Để nhớ về Bạc Liêu quê ngoại của những năm tháng cũ
Mình Ơi
Lời Ru Của Đất
Giọt mưa châu thổ
Về thăm châu thổ quê hương cũ,
Cảm thấy thương ai số phận buồn..
Mưa như trút nước, như hờn giận,
Như lũ tràn về, mãi miết tuôn !
Cú kêu thảng thốt mang điềm lạ,
Đồng xa khắc khoải quá mênh mông...
Đợi chờ vô vọng lòng đau nhói,
Chữ nghĩa văn chương lạc giữa giòng !
Cơn mưa châu thổ bao giờ tạnh ?
Phù sa cuồn cuộn chảy trôi đi,
Mang theo tất cả tâm phiền muộn.
Vẫn chờ, vẫn đợi, dẫu chia ly !
NM
NM
Mưa châu thổ
Tôi là
một nhà văn. Bây giờ là tháng mười. Mùa của những cơn mưa. Nửa đêm về
sáng mưa có thể làm tâm hồn chúng ta khó ngủ. Vì mưa là chứng nhân, hay
kể lại những câu chuyện bất tận từ trời đất, thiên nhiên. Tôi cũng đã
qua những mùa mưa châu thổ. Tôi muốn kể lại nó. Các bạn thử lắng nghe
xem đây là câu chuyện của mưa hay của tôi?
Đâu khoảng tháng mười năm X. tôi có dịp lưu lạc về Bạc Liêu trong chuyến đi hoàn toàn không định trước.
Một chiều mưa như trút nước, khi tôi từ xã Tân Tiến bao vỏ lãi đi ngược lên Hộ Phòng thì trời đã sẫm tối. Chuyến đi làm tôi cạn kiệt sức lực và tôi muốn nghĩ đêm tại đây nhưng không thể. Út Miêng, người chị họ của tôi đẻ khó đang ở nhà hộ sinh trên thị trấn. Nhưng câu chuyện đã bắt đầu từ trước đó. Tôi về do nhận được tin ông anh rễ, Tư Đen mất đột ngột.
Đâu khoảng tháng mười năm X. tôi có dịp lưu lạc về Bạc Liêu trong chuyến đi hoàn toàn không định trước.
Một chiều mưa như trút nước, khi tôi từ xã Tân Tiến bao vỏ lãi đi ngược lên Hộ Phòng thì trời đã sẫm tối. Chuyến đi làm tôi cạn kiệt sức lực và tôi muốn nghĩ đêm tại đây nhưng không thể. Út Miêng, người chị họ của tôi đẻ khó đang ở nhà hộ sinh trên thị trấn. Nhưng câu chuyện đã bắt đầu từ trước đó. Tôi về do nhận được tin ông anh rễ, Tư Đen mất đột ngột.
Tư Đen phụ ghe chở hàng, rủi ro đụng xà
lan lúc tránh nhau ở lưu vực. Lúc đó vào ban khuya. Gặp vùng nước xoáy,
không tìm được xác. Cho dù đám thợ lặn quần đảo từ nửa đêm đến sáng
rửng. Cuối cùng, tuyệt vọng, chủ ghe mua nhang đèn, quà cáp đến lễ một
ông thầy trên tám mươi, sống và tu trong ngôi chùa thiêng gần đó. Sau
nhiều năn nỉ, ông thầy gieo quẻ, bấm độn cho biết người chết đang bị hà
bá giữ. Số Tư Đen đã hết. Không cần phải mò xác và cho dù có tìm cũng
không ra.
Sau ba ngày, đúng giờ hoàng đạo tự khắc
nổi lên. Nghe thầy phán mọi người hồi hộp chờ đợi. Quả đúng như vậy.
Mười hai giờ trưa ngày thứ ba thình lình mưa dội, gió xoáy, cái xác xoay
tít dựng lên giữa mặt sông cách chỗ đụng ghe chừng cây số. Nhà đòn phải
chở xác Tư đi lênh đênh trên nước thêm một ngày nữa mới về tới nhà.
Nghe câu chuyện kể lại, thực thực hư hư khó phân định nhưng tôi cảm thấy
vô cùng buồn bã!
Út Miêng vật vã bên quan tài chồng. Gần
như chết đi sống lại. Lúc đó cái bụng đã lớn vượt mặt. Đã qua tháng thứ
tám. Đứa bé quẫy đạp dữ dội. Với một người mẹ trẻ, thật không còn thử
thách nào hơn. Mọi người an ủi can ngăn gì cũng không được. Bác tôi vội
đưa Út Miêng lên trạm hộ sinh ở Hộ Phòng. Sau rồi nhắn tôi lên gấp, vì
có chuyện. Tôi lật đật đi ngay. Mưa như trút. Như oán giận.
Tháng mười miền tây mưa triền miên. Mưa
vật vã không biết đến bao giờ cho tạnh. Nước dâng loang loáng đôi bờ.
Những cánh lục bình trôi mải mê tím biếc. Dòng châu thổ quặn phù sa. Có
như Út Miêng, con cá trắm nặng bụng trứng, vượt cạn bơi ngược nước? Trên
mi là những dòng rạch mặn lấp lánh chan hòa. Lúc tôi ra khỏi cửa thì có
con cú đen từ trong bụi cây bay thốc ra kêu cú cú một cách thê thảm.
Không hiểu chuyện gì đang đến với đời tôi?
Những năm tháng phiêu du mênh mông vô
định với giấc mộng văn chương làm tôi cũng mệt mỏi lắm rồi. Cú ơi cú,
kêu gì đồng xa khắc khoải? Cái thân nhỏ nhoi này ta chẳng biết còn xô
dạt về đâu nữa? Sao đời ta không là cây đước dầm chân một đời bên đầm
vắng? Hay cái vó cất tôm treo ngược phía trời xa? Cứ đợi, cứ chờ, khắc
khoải và an nhiên thế thôi! Mặc tất cái gì đến sẽ đến. Cái gì đi sẽ đi.
Đau nhói và vô vọng. Chẳng phải cuộc đời này cứ chảy, cứ đổ ra biển khơi
hay sao? Phiêu lưu mà làm gì, ước vọng mà làm gì để rồi nhọc mỏi, u mê
thân xác? Cuộc đời với bao câu chuyện rủi may vui buồn cứ tới mà không
thể giải thích được. Nhưng chiếc vỏ lãi đã xé trên nước lao đi như đạn
bắn. Hai bên bọt trắng xóa phun rào rào như đang xả một cuốn phim quay
chậm…
□
Trên chuyến đi ấy tôi như bị thôi miên bởi hình ảnh Út Miêng, người chị con ông bác lắt lay với đứa bé trong bụng chòi đạp mãi chưa chịu ra. Và cái chết bất ngờ của chồng vô lý như một câu chuyện khó tin. Làm sao sức chịu đựng của con người, nhất là một phụ nữ lại có thể lớn đến thế? Và tôi thực ra đang tìm gì trên những truyện ngắn lô xô chữ nghĩa của mình? Ôm ấp khai sinh một đứa con tinh thần liệu có dằn vặt, đau đớn như giờ khắc thiêng liêng của một đứa bé trong bụng mẹ quẫy đạp đòi ra đời? Chế (*) đã có dấu hiệu trở dạ. Nhưng cả tuần nay bác sĩ theo dõi vẫn chưa chuyển biến gì.
