Hòa trong kỳ nghỉ phép tới. Thế
rồi, lần lữa mãi bởi công việc nọ kia, rồi tôi lại mắc đi Bãi Cháy với
mấy người bạn (tiện có chuyến xe, mà tôi thì chưa bao giờ được thấy Vịnh
Hạ Long), tôi vẫn chưa lên chỗ Lán được. Cuối tháng bảy, tôi định đi
thì lại đang kỳ bão lụt, đường về Hạ Hòa bị lũ ngập mấy đoạn, xe hàng
không lên được. Lán viết thư nói rằng Lán và cả nhà mong tôi đỏ con mắt,
nay thì đã hết kỳ nghỉ hè, Lán phải vào trường. Kể ra thì Lán cũng có
thể về Hà Nội vài ngày trước khi vào trường cũng được, nhưng chắc Lán
giận tôi, bởi bẵng đi một thời gian, tôi không nhận được thư nào của Lán
cả.
Cũng trong khoảng thời gian ấy tôi quen Kim Yến.
Ở đời, có những sự tình cờ mà dẫn theo những biến
động có thể làm thay đổi cả đời sống của một con người. Tôi quen Kim Yến
hoàn toàn là chuyện ngẫu nhiên. Tôi đến chơi với một người bạn là phóng
viên ở một tòa báo, Yến làm nhân viên đánh máy ở đấy.
Tôi cam đoan rằng: tất cả những người con trai ở
tuổi tôi mà gặp Yến ắt đều phải chú ý - nếu không nói là có cảm tình -
với Yến ngay. Yến lá một cô gái rất đẹp, một vẻ đẹp trẻ trung, tươi mát,
quyến rũ lạ lùng: mái tóc cắt ngắn, những món tóc ở hai bên má hơi uốn
cong ra phía trước, ôm lấy gương mặt rực rỡ. Dáng người Yến dong dỏng,
mềm mại, đôi mắt lúc nào cũng như đang ngạc nhiên. Cái cổ cao vươn lên
tựa như một đài hoa khiến gương mặt luôn ngước về phía trước với vẻ
thách thức khó tả, cái miệng xinh đẹp luôn mỉm cười, môi dưới hơi bĩa
ra, vừa ngây thơ vừa kiêu kỳ... Yến ăn mặc theo “mốt” mới nhất, chiếc áo
mỏng thêu hoa và chiếc quân âu được cắt may thật khéo, tuy hơi đỏm
dáng, sặc sỡ nhưng vẫn rất duyên dáng... Tôi sững sờ như bị ngợp đi
trước cô gái. Không thể nhớ rõ tôi đã quen Yến ra sao, chỉ biết rằng qua
những người bạn tôi, chúng tôi thân nhau rất chóng vánh.
Yến thật hồn nhiên, vô tư. Cô dễ làm cho người khác
vui và cũng thích người khác làm cho mình vui. Cô quan tâm tới mọi việc
nhưng bất cứ việc gì cũng không thể xâm phạm được tới tính vô tư của
cô. Cuộc đời đối với Yến như một ngày hội với bao sự thú vị kế tiếp, đến
nỗi cô không biết chọn nỗi vui gì và đành phó mặc mình cho hết sự thích
thú này dến sự bất ngờ khác... Cha mẹ Yến mất sớm, cô sống với gia đình
một bà thím làm nghề uốn tóc, từ khi còn rất ít tuổi, Yến đã rời nhà đi
văn công, sau vì không đủ khả năng, cô chuyển sang làm phát thanh viên,
rồi làm nhân viên đánh máy... Mỗi năm cô lại chuyển một cơ quan, vì
theo lời Yến nói, cô không thích ở lâu một chỗ. Cái tính vui vẻ, phóng
túng, không bị ràng buộc, không phải chịu trách nhiệm về ai của Yến thật
giống tôi... Yến biết lắng nghe và tán thành mà không cần nghĩ ngợi tất
cả những điều tôi nói ra. Tôi tìm thấy ở Yến một người con gái mà tôi
cho rằng rất hợp với tôi, hơn nữa, cô gái ấy lại đẹp và đáng yêu vô
cùng... Những lúc nghĩ như vậy, tôi thoáng nhớ tới Lán, trong lòng có gì
bứt rứt, cảm thấy như mình có lỗi với Lán. Nhưng tôi lại nghĩ: một cô
gái như Lán - với bao nhiêu sự ràng buộc, tuân theo bao nhiêu nguyên tắc
trong đời sống - làm sao hoà hợp, thông cảm được với tôi? Vả lại, thực
ra, chúng tôi nào đã ở bên nhau được mấy chốc?
Còn Yến thì khác, suốt những ngày ấy, chúng tôi hầu
như không rời nhau, luôn ríu rít bên nhau, tôi đón Yến ở cửa cơ quan
Yến, Yến đền tìm tôi giữa giờ làm việc, chúng tôi đi chơi ngoài phố, đến
nhà bạn bè, đi xem phim, xem ca nhạc, ngồi ở quán nước... Rồi như không
thể khác được, tôi nói với Yến rằng tôi yêu Yến và - Yến cũng vui sướng
nói rằng Yến yêu tôi... Không muốn là một kẻ dối trá, tôi viết thư nói
hết sự thật với Lán, tuy mấy thư trước tôi đã nói xa xôi cho Lán hiểu
rằng: có lẽ người như tôi không hợp với Lán và sẽ không mang lại hạnh
phúc cho Lán đâu. Phải nói khi viết lá thư cuối cùng này cho Lán, tôi
rất buồn và thương Lán, tôi đành lặp lại những lời sáo mòn, cũ rích mà
người ta thường nói trong những trường hợp tương tự: “Tôi vẫn mãi mãi
quí trọng Lán, coi Lán như người em gái, và mong Lán hãy coi tôi là
người bạn thân thiết nhất của Lán”. Khi gửi lá thư đi rồi, tôi mới thấy
ân hận bởi những lời công thức giả dối đó. Nhưng tôi không có thời gian
băn khoăn nghĩ ngợi nhiều: mối tình sôi nổi của tôi với Yến đã chiếm hết
tâm trí tôi. Tôi viết thư cho bà và mẹ, kể về Yến và nói rằng: chúng
tôi không thể sống thiếu nhau được. Bà và mẹ tôi tỏ ý lo lắng, buồn
phiền, cho rằng tôi nông nổi, bộp chộp. Bà tôi nhắc tới Lán và bảo tôi
là thằng Sở Khanh. Ít lâu sau, hai người lại viết thư nhắn rằng: Tôi hãy
đưa cái nhà cô Kim Yến gì đó về gia đình, cho bà và mẹ tôi biết người,
biết tính, thì mới óc thể nói bằng lòng hay không bằng lòng được. Nghĩ
tới cảnh Yến về nhà tôi, với cái tính cách cũng như lối ăn mặc, nói năng
của Yến, chắc bà và mẹ toi sẽ chẳng ưng gì, đấy là chưa kể hai người có
thể có những thái độ khiến Yến phật lòng hoặc tủi thân... Nghĩ vậy nên
tôi quyết định: chẳng nên đưa Yến về làm gì, chẳng cần gia đình tôi có ý
kiến vào chuyện tình cảm của tôi, tôi chịu trách nhiệm lấy. Yến cũng
không hề nhắc tôi phải đưa Yến về nhà tôi, cô cũng chẳng hề quan tâm tới
việc gia đình tôi có bằng lòng hay không...
Thời gian qua nhanh, một năm mới lại tới. Đột ngột vào một buổi tối, Yến nói với tôi:
- Em quyết định rồi: chúng mình nên cưới nhau đi
anh ạ. Em chán sống một mình lắm rồi! - Cô mỉm cười - Em muốn liều một
chuyến, thử phiêu lưu một chuyến...
Rồi Yến nói thêm, nửa đùa nửa thật:
- Tử vi em năm nay là phải lấy chồng đấy, anh mà do dự thì em cũng đến phải lấy một ông chồng khác mất thôi...
Tôi vừa cảm động vừa bàng hoàng, cố trấn tĩnh, hỏi Yến:
- Em không sợ những phiền luỵ của đời sống gia đình?
- Em đã bảo em liều... Hơn nữa, em yêu anh, anh rất tốt bụng, rất hiền, và anh rất yêu em, có đúng không?
- Điều đó thì khỏi phải nói - tôi sung sướng gật
đầu - Nhưng anh hứa sẽ không làm phiền gì em, em vẫn sống vui vẻ thoải
mái như trước... Chúng ta sẽ không ràng buộc gì nhau...
- Em biết, anh là người “mô-đéc”...
- Nhưng chúng ta đã kịp chuẩn bị gì cho việc cưới nhau đâu?
- Anh khỏi phải lo! Buồng thì anh đã có rồi. Hơi
chật một chút nhưng không sao! Đồ đạc cũng chẳng cần gì nhiều vì chúng
ta sẽ ăn cơm hàng... Tuần tới, ta sẽ đi mua áo cưới. Em biết một chỗ bán
vải đẹp...
Mọi việc đều bất ngờ chóng vánh. Đám cưới của chúng
tôi rất vui. Yến rất diện và đẹp, bạn bè đến rất đông, có cả dàn nhạc
và các ca sĩ nghiệp dư hát giúp vui, họ tặng chúng tôi nhiều món quà nhỏ
và những lời chúc mừng nồng nhiệt. Mãi sáng hôm cưới, tôi mới điện báo
tin cho bà, mẹ và dượng tôi. Bác tôi cũng không có mặt bởi suốt từ khi
tôi quen Yến tới lúc cưới Yến, bác tôi đi công tác xa, ngày cưới bác tôi
vẫn chưa về.
Những tháng đầu chung sống của chúng tôi có thể nói
là hạnh phúc. Mỗi sớm dậy là bắt đầu một ngày vui ồn ã. Nhà chúng tôi
rất đông khách. Yến nhiều bạn bè làm đủ nghề: văn công, vận động viên
thể thao, nhà nhiếp ảnh, quay phim, kỹ sư, thợ sữa chữa máy thu thanh...
Họ đều là những cô gái bạo dạn, những người đàn ông - trẻ tuổi và không
trẻ tuổi - sôi nổi, vui tính, bạt thiệp. Chúng tôi liên tiếp tham dự,
hoặc tổ chức tại nhà những buổi họp mặt, những lễ mừng sinh nhật có thắp
nến và ăn bánh ngọt theo kiểu Âu...
Yến rất thích hoa, có hôm cô mua về cắm chặt cả ba
bốn thứ lọ, cốc khắp nhà. Yến hay đòi tôi sắm cho cô khăn mới, guốc mới,
nhưng chỉ độ mươi hôm là cô đã chán và lại muốn đổi một kiểu khác mới
hơn... Cô đối xử với tôi vẫn nhí nhảnh, duyên dáng như buổi mới quen
nhau. Đôi lần, cô chê tôi: “Sao ở chỗ đông người anh rụt rè, lóng ngóng
thế, chẳng hay chuyện trò gì, độc ngồi im?”. Rồi cô cười trêu cái giọng
Phú Thọ và cái mũi hơi dài của tôi. Cô bảo “Những người mũi dài nhòm mồm
như thế là hay vừa nhát vừa tham ăn...”. Cuộc sống của chúng tôi vô số
những câu cười đùa vui nhộn như vậy... Chỉ có một điều khiến tôi bắt đầu
phải lo lắng, một điều thật tầm thường nhưng rất hiển nhiên và không
kém quan trọng: tôi cạn nhẵn tiền.
Hồi tôi lên Hà Nội, bà và mẹ tôi có cho tôi một số
tiền, sau đó dượng tôi lại gửi cho tôi một cái xe đạp và mấy lần gửi
tiền thêm cho tôi. Bác tôi cũng cho một món tiền để tôi “chuẩn bị cho
một đời sống tự lập”. Tất cả những số tiền đó, cùng với số tiền lương để
dành, tôi tiêu hết vào việc cưới, vào các lần mua sắm cho Yến cùng mấy
tháng ăn tiêu thoải mái của chúng tôi. Rồi tôi phải bán đi cái xe đạp,
nhưng sau khi tiêu hết lại vẫn lâm vào cảnh túng thiếu. Yến dường như
không biết tới điều đó, cô tiếp tục tổ chức những buổi mời bạn bè ăn
liên hoan, những bữa ăn “sinh nhật” rất tuỳ hứng... Trong tôi, gã con
trai của một thị trấn nhỏ vốn quen sống thanh đạm, tằn tiện, bắt đầu cảm
thấy áy náy tiếc rẻ những bao thuốc, những chai rượu và bánh ngọt, hạt
bí... bị tiêu tan phung phí một cách “chẳng đâu vào đâu” trong các bữa
tiệc nhộn nhạo... Sau mỗi lần khách khứa tụ bạ, tôi lại đi rửa gạt tàn
thuốc, đổ giấy kẹo, vỏ chuối và xoay trần lau nhà - tính tôi vốn sạch
sẽ, ngăn nắp. Có những ngày tôi chẳng ngồi riêng với Yến được lúc nào:
bạn bè của Yến đến rầm rập. Đến nỗi có lúc đi vắng về thấy trước cửa
buồng đầy guốc, dép, giầy da... tôi không khỏi phát ngốt.
Tôi cũng bắt đầu nhận ra một tính lạ lùng nữa ở
Yến: cô rất hay nói dối. Nhiều việc chẳng đáng gì cô cũng nói dối. Yến
nói dối một cách ngây thơ, hồn nhiên, chẳng nghĩ ngợi và đôi khi tôi
phát hiện ra, hỏi vặn lại, Yến cười xòa ngay, vẫn với cái vẻ dễ dãi, hồn
nhiên...
Thói quen ấy của Yến không khiến tôi lo lắng bằng
cái tính thất thường, chóng thích, chóng chán của cô ta. Có những lúc
không có khách khứa, chỉ tôi với Yến ở nhà, tôi thấy Yến buồn chán ra
mặt, cô đi lại tha thẩn trong phòng, hết soi gương chải tóc lại vứt lược
xuống ngồi bó gối. Cô rủ tôi:
- Ta đi đâu cho đỡ chán đi anh!
- Sao em không ngồi riêng với anh được một lúc? Anh chẳng thích đi đâu cả...