□
Trên chuyến đi ấy tôi như bị thôi miên bởi hình ảnh Út Miêng, người chị con ông bác lắt lay với đứa bé trong bụng chòi đạp mãi chưa chịu ra. Và cái chết bất ngờ của chồng vô lý như một câu chuyện khó tin. Làm sao sức chịu đựng của con người, nhất là một phụ nữ lại có thể lớn đến thế? Và tôi thực ra đang tìm gì trên những truyện ngắn lô xô chữ nghĩa của mình? Ôm ấp khai sinh một đứa con tinh thần liệu có dằn vặt, đau đớn như giờ khắc thiêng liêng của một đứa bé trong bụng mẹ quẫy đạp đòi ra đời? Chế (*) đã có dấu hiệu trở dạ. Nhưng cả tuần nay bác sĩ theo dõi vẫn chưa chuyển biến gì.
Cơn đau làm người mẹ trẻ tái nhợt, bợt bã
như con mắm. Ngay trong buổi chiều trời đột ngột mưa lớn đó, đứa bé
trai đạp mạnh. Hộ lý khám thấy cổ tử cung đã mở lớn, biết ngay đã sắp
đến giờ khai hoa nở nhụy. Câu chuyện có thể xem như bắt đầu từ đây. Khi
cái nhà hộ sinh cheo leo bên bờ nước ấy chỉ có một bác sĩ giỏi. Và buổi
chiều hôm ấy ông đã theo một chiếc tắc ráng đi thăm một con bệnh đâu đó ở
trong rừng U Minh. Ông chỉ để lại mấy lời nhắn rời rạc là đi công
chuyện, xong việc sẽ về ngay! Xong là bao giờ xong, về bao giờ về thì
hoàn toàn không có câu trả lời chính xác. Mênh mang vô định. Ông còn dặn
thêm, nếu có việc đột xuất hãy tìm ông ở đồng phía tây ấp Vinh Hạng,
kênh Tẻ Xáng, xã Quách Phẩm Bắc.
Ôi cái địa chỉ đánh đố mù trời. Tôi không
biết nó ở tận đẩu đâu trên những cánh đồng sông nước trắng xóa bạt ngàn
này? Và một gã phiêu lưu, dớ dẩn, cả đời tham vọng dành trọn cho văn
chương như tôi làm sao có thể định hướng được để mở đầu cuộc tìm kiếm?
Rồi bác sĩ có khuôn mặt thế nào? Bao tuổi? Dáng dấp, tên họ ra sao? Tôi
chưa từng quen làm sao có thể lần ra giữa đêm tối mịt mùng? Và tại sao
không ai ghi số điện thoại để liên lạc?
Mãi tận sau này tôi mới biết thời điểm ấy
điện thoại chưa phổ biến trong những vùng xa xôi sông nước. Họa hoằn
lắm mới có nhà có do kéo dây khó khăn, còn sóng di động thì chưa phủ
đến. Tình hình lúc bấy giờ không còn cách nào khác. Tôi phải mình ên(**)
đi tìm ông ta. Bùa hộ mệnh của tôi là mấy dòng chữ loăng quăng, tưởng
như vô thưởng vô phạt của bà cô đưa. Nhập nhoạng, tôi tìm ra bến tàu Tắc
Vân và hỏi nhờ một chiếc tắc ráng đi về Quách Phẩm Bắc. Một chuyến đi
với sứ mệnh cao cả và lạ lùng mà trong đời viết văn phiêu dạt của mình,
lần đầu tôi biết được.
□
Tôi là người viết văn nhưng tôi cũng không tin lắm vào chữ nghĩa của mình. Vì đôi khi, tôi thấy nó chỉ là mớ chữ hẩm hiu, thèo lèo, rỗng tuếch. Chủ yếu là mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Một cách lãng quên hay lừa mị mình giữa dòng đảo điên thế sự. Và kỳ lạ, tất cả chừng như thay đổi khi tôi gặp Ba Nghiêm. Như có một bàn tay nào đó vô hình xếp đặt, Ba Nghiêm có biết bác tôi và có chơi với Tư Đen. Y kể cái chết của Tư Đen làm bàng hoàng dân sông nước suốt mấy ngày qua.
□
Tôi là người viết văn nhưng tôi cũng không tin lắm vào chữ nghĩa của mình. Vì đôi khi, tôi thấy nó chỉ là mớ chữ hẩm hiu, thèo lèo, rỗng tuếch. Chủ yếu là mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Một cách lãng quên hay lừa mị mình giữa dòng đảo điên thế sự. Và kỳ lạ, tất cả chừng như thay đổi khi tôi gặp Ba Nghiêm. Như có một bàn tay nào đó vô hình xếp đặt, Ba Nghiêm có biết bác tôi và có chơi với Tư Đen. Y kể cái chết của Tư Đen làm bàng hoàng dân sông nước suốt mấy ngày qua.
Và không ai có thể tin Út Miêng có thể
sinh con vào lúc này. Khi nỗi đau tâm hồn và nỗi đau thể xác vò xé không
biết nỗi đau nào lớn hơn? Tại sao một người con gái xinh đẹp và mong
manh như thế ông trời lại buộc cùng lúc phải mang hai nỗi đau lớn như
vậy? Ba Nghiêm còn nói, việc chúng tôi được chọn đi tìm ông bác sĩ trong
đêm tối cũng là sự xếp đặt. Bởi y hoàn toàn không biết gì cả.
Cả ngày hôm nay ế khách, y buồn và uống
rượu. Đầu óc cứ thấy rỗng tuếch, buồn bã gì đâu. Khi trời chạng vạng, y
chuẩn bị về thì thoáng thấy bóng tôi thất thểu trên bến tàu với bộ dạng
thảm hại. Tôi như một sứ giả mà thượng đế vừa gửi xuống cho y. Đó là cao
hứng Ba Nghiêm nói chơi thế thôi. Còn sự thực là khi đọc cái địa chỉ mù
mờ trên tay tôi, y nói rất may là y đã từng đi qua tuyến đường này. Đó
là con đường ngoằn ngoèo, khó đi, thậm chí có đoạn muốn tới phải luồn
lách trong những đầm cỏ hoang mọc quá đầu người. Và tận cùng con đường
thì sẽ đổ ra biển Đông.
Nhưng đó là điều y cũng nghe kể lại thôi.
Bởi thực tế chưa có một người khách nào lại đưa ra một yêu cầu y phải
đưa đi xa như vậy. Chúng tôi cần phải khởi hành! Ba Nghiêm nói. Nếu
suôn sẻ thì khoảng độ một, hai giờ khuya sẽ tới Quách Phẩm Bắc. Và từ
địa điểm này chúng tôi sẽ tiếp tục mò mẫm xem là ông bác sĩ đang ở đâu?
Đứa nhỏ cần phải sống bởi cha nó, Tư Đen đã chết. Chẳng lẽ ông trời oan
nghiệt bắt tội cùng một lúc hai người trong gia đình sao? Ba Nghiêm uống
rượu và liên miên độc thoại.
Còn tôi, lúc này vây giữa bốn bề sông
nước không thể định hướng chiếc tắc ráng đang chạy. Chỉ nghe tiếng nước
rẽ rào rào, nước bắn lên tận mặt. Tôi đang đi đâu giữa mênh mông đất
trời? Những gì đã ở phía sau và đang chờ đợi phía trước? Một cái đích mù
mờ nhưng phải đến. Cho dù xa xôi, vô vọng. Chúng tôi phải tìm được căn
nhà trên đồng gió Quách Phẩm Bắc.
Phải đón được ông bác sĩ trở về. Và tôi,
một kẻ vốn dĩ chỉ biết thả dài phiêu lưu, bỗng nhận ra ý nghĩa công việc
viết lách của mình từ một ca đẻ khó. Cuộc sống vốn buồn đau với bao
nhiêu thử thách, thăng trầm nhưng vẫn phải trôi về phía trước không thể
dừng lại. Một trang viết phải tìm được ý nghĩa thực sự như đốm lửa nhỏ
lay lắt trong đêm tối. Cuộc đời vốn không dễ dàng với bất cứ ai. Từ bao
lâu nay tôi là người viết văn nhưng hình như chỉ đẽo gọt ngôn từ thành
những món trang sức diêm dúa bóng bẩy tên tuổi.
Những trang viết xa lạ như những bông cỏ
dại rũ rạp xuống vô nghĩa, phù phiếm. Dường như kẻ nào dính vào chút bút
mực cũng hâm hấp, tự cao tự đại. Tự mặc lãnh bản thân mình là đấng cứu
thế, kẻ có quyền năng sáng tạo ngang bằng thượng đế khi đẻ những đứa con
tinh thần là tác phẩm. Đôi khi những trang viết ra đời sặc sỡ trên
những cột báo nhưng bao nhiêu số phận, cuộc đời đã bị bỏ quên. Những lời
tung hô, sự chúc tụng bia bọt của đám đông hay vòng nguyệt quế héo hon
từ sự tưởng tượng viễn vông nghèo nàn thực sự không bắt rễ hay ăn nhập
gì với đời sống cả.
Giờ đây, văn chương liệu có như Út Miêng,
người mẹ trẻ mang nặng đẻ đau, vật vã sinh nở? Một cuộc vượt cạn vĩ đại
với cái chết kỳ lạ của chồng. Để nụ cười trên mắt Tư Đen không có gì
khác hơn hai mẹ con phải sống! Và phải chăng, trong mỗi chúng ta ai cũng
cần một bác sĩ tâm hồn để định hướng trước ngã rẽ cuộc đời phiêu lưu,
vô định. Tôi đã nhận thấy le lói một con đường hầm đủ vượt thoát trong
ánh chớp đầy đe dọa trên bầu trời châu thổ. Những hạt mưa hay nước mắt
đời tôi?...
Cũng không biết tắc ráng của chúng tôi đã
đi được bao lâu. Mưa tạnh. Chỉ còn nghe tiếng ếch nhái kêu rền đêm
tháng mười. Ba Nghiêm buông lỏng tay. Tiếng cánh quạt nước rè rè thêm
một lúc đã dừng hẳn. Cũng đã hai rưỡi khuya. Hình như chúng tôi đã đến
đầu kênh Xáng Quách Phẩm Bắc. Theo lời chỉ, ấp Dinh Hạng gần đâu đây.
Tiếng chó sủa lộn. Ánh đèn hột vịt chớp chớp phía chòi canh xa. Bóng
người loáng thoáng đi tới với vệt sáng vẽ vòng trong đêm. - “Ai đấy? Cần
gì?” - Ba Nghiêm hô to: - “Tôi đi đón bác sĩ Hộ Phòng” - “Tôi đây, ai
cần việc gì đó?” - Tôi mừng hết lớn. Thì ra công việc vừa xong, ông đã
đòi về ngay. “Mưa châu thổ biết bao giờ tạnh - Gia chủ nói - Ngớt mưa
hẳn đi!...”. Nể tình gia chủ lẩu nóng, rượu ngon vừa dọn lên mâm. Ông
xoa chân, ngồi vào, tớp chén rượu. Vừa lúc nghe tiếng vỏ lãi xé đêm
khuya. Linh tính điều gì cả nhà chạy ra thì gặp chúng tôi…
Bây giờ là tháng mười. Tháng của những cơn mưa.
Bây giờ là tháng mười. Tháng của những cơn mưa.
Tôi xa châu thổ đã lâu. Thời gian giúp
mọi nhịp sống đã bình thường trở lại. Như dòng phù sa cuộn chảy trôi đi.
Những con cá trắm bụng trứng, vượt cạn. Rồi trở về với những đàn con
sinh nở. Riêng tôi, tôi đã nhận ra mình chỉ là một người yêu sự viết
lách và mãi mãi ước mơ trở thành một nhà văn. Văn chương hoàn toàn không
phù phiếm nếu như chúng ta tìm được con đường trong đêm tối và lúc nào
cũng có những liều thuốc tâm hồn của bác sĩ.
Tôi vẫn ước ao viết được những truyện
ngắn nhẹ nhàng như cơn mưa. Nhưng thực sự có nỗi đau lắng chìm bên
trong. Như Út Miêng bế đứa trẻ trên tay sau những hạnh phúc cay đắng.
Sức chịu đựng của con người thật lớn lao cao cả. Trong cơn mưa châu thổ
những cuộc đời chìm nổi. Những câu chữ liệu có được như hạt ngọc phù sa
bồi đắp đời đời?...
Tháng 10-2010
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH
Mình ơi !
Ngọn gió đưa thuyền xa bến sông,
Người đi theo sóng nước mênh mông....
Bỗng dưng chợt nhớ gian nhà cũ,
Quyện khói lam chiều theo gió Đông
Ôm đàn dạo khúc tình ca cũ,
Thương nhớ ngày xưa ta có nhau...
Chân trời xa phủ màu lam biếc,
Dạo khúc "Mình ơi" vạn nỗi sầu !!
NM
Tình châu thổ
Cái tin Hai Từ tốt nghiệp lan ra khắp vùng. Ở cái xứ xa xôi này học
hết trường làng đã là quý lắm rồi, nay có chyện Hai Từ khăn gói lên
thành phố học đại học. Người ta lấy Hai Từ ra làm tấm gương cho con
cháu. Thì mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, đâu ai muốn quanh quẩn bên
ao làng mãi. Nhưng người ta còn hơn nhau ở chỗ phước phần.
Nhà Hai Từ được coi là giàu nhứt xứ. Thân sinh cậu lúc trước làm chủ
vựa lúa gạo và nhà máy xay xát lớn nhất nhì trong vùng. Ông qua đời vì
bạo bệnh để lại cho mẹ con cậu căn nhà lớn, kha khá vốn liếng lẫn ruộng
vườn. Ruộng đất không ai cai quản, bà Chi đứt ruột bán hết mấy công, còn
lại phần đất sau nhà bà thuê người canh tác.
Hai Từ học hết trường làng, lên thành phố tiếp tục con đường học vấn.