Yến không nói gì, dở hộp bánh qui ra cắn một miếng rồi lại uể oải bỏ xuống. Cô thở dài:
- Sao anh không tập chơi một thứ đàn gì cho vui,
đàn ghi ta chẳng hạn? À, mà anh là nhà báo, sao không viết văn nhỉ? Con
bạn em có người yêu là nhà văn đấy!
Tôi càu nhàu bảo Yến rằng tôi không thích chơi đàn,
tôi không thích viết văn, mà thực ra, tôi cũng chẳng thích nghề viết
báo, tôi vào làm phóng viên là do bác tôi giới thiệu, ở toà soạn người
ta cũng nhận xét rằng tôi không say mê nghề, thiếu sự năng nổ, cần cù...
Yến cười dễ tính. Một lát sau, co vuốt má tôi, cầm cái túi thổ cẩm khoách lên vai:
- Em có việc phải đi một chút. Em đến thăm cái Thuỷ, nó bị ốm nặng...
- Sao lúc sáng em nói Thuỷ đang đi đấu bóng bàn ở Hải Phòng?
- Em nói thế thật à?... Em nhầm...
- Không phải em nhầm!... Thực ra bây giờ em không định đến cái Thuỷ. Em đi đâu mà giấu anh?
- Trời ơi, anh tò mò thật, cái gì anh cũng vặn vẹo em, em có phải là tù nhân đâu!
Cứ thế, những chuyện vặt vãnh khó chịu ấy xảy ra
thường xuyên làm cả hai đều bực tức. Lại thêm cảnh túng bấn, nợ nần.
Cuộc sống chung giữa hai đứa mỗi ngày một trở nên nặng nề. Yến đi vắng
luôn, hình như cô ngại ở nhà với tôi. Tính tôi đâm ra cáu kỉnh, lắm lúc
hoá nhỏ nhen. Tôi bỏ bễ công việc cơ quan, cãi nhau với đồng chí tổ
trưởng, cãi nhau với cả ông thường trực cơ quan. Nhiều lần, tôi uống
rượu, dù không quen uống, bị say đến nôn thốc nôn tháo... Cũng có những
lúc, buồn bã và trống trải, tôi nhớ tới Lán, nhớ tới buổi chiều ở Hạ
Hòa, đồi chè xanh, những bông hoa xuyến chi thanh khiết... Tôi đoán Lán
phải trách giận, thù ghét tôi lắm và chắc hình ảnh tôi bị xoá khỏi tâm
trí Lán rồi...
Hôm ấy, Yến đi đâu cả ngày. Một cô bạn của Yến lại
chơi. Thực ra, Yến không có bạn gái, Yến quen đấy, nhưng chẳng thân
thiết với cô bạn nào. Nghe nói Yến đi từ sáng, cô bạn nhìn tôi thương
hại. Nhìn vẻ rầu rĩ của tôi và cái bánh mì xuông trên bàn tôi định ăn
thay bữa chiều, cô bạn nói:
- Anh phải nấu nướng ăn uống cho cẩn thận chứ... Mà
đừng có mất công đợi Yến... Đàn ông các anh thật thà thật, có những
chuyện... tất cả đều biết, chỉ riêng anh chồng là...
- Chuyện gì? - Tôi sửng sốt hỏi.
Nhưng cô bạn đã lắc đầu quầy quậy: “Không, em nói
thế thôi...”, rồi vội vã bỏ đi mất. Chuyện gì? Ý cô ta muốn nói chuyện
gì? Nằm vật trên giường, khổ sở vì nghi ngờ, tôi tự hành hạ mình bằng
cách mường tượng ra những sự việc và hình ảnh khủng khiếp, tệ hại nhất
về Yến. Rồi, không thể nghĩ tiếp được nữa, tôi lục tìm chai rượu chanh,
rót uống ba, bốn cốc liền. Khi Yến về thì tôi đã say đừ. Yến không về
một mình, đi theo Yến có một cô gái và mấy anh con trai, trong đó có một
anh chàng mà tôi vốn không ưa – một anh chàng to béo mặc áo blu-dông
da, đội mũ len có quả bông trên chóp, cái miệng chúm chím của anh ta
không hiểu sao tôi thấy rất khả ố.
Mấy người bạn của Yến không biết tôi đang say. Tự
nhiên như ở nhà, họ mời tôi uống nước và vui vẻ trò chuyện. Trong câu
chuyện tôi có nói một câu gì đó khiến anh chàng to béo bẻ lại, tôi xẵng
giọng bảo rằng anh không biết gì thì không nên bàn vào. Anh ta xẵng
giọng đốp lại tôi. Tôi điên tiết quát lên:
- Anh câm mồm đi! Tôi không muốn những thằng ngu ngốc mà hợm hĩnh như anh ngồi ở nhà tôi! Xéo đi cho khuất mắt!
Anh ta tái mặt đứng dậy. Tôi cũng loạng choạng chồm
lên. Tiện tay, tôi vớ cái mũ len của anh ta trên bàn ném ra ngoài cửa.
Lúc này, cả mấy người mới nhận ra là tôi đang say. Sửng sốt, và cũng đâm
hoảng, họ lúng túng rồi vội vã rút lui thẳng...
Sau khi tiễn đám bạn xuống nhà, trở lên buồng, Yến giận dữ đến run người, cô la lên:
- Anh điên à? Tôi không thể tưởng tượng nổi. Thật là thô bạo cục súc. Anh xử sự như một kẻ vô giáo dục!.
- Vâng tôi vô giáo dục, còn cô... cô là người vợ lăng loàn!
- Anh có quyền gì mà hoạnh họe bắt bẻ tôi?... Tôi
có bạn bè của tôi! Tôi có yêu ai nữa cũng chẳng sao. Khi lấy nhau, tôi
với anh đã giao hẹn trước: không ràng buộc gì, không có trách nhiệm gì
với nhau cơ mà. Giờ tôi mới hiểu rõ anh: anh thật thầm thường tồi tệ!
Tôi quát to, Yến cũng quát lại, rồi tôi tát cho Yến hai tát và bỏ đi.
Tỉnh rượu rồi, nhớ lại tất cả sự lố bịch và dung
tục của những gì xảy ra, tôi vô cùng chán nản, hổ thẹn. Đêm ấy, tôi đến
ngủ nhờ nhà một anh cùng cơ quan. Mãi tới trưa hôm sau, quần áo nhàu
nát, mặt mũi bơ phờ tôi về nhà. Ngỡ rằng Yến sẽ trút lên tôi hàng núi
những lời xỉ vả. Những không. Yến đang ngồi đợi tôi, vẻ dửng dưng, trầm
lặng, chỉ có gương mặt hơi xanh và khoé mắt rơm rớm...
Một hồi lâu im lặng nặng nề. Cả hai chúng tôi ngồi yên không nói gì, rồi Yến cất tiếng trước:
- Em không giận anh, em đã làm anh bực... Nhưng...
anh Hân ạ, em đã nghĩ kỹ: chúng ta không sống được với nhau đâu! Chỉ làm
phiền, làm khổ nhau, làm cho nhau chán. Tốt hơn hết, nên chia tay nhau
sớm... Anh tha lỗi cho Yến. Chúng ta từng có với nhau những ngày tốt
đẹp. Yến không muốn sống với anh một cách gượng ép, khổ sở...
Yến khóc. Tôi xót xa nhìn Yến. Con chim nhỏ của
tôi, con chim nhỏ xinh đẹp, con chim nhỏ gian dối một cách hồn nhiên, cô
chỉ muốn hưởng thụ cùng một lúc quá nhiều thứ trong cuộc đời, nhưng tôi
biết, lúc này Yến thành thật, và điều cô ta nói là đúng: sự thể đã
không cứu vãn, mối tình của chúng tôi đã sớm tan, trước sau gì sẽ phải
có buổi hôm nay...
Đến bây giờ, khi nhớ lại mọi chuyện, tôi vẫn không
trách gì Yến cả. Thôi, đành thế, khi đã không thể chịu đựng được nhau,
mỗi người đi một ngả là hơn...
Thế là - sau một năm rưỡi chung sống - chúng tôi chia tay nhau, chia tay nhau vĩnh viễn.
Bác tôi cho gọi tôi lên. Khi tôi đến, bác đang ngồi
với một người cao lớn, mặc áo bảo hộ lao động, râu quai nón xanh rì hai
bên cằm.
- Vào đây! - Bác tôi vẫy tôi vào. Rất quí tôi nhưng hôm nay trông thấy tôi, bác có vẻ rầu rỉ, bực bội lắm.
- Anh Toàn à, thằng cháu mà tôi nói chuyện với anh
đấy! Xin phép anh, ta ngừng làm việc một lát, để tôi hỏi “hắn” đã - Bác
tôi nói với người râu quai nón như vậy, rồi quay sang tôi hất hàm:
- Thế nào, bỏ vợ rồi hả, hay bị vợ bỏ? Đẹp mặt
chửa? Nhưng khoan bàn chuyện ấy vội, tôi muốn hỏi anh chuyện khác. Tại
sao anh bỏ bê công việc cơ quan, người ta giao việc cho không làm, hoặc
làm bôi bác, cẩu thả, cử đi công tác không chịu đi - thế mà trước anh
bảo anh thích bay nhảy - cũng không chịu có mặt ở cơ quan nữa? Người ta
phàn nàn với tôi đủ chuyện về anh... Tóm lại, tại sao cơ sự lại như thế?
Buồn bã, thất vọng, ngồi trên chiếc ghế, người tôi rũ xuống như miếng giẻ rách. Tôi thú thật:
- Cháu không có khả năng làm báo, cháu không thích
nghề viết báo, cháu chẳng hứng thú gì với những đoạn tin và bài tường
thuật...
- Thế đấy: khăng khăng đòi cưới vợ rồi lại đùng
đùng bỏ, hăng hái vào tòa báo rồi lại kêu không thích! Tôi biết ăn nói
thế nào với bà, với mẹ cậu bây giờ? Cũng một phần tại tôi, tôi không
chịu khó để mắt nhiều tới cậu, tôi cứ nghĩ: trên hai mươi tuổi, người
thanh niên tự chịu trách nhiệm lấy đời mình... Hừ, rốt cuộc lại, bây giờ
cậu muốn gì?
- Cháu chẳng muốn gì cả... Vô nghĩa lý hết... Cháu chỉ muốn chết quách đi cho rảnh, không thiết sống nữa...
- Cậu đã biết sống, đã sống thực sự bao giờ đâu mà
nói không thiết sống? Muốn chết quách hả? Cái chết của những người như
cậu chẳng có chút giá trị gì. Mà những người như cậu cũng có dám chết
cơ... Đừng tưởng mình hay ho sâu sắc lắm, như thế là nghĩ dở, là “hâm”
đấy cháu ạ... Bây giờ bác biết xử sự ra sao về cháu đây?
- Hay anh để tôi - người đàn ông râu quai nón tên
là Toàn đứng dậy - Anh chàng này giống như thằng em tôi, cũng ương ương
như vậy. Hay anh để cậu ấy về chỗ tôi, đội xà lan của tôi còn thiếu một
tay lái phụ kiêm thợ máy - anh đập tay lên vai tôi - về chỗ bọn tớ đi,
cậu sẽ thấy thích, sống ra sống nhá...
Bác tôi nghi ngại lắc đầu:
- Tính khí như nó, có làm thợ xà lan được không?
- Được chứ! - Toàn quả quyết - Chúng tôi sẽ rèn cho
chú ấy cứng cáp. Mấy mươi năm làm việc với nhau, anh cứ tin ở tôi...
Này anh bạn trẻ ranh mà đã một đời vợ, nhận lời đi, cậu sẽ hết buồn
chán, yếu đuối... Mà ở chỗ tớ, lôi thôi là chúng tớ cho uống no nước
sông, chứ không bỡn đâu... Có nhận lời không nào...?
Cái giọng ồm ồm của anh thoạt nghe thì khó chịu,
nhưng rồi thấy dễ mến. Đang tức và tự ái về những lời của bác tôi, hơn
nữa, nghĩ rằng đối với mình bây giờ thế nào cũng được, tôi nhận lời anh
Toàn.
Toà soạn báo đồng ý cho tôi chuyển xuống công tác ở đội xà lan của anh Toàn thuộc một công ty vận tải của ngành.
Ba ngày sau, Toàn đi xe đạp lên đón tôi về nơi ở
của đội ngoài bến sông. Tôi lại đeo balô và xách một cái túi vải bạt như
hồi rời thị trấn lên Hà Nội. Thấy tôi đi đôi dép nhựa rách mẻ, đứt tung
cả hai quai, anh Toàn hỏi tôi làm sao không mua đôi dép khác, lại phải
đi đôi dép thảm hại thế? Tôi thú nhận: em hết nhẵn cả tiền rồi.
- Được! - Toàn nói để ghé qua đây mình mua cho cậu
đôi dép mới! Về đội cậu sẽ được phát thêm một đôi ủng. Phải ăn mặc cho
đàng hoàng... Đàn ông đừng để phải lâm vào cảnh nghèo túng rách rưới
quá, đến vợ nó cũng khinh cho! Như tớ đấy, cậu biết không: tớ có năm
con, nửa tiểu đội chứ ít à, tớ lại phải nuôi hai cô em gái đang học cấp
ba và một bà mẹ vợ bị lòa, thế mà các em, các con tớ vẫn được ăn học tử
tế. Nhà tớ ở quê, những ngày nghỉ tớ tranh thủ đạp về, xây dựng cho vợ
cơ ngơi đàng hoàng. Tớ đóng gạch xây nhà lấy, trồng đủ thứ cây quả, nuôi
bốn, năm con lợn béo hú, một đàn gà đẻ trứng như điên. Tớ rèn cho lũ
nhóc nhà tớ biết lao động ra trò, không được buôn gian bán lận gì cả,
chỉ lao động chân chính thôi! Chúng nó ở trường là học sinh giỏi, về nhà
làm góp công điểm cho hợp tác. Bà xã sướng tít cả mắt! Thế là yên tâm
phần hậu phương, tớ tha hồ rảnh tay công tác! Mà không phải công tác lơ
mơ đâu! Cậu biết không: đội ta tám năm liền là đội lao động xã hội chủ
nghĩa, anh em năm nào cũng được lãnh tiền thưởng và tháng lương mười ba.
Nghe đâu lại đang được Bộ đề nghị thưởng huân chương nữa cơ chứ... -
Toàn dừng xe lại - Bà ơi, bán cho tôi đôi dép! Không phải, thứ này là
nhựa tái sinh, đi đứt ngay, lấy cho tôi đôi kia kìa... Đấy, thanh niên
giờ họ thích đi đế cao... Cậu đi thử vào xem nào... Vừa lắm, thế có phải
chững chạc hẳn lên không?... Vứt mẹ nó đôi dép thảm hại của cậu vào gốc
cây kia! Được rồi, bây giờ ta về đội...
Trên đường, Toàn tiếp tục giới thiệu về đội xà lan của anh:
- Cả đội đối với nhau như anh em ruột thịt, làm ra
trò, chơi nổ trời. Không chỉ vận chuyển đâu, đại tu xàlan, canô, chúng
tớ làm lấy tuốt: Chỉ tiêu, năng suất vượt hàng quí, cơm ăn hàng thùng...
Rồi cậu sẽ thấy: đi xa đội chỉ dăm, bảy hôm là nhớ điên lên được... Đội
ta có dãy nhà gỗ trên bến, nhưng có ở mấy đâu, quanh năm chúng tớ lang
thang trên sông. Cậu sẽ thông thạo luồng lạch của tất cả các con sông,
quen thuộc mọi bến bãi. Rồi mùa nước lũ, nước cạn, khi mưa bão, lúc đêm
trăng... Tớ không phải nhà báo nhà văn như cậu để tả... Cậu cũng sẽ được
chén đủ thứ cháo cá, gỏi cá tuyệt trần... Chỉ phải cái: dân xàlan trên
sông anh nào anh ấy cũng đen bóng như tây đen, quanh năm nắng gió mà!
Về đến nơi, anh Toàn gọi cả đội ra hoan hô anh thợ
mới là tôi, rồi anh bắt tay ngay vào việc. Đêm ấy, khi hàng hóa đang
được bốc lên xà lan để chuẩn bị cho một chuyến đi mới - chuyến đi đầu
tiên trên sông nước của tôi, ngồi cạnh anh Toàn, tôi lặng ngắm con người
sống mạnh mẽ, thiết thực này, lòng tôi ngổn ngang nghĩ lại bao nhiêu
chuyện đã qua và sẽ tới. Yến đang làm gì, đang đi chơi với ai! Lán bây
giờ ở đâu? Và bà tôi, mẹ tôi, dượng và các em tôi, mọi người có biết tôi
đang ở trên buồng lái chiếc tàu nhỏ của đoàn xàlan này và sắp bước vào
cuộc đời mới? Tôi sẽ sống ra sao? Trước kia tôi đã sống ra sao - chưa
bao giờ tôi nghĩ ngợi về điều ấy... Tôi rụt rè hỏi anh Toàn:
- Anh Toàn này, theo anh người ta sống ở trên đời,
điều gì quan trọng nhất, điều gì thiếu nó ta không sống nổi? Có phải là
sự tự do của bản thân mình không?
Anh Toàn rít một điếu thuốc to gộc, hàng râu quai nón của anh tua tủa dưới ánh lửa thuốc. Anh nói chậm rãi:
- Anh không thạo lắm các thứ lý lẽ... Tự do hiểu
theo nghĩa đối với một dân tộc, một nước thì lại là chuyện khác, có ý
nghĩa khác... Còn tự do hiểu theo nghĩa là lối sống tùy thích, không phụ
thuộc vào điều gì của một người, thì mình nghĩ: nó không quan trọng lắm
đâu... Nếu anh gắn bó với một điều gì, với một ai hoặc một tập thể nào,
thì anh sẽ thấy không thể tự do muốn làm gì thì làm được! Giả dụ như
mình: mình không thể tuỳ hứng chạy theo bất cứ cô gái nào khác, mặc dù ở
trên đời này còn rất nhiều ả hay ho, hay ho hơn cả vợ mình nữa kia,
nhưng mình yêu mụ vợ mình, mình phải có trách nhiệm với gia đình, với
các con... Mình cũng không hứng chí lên bỏ đội xàlan này đi ngao du vui
thú, uống rượu hay ngắm cảnh ở một nơi khác được mặc dù có những lúc
mình muốn bỏ cha nó công việc đi chơi ít ngày, nhưng vì mình yêu đơn vị,
mình là đội trưởng, mình phải có trách nhiệm lo lắng cho anh em... Cậu
hiểu chứ?... Mặc thêm áo vào, lạnh đấy. Đêm nay có gió mạnh. - Anh thò
đầu ra cửa sổ quát to - Mấy tướng ơi, xem lại nao chằng cẩn thận đi! Hỏi
thằng Tùng xem nó lên y tế lĩnh thuốc dự trữ cho đội chưa, sớm mai phải
đi rồi mà giờ còn lơ khơ, lơ khiếu thế hả?
Hai năm trôi qua kể từ ngày tôi xuống làm thợ xà
lan. Tôi đã đổi thay nhiều trong hai năm ấy. Thoạt đầu, tôi chưa thật
yêu thích gì công việc mới này, nhưng nể anh Toàn, tôi cố gắng làm tròn
mọi việc anh giao cho. Tôi cũng tự ái không muốn thua kém những bạn thủy
thủ khác, chẳng lẽ họ làm được, tôi lại không làm được? Rồi tôi cũng
thấy tự hào vì những thành quả của đội tôi. Dần dần, đến tháng thứ bảy,
thứ tám của đời thợ xàlan, đúng như anh Toàn nói: cuộc sống sông nước đã
hấp dẫn tôi. Tôi đã quen với luồng lạch, kỳ nước lên, nước xuống của
các con sông, các kho hàng, bến bãi, mọi công việc sửa chữa, điều khiển
con tàu dắt nhỏ, các thứ kích, móc, dây xích, dây chằng của đoàn
xàlan... Mặc dù không phải mọi việc đều êm đẹp, dễ dàng, không phải
không có lúc tôi chán nản, nhưng đội vận tải đường sông đã thực sự trở
thành gia đình của tôi. Đội đã phát triển thêm, chia làm mấy tổ vận
chuyển, cùng một lúc hoạt động trên mấy bến khác nhau.
Cuối tháng tám ta, qua thời kỳ nước lũ lên cao
nhất, tôi nhận được điện của mẹ tôi báo tin bà tôi ốm nặng. Hai năm qua,
công việc bận rộn, tôi chỉ về thị trấn được hai lần trong hai kỳ nghĩ
phép ngắn. Tôi trình bày với anh Toàn, anh bố trí cho tôi phụ trách một
tổ vận chuyển ngược sông Thao. Trong những địa điểm ghé lại bốc dỡ hàng,
có thị trấn nhỏ quê tôi, tôi sẽ được tranh thủ ghé thăm nhà, thăm bà
tôi...
Nhưng tôi về tới thị trấn thì đã muộn: bà ngoại tôi
đã mất tảng sáng hôm trước. May tôi còn kịp nhìn mặt bà lần cuối cùng
trước khi đóng quan. Trong bà tôi bé nhỏ như một cô bé con. Mái tóc bạc
đã chải cẩn thận, cái túi ăn trầu đặt cạnh người... Tôi nhìn mãi hai bàn
tay bà tôi đặt trước ngực, hai bàn tay với những ngón gầy nhăn nheo.
Hai bàn tay từng giặt giũ, bế ẵm, tắm rửa cho bao đứa con và cháu. Cuộc
đời bà tôi là một chuỗi dài những nhẫn nại, vất vả hy sinh vì người
khác. Bà tôi chẳng giữ gì cho mình cả, vậy mà khi đi vào giấc ngủ vĩnh
viễn, gương mặt bà tôi thanh thản làm sao? Giây phút cuối cùng, bà nhớ
gì, nghĩ gì về tôi? Bởi trong các đứa cháu, tôi là đứa cháu đã làm bà
phải lo lắng nhất...
Từ nơi chôn cất bà tôi về, tôi đi dọc theo dãy phố
nhỏ của thị trấn, dãy phố thưở bé tôi thường đi. Gió thổi rào rào. Trời
cuối thu đã bắt đầu trở lạnh. Mẹ tôi đi cạnh tôi. Mẹ nói:
- Tuần trước cái Lán vừa ở đây. Hay tin bà mày ốm,
nó về thăm mấy ngày, mang theo nào cam, trứng, mật ong bảo rằng của thầy
u nó gửi cho bà. Suốt mấy ngày, nó ở liền cạnh bà, nâng giấc, chăm sóc
bà từ hớp nước, thìa cháo...
Rồi nó phải về Hạ Hòa để vào năm học, nó dạy ở
trường của xã. Lúc sắp ra tàu, nó ngồi cạnh bà hồi lâu, nó khóc. Bà nắm
tay nó, dặn nó nói với thầy u rằng bà gửi lời chào. Và cám ơn những gì
hai bác Lán đã làm cho bố mày xưa kia...
Ngồi trên bậc thềm ở chái nhà, tôi nhìn ra những
ngọn đèn nhấp nhánh ngoài sông. Bóng những con thuyền lô nhô dưới bến...
Chuyến phà tối vừa cặp bờ bên kia. Chắc Lán cũng đã sang sông trên
chuyến phà ấy để lên tàu về Hạ Hòa? Tôi mường tượng thấy Lán ngồi im
lặng bên cạnh bà tôi, nước mắt chảy ròng trên má...
Lán đã tìm về đây, đã ở liền mấy ngày bên bà tôi, Lán có còn nhớ gì đến tôi không?
Tối hôm sau, tôi rời thị trấn. Tổ xà lan của chúng
tôi tiếp tục đi ngược sông Thao. Tới trưa chúng tôi ghé lại một trạm đỗ ở
phía trên ga Ấm Thượng để giao phân đạm cho kho của phòng nông nghiệp
huyện. Từ đây tới xã Lán ở chỉ chừng bảy, tám cây. Khoảng nửa đêm, xà lan
của chúng tôi mới rời bến, trong khi đợi người ta bốc dỡ hàng xuống,
tôi có cả buổi chiều rảnh rỗi. Chẳng kịp đắn đo, nghĩ ngợi gì, tôi mượn
anh thủ kho cái xe đạp đạp về xã Lán.
Gần tới nơi, cảnh vật càng quen thuộc, tôi càng
thấy nôn nao, hồi hộp. Tới con đường rẽ dẫn về nhà Lán, tôi dừng lại.
Tôi thấy trên sườn đồi tấm bảng kẻ tên ngôi trường cấp hai của xã. Có lẽ
Lán dạy ở đây. Sắp tới giờ tan học. Đã thấy học trò ùa ra cửa một, hai
lớp học.
Tôi vào một quán nước bên cạnh đường. Bà bán hàng
nhanh nhảu kéo ghế và rót nước cho tôi. Tiếng trống tan buổi đã thong
thả vang lên. Tiếng trẻ cười nói, reo hò. Từng đám trẻ nhỏ tíu tít chạy
trên con đường dốc từ trường xuống chân đồi. Có hai, ba cô giáo đi
xuống, nhưng không phải Lán. Ngực tôi đập thình thịch: có Lán không? Tôi
không dám bước ra khỏi quán, chỉ ngồi mà ngóng ra... Kia rồi, không
phải tôi trông lầm, đúng là Lán rồi! Lán đi giữa đám học trò, một tay
xách chiếc túi vải, một tay ôm chồng vở dầy. Tôi không nhìn rõ mặt Lán,
nhưng hình như Lán không thay đổi gì, chỉ cứng cáp, chững chạc hơn trước
đôi chút... Thấy vẻ không bình thường của tôi, bà hàng cũng nhìn ra, bà
nhanh nhảu giới thiệu:
- Cô giáo hiệu phó đấy, cô Lán, cũng người xã này.
Chú không ở đây, chắc không biết: cô ấy được học trò lẫn người lớn cả xã
ai cũng quí - bà hàng hạ giọng thì thầm: tháng sau cưới đấy, lấy một
anh cũng cùng dạy học ở trường, anh ấy là bộ đội về, thương binh. Cả hai
đều đẹp nết, đẹp người... Mà kìa, chú xơi nước đi kẻo nguội... Chú mới ở
huyện về à?
Tôi vâng dạ cầm chén nước lên. Lán đi ngang qua ngã
ba ngay trước mặt tôi, cô cười vẫy lũ trẻ rồi rẽ vào con đường về phía
xóm. Tôi ngồi lặng một lát rồi chào bà hàng, bước ra đường. Lán đã đi
xa, tôi đứng nhìn theo hồi lâu, cho tới lúc màu xanh của áo Lán lẫn sau
màu xanh của trẻ nứa và bờ cọ...
Thôi, chúc Lán hạnh phúc... Tại sao tôi lại quyết
định ghé về đây, dù biết chắc rằng tôi sẽ không có can đảm gặp Lán?
Những gì đã qua đi, không thể trở lại được nữa. Từ lâu tôi đã hiểu điều
đó. Tôi không còn là gã con trai ngông nghênh mà yếu đuối, khờ dại ngày
trước. Tôi đã biết sống mạnh mẽ, vững chãi, tôi đã có được sự quí trọng
của bè bạn, đồng chí, đã tìm thấy ý nghĩa của đời sống, niềm vui trong
công việc, nhưng tôi không thể lấy lại được, - dù chỉ một khoảng khắc -
quãng thời gian đã mất đi, tôi đã không tìm lại được Lán...
Nhưng mai đây, thế nào cũng có lúc tôi sẽ đến gặp
Lán, không phải bây giờ mà có thể là nhiều năm nữa, khi tôi có đủ nghị
lực và bình tĩnh để kể với Lán rằng: Tôi đã để mất Lán một cách ngu ngốc
ra sao, tôi đã sống lầm lẫn và đã phải vượt lên như thế nào để trờ
thành một con người thực sự. Lúc ấy, có thể Lán sẽ tha thứ cho tôi, và
nếu không tha thứ cho tôi đi nữa, Lán cũng sẽ không phải hổ thẹn vì đã
từng có lúc yêu tôi và tin cậy ở tôi.
Tôi nhìn lại những đồi cọ, đồi trẩu thân thuộc: vẫn
mùi nhựa trám, mùi khói đốt cỏ tranh, những bụi chè búp non xanh
mướt... Và những bông hoa xuyến chi. Bây giờ đang cuối thu, hoa xuyến
chi nở trắng trên sườn đồi và lũng núi. Những bông hoa khác, hay là vẫn
nhưng bông hoa của mùa thu ấy? Hoa xuyến chi, tình yêu đã mất của tôi,
tia nắng dịu dàng lấp lánh từng chờ đợi tôi ở nơi xa, từ biệt em...