Cũng có lúc Từ nhớ nhà, nhớ làng xóm da diết, cậu bắt xe ngồi một mạch
hơn nửa ngày trời từ thành phố về quê chỉ để ôm bà Chi, rồi một mình
lững thững ra bến sông ngồi ngắm lục bình trôi tản mạn. Từ trên cầu cao,
thi thoảng Từ nhìn thấy có chiếc ghe nhỏ neo lại dưới chân cầu nấu cơm,
khói bay lên nghi ngút.
Chủ ghe là một cô gái tên Đào, có mái tóc dài cột thành một lọn hững
hờ an nhiên ngồi giặt đồ sau lái ghe hay đằm thắm với những ngón đờn êm
dịu. Từ lại rời quê lên phố tiếp tục với nhịp điệu cuồng xoay. Bốn năm
đại học trôi qua nhanh như chớp mắt. Lúc người làng tưởng Từ sẽ bám trụ ở
phố, thì Từ trở về quê với mẹ già, với nhà cửa ruộng vườn cha đã để
lại.
Cuộc trở về của Từ làm xóm rộn rã. Bà Chi tất bật mời xóm giềng, bà
con xa đến dự tiệc mừng con trai tốt nghiệp. Mới sáng sớm mà nhà Từ đã
chật ních, đàn ông lên dao giết lợn, đàn bà túm tụm trong bếp thổi xôi,
làm gà. Cụ già ngồi xếp bằng trên tấm phản gỗ trước nhà vừa uống trà vừa
kể chuyện xưa xứ này. Trẻ con tụ tập ngoài sân gom củi khô đốt đống lửa
to, tiếng bông lửa nổ lép bép giòn rụm. Cớ gì mà Từ cứ đau đáu ngóng
vọng về cái bến sông có tiếng đàn văng vẳng rơi lúc đêm về gần sáng...
Từ lấy xe chạy ra bưu điện xã có chút việc. Khi đã về đến bụi tre đầu
ngõ bỗng nghe có giọng đàn quen cất lên trong nhà. Bản đàn vừa dứt, các
cụ tặc lưỡi vỗ tay rôm rả. Từ dựng chân chống xe bước vào trong nhà,
thấy tim mình như loạn nhịp. Trên phản là Đào, cô gái có mái tóc dài
trên chiếc ghe chòng chành dưới chân cầu. Không biết Đào có nhìn thấy Từ
hay không mà cứ mải miết đàn hết bài này sang bản khác. Mẹ Từ bảo tiếng
đàn của Đào như rót mật vào tai, nên mẹ mời đến đàn cho các cụ nghe.
Đào đã ngoài hai mươi lăm, gương mặt trái xoan, sóng mũi dọc dừa, cái
miệng ít khi cười, nhưng vẫn rất duyên. Mái tóc cô mượt mà đen như
nhung vắt chéo ngang vai trái, đôi mắt long lanh sóng sánh buồn. Từ ước
mình được một lần cuộn tròn trong đôi mắt bồ câu ấy. Khi đã đàn xong
điệu nhạc cuối cùng, Đào nhìn Từ khẽ gật đầu chào. Từ cũng chào lại. Bà
Chi xếp phong bì dúi vào tay Đào, mời Đào ở lại ăn bữa cơm rồi hẳn lui
ghe. Đào khéo léo từ chối: “Con phải đi sớm cho kịp con nước”. Đào ôm
đàn bước ra khỏi nhà. Từ nhìn theo mà lòng chênh vênh, thơ thẩn…
* * *
Những đêm chiếc ghe của Đào đậu ngoài bờ sông, Từ thường ra đó chuyện
trò, ngâm thơ cho Đào nghe, Đào đáp lại bằng một khúc nhạc. Vẫn là
những khúc buồn man mác bất giác làm Từ thắt lòng. Rồi cũng đến lúc Từ
buột miệng “Anh yêu em…” và Đào trả lời: “Em chỉ là cô gái trên sông,
rày đây mai đó, em sợ…”. Từ không nói gì, ngắt lời Đào bằng cái hôn thật
sâu. Trong khoảnh khắc đó Đào thấy mình không thể cưỡng lại những cử
chỉ yêu thương của Từ.
Nhiều lần Từ thưa với bà Chi chuyện trăm năm, mẹ gạt phắt: “Người ta
giàu sang có học thức không ưng, đi ưng con nhỏ xướng ca vô loài, lang
bạt tứ phương. Khổ lắm con ơi!”. Nghe mẹ nói mà tê tái lòng dạ, đời Đào
lang bạt nên Đào càng khát khao tình yêu và mơ về một gia đình hạnh
phúc. Bây giờ mẹ nói thế, lòng Từ rời rã. Thương Đào mà cũng thương mẹ.
Chồng qua đời, bà Chi chỉ còn mình Từ là nguồn sống. Đào khuyên: “Thôi
anh, số em vậy thì đành chịu. Anh về với mẹ đi…”. Từ cương quyết: “Anh
không bỏ mặc em”.
Như lời hứa năm nào dưới bóng hoàng hôn chập choạng ngoài bãi quê xưa
cũ, Từ không bỏ Đào. Thương mẹ chứ, nhưng Từ nghĩ thôi mình bỏ nhà theo
Đào ít năm, chừng mẹ nguôi giận rồi sẽ dẫn Đào trở về, chắc hẳn mẹ sẽ
chấp nhận đứa con dâu tội nghiệp ấy. Một đêm mưa, Đào neo ghe đợi Từ
dưới chân cầu cao lộng gió. Xa xa, bỗng Đào thấy bóng ai chạy xuôi dọc
bờ đê. Lòng Đào ấm áp lạ thường.
Chiếc ghe rời bến, ngọn đèn dầu tỏa một quầng sáng cũng rời đi…
***
Bà Chi bệnh nặng. Từ nghe tin nhói cả tim. Tin được truyền đến từ một
người đàn ông, cũng lang bạt kỳ hồ như vợ chồng Từ, một dạo ghé qua xóm
nên biết chuyện. Lòng Từ nặng trĩu nhìn đứa nhỏ ngủ say trên sạp ghe
trải manh chiếu cũ. Đào quay sang nói với chồng: “Hay mình về thăm mẹ
một chuyến. Em và con đợi mình”. Nói ra câu đó Đào đau lắm chứ. Những
chiều buồn êm ả rớt trên mặt sông Đào thấy Từ ôm con ngồi ngoài mũi ghe,
thủ thỉ: “Con có muốn lên bờ sống không?”, “Có muốn đi học với bạn bè
không?”. Bé gật đầu. Đào ngồi trong ghe xếp quần áo mà nghe rõ tiếng
chồng thở dài lai láng, mắt nhìn xa về phía bờ đất. Ở đó có rẫy dưa, rẫy
bắp xanh rì. Có cát mềm dưới chân, có những ngôi nhà quyện mình trong
màu lam khói biếc. Khung cảnh đầm ấm mà gần nửa đời người Đào chưa một
lần được sống, được hít trọn vẹn mùi khói bếp ngọt bùi. Hơn năm năm lang
bạt, chưa bao giờ Từ làm Đào buồn lòng. Mà sao Từ cứ mãi buồn. Từ đã
quen dần với những bến chợ, những món tiền rau, tiền củ, tiền quả… với
những bạn hàng thân thiết tại một bến chợ nào đó dọc miệt sông. Đã lâu
rồi Đào không được nghe Từ đọc thơ, kể chuyện.