Trên đường trở về, trời đã tối sẫm. Rừng cọ xào xạc
hai bên đường. Sông Thao ào ào phía trước mặt. Các bạn tôi đang chờ
tôi. Vầng trăng lưỡi liềm sáng bạc đã hiện lên trên núi Buộm.
Lưu Quang Vũ
Năm ấy, bà ngoại của cái Giang đã rất già. Lưng bà đã còng,
như không thể còng hơn được nữa. Tóc bà đã bạc, như không thể bạc hơn
được nữa. Ấy vậy mà bà vẫn suốt ngày lom khom, lụi cụi, làm đủ việc từ
sớm đến trưa. Bà quét nhà sạch đến không còn một cọng rác. Có cảm tưởng
như lúc nào bà cũng chăm chăm cây chổi trong tay, để hở ra là bà lại
quét. Rồi bà thái rau, nấu cám, cho lợn ăn. Bà lại còn un un, xới xới
ngoài vườn nữa chứ! Cái Giang có nói, thì bà bảo, bà tuy đã già thật,
nhưng bà còn ăn được, mà ăn được, thì bà còn làm việc được. Với lại, cái
tính hay lam hay làm của bà nó quen từ tấm bé rồi. Bây giờ ăn không
ngồi rồi là bà không chịu được. Cái Giang thương bà lắm! Có những lúc
nhìn bà làm việc, thấy bước đi của bà đã trật trầy, run rẩy, là nước mắt
nó lại ứa ra. Nó ước giá bố mẹ nó còn sống để làm mọi việc đỡ đần cho
bà. Bà vất vả quá! Bao nhiêu năm rồi, bà đã vất vả như vậy để nuôi nó.
Cả tuổi thơ của nó đã lớn lên cạnh bà. Chả lúc nào nó muốn phải xa bà,
dù chỉ một giây, một phút. Có khi đang ngồi học trong lớp, nó cũng nghĩ
đến bà. Rồi tự nhiên nó thấy nhớ và thương bà nó đến cồn cào. Nó lại
mong sao cho buổi học sớm kết thúc, để trở về với bà. Nó thích nhất là
mỗi buổi tối đến, khi học bài xong, được cùng bà đi ngủ. Những lúc ấy,
nó thường ôm lấy bà, rúc rúc cái đầu vào ngực bà. Để rồi nghe bà kể
chuyện và thiếp đi lúc nào không hay.
Quê Giang là vùng trung du. Nó thường nói về quê hương nó như vậy. Còn thằng Thành, bạn cùng lớp với nó, không biết học ở đâu, lại cứ quen gọi quê nó là vùng bán sơn địa. Cái Giang hỏi, thì thằng Thành giải thích ra vẻ ta đây…ông cụ non: “Cậu không thấy quê mình một nửa là đồng bằng, một nửa là đồi núi à? Bán sơn địa nghĩa là ở đó có một nửa là núi. Sơn là núi, bán là một nửa. Đúng như thế còn gì. Gọi là trung du nó chung chung quá! Không ai còn biết ở đó đất đai, địa thế, thổ nhưỡng ra sao”. Nó với thằng Thành là đôi bạn chơi thân với nhau từ lúc cả hai còn bé xíu. Và từ ấy đến nay, ngày nào hai đứa cũng đi học với nhau. Rồi đi đâu cũng đi với nhau. Chúng là một đôi như hình với bóng vậy. Những buổi chiều chủ nhật, hai đứa cứ lang thang đi hái hoa về chơi. Chúng rủ nhau lên tận những mỏm đồi phía sau nhà. Ở đây có rất nhiều các loài hoa mọc hoang. Những loài hoa mọc hoang ấy, nhiều loài có tên và cũng nhiều loài không có tên. Còn màu sắc thì trắng, đỏ, tím, vàng, đủ cả. Nhưng nhiều nhất là hoa cúc dại. Ngay từ khi còn bé tý, mới chỉ sáu, bảy tuổi đầu, cả cái Giang và thằng Thành đã say mê loài hoa này. Và bây giờ cả hai đứa vẫn còn say mê chúng. Thằng Thành lớn lên, thêm một lần nữa được thể hiện sự hiểu biết của mình trước cô bạn thân. Nó hỏi cái Giang có biết hoa cúc dại còn có tên gọi là gì nữa không? Cái Giang chưa kịp trả lời, nó đã giải thích: “Hoa cúc dại còn có một cái tên rất đẹp, rất hay nữa, là hoa xuyến chi. Tại người ta thấy nó có hình dáng bên ngoài trông giống như bông hoa cúc, nhưng mọc hoang, nên gọi là hoa cúc dại. Có cả một câu chuyện về loài hoa này…”. Thằng Thành nói thế, nhưng câu chuyện cụ thể thế nào thì nó không kể.
Cái Giang để ý và thấy hoa xuyến chi không chỉ mọc trên đồi. Mà ở bất cứ xó xỉn nào, ven chân đê, trên bờ ruộng, hai bên đường làng…đâu đâu cũng có hoa xuyến chi. Bốn mùa xuân hạ thu đông, gần như lúc nào cũng có hoa xuyến chi. Chúng lại quen sống cằn cỗi, nên dù bất cứ loại đất gì, cây cũng sống được. Từ vùng đồi núi sỏi đá, đến vùng cát trắng trinh nguyên, cây vẫn lớn lên, xanh tươi, ra hoa kết nụ. Chúng còn có thể sống hiên ngang giữa mùa hè đổ lửa, hay giữa mùa đông băng giá. Thân cây tuy nhỏ bé, nhưng chưa bao giờ chúng vắng bóng giữa thiên nhiên, đất trời. Thiên tai bão lũ, hạn hán không làm gì nổi chúng. Một cây chết đi thì lại có cả lớp lớp cây khác mọc lên thay thế. Chúng sống thành vạt, thành nhóm, cây mẹ che chở cây con. Chúng dựa vào nhau, nâng đỡ cho nhau. Âm thầm. Lặng lẽ. Như bất cứ loài cây quen sống hoang dã nào. Xuyến chi tháng ngày cần mẫn, chắt chiu nguồn dinh dưỡng từ đất, để nuôi sống cây và để cây cho hoa bốn mùa. Và, cũng âm thầm, lặng lẽ như cây. Bông hoa xuyến chi cũng âm thầm, lặng lẽ. Âm thầm, lặng lẽ như chẳng hề có ai đoái hoài, đếm xỉa đến. Với một màu trắng thanh khiết, không hương sắc mặn mà, hoa khép mình bên những lối đi. Mỗi mùa xuyến chi nở hoa là hằng hà sa số những bông hoa xòe nở. Ở đâu có cây xuyến chi là ở đó phủ tràn một màu trắng của hoa. Màu trắng của những cánh hoa nở tròn như đồng xu xoay quanh nhụy hoa vàng thắm. Có cảm tưởng như mỗi bông hoa là một nụ cười của thiên nhiên, đất trời ban tặng. Bất kể mọc ở đâu. Bất kể thời tiết nào. Dù gió mưa hay giông bão, hoa cũng gắng gượng chút sức lực nhỏ bé của mình, để vươn lên một cách mạnh mẽ, phi thường. Hoa xuyến chi tuy bé bỏng thế thôi, nhưng không phải lúc nào cũng dễ tàn lụi. Hết lớp này đến lớp khác. Hết ngày này qua ngày khác. Có khi kéo dài hàng tháng trời, hoa cứ thản nhiên nở xòe năm cánh. Màu trắng cứ trải dài mênh mông, tít tắp, tựa như dải lụa thiên thanh, đẹp đến nao lòng. Chúng hồn nhiên khoe mình trong nắng, trong mưa. Cả trong giá buốt mùa đông, hoa xuyến chi vẫn cứ nở bung, tràn trề sức sống. Để rồi mỗi buổi sáng mai lên, trên mỗi bông hoa lại long lanh những giọt sương. Và mỗi buổi chiều về, hoa lại rung rinh trong gió, thoang thoảng mùi hương rất nhẹ, rất êm. Hoa đơn độc, lẻ loi, mặc cho người đời vô tình đi qua. Hoa giản dị, khiêm nhường, mặc cho biết bao loài hoa đài các, kiêu sa, bốn mùa khoe sắc.
Cái Giang yêu hoa xuyến chi hơn bất cứ loài hoa nào. Nó tự hỏi, không biết ngoài nó và thằng Thành ra, có ai như thế nữa không? Và, nó cũng không sao cắt nghĩa được, vì sao nó lại yêu hoa xuyến chi đến vậy? Năm nó lên bảy, thằng Thành lên tám, hai đứa ngày nào cũng chơi…đồ đoàn. Chơi “đồ đoàn” là cách gọi rất riêng của trẻ con quê nó. Chơi…đồ đoàn, nghĩa là phải có ít nhất hai đứa trở lên. Còn trò chơi thì tùy thích. Muốn chơi trò gì cũng được. Chơi nấu ăn. Chơi làm nhà. Chơi đi chợ…Ví như chơi trò nấu ăn, thì có thể lấy vỏ ngao, vỏ hến, mảnh bát vỡ…để làm song nồi, bát đĩa. Lấy cát sỏi làm gạo. Lấy các loại lá làm rau. Rồi cũng làm bếp, giả vờ nấu nướng thức ăn. Rồi cũng nếm, cũng nêm, cũng bày ra mâm, ra dĩa, để mời nhau…ăn! Còn chơi trò làm nhà, thì bao giờ nhà cũng phải trang trí thật đẹp. Trong đó có một thứ không thể thiếu là hoa. Hoa ở đây không phải là hoa hồng, hoa cúc, hoa mai…mà là hoa xuyến chi. Chỉ cần đi một lúc là tha hồ hoa mang về. Những bông hoa xuyến chi trắng muôn muốt, được chúng trang trí rất lộng lẫy cho…ngôi nhà. Đấy! Trò chơi đôi khi chỉ đơn giản thế thôi, mà cuốn hút nó với thằng Thành, ngày này qua ngày khác, trong suốt cả mấy tháng hè.
Chơi “đồ đoàn” chán, cái Giang với thằng Thành bèn rủ bọn bạn thân chơi trò…đám cưới. Nó đóng vai cô dâu. Còn thằng Thành đóng vai chú rể. Rồi cũng…bày cỗ bằng khoai lang sống, chuối xanh, khế chua, ngô nướng…Có khi còn có cả bánh kẹo mua về nữa. Rồi có có cả cau non, rụng ngoài vườn, nhặt vào bửa ra thành miếng. Lá hồ tiêu têm lại làm trầu. Bọn bạn thì vừa là khách vừa là chủ. Vừa là nhà trai, vừa là nhà gái. Rồi cũng múa, cũng hát. Cũng rộn ràng, ỏm tỏi. Rồi cũng kính thưa hai họ, cũng chúc mừng, tặng quà cô dâu chú rể. Nhưng ấn tượng nhất vẫn là cái Giang với thằng Thành. Hai đứa nó cũng xoa tý phấn trên má, cũng bôi tý son trên môi. Cũng khăn đóng áo dài. Cũng cô dâu thắt nơ, chú rể cà vạt. Và đặc biệt, trên đầu hai đứa cùng đội vòng hoa rất đẹp, được kết bằng hoa xuyến chi. Chúng đã bỏ ra cả ngày trước đó để vừa hái hoa, vừa kết hoa sao cho đẹp, cho vừa. Lúc cô dâu, chú rể nắm tay nhau bước lên…hôn trường, cả bọn lại vỗ tay, cười nói, hét hò in ỏi. Cái Giang hai má đỏ hồng, cũng làm bộ…thẹn thùng, sung sướng. Rồi cũng cười toe toét, để lộ ra cái…răng sún chưa kịp mọc lại…
Quê Giang là vùng trung du. Nó thường nói về quê hương nó như vậy. Còn thằng Thành, bạn cùng lớp với nó, không biết học ở đâu, lại cứ quen gọi quê nó là vùng bán sơn địa. Cái Giang hỏi, thì thằng Thành giải thích ra vẻ ta đây…ông cụ non: “Cậu không thấy quê mình một nửa là đồng bằng, một nửa là đồi núi à? Bán sơn địa nghĩa là ở đó có một nửa là núi. Sơn là núi, bán là một nửa. Đúng như thế còn gì. Gọi là trung du nó chung chung quá! Không ai còn biết ở đó đất đai, địa thế, thổ nhưỡng ra sao”. Nó với thằng Thành là đôi bạn chơi thân với nhau từ lúc cả hai còn bé xíu. Và từ ấy đến nay, ngày nào hai đứa cũng đi học với nhau. Rồi đi đâu cũng đi với nhau. Chúng là một đôi như hình với bóng vậy. Những buổi chiều chủ nhật, hai đứa cứ lang thang đi hái hoa về chơi. Chúng rủ nhau lên tận những mỏm đồi phía sau nhà. Ở đây có rất nhiều các loài hoa mọc hoang. Những loài hoa mọc hoang ấy, nhiều loài có tên và cũng nhiều loài không có tên. Còn màu sắc thì trắng, đỏ, tím, vàng, đủ cả. Nhưng nhiều nhất là hoa cúc dại. Ngay từ khi còn bé tý, mới chỉ sáu, bảy tuổi đầu, cả cái Giang và thằng Thành đã say mê loài hoa này. Và bây giờ cả hai đứa vẫn còn say mê chúng. Thằng Thành lớn lên, thêm một lần nữa được thể hiện sự hiểu biết của mình trước cô bạn thân. Nó hỏi cái Giang có biết hoa cúc dại còn có tên gọi là gì nữa không? Cái Giang chưa kịp trả lời, nó đã giải thích: “Hoa cúc dại còn có một cái tên rất đẹp, rất hay nữa, là hoa xuyến chi. Tại người ta thấy nó có hình dáng bên ngoài trông giống như bông hoa cúc, nhưng mọc hoang, nên gọi là hoa cúc dại. Có cả một câu chuyện về loài hoa này…”. Thằng Thành nói thế, nhưng câu chuyện cụ thể thế nào thì nó không kể.
Cái Giang để ý và thấy hoa xuyến chi không chỉ mọc trên đồi. Mà ở bất cứ xó xỉn nào, ven chân đê, trên bờ ruộng, hai bên đường làng…đâu đâu cũng có hoa xuyến chi. Bốn mùa xuân hạ thu đông, gần như lúc nào cũng có hoa xuyến chi. Chúng lại quen sống cằn cỗi, nên dù bất cứ loại đất gì, cây cũng sống được. Từ vùng đồi núi sỏi đá, đến vùng cát trắng trinh nguyên, cây vẫn lớn lên, xanh tươi, ra hoa kết nụ. Chúng còn có thể sống hiên ngang giữa mùa hè đổ lửa, hay giữa mùa đông băng giá. Thân cây tuy nhỏ bé, nhưng chưa bao giờ chúng vắng bóng giữa thiên nhiên, đất trời. Thiên tai bão lũ, hạn hán không làm gì nổi chúng. Một cây chết đi thì lại có cả lớp lớp cây khác mọc lên thay thế. Chúng sống thành vạt, thành nhóm, cây mẹ che chở cây con. Chúng dựa vào nhau, nâng đỡ cho nhau. Âm thầm. Lặng lẽ. Như bất cứ loài cây quen sống hoang dã nào. Xuyến chi tháng ngày cần mẫn, chắt chiu nguồn dinh dưỡng từ đất, để nuôi sống cây và để cây cho hoa bốn mùa. Và, cũng âm thầm, lặng lẽ như cây. Bông hoa xuyến chi cũng âm thầm, lặng lẽ. Âm thầm, lặng lẽ như chẳng hề có ai đoái hoài, đếm xỉa đến. Với một màu trắng thanh khiết, không hương sắc mặn mà, hoa khép mình bên những lối đi. Mỗi mùa xuyến chi nở hoa là hằng hà sa số những bông hoa xòe nở. Ở đâu có cây xuyến chi là ở đó phủ tràn một màu trắng của hoa. Màu trắng của những cánh hoa nở tròn như đồng xu xoay quanh nhụy hoa vàng thắm. Có cảm tưởng như mỗi bông hoa là một nụ cười của thiên nhiên, đất trời ban tặng. Bất kể mọc ở đâu. Bất kể thời tiết nào. Dù gió mưa hay giông bão, hoa cũng gắng gượng chút sức lực nhỏ bé của mình, để vươn lên một cách mạnh mẽ, phi thường. Hoa xuyến chi tuy bé bỏng thế thôi, nhưng không phải lúc nào cũng dễ tàn lụi. Hết lớp này đến lớp khác. Hết ngày này qua ngày khác. Có khi kéo dài hàng tháng trời, hoa cứ thản nhiên nở xòe năm cánh. Màu trắng cứ trải dài mênh mông, tít tắp, tựa như dải lụa thiên thanh, đẹp đến nao lòng. Chúng hồn nhiên khoe mình trong nắng, trong mưa. Cả trong giá buốt mùa đông, hoa xuyến chi vẫn cứ nở bung, tràn trề sức sống. Để rồi mỗi buổi sáng mai lên, trên mỗi bông hoa lại long lanh những giọt sương. Và mỗi buổi chiều về, hoa lại rung rinh trong gió, thoang thoảng mùi hương rất nhẹ, rất êm. Hoa đơn độc, lẻ loi, mặc cho người đời vô tình đi qua. Hoa giản dị, khiêm nhường, mặc cho biết bao loài hoa đài các, kiêu sa, bốn mùa khoe sắc.
Cái Giang yêu hoa xuyến chi hơn bất cứ loài hoa nào. Nó tự hỏi, không biết ngoài nó và thằng Thành ra, có ai như thế nữa không? Và, nó cũng không sao cắt nghĩa được, vì sao nó lại yêu hoa xuyến chi đến vậy? Năm nó lên bảy, thằng Thành lên tám, hai đứa ngày nào cũng chơi…đồ đoàn. Chơi “đồ đoàn” là cách gọi rất riêng của trẻ con quê nó. Chơi…đồ đoàn, nghĩa là phải có ít nhất hai đứa trở lên. Còn trò chơi thì tùy thích. Muốn chơi trò gì cũng được. Chơi nấu ăn. Chơi làm nhà. Chơi đi chợ…Ví như chơi trò nấu ăn, thì có thể lấy vỏ ngao, vỏ hến, mảnh bát vỡ…để làm song nồi, bát đĩa. Lấy cát sỏi làm gạo. Lấy các loại lá làm rau. Rồi cũng làm bếp, giả vờ nấu nướng thức ăn. Rồi cũng nếm, cũng nêm, cũng bày ra mâm, ra dĩa, để mời nhau…ăn! Còn chơi trò làm nhà, thì bao giờ nhà cũng phải trang trí thật đẹp. Trong đó có một thứ không thể thiếu là hoa. Hoa ở đây không phải là hoa hồng, hoa cúc, hoa mai…mà là hoa xuyến chi. Chỉ cần đi một lúc là tha hồ hoa mang về. Những bông hoa xuyến chi trắng muôn muốt, được chúng trang trí rất lộng lẫy cho…ngôi nhà. Đấy! Trò chơi đôi khi chỉ đơn giản thế thôi, mà cuốn hút nó với thằng Thành, ngày này qua ngày khác, trong suốt cả mấy tháng hè.
Chơi “đồ đoàn” chán, cái Giang với thằng Thành bèn rủ bọn bạn thân chơi trò…đám cưới. Nó đóng vai cô dâu. Còn thằng Thành đóng vai chú rể. Rồi cũng…bày cỗ bằng khoai lang sống, chuối xanh, khế chua, ngô nướng…Có khi còn có cả bánh kẹo mua về nữa. Rồi có có cả cau non, rụng ngoài vườn, nhặt vào bửa ra thành miếng. Lá hồ tiêu têm lại làm trầu. Bọn bạn thì vừa là khách vừa là chủ. Vừa là nhà trai, vừa là nhà gái. Rồi cũng múa, cũng hát. Cũng rộn ràng, ỏm tỏi. Rồi cũng kính thưa hai họ, cũng chúc mừng, tặng quà cô dâu chú rể. Nhưng ấn tượng nhất vẫn là cái Giang với thằng Thành. Hai đứa nó cũng xoa tý phấn trên má, cũng bôi tý son trên môi. Cũng khăn đóng áo dài. Cũng cô dâu thắt nơ, chú rể cà vạt. Và đặc biệt, trên đầu hai đứa cùng đội vòng hoa rất đẹp, được kết bằng hoa xuyến chi. Chúng đã bỏ ra cả ngày trước đó để vừa hái hoa, vừa kết hoa sao cho đẹp, cho vừa. Lúc cô dâu, chú rể nắm tay nhau bước lên…hôn trường, cả bọn lại vỗ tay, cười nói, hét hò in ỏi. Cái Giang hai má đỏ hồng, cũng làm bộ…thẹn thùng, sung sướng. Rồi cũng cười toe toét, để lộ ra cái…răng sún chưa kịp mọc lại…
Trong
một đêm nằm ngủ cạnh bà ngoại, cái Giang đã hỏi bà câu chuyện cổ tích
về loài hoa xuyến chi. Bà kể, chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi. Hồi ấy, có
một gia đình rất nghèo, chỉ có hai mẹ con. Họ làm mấy cũng không đủ ăn.
Áo quần cũng không có mà mặc. Căn nhà tranh thì dột nát, mưa rơi, gió
tạt tứ bề. Rồi một hôm người mẹ bỗng lăn ra ốm. Đã uống đủ các loại
thuốc, mà bao nhiêu ngày trôi qua, người mẹ vẫn không sao khỏi bệnh.
Thương mẹ, cô gái, tuổi tuy còn nhỏ, vẫn ngày ngày ra đồng mò cua bắt
óc, đem về nấu cháo cho mẹ. Rồi một buổi trưa, khi ông mặt trời đã đứng
bóng, cô gái vẫn không bắt được con nào. Tủi thân quá, cô lặng lẽ ngồi
khóc. Bất chợt, có một ông cụ râu tóc bạc phơ đi qua, thấy vậy thì dừng
lại hỏi sự tình đầu đuôi câu chuyện. Nghe cô gái kể lại tình cảnh của
mình, ông cụ nói với cô, con hãy đi về ngọn núi đằng kia, rồi leo lên,
hái lấy một bông hoa màu trắng bé nhỏ mọc hoang trên đó. Bông hoa ấy sẽ
mang lại cho con một điều ước. Nghe lời ông cụ, cô gái đi ngay về phía
ngọn núi và hái được bông hoa đó. Cô nắm thật chặt bông hoa trong tay,
rồi không do dự, ước luôn cho mẹ cô lành bệnh. Nói xong, cô gái mở bàn
tay ra, thì không còn thấy bông hoa đâu nữa. Mà thay vào đó là một chiếc
cầu vồng bảy sắc đang lớn dần lên. Còn mảnh đất nơi cô đang đứng thì
bỗng nhiên mọc ra một loài cây thâm thấp, có những bông hoa nho nhỏ màu
trắng. Cô gái tất tưởi chạy nhanh về nhà thì thấy mẹ cô đã lành bệnh. Về
sau, nghe kể lại chuyện này, người đời đã gọi loài hoa ấy là xuyến chi
cho đến bây giờ.
Cái Giang nghe bà kể xong thì hỏi:
- Bà ơi, sao người đời lại đặt tên cho loài hoa ấy là xuyến chi hở bà?
Bà nó trả lời:
- Có lẽ do loài hoa ấy có hình dáng nhỏ bé, thanh mảnh, lại vừa trắng trong, vừa xinh đẹp, như cây trâm cài tóc của các cô gái ngày xưa, nên đặt tên là xuyến chi.
Bà nó còn nói thêm, mỗi loài hoa, tùy vào màu sắc, hương thơm, mà được người xưa đặt cho chúng một cái tên. Ví như dạ hương là loài hoa dịu dàng, chỉ nở vào ban đêm, thơm vào ban đêm; hoa mộc miên là loài hoa quý phái, thanh cao, như danh tiết của người con gái; còn hoa lan thì đài các, kiêu sa như cô con gái nhà giàu…Cái Giang nghe vậy thì nhổm dậy, nói với bà:
- Nhưng bà ơi, cháu vẫn thấy cái tên xuyến chi nghe hay hơn cả. Cái tên ấy gợi trong lòng cháu một sự xuyến xao và một nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi bà ạ! - Rồi, sực nhớ tới câu chuyện bà vừa kể, nó nói - bà ơi, nếu sau này bà chẳng may bị ốm như người mẹ cô gái kia, cháu cũng sẽ đi mò cua bắt óc về nấu cháo cho bà ăn. Rồi cháu cũng sẽ leo lên ngọn núi ấy, hái cho bằng được bông hoa màu trắng ấy, để ước cho bà lành bệnh, bà nhé!
Cái Giang, thằng Thành đã lớn lên như vậy bên nhau, cho đến năm cả hai đứa cùng bước vào cấp ba. Vẫn ngày hai buổi đi học cùng nhau. Vẫn những buổi chiều tha thẩn quanh quả đồi sau làng đuổi bướm hái hoa. Vẫn say mê với những bông hoa xuyến chi hoang dã. Nhưng những trò chơi của cái thời thơ dại thì không còn nữa. Thay vào đó là những trang nhật ký, những bài thơ, bài văn tập làm, những buổi thong dong đạp xe đi dạo. Và trên hết vẫn là việc học hành. Cả hai đứa đều học giỏi. Năm nào cũng được xếp nhất nhì lớp. Trong mỗi trang vở của hai đứa, bao giờ cũng đỏ chói những điểm chín, điểm mười và những bông hoa xuyến chi được ép trang trọng ở giữa. Không biết từ bao giờ, cái Giang, thằng Thành tự nhiên thay đổi cách xưng hô. Chúng không cậu cậu, tớ tớ nữa. Mà thay vào đó là anh anh, em em ngọt xớt. Cái Giang đã biết đỏ mặt ngượng ngùng khi thằng Thành nắm tay. Đã biết ngúng nguẩy dỗi hờn khi thằng Thành lỡ hẹn. Và đã biết nhớ, biết thương, biết ngóng trông, chờ đợi khi thằng Thành theo cha về thăm quê nội. Có những lúc nó cảm thấy trong lòng nó trở nên trống vắng, buồn hiu hắt, khi không có thằng Thành bên cạnh. Những lúc ấy, nó lại tha thẩn một mình ven những con đường làng, để làm bạn với những bông hoa xuyến chi. Nó đọc đến thuộc lòng bài thơ thằng Thành chép vào sổ tay tặng nó. Bài thơ về một thời tuổi thơ ngập tràn hương đồng gió nội. Kỷ niệm cứ rưng rưng gọi về một thuở. Với những trò chơi con trẻ ngộ nghĩnh, mà sâu thẳm tận đáy lòng.
Cái Giang nghe bà kể xong thì hỏi:
- Bà ơi, sao người đời lại đặt tên cho loài hoa ấy là xuyến chi hở bà?
Bà nó trả lời:
- Có lẽ do loài hoa ấy có hình dáng nhỏ bé, thanh mảnh, lại vừa trắng trong, vừa xinh đẹp, như cây trâm cài tóc của các cô gái ngày xưa, nên đặt tên là xuyến chi.
Bà nó còn nói thêm, mỗi loài hoa, tùy vào màu sắc, hương thơm, mà được người xưa đặt cho chúng một cái tên. Ví như dạ hương là loài hoa dịu dàng, chỉ nở vào ban đêm, thơm vào ban đêm; hoa mộc miên là loài hoa quý phái, thanh cao, như danh tiết của người con gái; còn hoa lan thì đài các, kiêu sa như cô con gái nhà giàu…Cái Giang nghe vậy thì nhổm dậy, nói với bà:
- Nhưng bà ơi, cháu vẫn thấy cái tên xuyến chi nghe hay hơn cả. Cái tên ấy gợi trong lòng cháu một sự xuyến xao và một nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi bà ạ! - Rồi, sực nhớ tới câu chuyện bà vừa kể, nó nói - bà ơi, nếu sau này bà chẳng may bị ốm như người mẹ cô gái kia, cháu cũng sẽ đi mò cua bắt óc về nấu cháo cho bà ăn. Rồi cháu cũng sẽ leo lên ngọn núi ấy, hái cho bằng được bông hoa màu trắng ấy, để ước cho bà lành bệnh, bà nhé!