Đào neo ghe lại một bến sông quen, cách xóm không xa. Từ nhìn Đào rồi
dắt đứa nhỏ bước lên bờ. Hai cha con ngoái lại nhìn chiếc ghe lần nữa,
trong ánh mắt dặn Đào đợi Từ ngoài bến sông, rồi cha con Từ sẽ trở lại.
Hai chiếc bóng một cao to, một bé nhỏ lúp xúp đi bên. Thập thững trên bờ
đê thoảng hương lúa trổ đòng đòng. Đào đứng lặng sau lái, nhìn theo đến
khi dáng hai cha con mất hút sau làn khói ban chiều. Đào chảy nước mắt,
lom khom sang nước vào lu rồi đem cây đàn treo trên vách ra phủi bụi,
gảy một bản nhạc quen.
Sáng sáng chiều chiều Đào hay ra mũi ghe lóng ngóng về phía xóm, chờ
hình bóng thân thương. Một đêm những cơn gió băng qua đồng thổi phần
phật dữ dội, mưa tạt mạnh vào trong ghe ướt cả manh chiếu cũ, Đào hốt
hoảng che chắn mãi mà vẫn không khô nổi. Đào co ro một góc ghe, lạnh
buốt. Ngày trước có Từ, mỗi lần mưa tạt là Từ gom hết mấy tấm nilon dưới
sạp ghe che chắn đủ chỗ. Từ sợ mưa làm lạnh vợ con, còn Từ ngồi sau pha
trà uống cho đỡ lạnh. Giờ không có chồng con bên cạnh, “Chắc hai cha
con ấm”, Đào nghĩ thế. Ngọn đèn phụt tắt, Đào bất lực ngồi trong bóng
đêm tịch mịch, rồi thiếp đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau, trời trong
hơn. Đào tỉnh dậy, thấy ghe mình đang dập dềnh trên một quãng sông lạ.
Đào nhìn dáo dác xung quanh chỉ thấy ruộng đồng bờ bãi. Không thấy bến
sông quen với cầu cao lộng gió mà Từ vẫn đứng ngẩn ngơ mỗi buổi chiều
buông. Không để nước mắt rơi thêm lần nào trên bờ mi đẫm màu sương nắng,
Đào ôm cây đàn ra mũi nghe ngồi dạo khúc “Mình ơi”, sầu sầu tủi tủi.
***
Qua Tết, gió bấc vẫn còn lưu luyến trên mấy ngọn bần, ong bay lả
lướt. Hơn một năm ròng một mình Đào lang bạt, buồn thì ít mà nhớ thì
nhiều. Vẫn còn đó hương vị bánh mứt thơm ngọt thoảng lại từ những gia
đình trong xóm, ngửi mà nức lòng. “Không biết cha con ăn Tết có vui
không? Có ấm cúng không?”. Đào thoáng nghĩ, lom khom chui vào trong mui
lôi cây đàn ra căng lại dây đàn, rồi ra mũi ghe mà gảy.
Khói quê hương từ một bếp un nào đó trên bờ đê bay ra giăng mắc mặt
sông. Qua làn khói trắng đục ấy, Đào bỗng thấy có hai con người đứng
lặng trên cầu cao, hình như là hai cha con. Đứa nhỏ đội chiếc mũ rộng
vành, gió phất làm vành mũ co lại che hơn nửa mặt. Xa xa, chân trời
chiều phủ màu lam biếc. Có tiếng gọi chín rụng hoàng hôn, thương đứt
ruột: “Mình ơi!”.
Mưa chiều châu thổ
Tôi ấn cái nút nhỏ
xíu trên đầu chiếc radio cũ kỹ trên kệ. Nghe radio trở thành thói quen
ngọt ngào và thanh thản của tôi từ thuở sinh viên, sáng lên giảng đường,
chiều muộn về mở nhạc quê hương cho vơi nỗi nhớ nhà. Nhìn ra cửa sổ căn
hộ chung cư tầng tám, bầu trời tháng bảy đùng đục. Những cơn gió lạ ùa
về lành lạnh thịt da. Chiếc radio nhỏ vang lên giọng nói quen thuộc: Một
người bạn phương xa gửi tặng bạn K. bài hát “Chiều nước lũ” với lời
nhắn “Chúc K. và gia đình luôn luôn bình an”. Bài hát ấy vang lên. Tim
tôi quặn thắt.
Một nỗi nhớ da
diết choáng ngợp. Mùa này quê tôi nước nhảy khỏi bờ, tràn qua bao cánh
đồng, vườn tược. Sáng hôm sau, tôi bắt chuyến xe về nhà. Ngồi trên xe,
qua cửa kính, hai bên đường ruộng đồng xanh ngắt một màu. Những bờ đê
nghiêng nghiêng trong gió. Những mái nhà tranh, xóm làng xa xa. Tôi thấy
quê mình mùa lũ đẹp mà buồn đến nao lòng.
* * *
Tôi thức dậy khi trời chưa sáng hẳn, nhớ
lời má dặn, tôi nhóm bếp nấu nước pha trà cho ba, rồi bắc nồi cơm. Má
ra khỏi nhà từ sớm, tôi nghe tiếng má mở dây cột ghe dưới bến sông rồi
róc rách bơi đi. Ba cũng lục đục ra đồng. Tôi ngồi bó gối trước nhà nhìn
những chuyến tàu chạy ngang qua. Mấy hôm rày, trời lác đác mưa. Ba tôi
tranh thủ nhổ hết mấy giồng khoai chất lên xe rồi trữ dưới bếp chờ người
đến cân. Cơm chín, má về. Chiếc xuồng vừa cập bến sông tôi đã nghe
tiếng má nói vọng: “Mới tháng này mà trời ráng mỡ gà, mối bay đầy đồng,
chạy ra kêu ba nhổ hết giồng khoai giống đi Hương, khéo mưa úng hết”.
Tôi hiểu nỗi lo của má. Mưa dầm tháng
sáu, tháng bảy, cộng với nước sông chảy về, tràn lên đồng ruộng bãi bờ.
Nhà tôi nằm trên cánh đồng Tri Tôn, cạnh dòng Vĩnh Tế, đón con nước đầu
tiên của thượng nguồn sông Mê Kông đổ về. Vừa chạy ra đón má, tôi vừa
nói: “Ba ra đồng rồi má ơi”. Trời ngả màu nhưng vẫn chưa mưa, không khí
còn ngột ngạt và hơi nóng vẫn còn hâm hấp. Má nói: “Chắc ba bây ra đồng
nhổ khoai, đắp bờ, khoai chưa ai cân mà mưa sắp tới...”.
Những gia đình khác trong xóm đã chuẩn
bị đón đợt nước lũ tràn về từ nhiều ngày trước. Hôm đi ngang đồng chú
Út, tôi thấy chú khệ nệ đào con mương dẫn nước từ đồng ruộng ra dòng
sông. Vợ chồng bác Hai người leo lên mái nhà, người ở dưới đất buộc dây
rịt chặt lỡ có gió lớn cũng không bị thổi bay. Những bao đất chất quanh
nhà, đồ đạc được kê cao. Dần dần công việc ấy trở thành thói quen, không
ai còn chạnh lòng mỗi độ nhìn mưa rơi ngoài mái hiên làm ướt giàn mồng
tơi tháng sáu...