Cái Giang, thằng Thành đã lớn lên như vậy bên nhau, cho đến năm cả hai đứa cùng bước vào cấp ba. Vẫn ngày hai buổi đi học cùng nhau. Vẫn những buổi chiều tha thẩn quanh quả đồi sau làng đuổi bướm hái hoa. Vẫn say mê với những bông hoa xuyến chi hoang dã. Nhưng những trò chơi của cái thời thơ dại thì không còn nữa. Thay vào đó là những trang nhật ký, những bài thơ, bài văn tập làm, những buổi thong dong đạp xe đi dạo. Và trên hết vẫn là việc học hành. Cả hai đứa đều học giỏi. Năm nào cũng được xếp nhất nhì lớp. Trong mỗi trang vở của hai đứa, bao giờ cũng đỏ chói những điểm chín, điểm mười và những bông hoa xuyến chi được ép trang trọng ở giữa. Không biết từ bao giờ, cái Giang, thằng Thành tự nhiên thay đổi cách xưng hô. Chúng không cậu cậu, tớ tớ nữa. Mà thay vào đó là anh anh, em em ngọt xớt. Cái Giang đã biết đỏ mặt ngượng ngùng khi thằng Thành nắm tay. Đã biết ngúng nguẩy dỗi hờn khi thằng Thành lỡ hẹn. Và đã biết nhớ, biết thương, biết ngóng trông, chờ đợi khi thằng Thành theo cha về thăm quê nội. Có những lúc nó cảm thấy trong lòng nó trở nên trống vắng, buồn hiu hắt, khi không có thằng Thành bên cạnh. Những lúc ấy, nó lại tha thẩn một mình ven những con đường làng, để làm bạn với những bông hoa xuyến chi. Nó đọc đến thuộc lòng bài thơ thằng Thành chép vào sổ tay tặng nó. Bài thơ về một thời tuổi thơ ngập tràn hương đồng gió nội. Kỷ niệm cứ rưng rưng gọi về một thuở. Với những trò chơi con trẻ ngộ nghĩnh, mà sâu thẳm tận đáy lòng.
Em thách cưới một vòng hoa xuyến chi
Để tôi suốt trưa mải mê khắp triền đồi lộng gió
Bới tung từng bụi cỏ
Khấp khởi vui mừng khi tìm được một nụ hoa
Để tôi suốt trưa mải mê khắp triền đồi lộng gió
Bới tung từng bụi cỏ
Khấp khởi vui mừng khi tìm được một nụ hoa
Cô dâu con con lộng lẫy kiêu sa
Cưỡi ngựa mo cau tôi đưa em về xóm nhỏ
Nơi đó nhà tôi lồng đèn dâm bụt treo trước ngõ
Cô dâu thẹn thùng cười – má đỏ bồ quân…(*)
Năm học xong cấp ba thì thằng Thành có giấy báo lên đường nhập
ngũ. Trước hôm thằng Thành ra đi, hai đứa đã thức gần như trọn đêm bên
nhau. Cái Giang tặng thằng Thành chiếc khăn mù soa mà nó đã thêu lên đó
một nhành hoa xuyến chi, có đôi bướm hồng đang dập dờn lượn quanh. Chúng
nó ngồi bên nhau, giữa rất nhiều những cây xuyến chi đang vào mùa nở
hoa. Hoa bao bọc lấy hai đứa. Hoa dính trên tóc, trên vai, trên lưng,
trên mặt chúng. Hoa đưa chúng trở về với những kỷ niệm tuổi thơ ngọt
ngào. Lần đầu tiên, cả hai đứa biết thế nào là tình yêu. Chúng hôn nhau
say đắm. Hôn nhau cuống cuồng. Hôn nhau như chẳng bao giờ biết chán.
Trên đầu chúng là ròng ròng ánh trăng tuôn chảy. Ánh trăng chan hòa,
ngọt lịm. Ánh trăng như mưa tuôn xối xả, phủ trùm lên hai đứa. Và dưới
mặt đất là những bông hoa xuyến chi trong trắng, thủy chung, cũng thấm
đẫm ánh trăng, cũng rung rinh, xao xuyến như lòng người khi chia tay...
Xuyến chi hướng về phía nắng ấm như người luôn hướng về nơi hạnh
phúc, xuyến chi không chọn mùa, chị thong dong đợi một cái kết cho mảnh
do dự còn lại. Thời gian lặng lẽ, sự đời bất thường. Người ta cần bao
lâu cho một cái gật đầu, tôi cứ hỏi xuyến chi không vãn hồi.
Chị cũng giống tôi cũng yêu xuyến chi. Thuở chị mới về quê sống, người cũ hối hả cả buổi chiều ngắt bó xuyến chi thật to tặng chị, những bông xuyến chi ngây dại trong tay như tuổi thơ bất chấp sóng gió của người lớn. Chị lấy xuyến chi làm thành vòng hoa, tay chị kết vòng hoa rất khéo, những cành xuyến chi quấn quýt níu lấy nhau tạo thành đường tròn trọn vẹn, giản đơn và đong đầy, chị cho người cũ, cho tôi, một màu trắng trong veo nơi đáy mắt, tuổi thơ ít nhất đã có được những ngày bình yên như thế, cũng từ đó chúng tôi yêu xuyến chi.Tôi thích ngồi trong đám xuyến chi đang độ nở, phóng tầm mắt xâm xấp tầm hoa nhìn biển trắng dợn sóng lạo xạo thêm sắc vàng lại lấp ló mấy chiếc lá xanh non, màu nào ra nấy không lẫn lộn cùng dập dờn cùng tồn tại. Chị hay dắt tôi ngồi trong đám xuyến chi như vậy, thi thoảng kết những vòng hoa xuyến chi hiu hiu trong gió, hoa trắng bé nhỏ man mác buồn, chắc có lẽ chị nhớ người cũ. Có lần tôi thấy anh đứng xa nhìn chị lẩn trong đám xuyến chi, xuyến chi lay lắt buồn kéo dài đến tận chân anh. Chị có thấy không? Tôi thơ thẩn nhìn màu trắng mơ hồ.
Chẳng hiểu sao người ta hay coi xuyến chi là loài hoa cô độc, tôi thấy xuyến chi thích mọc cùng nhau hơn, như thế người ta mới thấy hết cái đẹp của nó - loài hoa dại. Tôi hồi tưởng những ngày chị ngắt hoa cài lên tóc tôi, gọi tôi công chúa nhỏ, nụ cười chị tinh khôi như cánh hoa xuyến chi, người cũ cũng từng cài hoa lên tóc chị, khi ấy tôi thấy lạ nhưng chưa đủ lớn để nhận ra đôi chút ngại ngùng nên nghĩ chắc vì chị cũng là công chúa. Anh thì khác, anh gỡ những đài hoa tôi tinh nghịch làm dính lên tóc chị, khi ấy ngoài xuyến chi xào xạc mọi thứ tĩnh lặng quá, tôi lại ngây ngô không hiểu được gì chỉ thấy mắt chị sầu không nói. Màu trắng mộng mơ giăng phủ những kí ức.
Cũng có mấy bận xuyến chi làm người ta phận lòng, nếu ai vô tình bước qua hàng hoa xuyến chi thì những hạt giống sẽ bám đầy trên quần áo, phủi mãi không buông, cứ muốn níu kéo, muốn giữ gìn, lưu luyến...Xuyến chi không có mùi thơm gì đặt biệt ngoài mùi ngai ngái từa tựa với bao loại cỏ dại khác, cái mùi mà chỉ có người đi xa mới thương nhớ gọi về hương đồng cỏ nội, còn ong bướm đôi lúc lại hững hờ với nó. Một bên níu kéo, một bên thờ ơ, có khi vì lẽ đó mà xuyến chi trở nên cô đơn chăng! Anh đơn thuần, yêu chị cũng đơn thuần, không cần thêm định nghĩa rối rắm nào. Với anh chị là cánh bướm vô chừng, với người cũ có lẽ chẳng khác nào bông xuyến chi đã lụi tàn, có ai ngờ tình buồn lại là mối tình dai dẳng nhất.
Chị mông lung nên mọi người cứ đợi.
Bố chị đợi chị một cái gật đầu, xưa nay con gái trong nhà có khác gì như bom nổ chậm, người ta không hẳn sợ nó nổ, chỉ có sự chờ đợi vô hướng mới thật sự đay nghiến người ta đến lo âu, thế mà bom không nổ lại thành ra bất hạnh. Mẹ đợi chị một cái gật đầu, bất cứ ai cũng cần hạnh phúc cần một nơi để tựa vào cần ít nhất một người để thương yêu, là con gái càng cần những thứ ấy, duyên phận trên đời phải mấy kiếp mới gặp, sao chị hoài lơ đãng. Thử hỏi, hoa nở được mấy hồi, tuổi thanh xuân có đợi mãi được nhau...
Anh đợi chị một cái gật đầu, nói lâu...có lẽ, người ta khi yêu định nghĩa thứ gì cũng thật kì lạ, thời gian có tàn nhẫn thì cũng đủ mầu nhiệm chữa lành vết thương suy ra thời gian vô tình thời gian cũng hữu tình, yêu có kể đến thứ tự trước sau, không là tình đầu thôi đành mong làm một mối tình sâu, ít nhất là về phía anh. Anh không hứa dẫn chị đi đến một nơi xa xôi nào đó để ngắm xuyến chi như người cũ, nếu chị yêu nó anh cũng thế, tìm đâu cho xa mà rã lòng trông đợi, anh hứa dành hẳn cho chị một góc vườn, để hạt giống đó, nó tự sinh tự mọc, hoa vẫn rất hoang dại và tinh khôi. Người hững hờ thì xuyến chi vẫn nở, không chọn mùa, màu trắng không đổi rất chân thành.
Chị không chọn cô độc, chị có anh gần bên, cánh lòng do dự chưa chịu mở mới làm chị cô đơn, gật đầu cũng như rằng người ta chấp nhận, gật đầu thì có chắc là tâm ý đã như người xung quanh nghĩ... gật đầu là đối mặt mà cũng có thể là chạy trốn. Chị sợ gì? Sợ yêu? Sợ bị tổn thương hay sợ làm người khác tổn thương? Sợ không quên nổi người cũ? Vốn dĩ không cần quên chỉ cần thôi nghĩ đến, chị phân vân liệu mình có làm được, chỉ mỗi cái gật đầu đời người đã thành khúc sông mới.
Có trái tim đã trầy trụa, chị không muốn gật đầu quy hàng nỗi cô đơn càng không muốn vì mất phương hướng mà phó mặt cho đời nên cố tình không nhận ra lòng người, nào ngờ lại vô tình cả với chính bản thân. Xuyến chi hướng về phía nắng ấm như người luôn hướng về nơi hạnh phúc, xuyến chi không chọn mùa, chị thong dong đợi một cái kết cho mảnh do dự còn lại.
Thời gian lặng lẽ, sự đời bất thường
Người ta cần bao lâu cho một cái gật đầu, tôi cứ hỏi xuyến chi không vãn hồi.
Cuối cùng tôi cũng biết màu trắng còn là màu của tang thương. Ba năm rồi, người cũ thì đã cũ, chị thôi chờ, thôi đợi và cũng mất một cái gật đầu. Chẳng biết vô tình hay hữu ý xuyến chi vây quanh nơi anh trở lại làm cát bụi, tựa khóc tựa cười, gió thi thoảng lại ca điệu ai ôi, nền đất lạnh xuyến chi mau nảy nở, khi hoa dại lụi tàn chỉ còn hạt bám đầy áo quần như cũng muốn giữ gìn, lưu luyến...
Chị nuối tiếc nợ bản thân một cái gật đầu, chắc rằng trái tim đã khắc một mối tình sâu.
Nếu có mở lòng xin đừng quá muộn màng đừng làm cánh hoa tàn mới luyến tiếc chút nắng cuối còn vươn.
“Hoa vẫn hồng trước sân nhà tôi
Chim vẫn hót sau vườn nhà tôi
Một sớm mai kia
Chợt thấy hư vô trong đời
Người vẫn đâu đây, người cũng đã như xa rồi
Chỉ là... Thế thôi
Khi thấy buồn anh cứ đến chơi
Chim vẫn hót trong vườn đấy thôi
Chỉ có trong tôi ngày đã sang đêm lâu rồi
Bài hát cho anh giờ đã hát cho mọi người
Để rồi lãng quên.
***
Tôi
yêu xuyến chi, cánh trắng nhưng không trang nhã chừng mực như một số
loài cúc khác, hoa xuyến chi có cái trắng thuần khiết lại thêm chất
hoang dại của loài cỏ mọc hoang nên trông có vẻ tinh nghịch, những bông
hoa nhỏ nhắn tưởng chừng yếu đuối nhưng sức sống mãnh liệt vô cùng.
Người ta không ai trồng xuyến chi, nó tự sinh tự diệt, tự chống chọi với
đất đá khí trời cho nên cánh có mỏng manh thì cũng mạnh mẽ lắm, mạnh mẽ
đến nao lòng.Chị cũng giống tôi cũng yêu xuyến chi. Thuở chị mới về quê sống, người cũ hối hả cả buổi chiều ngắt bó xuyến chi thật to tặng chị, những bông xuyến chi ngây dại trong tay như tuổi thơ bất chấp sóng gió của người lớn. Chị lấy xuyến chi làm thành vòng hoa, tay chị kết vòng hoa rất khéo, những cành xuyến chi quấn quýt níu lấy nhau tạo thành đường tròn trọn vẹn, giản đơn và đong đầy, chị cho người cũ, cho tôi, một màu trắng trong veo nơi đáy mắt, tuổi thơ ít nhất đã có được những ngày bình yên như thế, cũng từ đó chúng tôi yêu xuyến chi.Tôi thích ngồi trong đám xuyến chi đang độ nở, phóng tầm mắt xâm xấp tầm hoa nhìn biển trắng dợn sóng lạo xạo thêm sắc vàng lại lấp ló mấy chiếc lá xanh non, màu nào ra nấy không lẫn lộn cùng dập dờn cùng tồn tại. Chị hay dắt tôi ngồi trong đám xuyến chi như vậy, thi thoảng kết những vòng hoa xuyến chi hiu hiu trong gió, hoa trắng bé nhỏ man mác buồn, chắc có lẽ chị nhớ người cũ. Có lần tôi thấy anh đứng xa nhìn chị lẩn trong đám xuyến chi, xuyến chi lay lắt buồn kéo dài đến tận chân anh. Chị có thấy không? Tôi thơ thẩn nhìn màu trắng mơ hồ.
Chẳng hiểu sao người ta hay coi xuyến chi là loài hoa cô độc, tôi thấy xuyến chi thích mọc cùng nhau hơn, như thế người ta mới thấy hết cái đẹp của nó - loài hoa dại. Tôi hồi tưởng những ngày chị ngắt hoa cài lên tóc tôi, gọi tôi công chúa nhỏ, nụ cười chị tinh khôi như cánh hoa xuyến chi, người cũ cũng từng cài hoa lên tóc chị, khi ấy tôi thấy lạ nhưng chưa đủ lớn để nhận ra đôi chút ngại ngùng nên nghĩ chắc vì chị cũng là công chúa. Anh thì khác, anh gỡ những đài hoa tôi tinh nghịch làm dính lên tóc chị, khi ấy ngoài xuyến chi xào xạc mọi thứ tĩnh lặng quá, tôi lại ngây ngô không hiểu được gì chỉ thấy mắt chị sầu không nói. Màu trắng mộng mơ giăng phủ những kí ức.
Cũng có mấy bận xuyến chi làm người ta phận lòng, nếu ai vô tình bước qua hàng hoa xuyến chi thì những hạt giống sẽ bám đầy trên quần áo, phủi mãi không buông, cứ muốn níu kéo, muốn giữ gìn, lưu luyến...Xuyến chi không có mùi thơm gì đặt biệt ngoài mùi ngai ngái từa tựa với bao loại cỏ dại khác, cái mùi mà chỉ có người đi xa mới thương nhớ gọi về hương đồng cỏ nội, còn ong bướm đôi lúc lại hững hờ với nó. Một bên níu kéo, một bên thờ ơ, có khi vì lẽ đó mà xuyến chi trở nên cô đơn chăng! Anh đơn thuần, yêu chị cũng đơn thuần, không cần thêm định nghĩa rối rắm nào. Với anh chị là cánh bướm vô chừng, với người cũ có lẽ chẳng khác nào bông xuyến chi đã lụi tàn, có ai ngờ tình buồn lại là mối tình dai dẳng nhất.
Chị mông lung nên mọi người cứ đợi.
Bố chị đợi chị một cái gật đầu, xưa nay con gái trong nhà có khác gì như bom nổ chậm, người ta không hẳn sợ nó nổ, chỉ có sự chờ đợi vô hướng mới thật sự đay nghiến người ta đến lo âu, thế mà bom không nổ lại thành ra bất hạnh. Mẹ đợi chị một cái gật đầu, bất cứ ai cũng cần hạnh phúc cần một nơi để tựa vào cần ít nhất một người để thương yêu, là con gái càng cần những thứ ấy, duyên phận trên đời phải mấy kiếp mới gặp, sao chị hoài lơ đãng. Thử hỏi, hoa nở được mấy hồi, tuổi thanh xuân có đợi mãi được nhau...
Anh đợi chị một cái gật đầu, nói lâu...có lẽ, người ta khi yêu định nghĩa thứ gì cũng thật kì lạ, thời gian có tàn nhẫn thì cũng đủ mầu nhiệm chữa lành vết thương suy ra thời gian vô tình thời gian cũng hữu tình, yêu có kể đến thứ tự trước sau, không là tình đầu thôi đành mong làm một mối tình sâu, ít nhất là về phía anh. Anh không hứa dẫn chị đi đến một nơi xa xôi nào đó để ngắm xuyến chi như người cũ, nếu chị yêu nó anh cũng thế, tìm đâu cho xa mà rã lòng trông đợi, anh hứa dành hẳn cho chị một góc vườn, để hạt giống đó, nó tự sinh tự mọc, hoa vẫn rất hoang dại và tinh khôi. Người hững hờ thì xuyến chi vẫn nở, không chọn mùa, màu trắng không đổi rất chân thành.
Chị không chọn cô độc, chị có anh gần bên, cánh lòng do dự chưa chịu mở mới làm chị cô đơn, gật đầu cũng như rằng người ta chấp nhận, gật đầu thì có chắc là tâm ý đã như người xung quanh nghĩ... gật đầu là đối mặt mà cũng có thể là chạy trốn. Chị sợ gì? Sợ yêu? Sợ bị tổn thương hay sợ làm người khác tổn thương? Sợ không quên nổi người cũ? Vốn dĩ không cần quên chỉ cần thôi nghĩ đến, chị phân vân liệu mình có làm được, chỉ mỗi cái gật đầu đời người đã thành khúc sông mới.
Có trái tim đã trầy trụa, chị không muốn gật đầu quy hàng nỗi cô đơn càng không muốn vì mất phương hướng mà phó mặt cho đời nên cố tình không nhận ra lòng người, nào ngờ lại vô tình cả với chính bản thân. Xuyến chi hướng về phía nắng ấm như người luôn hướng về nơi hạnh phúc, xuyến chi không chọn mùa, chị thong dong đợi một cái kết cho mảnh do dự còn lại.
Thời gian lặng lẽ, sự đời bất thường
Người ta cần bao lâu cho một cái gật đầu, tôi cứ hỏi xuyến chi không vãn hồi.
Cuối cùng tôi cũng biết màu trắng còn là màu của tang thương. Ba năm rồi, người cũ thì đã cũ, chị thôi chờ, thôi đợi và cũng mất một cái gật đầu. Chẳng biết vô tình hay hữu ý xuyến chi vây quanh nơi anh trở lại làm cát bụi, tựa khóc tựa cười, gió thi thoảng lại ca điệu ai ôi, nền đất lạnh xuyến chi mau nảy nở, khi hoa dại lụi tàn chỉ còn hạt bám đầy áo quần như cũng muốn giữ gìn, lưu luyến...
Chị nuối tiếc nợ bản thân một cái gật đầu, chắc rằng trái tim đã khắc một mối tình sâu.
Nếu có mở lòng xin đừng quá muộn màng đừng làm cánh hoa tàn mới luyến tiếc chút nắng cuối còn vươn.
“Hoa vẫn hồng trước sân nhà tôi
Chim vẫn hót sau vườn nhà tôi
Một sớm mai kia
Chợt thấy hư vô trong đời
Người vẫn đâu đây, người cũng đã như xa rồi
Chỉ là... Thế thôi
Khi thấy buồn anh cứ đến chơi
Chim vẫn hót trong vườn đấy thôi
Chỉ có trong tôi ngày đã sang đêm lâu rồi
Bài hát cho anh giờ đã hát cho mọi người
Để rồi lãng quên.
Tôi
nghĩ rồi chị sẽ rộng lượng thôi, như anh từng nói: “Rộng lượng buông
người cũ, rộng lượng chờ một người mới, rộng lượng để cô đơn thỉnh
thoảng mới nghe qua...”. Rộng lượng mỉm cười với chính mình, chị nhé...!
Quỳnh Vương
Đó là câu chuyện buồn, đẫm nước mắt
của chị và của anh. Người đang hàng ngày, hàng giờ nhìn chị với ánh mắt
tràn đầy yêu thương dù rằng chỉ còn một mắt, con mắt còn lại đã bị mù và
một nửa gương mặt nhăn nhúm, mới trông thật đáng sợ. Nhiều người vô
chơi nhà chị, trông thấy di ảnh đều bảo sao chị không lấy một tấm ảnh
khi anh còn “nguyên vẹn” hay nhờ người vẽ một bức truyền thần. Chị không
chịu, chị bảo không tìm được bức ảnh nào của anh khi còn trẻ, đúng hơn
chị không thích, chị chỉ muốn lưu lại những tháng năm thăng trầm của anh
cũng là khoảng thời gian mà chị đợi chờ, mong ngóng trong mõi mòn cùng
niềm tin vào tình yêu mà anh đã dành cho chị.
Con đường dẫn ra sông băng qua vạt
chuối trước nhà chị mọc đầy hoa cúc dại. Người dân quê bảo vậy vì hoa
này giống như hoa cúc, trắng muốt nhưng cánh mỏng hơn. Tuổi mới lớn, chị
hay cùng bạn ra sông tắm giặt hay kín nước về đun nấu. Con sông quê
hiền hòa, trong vắt có thể soi gương được. Dưới lòng sông là những viên
cuội nhiều hình thù, thỉnh thoảng xuất hiện mấy chú cá lạc đàn bơi mải
miết. Hai bên sông bờ mọc nhiều tre trúc, ken dày, ngã bóng xuống sông
mát rượi những trưa hè. Chị vốn là cô gái yêu thiên nhiên, thích cỏ hoa
đồng nội, thích ngắm ráng chiều trên sông sóng sánh ánh vàng. Chị hay
trốn bố mẹ ra bờ sông ngắm nhìn mặt trời lặng, ngắt cánh hoa cúc dại
giắt ở vành tai. Đôi lúc còn xắn quần chạy dọc mé nước. Nước mát rượi,
bắn tung tóe cùng những trận cười của chúng bạn. Hoa cúc dại nở trắng
một vùng. Gió sông hào phóng làm tóc chị xõa tung. Hương bồ kết đằm dịu.
Cứ thế, lúc hoàng hôn buông trùm khắp nẻo, tràn lên sông, bóng đêm nuốt
chửng hình người chị mới về nhà. Dĩ nhiên lần nào việc trốn nhà ra sông
của chị cũng không qua mặt được bố mẹ. Bố đe nẹt rằng chị tái phạm lần
nữa thì bị đuổi ra khỏi nhà. Ông vừa nói vừa dứ dứ cái quạt nan trước
mặt chị. Không hiểu sao lời nói lạnh tanh cùng thái độ nghiêm khắc của
bố không làm chị sợ. Còn mẹ thì ôn tồn hơn, bảo rằng đàn bà con gái
không nên ra sông ra suối vào chập choạng tối. Lúc ấy người âm, nhất là
những linh hồn thất tình khi còn trên dương thế lang thang. Nghe mẹ nói,
chị phá lên cười và đùa rằng, con cũng muốn gặp một bóng ma, để nghe kể
về những điều bí mật của thế giới bên kia. Mẹ chị trừng mắt, lắc đầu, ý
chừng, liệu hồn mày đấy con ạ!
Và chị đã gặp một người. Không phải
người cõi âm mà là một kĩ sư cầu đường khi anh cùng các nhà khoa học về
khảo sát, ngắm nghía, đo đạc chuẩn bị làm một chiếc cầu nối hai bờ sông
. Hèn chi mấy hôm nay đi chợ ai cũng bàn tán. Chiếc cầu nối với thị
trấn, buôn bán sẽ khấm khá hơn. Cuộc sống người dân sẽ thay đổi vì hoa
màu, nông sản sẽ được vận chuyển thuận lợi chứ không còn đi đò nữa… Ai
cũng vui cả. Thế nhưng riêng chị cảm thấy buồn như bị mất một cái gì
quen thuộc lắm. Bờ hoa cúc dại, quán nước liêu xiêu nơi dốc bến hay con
đò cũ nát của ông gìa hay kể chuyện cổ tích lúc vắng khách. Chị sẽ không
còn được trông thấy và cảm nhận sự bình yên nơi chốn quê nữa. Khi nói
điều này với đám bạn, chị đã bị mọi người cười vào mặt, rằng chị lãng
mạn quá đi làm nhà thơ được đấy. Chị mím môi, chạy về. Đêm ấy chị mơ
mình đang ngồi trong khoang đò ngập đầy hoa cúc dại, và anh là người cầm
sào chống, đưa chị đi. Con đò lướt nhẹ theo dòng nước về chốn mù khơi.
Năm ấy chị tròn mười tám.
Sáng ra chị gặp anh, khi đang hái từng
chùm hoa bó thành từng bó. Sương đêm vẫn còn ướt, lạnh cả đôi bàn tay.
Chị luôn tay như thể ai tranh mất phần. Anh đứng ngắm chị từ xa, vì
trông chị “kì kì”, sau này anh nói vậy. Chị thì cứ hái không thèm để ý
gì xung quanh. “ Hoa xuyến chi”. Anh tiến lại gần và thốt lên như thế.
Lúc này chị mới ngước lên, một thoáng nhíu mày và kèm theo hai tiếng “
vô duyên” theo sau. Anh phá lên cười vì trông mặt chị dấp dính những
cánh hoa còn ướt sương. Chị ôm hết hoa định bước đi thì anh đã kéo tay
chị. Sau này khi đã yêu nhau, anh thú nhận là hình như lúc ấy trời xui
đất khiến chứ ngày thường anh nhát lắm.
Anh ngỏ lời yêu chị vào một đêm trăng,
nơi con đường dẫn xuống bến sông, ngay dưới tán si già rễ thỏng xuống
chạm đất. Chỉ cái nắm tay thôi, chứ không có nụ hôn nồng nàn. Chị thấy
hạnh phúc lắm. E thẹn ngả đầu vào vai anh, chị cảm nhận hơi ấm từ ngực
anh đang lan tỏa, đầy tin cậy. Anh vuốt tóc chị. Tóc chị mềm mượt, hương
bồ kết phả vào mặt anh mê đắm. Họ cứ ngồi như thế, thủ thỉ bao điều.
Bóng trăng nghiêng dài trên sông, không gian tịnh lắng, êm đềm. Chừng
nửa đêm, sương khuya nặng giọt, thấm ướt bờ vai anh đưa chị về. Nụ hôn
đầu đời vội trao nhau bên hàng rào hoa dâm bụt.
Từ dạo ấy, mỗi chiều anh hay ghé nhà
nói chuyện cùng bố chị hay phụ làm mấy việc lặt vặt. Thời gian ấy, chiếc
cầu đã xong phần móng, chuẩn bị nối nhịp. Anh hay nói về những công
trình, về quê anh về dự định tương lai. Chị ngồi dưới bếp, đun nước nghe
lén, đôi lúc đảo mắt nhìn lên, chạm ánh mắt anh đang tìm chị khiến đôi
má chị ứng hồng. Chuyện tình yêu làm sao giấu được mọi người, với lại
anh chị hình như ngày nào cũng gặp nhau. Người ta bàn tán xôn xao từ
làng trên xuống xóm dưới, từ đồng trước ra bãi sau, từ nhà đến chợ. Mẹ
chị không an lòng, một tối đã vào nằm với chị dặn dò. Chị ôm mẹ vào lòng
trấn an rằng chị tin vào tình yêu anh ấy dành cho mình. Anh là người
học thức, gia đình gia giáo. Anh lại thành thật kể cho chị nghe hết mọi
điều, còn hứa là sau khi xong công trình này sẽ đưa chị về ra mắt bố mẹ.