Đêm ấy nước lên nhanh đến bất ngờ. Tôi
đang nằm trong mùng thiu thiu ngủ, ngọn đèn chong vẫn còn tỏa quầng sáng
leo lét trên đầu giường và đài phát thanh đêm muộn vẫn còn rỉ rả từ
chiếc radio. Bỗng có tiếng lao nhao từ bên sông vọng về. Tôi bật ngồi
dậy, ba thắp thêm ngọn đèn nữa cho sáng, má bưng đèn dầu chạy ra sân
nhìn trời. Ba nói hấp tấp: “Hai má con lo kê chỗ khoai mới nhổ lên cao,
nhanh lên”. Nói rồi ba leo lên ràng lại mái nhà. Tưởng thong thả mấy bữa
nước mới về, ai ngờ...
Má con tôi chất đống khoai vào thúng rồi
để lên sàn cao. Người quê tôi đã quen với những cơn lũ bất chợt ào đến,
rồi nấn ná lại ít hôm, có khi cả tháng trời, có khi ròng rã gần nửa năm
nước vẫn còn lép xép ngang bờ đất. Trong phút chốc, nước từ thượng
nguồn đổ về dòng kênh Vĩnh Tế rồi lênh láng khắp ruộng đồng, gò bãi.
Nước nhảy vọt qua bờ đất cao, dâng lên nền nhà, ngang qua đầu gối chai
sần của ba. Má chưa kịp xắn ống quần lên đã ướt, chỉ kịp quơ vội mấy bộ
quần áo, mớ tập vở của tôi rồi trèo lên chiếc xuồng con để giữa nhà ngồi
co ro nhìn nước nổi. Trong màn đêm chập choạng, tôi thoáng trông thấy
chiếc xuồng nhỏ xíu của ai đó đứt dây trôi lênh đênh giữa dòng. Ba tôi
nhón người ngồi lên bộ vạc, hai chân ba buông thõng xuống dưới. Má chồm
tay phủi mấy hạt nước lăn tròn trên khuôn mặt ba, nhẹ giọng: “Ướt hết
rồi, để tui lấy áo khô cho mình thay, không cảm bây giờ”. “Lát nữa hẳn
thay, để coi còn việc gì nữa hay không”, ba vừa nói vừa rót tách trà
nóng uống cho ấm bụng, “Hình như nước thôi lên rồi. Năm nay thời tiết
bất thường quá”.
Ba ngồi chồm hổm trên vạc, ướt sũng và
đôi môi tái mét. Má con tôi nhóm lò hâm nóng cơm và mẻ kho quẹt để ba ăn
ấm bụng và có sức canh nước tới sáng. Ba bưng chén cơm, và vội, mắt vừa
nhìn ra xa xăm. Trời vẫn chưa ngớt mưa, cánh đồng và dòng sông, bãi bờ
và lau sậy... tất cả chìm trong biển nước trắng xóa.
Sáng hôm sau, bầu trời vẫn còn đùng đục.
Mưa đã thôi rớt những hạt to và nước đã thôi dâng lên, dòng sông dịu
dàng giữ lại cho đồng bằng mực nước xăm xắp ngang bụng ba khi đứng trên
nền nhà cũ. Nhà là một dấu chấm nhỏ giữa biển nước bao la, con đường và
dòng sông trôi dài tít tắp. Bác Hai chân tay lấm lem bùn đất liêu xiêu
chống xuồng khắp xóm, hỏi vọng: “Đêm qua nước lên, bà con bình an hết
hả?”. Ba tôi trả lời: “Bình an hết. Anh Hai đi đâu sớm vậy?”. “Đi thăm
bà con, bình an hết cũng mừng. Ruộng vườn nhà tui ngập tuốt”, bác nói.
Ba tôi mời bác vô nhà ăn chén cơm cho ấm
bụng, bác tấp xuồng vô bến. Má tôi đốt lửa nướng khô, khô lóc, khô sặc,
khô phi nướng lên mùi thơm nức mũi, khiến bụng đói cồn cào. Và được vài
đũa, bác hai vỗ đùi một cái rõ kêu, nói lớn: “Sau con nước năm nay chắc
làm ăn được. Đợt lũ năm ngoái nhà anh Sáu trúng đậm, qua một mùa nước
mà sắm được tivi, nồi điện”. “Ừ, mất cái này sẽ được cái khác. Trời đất
luôn công bằng”, ba tôi cười vang rồi nhìn ra ngoài kia đồng nước mênh
mông.
Chiều, ba tôi hăm hở xách lưới vó ra
đồng bắt cá. Trên dòng giăng mắc một màn sương, ngồi trên vạc trước nhà
tôi thấy má bơi xuồng cho ba giở cái đó sông, ba cười chất phác. Trong
đó nào cá linh, tôm càng xanh, cua, ốc, lươn, chạch... Rồi trời tạnh
mưa, má tôi lại bơi xuồng mang cá ra chợ bán kiếm tiền sửa lại mái nhà
dột mưa lỗ chỗ, xóm lại rôm rả như xưa...
* * *
Tôi không nhớ tuổi thơ của tôi đã trải
qua bao nhiêu mùa nước nổi. Ký ức bàng bạc màu nước, loang loáng màu lam
biếc của hoàng hôn. Tôi vẫn thường nghe từ cõi xa xôi vọng về tiếng
nước chảy ồ ạt qua bờ đất cao cao, nước tràn vào đồng ruộng mênh mông và
ngôi nhà yêu dấu.
Mấy mùa nước lũ đi qua. Lâu lắm, má tôi
ngồi một mình. Má gầy khòm, vai nặng trĩu gánh thời gian. Má đơn độc
trong căn nhà nhỏ giữa biển nước mênh mông. Ba mất trong buổi chiều nước
lũ rút dần xuống dòng kênh Vĩnh Tế, mắt ba nhắm thinh, bình an. Ba nằm
trên mảnh đất quê nhà thoang thoảng mùi cỏ cây, mùi phù sa và mùi Tri
Tôn đất nóng. Tôi rời xóm nghèo lên thành phố lao vào cuộc mưu sinh. Má
thủy chung bám trụ cánh đồng xưa, ngôi nhà nhỏ với dòng sông quê từng
mùa con nước vơi đầy. Nghĩ về má, nước mắt tôi ứa ra.
Tôi luôn canh cánh trở về ôm đôi vai
nhọc nhằn của má, kéo tấm mền đắp ngang người má mỗi đêm mưa. Tôi về
ràng lại mái nhà, chống đỡ cái cột hay xách dao chặt đứt mấy tàu lá dừa
cạnh nhà để trời giông khỏi đổ. Tôi về hái chùm bông điên điển, bắt con
cá rô đồng nấu cho má nồi canh thơm nồng hương vị đồng quê, hát cho má
nghe mấy câu mà ngày xưa má thường hay hát ru tôi say giấc mỗi độ đất
trời trở gió...
Hoàng Khánh Duy
Loi Thien Thu Goi
Thổn thức
Sao vẫn nhớ hoài nơi chốn xưa ,
Đau đáu luôn mơ giấc mộng thành...