Chị háo hức đợi chờ và sống trong tinh yêu đầu nhiều mộng ước.
Rồi cái ngày mong đợi cũng đã đến
.Chiếc cầu xây xong, khánh thành. Người ta đi dự đông lắm. Cờ hoa ngợp
mắt, tung bay. Chị nhận ra anh đang nói chuyện với mấy chuyên gia giám
sát. Trông anh hồ hởi qua từng cử chỉ, điệu bộ. Khi nhìn thấy chị, anh
cúi đầu lễ phép với họ và chạy đến bên chị. Họ hòa vào dòng người đang
náo nức đặt chân lên cầu để đi về phía bên thị trấn. Và ngày hôm sau anh
xin phép bố mẹ chị cho chị theo anh về quê.
Hai năm trôi qua. Lúc này chị đã hai
mươi, đằm thắm,dịu dàng và đẹp nhất nhì trong vùng. Chị cảm nhận điều
này khi mỗi tối có nhiều anh chàng bên thị trấn chạy xe qua nấp nom bên
rào. Tiếng chó sủa làm động cả xóm, nhiều nhà ngủ không được, đuổi chó
mắng mèo. Anh thì vẫn đi theo những công trình, thỉnh thoảng tạt về thăm
chị. Bố mẹ có vẻ sốt ruột, giục cưới. Chị nói lại với anh. Anh khẳng
định tình cảm của mình bằng sợi dây chuyền cầu hôn mà ngày đó hiếm cô
gái thôn quê nào có được. Anh bảo chị yên tâm, xong công trình này nữa
là sẽ làm đám cưới. Chị và anh sẽ ở trong một ngôi nhà mới xây, cũng gần
bờ sông, anh sẽ trồng trước nhà những khóm hoa xuyến chi. Anh bảo gọi
là xuyến chi nghe hay hơn cúc dại. Vì dù là cỏ hoa cũng nên ban cho
chúng một thân phận. Từ hôm đó chị không còn gọi loài hoa mọc tràn bờ
sông, khắp bãi là hoa cúc dại nữa. Chị còn tỉ mẫn tìm trong những khóm
hoa có những đóa hoa ngậm nắng như anh nói không. Những đóa hoa, theo
anh là rất hiếm, khó tìm. Trai gái yêu nhau thường trao nhau những đóa
hoa ấy. Một đóa hoa đặc biệt, mới nhìn khó phân biệt, nhưng ngắm kĩ sẽ
nhận ra ngay. Đó là đóa hoa mà cánh hoa không bung nở hoàn toàn mà vẫn
còn khum khum ôm lấy nhụy hoa màu mật ong. Trông nó không đẹp nhưng lại
lạ giữa những đóa hoa quen thuộc. Chị đã tìm chúng và phơi khô, treo lên
vách.
Năm chị hai mươi lăm tuổi, bố chị qua
đời. Anh về sau đó chừng một tháng. Cửa nhà vắng hoe, buồn tênh. Anh
đứng trước bàn thờ, lầm rầm khấn vái, mắt anh đầm đìa. Anh nán lại nhà
chị vài tuần. Chị cảm thấy lòng an ủi phần nào. Mẹ chị nay cũng đã già
mong muốn chị yên bề gia thất. Ở cái làng quê nhiều tập tục này, chừng
tuổi chị đã con bồng con bế cả rồi. Nếu chưa có gì thì sẽ bị người ta
đàm tiếu, dị nghị. Anh hiểu được nỗi lòng của mẹ chị nên đã hẹn tháng
sau sẽ mang trầu cau, lễ vật xuống hỏi chị. Bà mẹ già quê mùa nghe anh
nói vậy mở cờ trong bụng, tương lai không xa con gái sẽ được trọn vẹn
trong tình duyên. Bà vui lắm, gắp nhiều thức ăn cho anh. Còn chị thì
khỏi phải nói, hạnh phúc trào dâng, đôi má căng đầy hồng hào, đôi mội
mọng đỏ như vừa tô son. Đêm ấy, nơi chỗ hẹn cũ, vòng tay anh ghì chặt
chị hơn, hơi thở của anh cũng gấp gáp hơn. Chị đón nhận, khát khao và
chị đã thuộc về anh từ đấy.
Đã qua tháng mười, nghĩa là hơn một
tháng anh đi. Chị bắt đầu lo lắng, ngóng tin. Cứ mỗi chiều chị hay nhìn
lên cầu về phía thị trấn tìm bóng dáng thân quen. Nhưng hoàn toàn vô
vọng. Tóc chị không còn mềm mượt nữa mà bắt đầu xơ rối chị cũng không
thèm để ý. Mẹ chị buồn lắm, nhìn chị thở dài. Chị tránh cái nhìn đầy
thương cảm ấy bằng sự luôn tay với những công việc nhà. Nhưng rồi chị
không giấu được nữa. Những trận ợ khan, chóng mặt của chị đã khiến mẹ
chị linh cảm được chị đã không còn con gái. Mà cái dạng đàn bà không
chồng mà có con ở cái đất này mới nhục làm sao. Họ mạc khinh khi, làng
xóm bêu rếu có nước phải đi khỏi làng. Chị biết điều đó, cắn răng mong
ngày anh trở về cưới chị. Nhưng rồi anh vẫn biệt tăm. Cái bụng thì ngày
càng nhô cao, mệt nhọc. Chị muốn về quê anh. Mẹ chị thương con, ban đầu
cũng ngăn rằng không thể hạ mình như vậy, rủi đâu nhà bên ấy chì chiết,
xúc phạm thì đã đau lại còn đau. Chị đã khóc biết bao nhiêu đêm, con
đường đầy hoa xuyến chị chị giẫm nát bao lần. Trong tột cùng đau khổ chị
chỉ muốn chết vì chị nghĩ rằng đó là sự trừng phạt sự lừa dối của anh
và sự nhẹ dạ, cả tin của chị. Nhưng rồi tĩnh tâm nghĩ lại giọt máu chị
đang mang có tội tình gì. Nó chỉ là hệ quả tất yếu của sự yếu mềm, vội
vã của người lớn thôi. Chị lắc đầu xua đi ý nghĩ điên rồ đang vây lấy
chị. Và chị đã sinh một bé gái vào cuối hè, nhằm mùa xuyến chi rộ nhất.
Chị vui mừng đặt tên con là Xuyến Chi.
Lại nói về chị sau khi sinh con. Mẹ
chị,vì quá thương con lại bị bệnh tật hành hạ đã mất. Chị gat nước mắt
buồn đau, đợi con cứng cáp chị sẽ đưa con đi tìm bố nó. Suốt thời gian
đó chị nghĩ rằng anh đã phụ chị và đi tìm hạnh phúc mới. Nhưng rồi chị
lại nghĩ rằng có điều gì khuất tất hoặc một biến cố gì ghê gớm đã đến
với anh. Và chị đã tường tận khi vừa đặt chân đến ngõ nhà anh. Người chủ
mới rót vào tai chị mấy lời như cào xới tâm can chị. Tội nhiệp thằng
con kĩ sư bị tai nạn nằm viện tốn tiền phải bán hết đất đai nhà cửa. Cả
nhà chuyển vô Sài Gòn chạy chữa cho nó. Nghe đâu là bị mù một mắt và
gương mặt bị biến dạng hoàn toàn. Chị đã khuỵu xuống, nức nở. Trời ơi,
vậy mà em nỡ trách anh tệ bạc, em có lỗi với anh nhiều lắm. Chị đấm vào
ngực mình, khóc như điên như dại và không ăn không ngủ mấy ngày.
Một hôm, bé Xuyến Chi theo mấy cô hàng
xóm qua chợ về thủ thỉ với chị là có một người đàn ông che mặt trông
gớm ghiếc hay cho con kẹo, bánh và tò he nữa. Chị giật mình, bỏ nồi cá
đang kho trên bếp, tuông chạy. Là anh rồi. Nhưng sao anh không về với
chị. Sao anh lại để chị chờ đợi. Anh mặc cảm tự tị với hình hài bệnh
tật. Khu chợ chiều dần tan, người bán kẻ mua tản về gần hết. Chị vấp mấy
lần, móng chân tóe máu. Mấy người tưởng chị bị kẻ gian giật đồ nên chạy
đi tìm. Chị lùng sục khắp lều chợ, tóc chị xổ tung, áo quần xộc xệch
nhưng không thấy anh đâu cả. Ngồi bệt xuống sàn gạch, chị đưa mắt đảo
quanh . Chị vừa thở vừa khóc mếu. Rồi chị đã đứng chôn chân một chỗ khi
trông thấy anh từ dưới bến nước đi lên. Diện mạo anh hoàn toàn thay
đổi. Nếu người đàn bà mua nhà anh không nói trước có lẽ chị không thể
nhận ra. Anh giật lùi khi chị chạy đến, nhưng rồi anh quay mặt đi như
người có lỗi. Chị ôm anh từ phía sau, khóc dầm dề. Mấy người ở xóm chợ
thấy chuyện lạ lùng này, bu quanh xầm xì.
Anh đã về với chị. Họ đã thành vợ
chồng. Chị muốn bù đắp cho anh. Chị khóc như chưa từng được khóc khi anh
kể lại quãng thời gian đau khổ nhất của mình. Vì lo chạy chữa thuốc men
cho anh, gia đình rơi vào khánh kiệt, phải bán nhà đi tìm kế sinh nhai
nơi đất khách quê người. Lúc đó anh muốn chết. Sống chỉ là gánh nặng
cho cha mẹ mà thôi. Nhưng rồi anh nghĩ lại khi niềm tin mãnh liệt vào
tình cảm của chị. Anh sẽ trở về với chị, dù rằng chị có chấp nhận anh
hay không. Vì cú sốc quá lớn cha mẹ anh ngã bệnh mấy năm sau thì lần
lượt qua đời. Anh gửi tro cốt cha mẹ ở chùa rồi trở về đây.
Sao anh không về với mẹ con em. Những
năm tháng không có anh em khổ như thế nào không? Đưa bàn tay chai sần
xoa xoa gò má nhăn nheo của anh, chị hờn trách như thế. Anh im lặng.
Nước mắt nóng hổi rỉ xuống. Giọng anh sũng nước, rằng anh đã trở về được
hơn một năm rồi. Dưới hình hài khác nên mọi người không nhận ra. Anh
làm bốc vác, dọn dẹp quét tước, miễn là có việc để có tiền sống qua
ngày, được biết nhiều thông tin về mẹ con chị. Anh rất muốn gặp chị
nhưng lại sợ chị khổ thêm . Cuộc thoại giữa anh và chị bị ngắt quãng bởi
bé Xuyến Chị đi học về, chìa tờ giấy khen trước mặt. Con bé giống anh
lắm, nhất là nụ cười rất hiền và có duyên. Anh ôm con vào lòng, nựng
nịu.
Thời gian trôi qua. Mới đó mà anh về
đã được tám năm. Bé Xuyến Chi cũng đã lên cấp hai. Bé học rất giỏi. Anh
hay đưa con đến trường. Ban đầu bạn bè chỉ trỏ xầm xì này nọ khiến con
bé buồn. Anh biết điều đó, muốn để con tự đi, để con không mặc cảm vì bị
trêu chọc. Nhưng trái với suy nghĩ của anh, con bé mạnh mẽ và hiểu biết
nên đã ôm cổ anh bắt anh phải đưa đón nó mỗi ngày. Dọc đường hai bố con
thường nói với nhau đủ thứ chuyện. Đến bữa ăn vẫn còn nói mãi khiến chị
phải nhắc nhớ hai bố con mới chịu yên. Phải nói đó là khoảng thời gian
hạnh phúc nhất của chị. Chị đã sống trọn với niềm vui nhỏ nhoi được góp
nhặt hàng ngày bên chồng và con gái nếu như không có trận lụt vừa qua.
Ảnh hưởng không khí lạnh tăng cường.
Mưa gió suốt hai ngày đêm khiến con sông vốn dĩ hiền hòa trở nên hung
hãn, bọt bèo từ phía thượng nguồn đổ về kéo theo rác rều, củi mục. Cơn
lũ đầu mùa như con quái vật bất kham tung bờm, lùng sục dần dần ngoạm
lấy, nhấn chìm bãi cát, triền sông, làm sạt lở nhiều đoạn bờ. Tiếng nước
réo, sôi nghe mà sợ đến rợn người. Nhà nằm hướng mặt ra sông, nhìn
khung cảnh nước mênh mông, anh lắc đầu ái ngại, sợ lũ lên cao không biết
tránh đi đâu. Chị trấn an anh rằng năm nào cũng lũ, nước chỉ dâng lên
vạt chuối thôi. Anh cười buồn rồi chuẩn bị lưới vó ra kéo cá chỗ khúc
sông khoét sâu vào bờ. Đoạn ấy nhiều cá lắm.Con bé đòi theo, nói là coi
bố trổ nghề sát cá như thế nào.Nhưng cả anh và chị không cho. Anh choàng
vội áo mưa rồi đi. Trời nổi giông và mưa thêm nặng hạt. Và anh đi,
không bao giờ trở về với mẹ con chị nữa. Có người nói anh bị nước cuốn
vì cố lôi khúc gỗ to, người khác thì bảo rằng lúc đó chập choạng tối,
giữa sông bổng xuất hiện một nóc nhà ,trên ấy là một bóng người đang kêu
cứu. Anh dán mắt vào đó như bị thôi miên rồi anh nhảy ào xuống nước,
bơi theo… Chị nghe mà lòng quặn xót. Chị nằm liệt giường ba ngày. Cũng
là lúc người ta mang anh về cho chị.
Thẩn thờ thắp nén hương cho anh, chị
mím môi để khỏi bật khóc khi có người chạm đến kỉ niệm buồn đau. Tấm
lưới vó và mảnh áo mưa vứt bừa nơi góc sân. Bé Xuyến Chi đang lúi húi
dọn dẹp. Lớp bùn non nhão nhoét bết dính đôi chân trần. Đôi mắt cô bé
trong veo,lấp lánh. Chợt cô bé thốt lên : Mẹ ơi, hoa xuyến chi lại mọc
rồi! Trên con đường dẫn ra sông, hoa xuyến chi đâm chồi,những nhánh lá
xanh non vươn mình trước gió, dưới ánh nắng mai ấm áp.