Giòng sông tuổi nhỏ chừ xa lắm,
Đâu người con gái tóc hương chanh...?
Rừng xanh bao kín con kênh nhỏ,
Nắng vàng len lỏi giữa vòm cây...
Ta đứng bên nầy thương Vĩnh Tế
Thổn thức trong tim nỗi nhớ đầy !
NM
Tìm Xưa Châu Thổ
Cô liêu đàn xưa ngân trên sông...
Người
đàn ông dừng lại bên bờ nước, vẩy tay cười nhìn bóng dáng bé bỏng của
đứa cháu nội, tay bở ngở chiếc cần câu, e dè ngồi bên bố đang chèo chiếc
xuồng độc mộc đi tìm chổ câu cá. Ðã nhiều năm vào mỗi mùa hè, cha con
ông vẫn thường tìm lên vùng biên hồ này một đôi tuần như nơi nghĩ mát
hàng năm. Năm nay là lần đầu tiên đứa cháu nội vừa lên sáu của ông được
“go fishing up North”. Ông vui hơn vì có thêm đứa cháu nhỏ chuyện trò và
hình như mỗi năm ông càng xao xuyến hơn với những buổi chiều trên biên
hồ. Trong ráng chiều đỏ ối rười rượi cơn gió bát ngát đi về, mặt trời im
lìm khuất bóng lặng lẽ mà bồn chồn như vết tàn phai của ý nghĩ lao lung
về một khung trời mộng cũ, mang mang châu thổ vang vọng triều dâng. Chiếc
xuồng đã chèo xa khuất tầm nhìn mà đâu đó còn vọng lại tiếng cười lãng
đãng bay trong chiều bát ngát vương trên mặt hồ bập bềnh hoa súng như
những nụ đèn chờ thắp hoàng hôn. Hoa súng vàng điểm xuyết lên từng từng
thảm xanh lục bình tự tại nổi trôi vào ngút đuối mắt nhìn. Màu lam tím
của hoa bèo níu sa xuống mây chiều rồi lan xa vào vô tưởng chân trời giờ
đây như tràn ngập tiếng reo cười, âm vọng thanh xuân. Phải chăng là
tiếng cười trẻ thơ của đứa cháu vừa câu được con cá đầu tiên trong đời
hay chính tiếng mình buổi thanh xuân trên quê hương một thuở lớn lên…
Giòng nước bạc giòng sông trôi theo dõị
Cuối chân trời hình bóng một chân mâỵ
Ðời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lạị
Giữa hư vô em giữ nhé chừng nàỵ..
(Bùi Giáng)
Tìm
xưa châu thổ. Xốn xang lòng ông hình ảnh con tàu chập chùng đêm Cửu
Long văng vẳng điệu buồn phương Nam trải trang lời kinh sấm giảng ru ấm
hồn người. Nhắm mắt lại, trải hồn ra, để thấy mình nằm trên khoang đò
dõi mắt về phố bến huyền hoặc ánh đèn. Trên dòng Tiền Giang, tàu chạy
qua Bắc Mỹ Tho, thành phố nửa đêm về sáng đẹp lạ lùng. Hay theo chuyến
tàu sớm khởi hành từ Kinh Ông Chưởng để về Long Xuyên cho kịp phiên chợ.
Thuyền đò san sát trên bến sông. Hãy vào một quán chợ kêu ly xây chừng,
lòng sảng khoái mồi điếu thuốc đầu ngày.Hay dẫn đoàn tàu từ Phong Phú
về, hung hãn phóng nhanh cho kịp buổi nhậu. Thành phố Cần Thơ vừa lên
đèn, bến Ninh Kiều quyến rũ như cô gái Nha Mân ngồi hong mái tóc dài
thoang thoảng hương chanh.Dòng kinh chảy
sâu vào trong bao la của trời đất hình như đã mang đủ chiều dài cho gió
thênh thang. Tàu chạy hết ngày vào tới đêm. Chạy hết chiều dài của dòng
kinh để thấy mình nhỏ nhoi giữa trời khuya mênh mông. Bỏ lại sau lưng
bến đò An Long, hắt hiu ngọn đèn vàng, buồn như lòng cô chủ quán đã tàn
xuân. Con tàu vẫn chạỵ Giữa vàm sông rộng, tiếng máy trầm đều ngái ngủ.
Tàu ghé qua Vàm Láng, quán nửa khuya thao thức ánh đèn rọi xuống mặt
sông lao xao. Xa xa ngọn tháp cao nhà thờ trên Cù Lao Giêng chênh vênh
mơ hồ trong ánh trăng. Tàu chạy sâu hút vào nửa đêm về sáng. Con lộ giới
nghiêm im vắng trải dài qua Cái Dầu nằm say ngủ dưới ánh đèn đường vàng
vọt. Mờ ảo trong ánh sáng đầu ngày, chuyến tàu chợ sớm từ Tân Châu về
Châu Ðốc xao xác tiếng người …Từ bến bắc
Cao Lãnh lên tàu theo con nước xuôi về Chợ Mới, chưa hết phiền hà vì sự
chật chội nóng nực của hơn nửa ngày xe đo, lòng chợt mát rượi như vừa
được uống miếng nước mưa giữa buổi trưa hè. Cái cù lao nhỏ nhoi mà ân
cần như ốc đảo giữa sa mạc. Rừng cây xanh bao kín cù lao chỉ chừa khoảng
trống vừa đủ cho con kinh nhỏ theo vào. Dòng nước trong và êm tưởng
chừng như chỉ những giọt nước hiền mới được phép quây quần. Ngay khoảng
trống đó là cánh cửa vô hình, ranh giới giữa cuồng nộ và yên bình. Bên
trong, khung cảnh mở ra đẹp như một vùng chiêm bao. Hàng cây hai bên con
đường nước châu đầu trò chuyện, cành lá đan vào nhau làm những miếng
nắng phải len lỏi mãi mới sa xuống được mặt nước mát. Tàu trôi dưới vòm
câỵ Tâm hồn nhẹ nhàng tưởng như đang chậm bước trong một giáo đường
thênh thang. Những ngôi nhà nền đắp cao mái ngói đài các ẩn hiện sau
những lùm điên điển lấm tấm hoa vàng. Nối liền mỗi nhà với con kinh là
mương nước rộng, xuồng lớn có thể chèo vào tận đến đầu hiên nhà.Cao
Lãnh. Chữ nghĩa người xưa giờ sao nghe đắng caỵ Ước mơ lớn lao của ông
Tổng Ðốc, lãnh mệnh Chúa phái vào sâu trong đất Nam Ky giữa vùng nước
thấp mênh mông tràm đước để mở mang bờ cõi, đã thể hiện qua những địa
danh đẹp như Mỹ An, Mỹ Phước, Phước Xuyên... Có lẽ giữa cảnh trời nước
mênh mông nhớ người còn ở lại đất Thần Kinh, ông quan trẻ trong giây
phút lãng mạng đã lấy tên vợ Vĩnh Tế để gọi một dòng kinh mới. Và lạ
chưa, có một buổi chiều gió Tịnh Biên rợp vàng trí nhớ, rượu uống ngà
ngà say, đứng bên dòng Vĩnh Tế dõi mắt về phương xa nhớ thương ngày cuối
biển. Dòng nước cưu mang nỗi lòng Thất Sơn, Hồng Ngự chảy qua vùng đất
Giang Thành qua miệt Hà Tiên rồi đổ vào biển rộng. Ðứng đó bên bờ kinh
nhỏ sao nghe lòng mình xôn xao tiếng sóng. Ngược
hướng Tịnh Biên, bóng mây không che được dáng núi Thất Sơn, kiêu bạc
quàng vai dãi lụa sầu châu thổ. Giòng nước lung lay soi bóng người, bóng
thời gian lẩn khuất không trôi. Ông quan trẻ lãnh mệnh Vua đi mở nước,
từ hơn trăm năm trước từ giã đất Thần Kinh tìm đến miền ba-sông-bảy-núi
xa vời đất khách. Người đã đến từ một cuối biển Ðông xa hay phải lặn lội
qua đôi lần sông mênh mông sau trước? Ðỉnh núi nào người xưa đã đứng
vọng một tiền đồ rồi mường tượng tới giòng kinh nối biển? Giòng sông đào
như dải ruột mềm trang trãi tấm lòng quân tử vua tôi, man mác nghĩa phu
thệ Thoại Hà, giòng sông đào vua ban cho tên gọi, đầm đìa nỗi lòng Vĩnh
Tế, đã cưu mang từng giọt phù sa nặng lòng châu thổ đến tận bờ nước Hà
Tiên.Con người trên những dòng sông.
Truyền kiếp. Núi biển chia lìa từ thuở khói sóng hồng hoang mơ hồ thanh
sử. Những dòng sông chẳng hề gặp nhau, lận đận gian nan như đường chỉ
tay in hằn số phận. Những dòng sông cắt chia nhiều nhánh cho nước nguồn
bơ vơ biển lớn. Những dòng sông cố gắng giải thông lời nguyền khắt khe
buổi đầu dựng nước. Dòng sông chảy ngang chia cắt lòng người, đầm đìa
giọt mồ hôi từ đá sỏi nghìn xưa. Con người nổi trôi theo định mệnh u
hoài của dòng sông muôn đời gắng công nối liền biển núi. Người xưa. Cơ
đồ. Mệnh nước. Một thuở biên cương. Trăm năm sau, cõi giang biên âu sầu
muối mặt, bơ phờ cơn gió tai ương. Ta đã đôi lần từ biển đến, lòng lú
lấp phiền hà rồi say khướt biếng lười đâu đó cuối giòng để bây giờ, hồn
nặng vàm sông bến nước, đứng bên giòng kinh biên giới, tần ngần về một
nửa ngày sông. Và cả một đời mình. Phải chăng chỉ để tròn một bước chân
vô ích mà lòng thì vẫn quằn nặng ưu tư giấc mộng không thành?
Ðôi khi muốn quay về, ngồi yên dưới hiên nhà…(TCS)
Người đàn ông trở về lều nhóm lửa pha cho mình ly trà nóng. Buổi chiều biên hồ êm ả như ru. Bầy vịt trời nô đùa trên mặt hồ làm đong đưa những cánh hoa súng như từng miếng nắng nhỏ lung linh rồi soải cánh theo nhau bay về phía ráng chiều lướt thướt những sợi mây hồng. Nơi nào là quê-nhà cho một kiếp thiên di khi vùng nước sẽ đóng thành băng khi mùa đông tới? Ông đã nổi trôi đắm chìm trên giòng sông đời mình. Làm thân tàu trôi xa khỏi vịnh biển êm đềm, lênh đênh trên khắp cùng sông biển quê hương, để rồi sống cuộc lưu cư suốt kiếp đời còn lại mà lòng thì mãi nhớ về giòng sông nhỏ quê nhà.Ba mươi hai năm. Giòng nước sông Thu Bồn một cuối tháng Ba đã đẩy đời người trôi tuốt khơi xa, vào cuộc truân chuyên. Xa rồi đêm trăng Thuận Tình mờ mờ cát vàng Xuyên Thọ. Vùng đầm sông nối biển, trộn nước nguồn Ô Lâu-Thu Bồn-Ðế Võng với nước biển Ðông là dấu mốc oan khiên mặn xát hồn lưu xứ. Nhìn bầy lục bình giạt trôi trên mặt hồ bát ngát, lòng chợt bồn chồn câu hát cũ, quay về, yên ổn, hiên nhà. Tiếng vịt gọi bầy lãng đãng gần xa, âm vọng mơ hồ một bến bờ để dừng đôi cánh mỏi. Tiếng reo cười của đứa cháu nội rõ dần theo bóng dáng chiếc xuồng đang lách qua từng mảng lục bình chèo về phía lều nơi bếp lữa đang bập bùng. Quê nhà. Ra đi. Trở về. Cữu Long. Mississippi. Ông cười với cháu nội khi đở xâu cá trên tay đứa bé. Bếp lữa đầu sông Mississippi sẽ nấu chín con cá đầu tiên cháu ông câu được. Ông vui lòng nhủ thầm.
Ðôi khi muốn quay về, ngồi yên dưới hiên nhà…(TCS)
Người đàn ông trở về lều nhóm lửa pha cho mình ly trà nóng. Buổi chiều biên hồ êm ả như ru. Bầy vịt trời nô đùa trên mặt hồ làm đong đưa những cánh hoa súng như từng miếng nắng nhỏ lung linh rồi soải cánh theo nhau bay về phía ráng chiều lướt thướt những sợi mây hồng. Nơi nào là quê-nhà cho một kiếp thiên di khi vùng nước sẽ đóng thành băng khi mùa đông tới? Ông đã nổi trôi đắm chìm trên giòng sông đời mình. Làm thân tàu trôi xa khỏi vịnh biển êm đềm, lênh đênh trên khắp cùng sông biển quê hương, để rồi sống cuộc lưu cư suốt kiếp đời còn lại mà lòng thì mãi nhớ về giòng sông nhỏ quê nhà.Ba mươi hai năm. Giòng nước sông Thu Bồn một cuối tháng Ba đã đẩy đời người trôi tuốt khơi xa, vào cuộc truân chuyên. Xa rồi đêm trăng Thuận Tình mờ mờ cát vàng Xuyên Thọ. Vùng đầm sông nối biển, trộn nước nguồn Ô Lâu-Thu Bồn-Ðế Võng với nước biển Ðông là dấu mốc oan khiên mặn xát hồn lưu xứ. Nhìn bầy lục bình giạt trôi trên mặt hồ bát ngát, lòng chợt bồn chồn câu hát cũ, quay về, yên ổn, hiên nhà. Tiếng vịt gọi bầy lãng đãng gần xa, âm vọng mơ hồ một bến bờ để dừng đôi cánh mỏi. Tiếng reo cười của đứa cháu nội rõ dần theo bóng dáng chiếc xuồng đang lách qua từng mảng lục bình chèo về phía lều nơi bếp lữa đang bập bùng. Quê nhà. Ra đi. Trở về. Cữu Long. Mississippi. Ông cười với cháu nội khi đở xâu cá trên tay đứa bé. Bếp lữa đầu sông Mississippi sẽ nấu chín con cá đầu tiên cháu ông câu được. Ông vui lòng nhủ thầm.
Phan Thái Yên